C.W. Leadbeater

Charles Webster Leadbeater -003

C.W. Leadbeater

Có lẽ trong các nhà Thần Triết (Theosphist) nổi tiếng cuối thế kỳ 19 và đầu thế kỷ 20 C.W. Leadbeater là người gây tranh cãi nhiều nhất. Tôn sùng Ông như bậc Thánh nhân, một bậc đạo đức cao cả (thậm chí xem ông như một bậc La Hán – Arhat) cũng có, nhưng ngược lại xem Ông như một psychic, và những gì Ông viết ra điều sai lạc cũng không phải là ít. Và có người thắc mắc: như vậy sách của Ông có cần phải phổ biến trong thế kỷ 21 nầy hay không?

Trong nhóm ủng hộ và tôn sùng Ông có các vị tiền bối của Hội Thông Thiên Học Việt Nam như Ông Bạch Liên, Bà Nguyễn Thị Hai, Ông Nguyễn Văn Lượng … và đa phần hội viên của hội trước năm 1975 đều đọc sách của Ông. Phải nói hầu hết các sách vở về Theosophia ở Việt Nam trước 1975 đều căn cứ vào sách của Ông cả, với một lý do rất dễ hiểu: Ông có một lối viết rất khoa học và khúc triết, và trình bày những vấn đề mà mọi người đều quan tâm đến như cõi Trung giới, cõi Thượng giới, Nhãn thông, Thánh đoàn, các Chân sư … Tôn sùng Ông nên mọi người thì thầm với nhau với nhau Ông là Đệ tử lớn của Chân sư K.H, gọi Ông một cách tôn kính với danh xưng Đức Ông. Ông Nguyễn Văn Lượng trong quyển học đạo Dưới Chân Thầy còn liệt kê các vị La Hán do hội Thông Thiên Học đào tạo trong đó có Ông (các vị khác là bà H.P Blavatsky, Ông H.S. Olcott, Bà Annie Besant, Krishnamurti, Ông Arundale, Ông Jinaradasa, Bà Rukmini Devi Arundale)

Nhóm phản bác lại có Ông La Văn Thu với quyển sách “Xuất Sanh Nhập tử,” cho rằng những gì Ông viết ra đều sai lạc cả.

Ở bình diện thế giới, Ông cũng gây tranh cải không kém. Viết về cuộc đời của Ông có cả một luận văn Tiến Sĩ (Ph.D) tại Viện Đại học Sydney (University of Sydney) (Xem Charles Webster Leadbeater 1854-1934 – A Biographical Study by Gregory John Tillett. http://www.leadbeater.org/). Trong quyển Tự truyện chưa hoàn tất bà A.A. Bailey dành cho Ông những nhận xét không được tốt đẹp cho lắm:

Một giai đoạn xu hướng thần thông mạnh mẽ đã lan khắp Hội do những lời tuyên bố về thần thông của Ông Leadbeater và việc ông chi phối Bà Besant quá mức bình thường. Hậu quả vụ tai tiếng (scandal) của ông Leadbeater vẫn còn gây nhiều bàn tán. Những lời tuyên bố của Bà Besant về Krishnamurti làm cho Hội bị chia rẽ nặng nề. Các mệnh lệnh đưa ra từ Adyar, dựa trên những điều mà người ta tuyên bố là các mệnh lệnh của một vị Chân sư gởi cho Ngoại trưởng Bí giáo, nói rằng mọi hội viên Hội Thần Triết phải giúp vào một hay cả ba loại công việc — Công tác Tam Điểm, Công tác Phụng sự và một phong trào giáo dục. Nếu không làm thế thì người hội viên sẽ bị xem là không trung thành, không quan tâm đến những lời yêu cầu của các Chân sư, và là một nhà Thần Triết xấu.

Những cuốn sách của ông Leadbeater xuất bản ở Adyar có những ngụ ý về thần thông, không thể kiểm chứng được và mang âm điệu cảm tính (astralism) mạnh mẽ. Một trong những tác phẩm chính của ông, Con Người: Từ đâu đến, cách nào và sẽ về đâu [172] (Man: Whence, How and Whither), là một cuốn sách chứng tỏ cho tôi thấy tính chất không đáng tin cậy trong cơ bản của những gì ông viết. Đó là một cuốn sách phác họa về tương lai và công việc của Đ.Đ.C.G. trong tương lai. Điều lạ lùng làm tôi chú ý là phần đông những người được định đặt vào các chức vụ cao trong Đ.Đ.C.G. và trong nền văn minh sắp đến tất cả đều là những người bạn của cá nhân ông Leadbeater. Tôi có biết một số trong những người này — họ là những người tốt, đáng trọng, nhưng tầm thường, không có ai thông minh phi thường và hầu hết họ không có gì quan trọng. Tôi đã đi khá nhiều nơi và đã gặp khá nhiều người mà tôi biết là họ phụng sự thế giới hữu hiệu hơn, phục vụ Đức Christ một cách thông minh hơn, và biểu dương tình huynh đệ một cách đúng thật hơn, nên mắt tôi đã mở ra thấy được tính cách vô dụng và vô ích của những bài viết đó.

Tự truyện chưa hoàn tất trang 171-2, A.A. Bailey

 

Trong đoạn trích dẫn trên, bà A.A. Bailey có nhắc đến scandal của Ông C.W. Leadbeater xảy ra vào năm 1906 dẫn đến việc Ông xin ra khỏi hội. Nếu vụ việc đó xảy ra vào cuối thế kỷ 20 hoặc đầu thế kỷ 21 có lẽ vấn đề sẽ không nghiệm trọng quá. Tuy nhiên nó được xem là nghiêm trọng vì xảy ra trong thế kỷ 19 vào thời buổi mà xã hội còn khe khắt đối với vấn đề đạo đức. Sau đó vào cuối năm 1908 Ông được phục hồi lại quyền lợi hội viên của mình như trước. Chi tiết nầy khá nhạy cảm và ở trong giới Theosophia Việt Nam dường như không ai đề cập đến.

Một phê bình nữa của bà A.A. Bailey đối với Ông là các quyển sách Ông viết không đáng tin cậy, không thể kiểm chứng được, và mang đậm dấu ấn của astralism. Về điều nầy, có lẽ ta phải đánh giá một cách khách quan những gì Ông đã làm và đóng góp cho giáo lý Theosophia. Ta có thể tập trung những nhận xét về Ông theo các chủ đề như sau:

1. Thứ nhất: Ông có phải là đệ tử của đức K.H hay không?

Câu trả lời cho câu hỏi nầy là và chắc không ai phản bác nó. Trong quyển How Theosophy came to me Ông có kể lại quá trình Ông đến với hội Theosophia, không những chỉ từ kiếp nầy mà còn có những nhân duyên từ các kiếp trước. Bà H.P. Blavatsky trong thư gởi cho Ông năm 1886 hai lần nhắc đến Ông như là đệ tử của Chân sư K.H (Xem http://www.cwlworld.info/HPB___CWL.pdf). Tuy nhiên, là đệ tử cũng có nhiều cấp bậc khác nhau. Trong giáo lý của Theosophia có 3 cấp bậc: đệ tử dự bị, đệ tử chính thức, và cao hơn hết là “con của đức thầy”. Tuy nhiên theo đức D.K (Xem Đường Đạo trong kỷ nguyên mới I), có 6 giai đoạn trên con đường đệ tử. Nhưng ta có thể chắc chắn một điều là Ông phải nằm trong giai đoạn đệ tử chính thức trở lên.

2. Ông có phải là bậc La Hán như một vài người tuyên bố hay không?

Có phải những gì Ông viết không đáng tin cậy, không thể kiểm chứng được, và mang đậm dấu ấn của astralism hay không. Đây có lẽ chỉ riêng là nhận xét của riêng bà A.A. Bailey. Ngay cả bản thân bà tuy viết thế nhưng bà vẫn nêu ra sách của Ông trong thư mục sách tham khảo của quyển The Soul and its mechanism (đó là quyển The Chakras). Trong 18 quyển sách của đức D.K Ngài đôi lần có nhắc đến Ông, cho một vài nhận xét, hoặc trích dẫn một vài chi tiết trong sách của Ông. Trong quyển Esoteric Psychology II, trang 303 Ngài viết:

Có lẽ sẽ hữu ích cho các bạn đạo sinh khi tôi lưu ý các bạn rằng khi một đạo sinh có cảm giác hoặc niềm tin tưởng rằng luồng hỏa xà kundalini đã kích hoạt trong y, điều thật sự xảy ra chính là năng lượng của luân xa tính dục (sacral center) đã được chuyển hóa và dâng lên luân xa cuống họng, hoặc từ luân xa tùng thái dương dâng lên luân xa tim. Tuy nhiên, các chí nguyện sinh thường hay thích thú với ý tưởng rằng y đã thành công trong việc khơi dậy luồng hỏa xà kundalini. Nhiều nhà huyền bí học cao cấp đã nhầm lẫn việc chuyển hóa năng lượng từ luân xa tính dục hay luân xa tùng thái dương lên trên hoành cách mạc như là đã “khơi hoạt được luồng hỏa xà kundalini”, và do đó xem mình hoặc ai đó như là các bậc đạo đồ. Họ rất thành thật và đây là một sai lầm thường mắc phải. C.W. Leadbeater thường xuyên mắc phải sai lầm nầy. Tuy nhiên không phải nghi ngờ gì về sự chân thật của Ông cũng như trình độ của Ông.

It might be of value to students to point out that frequently when a student is under the impression or belief that the kundalini fire has been aroused in him, all that has really happened is that the energy of the sacral centre (i.e. the sex centre) is being transmuted and raised to the throat, or that the energy of the solar plexus centre is being raised to the heart. Aspirants do, however, love to play with the idea that they have succeeded in arousing the kundalini fire. Many advanced occultists have mistaken the raising of the sacral fire or of the solar plexus force to a position above the diaphragm for the “lifting of the kundalini” and have therefore regarded themselves or others as initiates. Their sincerity has been very real and their mistake an easy one to make. [Page 303] C. W. Leadbeater frequently made this mistake, yet of his sincerity and of his point of attainment there is no question. [EPII 303]

Đây là đoạn văn đức D.K viết rõ nhất về trình độ cũng như sự nhầm lẫn của Ông. Có lẽ Ngài đề cập đến điều nầy vì Ông C.W. Leadbeater trong quyển How Theosophy came to me có kể lại câu chuyện Sư Phụ Ông là đức K.H dạy cho Ông cách tham thiền để mở luồng hỏa xà kundalini và Ông đã thành công trong việc khai mở nó.

Trong một đoạn khác (quyển The Rays and Initiations trang 678-679), Ngài viết:

Không biết những ý tưởng nầy có thể làm cho ý niệm về điểm đạo hữu ích hơn và thực tế hơn với bạn hay không? Bất kỳ một cuộc điểm đạo nào không diễn giải ra bằng những hành động trong cuộc sống đời thường đều không ích lợi cho việc phụng sự và về cơ bản là không thực. Chính vì những diễn giải phi thực tế của mình mà Thánh đoàn đã phủ nhận Hội Theosophia như là tác nhân của mình trong giai đoạn hiện tại. Trước khi Hội nhấn mạnh một cách buồn cười về các cuộc điểm đạo và các đạo đồ, trước khi Hội xem các đệ tử tập sự như là các Điểm Đạo đồ thực thụ, Hội đã làm nhiều điều tốt. Tuy nhiên Hội đã không nhận ra sự tầm thường và không nhận thức được rằng không ai có thể “được điểm đạo” và trải qua các cuộc khủng hoảng nầy mà không trước đó đã thể hiện một sự hữu ích to lớn và một khả năng trí tuệ được trui rèn. Điều nầy không nhất thiết phải có trong kỳ điểm đạo thứ nhất, nhưng trong lần điểm đạo thứ hai phải thể hiện được một nền tảng bằng cuộc đời hiến dâng và một quyết tâm phụng sự thế giới nhân loại. Và cũng phải có sự khiêm tốn cũng như sự nhận thức được bản tính thiêng liêng trong tất cả mọi con người. Với các yêu cầu nầy các vị được gọi là điểm đạo đồ của Hội Theosophia (ngoại trừ bà Annie Besant) không đáp ứng được. Tôi sẽ không nhắc đến điều nầy nếu họ không thể hiện một cách tự phụ và tạo ra các ảo tưởng cho quần chúng.

Do these ideas make the concept of initiation more useful to you and more practical? Any initiation which does not find interpretation in daily reactions is of small service and basically unreal. It is the unreality of its presentation which has led to the rejection of the Theosophical Society as an agent of the Hierarchy at this time. Earlier and prior to its ridiculous emphasis upon initiation and initiates, and prior to its recognition of the probationary disciples as full initiates, the Society did good work. It however failed to recognise mediocrity and to realise that no one “takes” initiation and passes through these crises without a previous demonstration of a wide usefulness and of a trained intelligent capacity. This may not be the case where the first initiation is concerned, but where the second initiation is involved there must ever be the background of a useful dedicated life and an expressed determination [Page 679] to enter the field of world service. There must also be humility and a voiced realisation of the divinity in all men. To these requirements, the so-called initiate of the Theosophical Society (with the exception of Mrs. Besant) did not conform. I would not call attention to their prideful demonstration, were it not that the same claims are being made and the same delusions presented to the public. [RI]

Có lẽ không đoạn nào nói rõ về Ông và Hội Theosophia bằng đoạn trên.

3. Có phải những gì Ông viết không đáng tin cậy, không thể kiểm chứng được, và mang đậm dấu ấn của astralism hay không?

Đích thân đức D.K. vẫn cho rằng Ông Leadbeater là advanced occultist, và thỉnh thoảng Ngài cũng trích dẫn từ sách của Ông viết. Cụ thể trang 168 của quyển Cosmic Fire Ngài trích dẫn mô tả của Ông về các luân xa (trích trong quyển the Inner Life, Vol I, trang 447-460.) Trang 97 Ngài trích dẫn về Three Outpourings từ quyển The Christian Creeds trang 39-40. Ngay cả quyển sách Man: Whence, How, and Whither bị bà A.A. Bailey phê phán nặng nề như trên, Ngài vẫn nhận xét một cách tích cực như sau:

C.W. Leadbeater loáng thoáng nhận thức được ý tưởng nầy khi Ông đề cập đến các con tàu chứa Chân ngã từ Dãy Nguyệt Cầu. Dĩ nhiên Ông đã duy vật hóa ý tưởng quá mức. Nếu cũng ý tưởng trên được diễn đạt theo ngôn từ của mãnh lực và của sự xuất hiện những trung tâm lực bên trong Dãy Địa cầu, những Trung tâm lực nầy là kết quả của chuyển di năng lượng từ một dãy hành tinh trước đó tạo ra những xoáy trong chất dĩ thái và trong vật chất trên cõi thượng giới, có lẽ ý nghĩa thực sự của nó sẽ dễ hiểu hơn. (Cosmic Fire trang 853)

C. W. Leadbeater had a dim apprehension of this idea when he referred to those boat loads of Egos from the moon chain. He has of course materialized the idea far too much; if the same fundamental idea is expressed in terms of force and of the appearance of force centers within the earth chain, which force centers are the result of energy emanating from an earlier chain and producing whorls in the ether or substance of the mental plane, then the true significance may be more easily grasped.

4. Quyển Chân sư và Thánh đạo—The Masters and The Path:

Trong quyển sách nầy Ông đưa ra rất nhiều chi tiết về Thánh đoàn, về các Chân sư, mô tả các cuộc điểm đạo lần 1 và 2 của Krishnamurti, lễ Wesak… những chi tiết chứng tỏ người viết ra nó ắt hẳn phải ở một cấp bậc rất cao…

Về quyển nầy đức D.K viết như sau:

Có thể sẽ hữu ích nếu tôi nêu ra một hoặc hai khía cạnh mới của của cái Chân lý căn bản mà tôi đã truyền bá đến thế gian. Nếu như sau nầy có những nhóm huyền môn khác cũng đưa ra những khía cạnh đó của giáo lý là bởi vì những người đó hoặc đã đọc các sách của tôi mà bà A.A. Bailey đã viết ra thay cho tôi, hoặc là họ liên hệ trực tiếp và một cách có ý thức với Đạo viện của tôi.

Một ví dụ về trường hợp nầy là quyển “Chân sư và Thánh đạo” của Ông C.W. Leadbeater được xuất bản sau quyển sách của tôi, quyển Điểm đạo trong Nhân loại và Thái dương. Nếu so sánh những giáo lý được đưa ra trong đó với giáo lý của tôi, bạn sẽ thấy rõ ràng rằng nó xuất hiện trễ hơn. Tôi nêu ra điều nầy không nhằm mục đích tranh luận giữa các nhóm huyền môn hoặc trong khối quần chúng quan tâm, mà chỉ nêu ra một sự thực hiển nhiên và cũng để bảo vệ công việc đặc biệt nầy của Thánh đoàn. Tôi muốn lưu ý các bạn rằng các giáo lý do tôi đưa ra, ví dụ như trong quyển Luận về Chánh thuật hoặc Luận về Bảy Cung được tuần tự đưa ra trong một quãng thời gian kéo dài nhiều năm trước khi sách được xuất bản …

 

It might be useful here if I mentioned one or two of these new aspects of the fundamental Truth which have been given by me to the public. If these new phases of the teaching have been later given to the public by other occult groups, it will have been because the information was gained by those who have read the books put out by A.A.B. for me or who are directly and consciously in touch with my Ashram.

An instance of this is that book by C. W. Leadbeater on “The Masters and the Path” which was published later than my book, Initiation, Human and Solar. If the dates of any given teaching are compared with that given by me, it will appear to be of a later date than mine. I say this with no possible interest in any controversy among occult groups or the interested public, but as a simple statement of fact and as a protection to this particular work of the Hierarchy. I would remind you that the instructions given by me as, for instance, those in A Treatise on White Magic and A Treatise on the Seven Rays were given sequentially over a period of years, antedating the publishing of the books. The same time factor prevailed in the publishing of the earlier books. All my books were written over a long period of years, prior to publishing. All that appears of the same type of information over other signatures harks back to these books. Even if denied by their writers, a comparison of the dates of publishing with the original dates of issuing the instructions (in the form of monthly sets for reading and study in the Arcane School) or with the books published before the formation in 1925 of the Disciples [Page 251] Degree of the Arcane School will prove this conclusively. Bear in mind this factor of timing. A.A.B. takes down to my dictation an average of seven to twelve pages of typing (single-spaced) each time she writes for me; but owing to the exigencies of my work I cannot dictate to her every day, though I have found that she would gladly take my dictation daily if I so desired; weeks sometimes elapse between one dictation and another. I write the above paragraphs for the protection of the hierarchical work in years to come and not for the protection of A.A.B. or myself…. (The Rays and the Initiations, trang 250-251)

Quyển the Masters and the Path của Ông C.W. Leadbeater xuất bản năm 1925, còn quyển Initiation: Human and Solar xuất bản năm 1922. Và nếu các bạn đọc cả hai quyển bạn sẽ hiểu người viết các quyển sách đó ở cấp bậc nào.

5. Về nhãn thông của Ông:

Có rất nhiều minh chứng cho khả năng nhãn thông của Ông. Việc phát hiện ra Krishnamurti khi còn là một cậu bé ốm yếu bệnh tật là một ví dụ. Trong quyển Man: Whence, How, and Whither năm 1913 Ông nhìn thấy nhà thờ St Paul ở Luân Đôn vẫn tiếp tục tồn tại trong 700 năm tới. Trong thế chiến thứ II khi thành phố Luân đôn bị oanh tạc nặng, nhiều người nghĩ rằng nhà thờ sẽ bị phá huỷ, khi đó lời tiên tri của Ông sẽ trở thành sai lạc. Tuy nhiên điều kỳ diệu đã xảy ra: các toà nhà xung quanh nhà thờ St Paul đều bị phá huỷ, tuy nhiên nhà thờ không bị ảnh hưởng gì cả. Tuy nhiên, có một vài tuyên bố của Ông còn khiến mọi người băn khoăn, ví dụ như Ông tuyên bố trên Hoả tinh có người ở, giống dân chánh thứ sáu sẽ xuất hiện trong 600 năm nữa .v.v…

 

Krishnamurti lúc được C.W. Leadbeater phát hiện

Krishnamurti

Nha tho St Paul

6. Kết luận: Mặc dù thỉnh thoảng có sai lầm—những sai lầm không chủ ý—Ông vẫn là một tác giả cung cấp những giá trị quí giá cho người học đạo. Ông chắc chắn là đệ tử của Chân sư K.H., nhưng ở bậc điểm đạo nào ta không chắc, chỉ có thể suy đoán phần nào từ những nhận xét của đức D.K. Nhưng như đức D.K đã từng nói, người đệ tử có thể mắc sai lầm, bởi vì nếu anh không mắc sai lầm, anh đã là Chân sư rồi! Và vì anh còn là đệ tử, anh gần gũi hơn với với những đệ tử sơ cơ, với những người mộ đạo, lời nói anh sẽ hữu ích hơn. Một giáo sư Tiến sĩ dạy một em bé mẫu giáo chắc không tốt bằng một cô giáo mầm non. Có điều chúng ta khi đọc sách của Ông ta nên có óc phân biện, tránh những sùng tín thái quá, ta sẽ thu được nhiều điều bổ ích. Đó là lý do tại sao www.minhtrietmoi.org phổ biến nhiều tác phẩm của Ông, bởi vì cùng với bà Annie Besant Ông là tác giả có số lượng sách phong phú, dễ hiểu, bao trùm nhiều đề tài. Đó là nền tảng để chúng ta đi sâu vào Minh Triết Thiêng Liêng. Chúng ta cũng ghi nhận những công đức của Ông, lòng tận tụy nhiệt thành của Ông đối với Chân sư như với Thánh đoàn. Ông từng tâm sự Ông yêu quí Chân sư của Ông còn hơn mạng sống của Ông…

5 Comments

  1. Jupiter Nguyen

    Tôi đã đọc vài quyển sách của ông Leadbeater , tôi thấy sách của ông rất hay và thú vị ( những nhà huyền bí học bình thường sẽ không viết được như thế ) tuy nhiên tôi thấy ông ta hay nói về những điều sẽ xảy ra trong tương lai , thậm chí là tương lai rất xa , điều đó đáng nghi ngờ vì ông ta chưa phải là chân sư , là thánh nên không thể biết chính xác về những điều sẽ xảy ra trong tương lai được , tôi cảm thấy ông Leadbeater hơi tự cao , khoe khoan và chưa có tính khiêm tốn cao.

    • webmaster

      Đức D.K có nói rằng bất kỳ người đệ tử nào đều có thể sai sót và mắc lỗi lầm, bởi về nếu anh không còn lỗi lầm thì anh đã là Chân sư rồi, và điều nầy đều đúng với tất cả mọi đệ tử, chứ không phải chỉ riêng Ông C.W Leadbeater. Viết về Ông, một người hiện nay không còn ở trần gian nữa (hoặc Ông đã tái sinh dưới một xác thân khác chúng ta không biết?…) chúng tôi chỉ muốn nêu lên những ý kiến trái chiều nhau để chúng ta có cái nhìn tỉnh táo, tránh sự sùng tín quá đáng như trong quá khứ, chứ thật ra không nên làm trầm trọng thêm những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhất là người học đạo không nên phê bình ai đó khi chúng ta chưa biết rõ, nhất là những người ở cấp bậc cao hơn ta, như đức D.K đã nhắc nhở: we should refrain from criticism. Ông C.W.Leadbeater hay nói về tương lai theo nhãn thông của Ông thấy, nó có thể đúng hoặc sai, thời gian sẽ trả lời. Tuy nhiên công lao của Ông trong quảng bá MTTL không ai phủ nhận. Ông là người có số tác phẩm nhiều nhất về Theosophia trong đầu thế kỷ 20. Còn việc Ông có tự cao, khoe khoang … hay không, chúng tôi không dám nhận xét. Truyền đạt những gì mình thấy và tin chưa chắc đã nhằm mục đích khoe khoang, tự cao. Nhưng một điều chắc chắn nhờ Ông mà nhiều người đã tìm đến cửa Đạo.

  2. Yoga For Bjj

    I precisely wished to thank you very much once more. I do not know the things I would have achieved without these smart ideas discussed by you relating to such theme. Certainly was a very distressing matter in my position, but seeing a new well-written form you handled the issue took me to weep for happiness. I will be grateful for the support and in addition sincerely hope you comprehend what a great job you happen to be undertaking teaching people by way of your web site. I’m certain you’ve never encountered any of us.

  3. Huy Nguyen

    1. Tôi xin đóng góp vài ý-kiến với Webmaster như sau:

    (a) Khoảng 100 năm đã trôi qua từ lúc quyển “Man: Whence, How and Whither” của Leadbeater được xuất-bản (1913). Những gì có thể kiểm-chứng được đối với những gì Leadbeater nói về thế-kỷ 28, thì đều đúng cả. Điểm đặc biệt của cách chọn sự-kiện để trình-bày của ảnh là không cần đợi tới thế-kỷ 28, mà ngay trong thế-kỷ này người ta đã có thể thấy đúng rồi. Thí-dụ như trong phần mở đầu của đoạn 803 (bản web, link: https://www.levir.com.br/theosophy/theotext.php?cod=00875#Chapter25), có một câu như sau:

    ” The daily newspaper has disappeared– or perhaps we may rather say that it survives in a much amended form. To make it comprehensible it must be premised that in each house there is a machine which is a kind of combination of a telephone and recording tape-machine. This is in connection with a central office in the capital city, and is so arranged that not only can one speak through it as through a telephone, but that anything written or drawn upon a specially prepared plate and put into the box of the large machine at the central office will reproduce itself automatically upon slips which fall into the box of the machine in each of the houses. What takes the place of the morning newspaper is managed in this way. It may be said that each person has his newspaper printed in his own house.”

    Hiển-nhiên, trong đoạn văn trên, Leadbeater mô-tả Internet và hậu-quả của nó là báo giấy đã chết. Ở đoạn 811, Leadbeater viết:

    “In the central library there are certain small rooms somewhat like telephone-cabinets, into which students can take the record of any prominent event in history, and by putting it into a machine and setting that in motion they can have the whole scene reproduced audibly and visibly, with the exact presentment of the appearance of the actors, and their words in the very tones in which they were spoken.”

    Hiển-nhiên, Leadbeater đang mô-tả computer và media (hard disk, DVD hoặc USB :)) mà ngày nay nhân-loại đang xài. Nói tóm lại, những thứ có liên-hệ tới computer sẽ không biến mất vào thế-kỷ 28, mà chắc-chắn còn tốt hơn bây giờ nhiều.

    (b) Về chính-trị, Leadbeater nhìn thấy việc Ấn Độ bị chia ra thành ba nước (gồm có Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh), như mô-tả trong đoạn 879:

    “The country groups itself into two or three big kingdoms, but is still part of the one great Empire.”

    Cái đế-quốc nói ở trên chính là British Empire, sau này biến thành khối Thịnh-vượng Chung (Commonwealth). Xin chú ý: Leadbeater chết năm 1934, trong khi đó tới năm 1947 Ấn Độ mới bị bể ra thành hai khối: Ấn Độ và Pakistan. Pakistan lại bị chia thành hai nước: Pakistan và Bangladesh (xem bài ” Partition of India”, link: https://en.wikipedia.org/wiki/Partition_of_India). Như vậy, Leadbeater đã viết rất chính-xác. Ảnh không có thời-giờ tìm hiểu coi tại sao mới đầu là hai, rồi sau này lại trở thành ba, cho nên chỉ viết vắn tắt như trên.

    2) Về chuyện Hỏa Tinh, khoa-học-gia tốn hàng tỷ đô để biết những gì Leadbeater đã viết trong quyển “The Inner Life”, phần “Mars and the inhabitants” (xem trang web: http://blavatskyarchives.com/leadbeatermars.htm). Ho chỉ cần vào thư-viện là có thể đọc và biết được ngay, mà không tốn một cắc :). Thí-dụ như:

    “The great system of canals which has been observed by terrestrial astronomers was constructed by the second order of moon-men when they last occupied the planet, and its general scheme is to take advantage of the annual melting of enormous masses of ice at the outer fringe of the polar snow-caps.”

    Trong quyển “Dictionary of Astronomy”, xuất-bản năm 1994 bởi HarperCollins Publishers, trang 270, có một đoạn như sau:

    “MARS, POLAR CAPS: … Each cap grows under a haze of cloud during winter for its hemisphere, reaching a latitude of 50 degrees at its greatest extent. During summer it retreats to leave a small irregular patch about 500 km across. This residual cap PROBABLY consists of water ice, although the variable cap appears to be a frost of frozen carbon dioxide…”

    Xin quý-vị chú-ý:

    (a) Vào mủa hè, băng-tuyết ở hai cực (polar caps) của Hỏa Tinh thu nhỏ lại. Trong khi đó, Leadbeater viết rằng băng tan ra vào mùa hè. Như vậy, ảnh nói đúng quá rồi.

    (a) Quyển Từ-điển về Thiên-văn cho rằng hai cực CÓ THỂ có nước, nhưng khẳng-định rằng toàn là CO2 đông đá. Nhưng bây giờ, nhờ có rover đi lông-nhông trên Hỏa Tinh, khoa học gia mới có thể khẳng-định rằng nếu hai cực xả đá, cả Hỏa Tinh sẽ bị ngập lụt (xem bài “Water on Mars”, link: https://en.wikipedia.org/wiki/Water_on_Mars, và bài “Melting Martian Ice Caps Could Flood The Planet”, link: http://colonyworlds.com/2007/03/melting-martian-ice-caps-could-flood-the-planet.html).

    3. Trong quyển “Man: Whence, How and Whither” của Leadbeater, hãy còn rất nhiều sự việc đã được kiểm-chứng là đúng ngay từ bây giờ. Nếu ai có thời giờ, chịu khó sưu-tra từng chuyện một, thì sẽ tìm ra được hết.

    • webmaster

      Bạn nhận xét rất sâu sắc về quyển sách Man: Whence, How and Whither. Đúng là C.W.L có thông nhãn hiếm có, tuy nhiên, những quan sát sai của Ông cũng không ít. Ví dụ trong The Inner Life II, Ông có những mô tả về Hoả Tinh dường như đi quá xa. Ông nói trên Hoả Tinh có người, và mô tả hình dạng của họ. Ông cũng mô tả nhà cửa, thành phố trên đó ?:

      In physical appearance the Martians are not unlike ourselves, except that they are considerably smaller. The tallest men are not above five feet in height and the majority are two or three inches shorter. According to our ideas they are somewhat broad in proportion, having very great chest capacity—a fact which may possibly be due to the rarity of the air and the consequent necessity of deep breathing in order fully to oxygenate the blood. The whole civilised population of Mars is one race, and there is practically no difference in features or complexion, except that, just as among ourselves, there are blondes and brunettes, some of the people having a faintly yellowish skin and black hair, while the majority have yellow hair and blue or violet eyes—somewhat Norwegian in appearance. They dress mostly in brilliant colours, and both sexes wear an almost shapeless garment of some very soft material which falls straight from the shoulders down to the feet. Generally the feet are bare, though they sometimes use a sort of metal sandal or slipper, with a thong round the ankle.
      They are very fond of flowers, of which there is a great variety, and their towns are built on the general plan of the garden-city, the house usually being one-storeyed only, but built round inner courtyards and straggling over a great deal of ground. These houses look exteriorly as though built of coloured glass, and indeed the material which is used is transparent, but it is somehow so fluted that while the persons inside enjoy an almost unimpeded view of their gardens, no one from outside can see what is going on in the house.
      The houses are not built up in blocks, but the material is melted and poured into moulds; if a house is to be built, a sort of double mould of it is first made in metal faced with cement, and then the curious glasslike substance is melted and poured into this mould, and when it is cold and hardened the moulds are taken away, and the house is finished except for a certain amount of polishing of the surface. The doors are not exactly like ours, since they have no hinges or bolts, and are opened and shut by treading on certain spots in the ground, either without or within. They do not swing on hinges, but run back into the wall on each side. All these doors and all furniture and fittings are of metal. Wood seems to be used scarcely at all.

      ….

Leave Comment