Điểm đạo – Chương 11: Các Đấng tham dự Bí nhiệm

CÁC ĐẤNG THAM DỰ VÀO CÁC BÍ NHIỆM

THE PARTICIPANTS IN THE MYSTERIES

 

Các điểm cần lưu ý trong chương này:

  1. Khi một người được điểm đạo thì những dấu hiệu nào cho ta thấy điều đó. Đức DK chỉ cho ta bốn điểm nhận diện như sau:

Bên trong các luân xa dĩ thái. Các luân xa sẽ được khơi hoạt và gia tăng độ rung động.

Các trung tâm của thể xác, như tuyến tùng và tuyến yên, sẽ bắt đầu phát triển nhanh chóng, và y sẽ trở nên ý thức được sự khơi dậy các “siddhis” hay là các quyền năng của linh hồn, hiểu theo nghĩa cao siêu của từ này.

Hệ thần kinh, qua đó thể tình cảm hay cảm dục tính tác động, sẽ trở nên rất bén nhạy và mạnh mẽ.

Ký ức huyền bí. Người điểm đạo đồ nhớ lại về mặt huyền bí một sự kiện của cuộc lễ, trong ý thức tỉnh táo, và nhận thấy nơi chính mình tất cả các biểu hiện này của sự phát triển tăng dần và nhận thức sáng tỏ.

  1. Qua các dấu hiệu này người điểm đạo đồ biết được mình được điểm đạo, không cần nhờ ai chỉ bảo. Nhưng sự nhận biết này chỉ có giá trị cho riêng người điểm đạo đồ chứ không phải để thể hiện cho thế gian. Người điểm đạo đồ phải chứng tỏ quả vị của mình bằng ảnh hưởng của mình lên môi trường xung quanh, lên thế giới.
  2. Một người khi được điểm đạo lầ đầu tiên trong kiếp sống thì ký ức của cuộc điểm đạo sẽ ghi nhận vào bộ óc hồng trần, bởi vì “sự mở mang tâm thức gọi là điểm đạo phải bao gồm não bộ hồng trần, nếu không thì chẳng có giá trị gì cả”. Tuy nhiên, rất thường có trường hợp người được điểm đạo lần thứ nhất hoặc thứ hai trong những kiếp trước, khi tái sinh trở lại không nhớ gì cả. Đức DK giải thích có hai lý do cho điều này:

a. do thiếu “cầu nối” giữa các kiếp sống, hoặc

b. có thể là do một quyết định dứt khoát của Chân nhân. Một điểm đạo đồ sẽ dễ thanh toán một nghiệp quả nào đó và thực hiện một công tác nhất định cho Thánh Đoàn nếu y không có các chú ý huyền môn và quan tâm thần bí trong một kiếp sống nào đó ở trần gian.

  1. Trong trường hợp này, người có nhãn thông sẽ dễ dàng nhận ra một điểm đạo đồ bằng các nhìn vào các luân xa của người đó. Đây là bằng chứng chắc chắn của một điểm đạo đồ.
  2. Về các Đấng tham gia vào lễ điểm đạo, đức DK cho ta biết tuỳ theo các lễ điểm đạo khác nhau mà các đấng tham dự cũng khác nhau.
  3. Cơ bản trong mỗi lễ điểm đạo có các đấng sau đây tham dự:
    1. Đấng chủ trì lễ điểm đạo. Trong các cuộc điểm đạo 1 và 2, đức Chưởng giáo chủ trì lễ điểm đạo. Trong các cuộc điểm đạo 3, 4, 5 đức Sanat Kumara chủ trì buổi lễ.
    2. Đấng Chứng giám buổi lễ (the Silent Watcher). Trong cuộc điểm đạo 1 và 2, đức Sanat Kumara là đấng Chứng giám buổi lễ. Còn trong các cuộc điểm đạo sau thì đấng Silent Watcher là Hành Tinh Thượng đế.
    3. Ba Đấng Cao cả tạo thành tam giác lực bao quanh người điểm đạo đồ để lưu chuyển thần lực xuống mức độ thích hợp với người đệ tử điểm đạo. Trong hai cuộc điểm đạo đầu tiên thì đức Mahachohan, đức Manu, và đức Đế Quân (Chohan) cung 2 giữ vai trò này. Trong ba cuộc điểm đạo sau thì ba vị Kumara ngoại môn giữ nhiệm vụ đó khi đức Sanat Kumara điểm đạo.
    4. Hai vị Chân Sư giữ vai trò người bảo trợ (sponsors) của điểm đạo đồ.
  4. Trong bài có một số chi tiết tinh tế, chúng tôi không giải thích thêm ở đây. Các bạn đọc và cố gắng tìm thấy.

 

*************

Thường thì mọi người đều biết được các Đấng tham dự vào các bí nhiệm và không cần phải giữ kín kiến thức tổng quát về nhân sự và phương pháp. Ở đây chúng tôi chỉ tìm cách làm cho các sự kiện đã được đưa ra có ý nghĩa thực tế lớn lao hơn bằng cách trình bày đầy đủ hơn và đề cập rõ rệt hơn về các phần hành của những vị đó trong suốt cuộc lễ. Ở giai đoạn này, người môn sinh nên khôn ngoan ghi nhớ một số điều khi suy gẫm về các bí nhiệm được bàn đến ở đây:—

The participants in the mysteries are generally known, and no secret has been made of the general personnel and procedure. It is only sought here to impart a greater sense of reality to the data already given by a fuller exposition and a more pointed reference to the parts played by such during the ceremony. At this stage the student would be wise to bear in mind certain things as he ponders upon the mysteries touched upon here:

  1. Phải thận trọng diễn giải tất cả những điều được truyền đạt ở đây trong phạm vi tinh thần chứ không thuộc về vật chất hay hình thể. Chúng tôi đang bàn hoàn toàn về phương diện tâm thức hay khía cạnh nội tại của cuộc biểu hiện, và với những gì ẩn trong hình thể ở bên ngoài. Nhận thức này sẽ giúp môn sinh tránh được nhiều lầm lẫn về sau.
  2. Chúng tôi đang xét đến các sự kiện có thực trên cảnh giới trí tuệ—cảnh giới mà trên đó diễn ra tất cả các cuộc điểm đạo chính yếu—nhưng không được thể hiện trên cảnh giới hồng trần và không phải là các hiện tượng trên cảnh giới hồng trần. Mối liên kết giữa hai cảnh giới này hiện hữu trong sự liên tục tâm thức mà bấy giờ điểm đạo đồ đã phát triển, sẽ giúp y có thể đưa vào não bộ hồng trần các sự kiện và những diễn biến trên các cảnh giới nội tại của cuộc sống.

That care must be taken to interpret all here given in terms of spirit and not of matter or form. We are dealing entirely with the subjective or consciousness aspect of manifestation, and with that which lies back of the objective form. This realization will save the student from much later confusion.

That we are considering facts which are substantial and real on the mental plane — the plane on which all the major initiations take place — but which are not materialized on the physical plane, and are not physical plane phenomena. The link between the two planes exists in the continuity of consciousness which the initiate will have developed, and which will enable him to bring through to the physical brain, occurrences and happenings upon the subjective planes of life.

Bằng chứng của điểm đạo – Corroboration of Initiation

Bằng chứng xác nhận các diễn biến này và tính chính xác của kiến thức được truyền đạt sẽ biểu thị như sau:

Corroboration of these occurrences, and proof of the accuracy of the transmitted knowledge will demonstrate as follows: [101]

Bên trong các luân xa dĩ thái. Các luân xa này sẽ được kích thích mạnh mẽ và, qua năng lượng cố hữu của chúng được gia tăng, sẽ giúp điểm đạo đồ có thể hoàn tất được nhiều trên đường phụng sự hơn là trước đây y đã từng mơ tưởng có thể làm. Các ước mơ và lý tưởng của y không còn là những khả năng mà trở thành các sự kiện thực tế biểu hiện trong cuộc sống.

In and through the etheric centers. These centers will be greatly stimulated, and will, through their increased inherent energy, enable the initiate to accomplish more in the path of service than he ever before dreamed possible. His dreams and ideals become, not possibilities, but demonstrating facts in manifestation.

Các trung tâm của thể xác, như tuyến tùng và tuyến yên, sẽ bắt đầu phát triển nhanh chóng, và y sẽ trở nên ý thức được sự khơi dậy các “siddhis” hay là các quyền năng của linh hồn, hiểu theo nghĩa cao siêu của từ này. Y sẽ biết được tiến trình chế ngự hữu thức và tùy ý vận dụng các quyền năng này. Y sẽ biết các phương pháp tiếp xúc với chân ngã và điều khiển các mãnh lực đúng cách.

The physical centers, such as the pineal gland and the pituitary body, will begin to develop rapidly, and he will become conscious of the awakening of the “siddhis,” or powers of the soul, in the higher connotation of the words. He will be aware of the process of conscious control, and of the self-initiated manipulations of the above powers. He will realize the methods of egoic contact and the right direction of force.

Hệ thần kinh, qua đó thể tình cảm hay cảm dục tính tác động, sẽ trở nên rất bén nhạy và mạnh mẽ. Não bộ sẽ ngày càng mau chóng trở nên một phương tiện truyền đạt chính xác cho các xung lực nội tâm. Sự kiện này có tầm quan trọng thực sự và khi ý nghĩa của nó trở nên rõ rệt, sẽ mang lại một cuộc cách mạng trong thái độ của các nhà giáo dục, các y sĩ và những người khác, đối với sự phát triển của hệ thần kinh và việc chữa trị các bệnh thần kinh.

The nervous system, through which the emotional body or astral nature works, will become highly sensitized, yet strong withal. The brain will become ever more rapidly an acute transmitter of the inner impulses. This fact is of real importance, and will bring about — as its significance becomes more apparent — a revolution in the attitude of educators, of physicians and others, to the development of the nervous system and the healing of nervous disorders.

Ký ức huyền bí. Cuối cùng, điểm đạo đồ trở nên ngày càng ý thức được sự tăng trưởng của hồi ức nội tâm, hay là “ký ức huyền bí,” liên quan đến công tác của ĐĐCG và chính yếu là phần hành của y trong kế hoạch tổng quát. Khi điểm đạo đồ hồi ức về mặt huyền bí một sự kiện của cuộc lễ, trong ý thức tỉnh táo, và nhận thấy nơi chính mình tất cả các biểu hiện này của sự phát triển tăng dần và nhận thức sáng tỏ, thì bấy giờ niềm xác tín ở nội tâm được chứng minh và chứng thực đối với y.

Occult memory. The initiate finally becomes aware increasingly of the growth of that inner recollection, or “occult memory,” which concerns the work of the Hierarchy and primarily his share in the general plan. When the initiate, who occultly recalls, in his waking consciousness, a ceremonial fact, finds all these manifestations of increased growth and conscious realization in himself, then the truth of his inner assurance is proven and substantiated to him.

Hãy nên nhớ rằng sự chứng thực nội tâm này không có giá trị cho ai hơn là điểm đạo đồ. Y phải tự chứng tỏ cho thế giới bên ngoài biết điều này, qua cuộc sống phụng sự của y và công tác [102] đã hoàn tất, và bằng cách đó khơi dậy nơi tất cả những người phụ tá quanh y một sự nhận thức , tự biểu lộ trong cuộc thi đua đúng đắn và nỗ lực lớn lao để dấn bước trên cùng một con đường, bao giờ cũng được thúc đẩy bởi cùng một động cơ—là động cơ phụng sự và tình huynh đệ, chứ không phải tính tự tôn tự đại và ý muốn thu đạt vị kỷ. Cũng cần nên nhớ rằng nếu các điều trên đúng với công việc phụng sự, thì còn đúng hơn nữa đối với chính điểm đạo đồ. Điểm đạo là một vấn đề hoàn toàn cá nhân có ứng dụng đại đồng. Nó dựa trên sự thành đạt nội tâm của y. Điểm đạo đồ sẽ tự biết được khi nào sự kiện này xảy ra, và không cần phải có ai nói cho y biết điều đó. Sự mở mang tâm thức gọi là điểm đạo phải bao gồm não bộ hồng trần, nếu không thì chẳng có giá trị gì cả. Giống như các triển khai tâm thức nhỏ hơn mà bình thường chúng ta trải qua mỗi ngày, và gọi là “học” một điều này hay điều khác, có liên quan đến việc não bộ hồng trần thấu hiểu được một sự kiện đã truyền đạt hay một trường hợp đã lĩnh hội, thì các phát triển tâm thức rộng lớn hơn, là thành quả của nhiều cuộc triển khai nhỏ này, cũng có liên quan như vậy.

It must be remembered that this inner substantiation is of no value to anyone but the initiate. He has to prove himself to the outer world through his life of service and the work accomplished, and thereby call forth from all his [102] environing associates a recognition that will show itself in a sanctified emulation and a strenuous effort to tread the same path, actuated ever by the same motive, — that of service and brotherhood, not self-aggrandizement and selfish acquirement. It should also be remembered that if the above is true in connection with the work, it is still more true in connection with the initiate himself. Initiation is a strictly personal matter with a universal application. It rests upon his inner attainment. The initiate will know for himself when the event occurs and needs no one to tell him of it. The expansion of consciousness called initiation must include the physical brain or it is of no value. As those lesser expansions of consciousness which we undergo normally every day, and call “learning” something or other, have reference to the apprehension by the physical brain of an imparted fact or apprehended circumstance, so with the greater expansions which are the outcome of the many lesser.

Đồng thời, khả dĩ có những người đang hoạt động ở cõi trần, được tích cực sử dụng trong việc phụng sự thế giới, và không hề nhớ là đã trải qua quá trình điểm đạo, dù rằng có thể là họ đã được điểm đạo lần thứ nhất hay thứ nhì trong một tiền kiếp hay kiếp vừa qua. Đây chỉ đơn giản là do thiếu “cầu nối” giữa các kiếp sống, hoặc có thể là do một quyết định dứt khoát của Chân nhân. Có thể hành giả sẽ có khả năng tốt hơn để thanh toán một nghiệp quả nào đó và thực hiện một công tác nhất định cho Huyền giai nếu y không có các chú ý huyền môn và quan tâm thần bí, trong một kiếp sống nào đó ở trần gian. Trong nhân loại hiện nay có nhiều người như thế, kiếp trước họ đã được điểm đạo lần thứ nhất, và một số ít đã được điểm đạo lần thứ hai, nhưng họ hoàn toàn không biết điều đó, dù rằng các luân xa và hệ thần kinh của họ có mang những bằng chứng mà người có nội nhãn [103] thông thấy được. Nếu hành giả được điểm đạo lần đầu tiên trong một kiếp sống nào đó, thì hồi ức về điểm đạo sẽ truyền đến bộ óc hồng trần.

At the same time, it is quite possible for men to be functioning on the physical plane and to be actively employed in world service who have no recollection of having undergone the initiatory process, yet who, nevertheless, may have taken the first or second initiation in a previous or earlier life. This is the result, simply, of a lack of “bridging” from one life to another, or it may be the outcome of a definite decision by the Ego. A man may be able better to work off certain karma and to carry out certain work for the Lodge if he is free from occult occupation and mystic introspection during the period of any one earth life. There are many such amongst the sons of men at this time who have previously taken the first initiation, and a few who have taken the second, but who are nevertheless quite unaware of it, yet their centers and nervous organization carry proof to those who have the inner vision. If initiation is taken for [103] the first time in any life, the recollection of it extends to the physical brain.

Tính tò mò, hoặc ngay cả cuộc sống tốt đẹp bình thường, không bao giờ đưa hành giả đến Cửa Điểm Đạo. Khi khơi dậy một rung động mạnh trong phàm tính của con người, tính hiếu kỳ chỉ đẩy cách xa, thay vì giúp y tiến gần mục tiêu mà y quan tâm đến; trong khi đó, nếu chỉ sống tốt đẹp bình thường mà không tiến xa hơn bằng một đời sống hoàn toàn hy sinh vị tha, bằng sự dè dặt, khiêm tốn, và bất vị kỷ đến mức phi thường, thì cũng có thể tạo được các vận cụ tốt sẽ hữu ích trong một kiếp khác, nhưng sẽ không giúp dẹp tan các chướng ngại ở ngoại cảnh và nội tâm, và khắc phục được các lực, các năng lượng đối nghịch, ngăn cách giữa một người “tốt” và cuộc lễ điểm đạo.

Curiosity, or even ordinary good living, never brought a man to the Portal of Initiation. Curiosity, by arousing a strong vibration in a man’s lower nature, only serves to swing him away from, instead of towards the goal he is interested in; whilst ordinary good living, when not furthered by a life of utter sacrifice for others, and by a reticence, humility, and disinterestedness of a very unusual kind, may serve to build good vehicles which will be of use in another incarnation, but will not serve to break down those barriers, outer and inner, and overcome those opposing forces and energies which stand between a “good” man and the ceremony of initiation.

Con Đường Đệ Tử là con đường khó đi, và Con Đường Điểm Đạo còn gian nan hơn nữa; mỗi điểm đạo đồ đúng là một chiến sĩ mang nhiều thương tích, là người chiến thắng trong nhiều cuộc chiến rất gian lao; y không nói đến các thành tích của mình, vì quá bận rộn với công tác quan trọng đang đảm nhận; y không hề đề cập đến bản thân hay tất cả những điều y đã hoàn thành, trừ việc tiếc rằng y đã làm quá ít. Tuy nhiên, đối với thế gian, y luôn luôn là một người có ảnh hưởng lớn, là người vận dụng quyền năng tinh thần, là hiện thân của lý tưởng, là người phục vụ nhân loại, luôn luôn mang lại những kết quả mà hậu thế sẽ công nhận. Dù với tất cả các thành tựu như vậy, y ít khi được người đương thời thông cảm. Y thường làm bia cho tiếng đời đàm tiếu, và thường những điều y làm bị diễn giải sai lạc; y đặt trên lên bàn thờ phụng sự vị tha, tất cả—thì giờ, tiền bạc, ảnh hưởng, danh tiếng, cùng tất cả những điều người đời xem là giá trị—và thường hiến dâng sự sống của mình như món quà tặng cuối cùng, để rồi thấy rằng những người y đã phụng sự ném trả món quà trở lại, khinh miệt sự xả thân của y và gắn cho y những cái tên bất hảo. [104] Nhưng điểm đạo đồ không bận tâm, vì y có đặc ân nhìn thấy được phần nào tương lai và do đó biết rằng mãnh lực mà y đã phát ra, đến đúng lúc, sẽ giúp hoàn thành kế hoạch; y cũng biết rằng tên tuổi và nỗ lực của y được ghi vào văn khố của Huyền giai và “Đấng Trông Nom Thầm Lặng” các sự vụ nhân loại Ngài đã lưu ý.

The Path of Discipleship is a difficult one to tread, and the Path of Initiation harder still; an initiate is but a battlescarred warrior, the victor in many a hard-won fight; he speaks not of his achievements, for he is too busy with the great work in hand; he makes no reference to himself or to all that he has accomplished, save to deprecate the littleness of what has been done. Nevertheless, to the world he is ever a man of large influence, the wielder of spiritual power, the embodied of ideals, the worker for humanity, who unfailingly brings results which succeeding generations will recognize. He is one who, in spite of all this great achievement, is seldom understood by his own generation. He is frequently the butt of men’s tongues, and frequently all that he does is misinterpreted; he lays his all — time, money, influence, reputation, and all that the world considers worth while — upon the altar of altruistic service, and frequently offers his life as a final gift, only to find that those whom he has served throw his gift back to him, scorn his renunciation, and label him with unsavory names. But the initiate cares not, for his is the privilege to see somewhat [104] into the future, and therefore he realizes that the force he has generated will in due course of time bring to fulfillment the plan; he knows also that his name and effort are noted in the archives of the Lodge, and that the “Silent Watcher” over the affairs of men has taken notice.

 

Các Đấng Hành Tinh – Planetary Existences

Giờ đây, khi xét đến những Vị tham dự các cuộc lễ điểm đạo, trước hết nên đề cập đến những Đấng cao cả gọi là các Đấng Hành Tinh. Từ này chỉ về những Đấng cao cả che chở hay ở lại với nhân loại chúng ta, trong một thời kỳ biểu hiện hành tinh. Các Đấng này không nhiều lắm, vì lẽ phần đông các Đấng cao cả ngày càng liên tục chuyển sang công tác khác cao siêu hơn, khi địa vị và chức vụ của các Ngài có thể đảm nhận và kế tục bởi các thành viên từ trường tiến hoá địa cầu, cả giới thiên thần và nhân loại.

In considering now the personalities taking part in the initiation ceremonies, the first to be dealt with are those who are termed Planetary Existences. This refers to those great Beings who, for a period of planetary manifestation, overshadow or stay with our humanity. They are not very many in number, for the majority of the Great Ones pass on steadily and increasingly to other and higher work, as their places can be taken and their functions carried on by members of our earth evolution, both deva and human.

Trong các Đấng liên kết trực tiếp với Huyền giai các Chân sư của chúng ta trong nhiều phân bộ khác nhau trên hành tinh, có thể kể ra các Đấng sau đây:-

Among those directly connected with our Lodge of Masters in its various divisions upon the planet, the following might be enumerated:

Đức Tịnh Quan Thượng Đế, “Đấng Trông Nom Thầm Lặng”, là Đấng Cao Cả có sự sống làm linh hoạt hành tinh này; địa vị của Ngài đối với Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, Đức Sanat Kumara, cũng như Chân nhân đối với phàm ngã của con người. Chúng ta có thể hiểu được phần nào trình độ tiến hoá cao siêu của Đấng Cao Cả này tương tự như sự khác biệt trình độ tiến hoá giữa một người thường và một Chân sư toàn thiện. Theo quan điểm của hệ thống hành tinh chúng ta, thì Đấng này là cao cả nhất, và đối với chúng ta, Ngài tương ứng với Đấng Thượng Đế nhân hoá của người Thiên Chúa giáo. Ngài hoạt động thông qua đại diện của Ngài ở cõi trần là Đức Sanat Kumara, là tụ điểm cho năng lượng và sự sống của Ngài. Ngài giữ thế giới trong hào quang của Ngài. Chỉ có bậc hoàn thiện đã được điểm đạo lần thứ năm và đang tiến [105] lên để nhận hai cuộc điểm đạo thứ sáu và thứ bảy mới tiếp xúc trực tiếp được với Đấng Cao Cả này. Mỗi năm một lần, vào cuộc Lễ Wesak, được sự chuẩn y của Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, Đức Phật mang đến cho tập thể nhân loại một dòng mãnh lực nhị phân, phát xuất từ Tịnh Quan Thượng Đế, được bổ sung bằng năng lượng tập trung hơn của Đức Chúa Tể Hoàn Cầu. Ngài phóng rải năng lượng nhị phân này khi ban ân huệ cho dân chúng tụ tập tại cuộc lễ ở Hy-mã-lạp-sơn, và đến lượt từ họ mãnh lực đó lưu chuyển đến tất cả các dân tộc, nói đủ mọi thứ tiếng, thuộc mọi sắc dân. Nói chung, có lẽ chúng ta không thể biết rằng đến một mức khủng hoảng nhất định trong Đại Thế Chiến, ĐĐCG của hành tinh chúng ta đã cho rằng hầu như cần phải thỉnh cầu sự trợ giúp của Tịnh Quan Thượng Đế,—sử dụng đại thần chú để thấu đến Đức Phật, để được Ngài chú ý—và nhờ Ngài làm trung gian tiếp xúc với Hành Tinh Thượng Đế. Trong cuộc tham vấn giữa Hành Tinh Thượng Đế, Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, một trong các vị Hoạt Phật, Đức Phật, Đức Văn Minh Đại Đế, Đức Bàn Cổ (các danh xưng này được đưa ra theo thứ tự trình độ tiến hoá tương đối của các Ngài) đã có quyết định theo dõi các diễn biến thêm một thời gian ngắn trước khi can thiệp vào xu thế các sự vụ, vì nghiệp quả hành tinh hẳn đã bị trì hoãn nếu cuộc xung đột đã được kết thúc quá sớm. Sự tin cậy của các Ngài vào khả năng của con người có thể điều chỉnh đúng đắn được các điều kiện, đã được chứng minh, và việc can thiệp đã tỏ ra không cần thiết. Cuộc hội nghị này đã diễn ra ở Shamballa. Điều này được nêu lên để cho thấy rằng các Đấng Hành Tinh quan tâm xem xét kỹ đối với mọi điều liên quan đến các sự vụ của con người. Về mặt huyền bí, thực sự đúng là” không một con chim sẻ nào rơi xuống” mà sự chết của nó không được lưu ý đến.

The “Silent Watcher,” that great Entity who is the informing life of the planet, and who holds the same position to the Lord of the World, Sanat Kumara, as the Ego does to the lower self of man. Some idea of the high stage of evolution of this Great Being may be gathered from the analogous degree of evolutionary difference existing between a human being and a perfected adept. From the standpoint of our planetary scheme, this great Life has no greater, and he is, as far as we are concerned, a correspondence to the personal God of the Christian. He works through his representative on the physical plane, Sanat Kumara, who is the focal point for his life and energy. He holds the world within his aura. This great Existence is only contacted directly by the adept who has taken the [105] fifth initiation, and is proceeding to take the other two, the sixth and seventh. Once a year, at the Wesak Festival, the Lord Buddha, sanctioned by the Lord of the World, carries to the assembled humanity a dual stream of force, that emanating from the Silent Watcher, supplemented by the more focalized energy of the Lord of the World. This dual energy he pours out in blessing over the people gathered at the ceremony in the Himalayas, and from them in turn it flows out to all peoples and tongues and races. It may not perhaps be generally known that at a certain crisis during the Great War the Hierarchy of our planet deemed it well nigh necessary to invoke the aid of the Silent Watcher, and — employing the great mantram whereby the Buddha can be reached — called the attention of the latter, and sought his agency with the Planetary Logos. In consultation between the Planetary Logos, the Lord of the World, one of the Buddhas of Activity, the Buddha, the Mahachohan, and the Manu (these names are given in order of their relative evolutionary stage) it was decided to watch proceedings a little longer before interfering with the trend of affairs, as the karma of the planet would have been delayed should the strife have been ended too soon. Their confidence in the ability of men duly to adjust conditions was justified, and interference proved needless. This conference took place at Shamballa. This is mentioned to show the close scrutiny given to everything concerning the affairs of men by the various Planetary Existences. It is literally true, in an occult sense, that “not a sparrow falleth” without its fall being noticed.

Người ta có thể hỏi tại sao Đức Bồ-tát đã không tham dự hội nghị. Lý do là vì chiến tranh thuộc ngành của Đức Bàn Cổ, và các thành viên của ĐĐCG quan tâm đến những gì hoàn toàn là phần việc của các Ngài; Đức Văn Minh Đại Đế, vì là hiện thân [106] của nguyên khí thông tuệ hay trí tuệ, nên tham dự tất cả các cuộc hội nghị. Trong cuộc xung đột lớn sắp đến, ngành tôn giáo sẽ liên hệ, và Đức Bồ-tát sẽ có liên quan mật thiết. Bấy giờ, Đạo Huynh của Ngài là Đức Bàn Cổ sẽ tương đối được miễn tham dự, và sẽ tiếp tục công việc riêng của Ngài. Tuy nhiên, vẫn có sự hợp tác chặt chẽ nhất giữa các ngành mà không hề bị hao hụt năng lượng. Do sự hợp nhất tâm thức của những vị đã tự do đối với ba cảnh giới thấp, nên những gì xảy ra trong một ngành đều được các ngành kia hiểu biết.

It may be asked why the Bodhisattva was not included in the conference. The reason was that the war was in the department of the Manu, and members of the Hierarchy concern themselves with that which is strictly their own business; the Mahachohan, being the embodiment of the [106] intelligent or manasic principle, participates in all conferences. In the next great strife the department of religions will be involved, and the Bodhisattva intimately concerned. His Brother, the Manu, will then be relatively exempt, and will proceed with his own affairs. And yet withal there is the closest co-operation in all departments, with no loss of energy. Owing to the unity of consciousness of those who are free from the three lower planes, what transpires in one department is known in the others.

Vì Đức Hành Tinh Thượng Đế chỉ liên quan đến hai cuộc điểm đạo cuối cùng, vốn không có tính bắt buộc như năm cuộc điểm đạo đầu, nên không ích gì mà nói thêm về công việc của Ngài. Hai cuộc điểm đạo này được nhận trên cảnh giới bồ-đề và niết-bàn, trong khi năm cuộc điểm đạo đầu diễn ra trên cõi trí.

As the Planetary Logos is only concerned in the two final initiations, which are not compulsory as are the earlier five, it serves no purpose to enlarge upon his work. These initiations are taken upon the buddhic and atmic planes, whereas the first five are taken upon the mental.

Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, Đấng Điểm Đạo Duy Nhất, trong Kinh Thánh gọi là Đấng Thái Cổ, và trong Thánh kinh Ấn giáo gọi là Đệ Nhất Kumara, Ngài chính là Đức Sanat Kumara, từ ngôi của Ngài ở Shamballa trong sa mạc Gobi, Ngài chủ trì Huyền giai các Chân sư, và giữ quyền quản trị cả ba ngành. Một số Thánh kinh gọi Ngài là “Đấng Đại Hy Sinh” vì Ngài đã chọn việc trông nom cuộc tiến hoá của nhân loại và thiên thần cho đến khi tất cả đã “được cứu độ” về mặt huyền bí. Chính Ngài quyết định “sự thăng tiến” trong các ngành, và định đặt nhân viên thế vào các chỗ khuyết. Chính Ngài, mỗi năm bốn lần, dự hội nghị với tất cả các vị Đế quân và Chân sư, và chuẩn y những gì sẽ được thực hiện để đẩy nhanh các mục tiêu tiến hoá.

The Lord of the World, the One Initiator, he who is called in the Bible “The Ancient of Days,” and in the Hindu Scriptures the First Kumara, he, Sanat Kumara it is, who from his throne at Shamballa in the Gobi desert, presides over the Lodge of Masters, and holds in his hands the reins of government in all the three departments. Called in some Scriptures “the Great Sacrifice,” he has chosen to watch over the evolution of men and devas until all have been occultly “saved.” He it is who decides upon the “advancements” in the different departments, and who settles who shall fill the vacant posts; he it is who, four times a year, meets in conference with all the Chohans and Masters, and authorizes what shall be done to further the ends of evolution.

Đôi khi Ngài cũng hội kiến với các điểm đạo đồ cấp thấp hơn, nhưng chỉ vào những thời gian có các khủng hoảng lớn, khi một cá nhân được ban cho cơ hội mang lại hòa bình từ cuộc xung đột, và đốt lên ngọn lửa để các hình thể đang mau chóng kết tinh sẽ bị hủy diệt, và do đó sự sống bị giam hãm bên trong sẽ được tự do.

Vào khoảng thời gian nhất định trong năm, Huyền giai nhóm [107] họp, và vào Lễ Wesak tụ hội dưới thẩm quyền của Ngài, nhằm ba mục đích:

Occasionally, too, he meets with initiates of lesser degree, but only at times of great crises, when some individual is given the opportunity to bring peace out of strife, and to kindle a blaze whereby rapidly crystallizing forms are destroyed and the imprisoned life consequently set free.

At stated periods in the year the Lodge meets, and at [107] the Wesak Festival gathers under His jurisdiction for three purposes:

1.Tiếp xúc với mãnh lực hành tinh qua trung gian của Đức Phật.

2.Tổ chức cuộc hội nghị chính của mỗi quí.

3.Nhận vào lễ điểm đạo những người đã đủ điều kiện, ở mọi cấp.

  1. To contact Planetary force through the medium of the Buddha.
  2. To hold the principal of the quarterly conferences.
  3. To admit to the ceremony of initiation those who are ready in all grades.

Ba lễ điểm đạo khác diễn ra trong năm:-

  1. Cho các cuộc điểm đạo thứ yếu, do Đức Bồ-tát hành lễ, tất cả đều ở trong ngành của Đức Văn Minh Đại Đế, và thuộc một trong bốn cung phụ, tức là các cung thuộc tính.
  2. Cho các cuộc điểm đạo chính yếu thuộc một trong ba cung chính, là các cung trạng thái, do Đức Bồ-tát hành lễ, tức là hai cuộc điểm đạo đầu tiên.
  3. Cho ba cuộc điểm đạo cao hơn, trong đó Đức Sanat Kumara vận dụng Thần trượng.

Three other initiation ceremonies take place during the year:

  1. For the minor initiations administered by the Bodhisattva, all of which are in the department of the Mahachohan, and on one or other of the four lesser rays, the rays of attribute.
  2. For the major initiations on one or other of the three major rays, the rays of aspect, which are administered by the Bodhisattva, and are therefore the first two initiations.
  3. For the higher three initiations at which Sanat Kumara wields the Rod.

Đức Chúa Tể Hoàn Cầu vẫn hiện diện trong tất cả các cuộc điểm đạo, nhưng ở hai cuộc điểm đạo đầu tiên, Ngài giữ vị thế tương tự như vị thế của Tịnh Quan Thượng Đế, khi Đức Sanat Kumara nhận lời tuyên thệ vào các cuộc điểm đạo thứ ba, thứ tư và thứ năm. Quyền năng của Ngài tuôn tràn và sự chói rạng của ngôi sao trước điểm đạo đồ là dấu hiệu Ngài chấp thuận, nhưng mãi đến lần điểm đạo thứ ba điểm đạo đồ mới diện kiến Ngài.

At all initiations the Lord of the World is present, but at the first two he holds a position similar to that held by the Silent Watcher, when Sanat Kumara administers the oath at the third, fourth and fifth initiations. His power streams forth and the flashing forth of the star before the initiate is the signal of his approval, but the initiate does not see him face to face until the third initiation.

Chức năng của ba vị Kumara, hay ba vị Hoạt Phật, trong cuộc điểm đạo, thật thú vị. Các Ngài là ba trạng thái của trạng thái duy nhất, và là các môn đồ của Đức Sanat Kumara. Dù rằng các Ngài có nhiều chức năng khác nhau, chính yếu liên quan đến các mãnh lực và năng lượng của thiên nhiên, và điều hành [108] các cơ quan kiến tạo, nhưng các Ngài có mối liên kết thiết yếu với ứng viên điểm đạo, vì mỗi Vị là hiện thân của mãnh lực hay năng lượng của một trong ba phân cảnh cao của cõi trí. Vì thế, vào cuộc điểm đạo thứ ba một trong các Vị này truyền một loại năng lượng vào thể nguyên nhân của điểm đạo đồ, làm tiêu hủy vật chất của phân cảnh thứ ba, khiến cho thể này bị hủy hoại một phần; vào cuộc điểm đạo thứ tư, một vị Phật khác truyền mãnh lực phân cảnh thứ nhì, và đến cuộc điểm đạo thứ năm, mãnh lực của phân cảnh thứ nhất cũng được đưa vào các nguyên tử còn lại của thể này, khiến có được sự giải thoát chung cuộc. Công việc do vị Kumara thứ nhì dùng lực của phân cảnh thứ nhì thực hiện, trong thái dương hệ này là quan trọng nhất đối với thể của Chân nhân, khiến nó hoàn toàn tan rã, trong khi việc áp dụng lần cuối làm tan rã chính các nguyên tử (tạo nên thể này).

The function of the three Kumaras, or the three Buddhas of Activity at initiation is interesting. They are three aspects of the one aspect, and the pupils of Sanat Kumara. Though their functions are many and varied, and concern primarily the forces and energies of nature, and the [108] direction of the building agencies, they have a vital connection with the applicant for initiation, inasmuch as they each embody the force or energy of one or other of the three higher subplanes of the mental plane. Therefore at the third initiation one of these Kumaras transmits to the causal body of the initiate that energy which destroys third subplane matter, and thus brings about part of the destruction of the vehicle; at the fourth initiation another Buddha transmits second plane force, and at the fifth, first subplane force is similarly passed into the remaining atoms of the causal vehicle, producing the final liberation. The work done by the second Kumara, with second subplane force, is in this solar system the most important in connection with the egoic body, and produces its complete dissipation, whereas the final application causes the atoms themselves (which formed that body) to disperse.

Trong cuộc lễ điểm đạo, khi điểm đạo đồ đứng trước Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, thì ba Đấng cao cả này hợp thành một tam giác mà điểm đạo đồ ở bên trong các đường thần lực của tam giác đó. Trong hai cuộc điểm đạo đầu tiên, khi Đức Bồ-tát giữ phần hành của Đấng Điểm Đạo, thì Đức Văn Minh Đại Đế, Đức Bàn Cổ và một vị Đế quân tạm thời đại diện cho ngành thứ hai cũng thực hiện nhiệm vụ tương tự. Vào hai cuộc điểm đạo cao nhất, ba vị gọi là “các Kumara nội môn” hợp thành một tam giác mà điểm đạo đồ đứng trong đó, khi đối diện với Đức Hành Tinh Thượng Đế.

During the initiation ceremony, when the initiate stands before the Lord of the World, these three great Beings form a triangle, within whose lines of force the initiate finds himself. At the first two initiations, wherein the Bodhisattva functions as the Hierophant, the Mahachohan, the Manu, and a Chohan who temporarily represents the second department perform a similar office. At the highest two initiations, those three Kumaras who are called “the esoteric Kumaras” form a triangle wherein the initiate stands, when he faces the Planetary Logos.

Các sự kiện này được truyền đạt nhằm giáo huấn hai điều, một là sự đồng nhất trong phương pháp, hai là, công lý hiển nhiên rằng “trên sao dưới vậy” là một điều thực tế trong thiên nhiên.

Nhiều thành viên trong ĐĐCG—có thể nói là ngoại hành tinh, và hoạt động bên ngoài bầu vật chất trọng trược và dĩ thái của hành tinh chúng ta—có tham dự vào hai cuộc điểm đạo cuối cùng, nhưng không cần nêu rõ thêm. Đức Sunat Kumara vẫn là [109] Đấng Điểm Đạo, dù trong một ý nghĩa rất nội môn thì chính Đức Hành Tinh Thượng Đế mới là Chủ lễ. Vào lúc đó, các Ngài hoà hợp thành một Đấng Duy Nhất, biểu hiện các trạng thái khác nhau.

Để kết thúc phần trình bày ngắn gọn này, có thể nói rằng việc đào tạo một điểm đạo đồ là một sự vụ có hiệu quả hai mặt, vì bao giờ điều này cũng bao gồm việc một vị Chân sư hay điểm đạo đồ chuyển lên một cấp cao hơn hay một công tác khác, và việc gia nhập theo luật định của một con người đang trong tiến trình thành đạt. Thế nên, đây là một điều rất quan trọng, bao gồm hoạt động tập thể, lòng trung thành với tập thể, nỗ lực kết hợp, và nhiều điều có thể tùy thuộc vào sự minh triết khi nhận một người vào chức vụ cao cấp, và một địa vị trong các hội đồng của ĐĐCG.

These facts are imparted to teach two things, first, the unity of the method, second, that the truism “as above so below” is an occult fact in nature.

At the final two initiations many members of the Hierarchy who are, if one might so express it, extra-planetary, and who function outside the dense physical and the etheric globe of our planet, take part, but a stricter enumeration is needless. Sanat Kumara is still the Hierophant, yet in a [109] very esoteric manner it is the Planetary Logos himself who officiates. They are merged at that time into one Identity, manifesting different aspects.

Suffice it to say, in concluding this brief statement, that the making of an initiate is an affair with a dual effect, for it involves ever a passing on of some adept or initiate to a higher grade or to other work, and the coming in under the Law of some human being who is in process of attainment. Therefore it is a thing of great moment, involving group activity, group loyalty, and united endeavor, and much may depend upon the wisdom of admitting a man to high office and to a place in the council chambers of the Hierarchy.

Các vị Trưởng Ngành – The Departmental Heads

Đức Bàn Cổ

Đức Bồ-tát.

Đức Văn Minh Đại Đế.

Như đã trình bày, ba Đấng Cao Cả này tượng trưng cho tam nguyên của toàn cuộc biểu hiện, và có thể được phát biểu dưới hình thức sau đây, xin lưu ý rằng toàn bộ vấn đề này liên quan đến phương diện chủ quan, và do đó đến sự tiến hoá của tâm thức, chính yếu là ngã thức nơi con người.

The Manu.

The Bodhisattva.

The Mahachohan.

As has been said, these three great Beings, represent the triplicity of all manifestation, and might be expressed under the following form, remembering that all this deals with subjectivity, and therefore with the evolution of consciousness and primarily with self-consciousness in man.

 

Tâm thức

Đức Bàn Cổ Đức Bồ-tát Đức Văn Minh Đại Đế

 

Trạng thái vật chất…Trạng thái tinh thần…. Trạng thái thông tuệ.

Hình thể………………..Sự sống…………………..Trí tuệ.

Phi-ngã………………….Ngã………………………..Sự liên lạc giữa.

Cơ thể…………………..Tinh thần…………………Linh hồn. [110]

Consciousness    
The Manu      The Bodhisattva The Mahachohan
Matter aspect Spirit aspect Intelligence aspect.
Form Life Mind.
The Not-Self The Self The relation between.
Body Spirit Soul.

 

Hoặc theo ngôn từ hoàn toàn đề cập đến nhận thức hữu ngã:-

Chính trị……………….Tôn giáo…………………Khoa học.

Chính quyền………….Tín ngưỡng……………..Văn minh.

Chủng tộc ……………..Niềm tin…………………Giáo dục.

[110] Or, in words strictly dealing with self-conscious realisation:

Politics Religion Science.
Government Beliefs Civilisation.
Races Faiths Education.

Tất cả mọi người đều thuộc về một trong ba ngành này, và tất cả đều có tầm quan trọng ngang nhau, vì Tinh thần và vật chất là một. Tất cả đều tùy thuộc lẫn nhau, chỉ là các phát biểu của sự sống duy nhất, nên khi cố gắng trình bày những chức năng của ba ngành trong hình thức bảng biểu, thì có thể đưa đến sai lầm.

Ba Đấng Cao Cả này cộng tác chặt chẽ trong công việc, vì đó là công việc duy nhất, cũng như con người, dù là tam nguyên, nhưng vẫn là một đơn vị cá nhân. Con người là một hình thể qua đó sự sống hay thực thể tinh thần đang biểu hiện, sử dụng trí thông tuệ theo luật tiến hoá.

All human beings belong to one or other of these three departments, and all are of equal importance, for Spirit and matter are one. All are so interdependent, being but expressions of one life, that the endeavor to express the functions of the three departments in tabular form is liable to lead to error.

The three Great Lords closely co-operate in the work, for that work is one, just as man, though a triplicity, is yet an individual unit. The human being is a form through which a spiritual life or entity is manifesting, and employing the intelligence under evolutionary law.

Vì thế, các Đấng này liên quan mật thiết với các cuộc điểm đạo của con người. Các Ngài quá bận rộn với những sự vụ lớn lao hơn và các hoạt động tập thể nên không thể liên lạc với một cá nhân cho đến khi người đó bước vào con đường dự bị (thử thách). Một khi y đã tiến đến Con đường Đệ Tử, qua nỗ lực của chính mình, thì vị Chân sư đặc biệt giám sát y sẽ báo cáo lên vị trưởng của một trong ba ngành (điều này tùy theo cung của hành giả) rằng y đang đến gần Cửa Điểm Đạo, và có thể sẽ đủ điều kiện đạt bước tiến quan trọng này trong một kiếp sống nhất định. Cứ mỗi kiếp sống, và về sau thì cứ mỗi năm, lại có bản báo cáo cho đến năm cuối cùng trên Đường Dự Bị, khi ngày càng có các báo cáo tỉ mỉ hơn và thường xuyên hơn. Cũng trong năm cuối này, tên tuổi của ứng viên được đệ trình cho Huyền giai, và sau khi Chân sư của chính y đã phúc trình về y, và hồ sơ của y đã được tóm tắt, thì tên y được bỏ phiếu, và các vị bảo trợ được sắp xếp . [111]

Therefore the Great Lords are closely connected with the initiations of a human unit. They are too occupied with greater affairs and with group activities to have any relationship with a man until he stands upon the probationary path. When he has, through his own effort, brought himself on to the Path of Discipleship, the particular Master who has him under supervision reports to the Head of one of the three departments (this being dependent upon a man’s ray) that he is nearing the Portal of Initiation and should be ready for the great step during such and such a life. Each life, and later each year, report is made, until the final year upon the Path of Probation, when closer and more frequent reports are handed in. During this final year also, the applicant’s name is submitted to the Lodge, and after his own Master has reported upon him, and his record has been briefly summarized, his name is balloted, and sponsors are arranged. [111]

Các nhân tố quan trọng trong cuộc lễ điểm đạo là:-

  1. Đấng Điểm Đạo.
  2. Tam giác lực tạo bởi ba vị Chân sư hay ba Vị Kumara.
  3. Các vị bảo trợ.

Vào hai cuộc điểm đạo đầu tiên, hai vị Chân sư đứng mỗi vị một bên ứng viên, trong tam giác; vào các cuộc điểm đạo thứ ba, thứ tư và thứ năm, Đức Văn Minh Đại Đế và Đức Bồ-tát là các vị bảo trợ; vào cuộc điểm đạo thứ sáu và thứ bảy, thì hai Đấng cao cả, còn ẩn danh, đứng trong tam giác nội môn này. Phần việc của các vị bảo trợ là để cho mãnh lực hay điện năng phát ra từ Điểm đạo Thần trượng đi qua thánh thể các Ngài. Qua bức xạ, mãnh lực này luân chuyển quanh tam giác và được bổ sung bằng mãnh lực của ba vị bảo hộ; kế đó nó đi qua những luân xa của các vị bảo trợ, và được truyền sang điểm đạo đồ bằng một tác động của ý chí.

During the initiation ceremony the important factors are:

  1. The Initiator.
  2. The triangle of force formed by three adepts or three Kumaras.
  3. The sponsors.

In the case of the first two initiations, two Masters stand, one on each side of the applicant, within the triangle; at the third, fourth and fifth initiations, the Mahachohan and the Bodhisattva perform the function of sponsor; at the sixth and seventh initiations two great Beings, who must remain nameless, stand within the esoteric triangle. The work of the sponsors is to pass through their bodies the force or electrical energy emanating from the Rod of Initiation. This force, through radiation, circles around the triangle and is supplemented by the force of the three guardians; it next passes through the centers of the sponsors, being transmitted by an act of will to the initiate.

Ở những phần khác trong sách này, đã có trình bày khá đủ về Huyền giai các Chân sư và liên hệ của các Ngài với ứng viên điểm đạo, trong khi công việc của chính điểm đạo đồ cũng đã được đề cập. Công việc này không phải là mọi người ở khắp nơi không biết đến, nhưng vẫn chỉ là một lý tưởng và một khả năng còn xa vời. Tuy nhiên, khi một người nỗ lực đạt đến lý tưởng đó, khiến nó thành một sự kiện thực tế sáng tỏ nơi chính mình, thì y sẽ thấy rằng lý tưởng đó trở nên không chỉ là một khả năng. mà là một điều có thể đạt được, miễn là y phấn đấu đúng mức. Cuộc điểm đạo thứ nhất ở trong tầm tay của nhiều người, nhưng sự nhất tâm cần phải có, niềm tin vững chắc vào thực tại sắp đến, cùng với quyết tâm thà hy sinh tất cả chứ không hề thối lui, là những điều làm nhiều người nản lòng. Nếu sách này không phục vụ mục đích nào khác hơn là thúc đẩy được một độc giả có thêm nỗ lực đổi mới trong tư tưởng, thì nó đã được viết ra không phải là uổng vậy. [112]

Enough has been said elsewhere in this book anent the Lodge of Masters and their relation to the applicant for initiation, whilst the work of the initiate himself has been likewise touched upon. That work is not unknown to the children of men everywhere, but remains as yet an ideal and a far-off possibility. Yet when a man strives to reach that ideal, to make it a demonstrating fact within himself, he will find that it becomes not only a possibility, but something attainable, provided he strives sufficiently. The first initiation is within the reach of many, but the necessary one-pointedness and the firm belief in the reality ahead, coupled to a willingness to sacrifice all rather than turn back, are deterrents to the many. If this book serves no other purpose than to spur some one to renewed believing effort, it will not have been written in vain. [112]

 

2 Comments

  1. jupiter nguyen

    Trong chương 11 này , tôi nhận thấy rằng những điều huyền nhiệm nhất của hành tinh chúng ta đã được chân sư D.K tiết lộ ( mà trước đó con người chưa hề được biết một cách công khai ) .

  2. jupiter nguyen

    Trong chương 11 này có một lời phát biểu rất huyền bí và thật sự rất kỳ diệu , câu nói đó là:
    – ” Về mặt huyền bí, thực sự đúng là” không một con chim sẻ nào rơi xuống” mà sự chết của nó không được lưu ý đến.
    . It is literally true, in an occult sense, that “not a sparrow falleth” without its fall being noticed ”
    Tôi nghĩ rằng đó là lời phát biểu của Chân Lý .

Leave a Reply to jupiter nguyen Cancel reply