Điểm đạo – Chương 8: Con Đường Đệ Tử

CON ĐƯỜNG ĐỆ TỬ

 

Bài này tiếp theo chương trước nói về Con Đường Đệ Tử. Chúng ta lưu ý các điểm sau đây:

  1. Ngài đưa ra một loạt định nghĩa thế nào là người đệ tử.Trong đó ba điểm chính yếu mà người đệ tử phải thực hiện là Phụng sự, giúp thực hiện Thiên Cơ, và khai mở quyền năng của Chân Nhân, và ba điều này người đệ tử thệ nguyện làm (pledge). Ta lưu ý Ngài dùng từ thệ nguyện, đó là một hành vi của ý chí (act of will). Phụng sự hàm ý Phụng Sự Thiên Cơ bởi vì Thiên Cơ hướng đến phát triển nhân loại và các giới trong Tự nhiên. Các Chân Sư là những người hiểu và biết Thiên Cơ hơn tất cả chúng ta, và các Ngài triển khai việc thực hiện Thiên Cơ trên thế gian thông qua các đệ tử và những người thiện chí trên thế gian.
  2. Một điểm khác mà Ngài đề cập sau ba điểm trên là ý thức tập thể:

Một đệ tử là người đang bắt đầu hiểu được công tác tập thể, và bắt đầu đổi trung tâm hoạt động từ chính mình (như một trụ cốt để mọi sự xoay quanh theo đó) đến trung tâm của nhóm.

Do đó, muốn trở thành đệ tử Chân Sư, một người phải từ từ thôi tập trung vào cái ngã của mình, bắt đầu mở rộng vòng hoạt động hay vòng giới hạn (ring-pass-not) của mình ra. Y không còn quan tâm đến cái tôi của mình nhiều nữa, mà bắt đầu quan tâm đến tập thể mà trong đó y là một thành phần. Tập thể này lúc đầu có thể nhỏ và gồm những gì thân thiêt với y như gia đình, thân thuộc … sau cùng vươn ra mức rộng lớn hơn là xã hội, quốc gia và nhân loại.

  1. Người đệ tử cũng không còn bị phương diện hình hài hay sắc tướng thu hút nữa. Y là việc với mãnh lực và thông qua mãnh lực.
  2. Khi đã là đệ tử của Chân Sư thì người đệ tử trở thành tiền đồn tâm thức của Chân Sư. Tuy nhiên, đức DK dùng chữ Chân Sư ở đây theo hai ý nghĩa: đấng Thái Dương Thiên Thần của người đệ tử (The Solar Angel), và Chân Sư Minh Triết. Vị Chân Sư là trung tâm của Ashram của Ngài, bao gồm Ngài, các Chân sư khác, và các đệ tử trong Ashram.

Người đệ tử tự biết mình—dù ở mức độ nhiều hay ít—là một tiền đồn của tâm thức của Chân sư, và quan niệm Chân sư trong một ý nghĩa lưỡng phân:

  • Là tâm thức của Chân nhân chính y.
  • Là trung tâm của nhóm y; là mãnh lực làm sinh động các đơn vị trong nhóm và gắn bó họ thành một toàn thể đồng nhất.

Ngài nói tầm quan trọng của lời nói trong đời sống của người đệ tử:

Một trong những khí cụ quan trọng nhất cho việc phát triển thực sự, nằm trong tay của mọi người từ thấp đến cao, là LỜI NÓI. Người nào biết giữ gìn lời nói của mình, và chỉ nói với mục đích vị tha, để dùng ngôn ngữ làm trung gian truyền năng lượng Bác ái, là người đang nhanh chóng đạt được các bước đầu cần thực hiện để chuẩn bị cho điểm đạo. Lời nói là biểu lộ huyền bí nhất đang hiện hữu; nó là phương tiện của sự sáng tạo và vận cụ của các mãnh lực. Hiểu theo nghĩa nội môn, giữ gìn được lời nói tức là giữ gìn được sức mạnh; sử dụng lời nói, đã chọn kỹ và thốt ra đúng đắn, tức là phân phối mãnh lực bác ái của thái dương hệ,—là mãnh lực bảo toàn, tăng cường và kích thích. Chỉ có người phần nào hiểu được hai khía cạnh này của lời nói, mới có thể được tín nhiệm để đứng trước Đấng Điểm Đạo, và từ sự Hội kiến với Ngài có thể áp dụng một số âm thanh và bí nhiệm được truyền đạt cho y với lời thệ nguyện giữ im lặng

  1. Câu nói của Ngài “Người đệ tử phải học cách giữ im lặng trước những gì độc ác xấu xa” cần suy gẫm kỹ để tránh hiểu nhầm. Người đệ tử im lặng trước cái xấu không phải vì hèn nhát hay thờ ơ, mà vì y không phí năng lượng vào những lời nói than vãn, kêu ca, và thay vào đó là hành động cụ thể.
  2. Trong bài có những lời khuyên hay và tuyệt đẹp:

 

Hãy sẵn sàng và quán xét tâm hồn mình. Việc chuyển lửa từ nhật tùng đến luân xa tim gây ra nhiều đau khổ. Không dễ gì mà thương yêu như các Đấng Cao Cả thương yêu, với tình thương thuần khiết, không đòi hỏi điều gì đáp lại

Hãy sẵn sàng để đón nhận sự cô đơn. Đó là định luật. Khi hành giả tự tách rời khỏi tất cả những gì liên quan đến các thể hồng trần, cảm dục và trí tuệ của y, và tự tập trung trong Chân nhân, thì điều đó gây nên một sự chia cách tạm thời.

Hãy vun trồng hạnh phúc, và hiểu rằng sự buồn nản, sự khảo xét quá bệnh hoạn về động cơ nội tâm, và nhạy cảm quá đáng đối với những lời chỉ trích của người khác, sẽ đưa đến một tình trạng khiến người đệ tử gần như vô dụng. [Chúng ta có thể liên tưởng đến hạnh an phận trong Dưới Chân Thầy]

Hãy kiên nhẫn. Nhẫn nại là một đặc tính của Chân nhân. Chân nhân kiên trì vì biết mình bất tử. Phàm nhân trở nên buồn nản vì biết rằng thời gian ngắn ngủi.

  1. Khi đã là đệ tử thì ta không cần tuyên bố mình là đệ tự, là điểm đạo đồ, mà bản thân ảnh hưởng của người đệ tử nói lên điều đó.

Y trở thành một sức mạnh được thừa nhận trên thế giới và được công nhận là một người đáng tin cậy trong phụng sự. Mọi người hướng về y để được phù trợ và giúp đỡ theo đường lối được công nhận của y, và y bắt đầu phát ra âm điệu của mình để được nghe thấy trong hàng ngũ các thiên thần và nhân loại. Vào giai đoạn này, y thực hiện điều trên bằng ngòi bút trong văn chương, bằng lời nói trong diễn thuyết và giảng dạy, qua âm nhạc, hội họa và nghệ thu.

Người tìm đạo ý thức được giá trị huyền bí của tiền bạc trong phụng sự. Y không tìm kiếm điều gì cho riêng mình, trừ những [79] gì có thể giúp y thực hiện được công việc cần phải làm, và y xem tiền bạc cũng như những gì tiền bạc có thể mua được là những điều cần được sử dụng cho người khác, và là một phương tiện để hoàn thành những kế hoạch của Chân sư, theo mức y cảm nhận được các kế hoạch đó … Trong các trường hợp khác, khi tài sản gia tăng, chúng không mang lại điều gì ngoài nỗi buồn rầu, đau khổ, bất mãn và lạm dụng.

Cũng vào giai đoạn này cuộc sống của người tìm đạo trở thành một khí cụ hủy diệt, hiểu theo nghĩa huyền bí của từ đó. Bất cứ nơi nào y đi đến, mãnh lực lưu chuyển qua y từ các cảnh giới cao và từ Thượng Đế nội tâm của chính y, đôi lúc tạo ra những kết quả đặc biệt lên môi trường chung quanh. Nó tác động như một lực kích thích cho cả điều thiện lẫn điều ác… Bạn có thể liên tưởng đến trường hợp của Krishnamurti trong ý nghĩa này.

  1. Còn nhiều điều tinh tế trong bài viết, mong các bạn đọc và cảm được ý nghĩa thâm sâu của nó.

********************

tả người đệ tử. A Disciple described

Trước hết, một người đệ tử thệ nguyện làm ba điều:-

  1. Phụng sự nhân loại.
  2. Cộng tác với kế hoạch của các Đấng Cao Cả theo mức y thấy được, và làm hết khả năng mình.
  3. Phát triển các quyền năng của Chân nhân, mở rộng tâm thức cho đến khi có thể hoạt động trên ba cảnh giới trong tam giới cũng như trong thể nguyên nhân, và tuân theo sự hướng dẫn của chân ngã chứ không theo mệnh lệnh của cuộc biểu hiện tam thể hạ.

A disciple is one who above all else, is pledged to do three things:

  1. To serve humanity.
  2. To co-operate with the plan of the Great Ones as he sees it and as best he may.
  3. To develop the powers of the Ego, to expand his consciousness until he can function on the three planes in the three worlds, and in the causal body, and to follow the guidance of the higher self and not the dictates of his three-fold lower manifestation.

Một đệ tử là người đang bắt đầu hiểu được công tác tập thể, và bắt đầu đổi trung tâm hoạt động từ chính mình (như một trụ cốt để mọi sự xoay quanh theo đó) đến trung tâm của nhóm.

Một đệ tử là người đồng thời nhận thức được sự tương đối vô nghĩa của mỗi đơn vị tâm thức cũng như tầm quan trọng lớn lao của nó. Ý thức tỉ lệ của y được điều chỉnh, và y thấy được thực tính của sự vật; y thấy được thực tính của mọi người; y thấy được chân tính bẩm sinh của chính mình và tìm cách thực hiện chân tính đó.

A disciple is one who is beginning to comprehend group work, and to change his center of activity from himself (as the pivot around which everything revolves) to the group center.

A disciple is one who realizes simultaneously the relative insignificance of each unit of consciousness, and also its vast importance. His sense of proportion is adjusted, and he sees things as they are; he sees people as they are; he sees himself as he inherently is and seeks then to become that which he is.

Người đệ tử nhận thức được sự sống hay phương diện mãnh lực của thiên nhiên, và hình thể không còn hấp dẫn được y. Y làm việc với mãnh lực và bằng mãnh lực; y nhận thấy chính mình là [72] một trung tâm lực bên trong một trung tâm mãnh lực vĩ đại hơn, và y có trách nhiệm lèo lái những năng lượng nào có thể tuôn đổ qua mình, vào các vận hà để mang phúc lợi cho tập thể.

A disciple realizes the life or force side of nature, and to him the form makes no appeal. He works with force and through force; he recognizes himself as a force center within a greater force centre, and his is the responsibility [72] of directing the energy which may pour through him into channels through which the group can be benefited.

Người đệ tử tự biết mình—dù ở mức độ nhiều hay ít—là một tiền đồn của tâm thức của Chân sư, và quan niệm Chân sư trong một ý nghĩa lưỡng phân:

  1. Là tâm thức của Chân nhân chính y.
  2. Là trung tâm của nhóm y; là mãnh lực làm sinh động các đơn vị trong nhóm và gắn bó họ thành một toàn thể đồng nhất.

The disciple knows himself to be — to a greater or less degree — an outpost of the Master’s consciousness, viewing the Master in a two-fold sense:

  1. As his own egoic consciousness.
  2. As the center of his group; the force animating the units of the group and binding them into a homogeneous whole.

Một đệ tử là người đang chuyển tâm thức ra khỏi cuộc sống riêng tư để nhập vào cuộc sống vô kỷ, và trong giai đoạn chuyển tiếp tất nhiên là phải chịu nhiều khó khăn đau khổ. Các khó khăn này nảy sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau.

  1. Phàm ngã của người đệ tử chống đối việc bị chuyển hoá.
  2. Tập thể thân cận người này, bạn bè, hay gia đình, chống đối việc y ngày càng trở nên vô kỷ. Họ không thích được thừa nhận là một với y về phương diện sự sống mà lại tách biệt với y về các quan tâm và những điều ham muốn. Tuy nhiên, định luật bao giờ cũng đúng, và tính duy nhất đích thực có thể được nhận thức trong cuộc sống chính yếu của linh hồn. Trong khi khám phá ra thực chất của hình hài sắc tướng, người đệ tử phải chịu nhiều đau khổ, nhưng rốt cuộc con đường đạo sẽ đưa đến sự hợp nhất hoàn toàn.

A disciple is one who is transferring his consciousness out of the personal into the impersonal, and during the transition stage much of difficulty and of suffering is necessarily endured. These difficulties arise from various causes:

  1. The disciple’s lower self, which rebels at being transmuted.
  2. A man’s immediate group, friends, or family, who rebel at his growing impersonality. They do not like to be acknowledged as one with him on the life side, and yet separate from him where desires and interests lie. Yet the law holds good, and only in the essential life of the soul can true unity be cognized. In the discovery as to what is form lies much of sorrow for the disciple, but the road leads to perfect union eventually.

Một đệ tử là người nhận thức được trách nhiệm của mình đối với tất cả những người đến với ảnh hưởng của y—một trách nhiệm cộng tác với kế hoạch tiến hành cho họ, để mở mang tâm thức họ và dạy họ sự khác biệt giữa điều thật và điều giả, giữa sự sống và hình thể. Y làm điều này rất dễ dàng bằng cách biểu dương trong cuộc sống, cái mục tiêu, chủ đích và tâm điểm tâm thức của chính y. [73]

The disciple is one who realizes his responsibility to all units who come under his influence, — a responsibility of co-operating with the plan of evolution as it exists for them, and thus to expand their consciousness and teach them the difference between the real and the unreal, between life and form. This he does most easily by a demonstration in his own life as to his goal, his object, and his center of consciousness. [73]

Công việc phải thực hiện. The Work to be done

Do đó, người đệ tử nhằm thực hiện nhiều việc:-

  • Đáp ứng nhạy bén với rung động của Chân sư.
  • Thực sự thanh khiết trong cuộc sống, chứ không chỉ thanh khiết trên lý thuyết.
  • Không còn âu lo. Ở đây nên nhớ rằng sự âu lo vốn căn cứ trên phàm nhân, và là kết quả của việc thiếu hạnh vô dục và quá sẵn sàng ứng đáp với các rung động của những cảnh giới thấp.

The disciple, therefore, has several things at which to aim:

  • A sensitive response to the Master’s vibration.
  • A practical purity of life; a purity not merely theoretical.
  • A freedom from care. Here bear in mind that care is based on the personal, and is the result of lack of dispassion and a too ready response to the vibrations of the lower worlds.

Hoàn thành bổn phận. Điều này gồm việc vô tư thực hiện tất cả các nghĩa vụ, và quan tâm thích đáng đến các món nợ nghiệp quả. Tất cả những người đệ tử đều nên đặc biệt chú trọng đến giá trị của hạnh vô dục. Hiện nay, do sự phát triển trí tuệ, nên việc thiếu phân biện không quá thường gây trở ngại cho các đệ tử như thiếu hạnh vô dục. Đây có nghĩa là đạt đến một trạng thái tâm thức cân bằng, trong đó lạc thú và đau khổ đều không chế ngự, vì chúng được thay thế bằng sự hoan hỉ và chân phúc. Chúng ta rất đáng nên suy gẫm điều này, vì phải cần nhiều cố gắng mới đạt được hạnh vô dục.

Accomplishment of duty. This point involves the dispassionate discharge of all obligations and due attention to karmic debts. Special emphasis should be laid, for all disciples, on the value of dispassion. Lack of discrimination is not so often a hindrance to disciples these days, owing to the development of the mind, but lack of dispassion frequently is. This means the attainment of that state of consciousness where balance is seen, and neither pleasure nor pain dominates, for they are superseded by joy and bliss. We may well ponder on this, for much striving after dispassion is necessary.

Người đệ tử phải nghiên cứu thể trí cảm (Kama-manasic body). Điều này rất đáng được quan tâm, vì, trong nhiều phương diện, đây là thể quan trọng nhất trong thái dương hệ, khi liên quan đến con người trong tam giới. Trong thái dương hệ sắp tới, thể trí của các sinh linh hữu ngã thức sẽ có vị thế tương tự, cũng như vị thế của xác thân trong thái dương hệ trước đây.

He has also to study the Kama-manasic body (desire-mind body). This is of very real interest, for it is, in many ways, the most important body in the solar system, where the human being in the three worlds is concerned. In the next system the mental vehicle of the self-conscious units will hold an analogous place, as the physical did in the previous solar system.

Y cũng phải làm việc, có thể gọi là một cách khoa học, để kiến tạo thể xác. Y phải cố gắng thế nào để cho trong mỗi kiếp sống y có thể tạo được một thể xác là một vận cụ phục vụ tốt hơn cho các mãnh lực. Bởi vậy, không có điều gì thiếu thực tế trong việc truyền đạt kiến thức về điểm đạo, như một số người có [74] thể nghĩ. Không có giây phút nào trong ngày mà người đệ tử không thể tưởng nghĩ đến mục tiêu đó và không thể tiến hành việc chuẩn bị. Một trong những khí cụ quan trọng nhất cho việc phát triển thực sự, nằm trong tay của mọi người từ thấp đến cao, là LỜI NÓI. Người nào biết giữ gìn lời nói của mình, và chỉ nói với mục đích vị tha, để dùng ngôn ngữ làm trung gian truyền năng lượng Bác ái, là người đang nhanh chóng đạt được các bước đầu cần thực hiện để chuẩn bị cho điểm đạo. Lời nói là biểu lộ huyền bí nhất đang hiện hữu; nó là phương tiện của sự sáng tạo và vận cụ của các mãnh lực. Hiểu theo nghĩa nội môn, giữ gìn được lời nói tức là giữ gìn được sức mạnh; sử dụng lời nói, đã chọn kỹ và thốt ra đúng đắn, tức là phân phối mãnh lực bác ái của thái dương hệ,—là mãnh lực bảo toàn, tăng cường và kích thích. Chỉ có người phần nào hiểu được hai khía cạnh này của lời nói, mới có thể được tín nhiệm để đứng trước Đấng Điểm Đạo, và từ sự Hội kiến với Ngài có thể áp dụng một số âm thanh và bí nhiệm được truyền đạt cho y với lời thệ nguyện giữ im lặng.

He has also to work scientifically, if it may be so expressed, at the building of the physical body. He must so strive that he will produce in each incarnation a body which will serve better as a vehicle for force. Hence there is nothing impractical in giving information anent initiation, as some may think. There is no moment of the [74] day that that goal may not be visioned, and the work of preparation carried on. One of the greatest instruments for practical development lying in the hands of small and great, is the instrument of SPEECH. He who guards his words, and who only speaks with altruistic purpose, in order to carry the energy of Love through the medium of the tongue, is one who is mastering rapidly the initial steps to be taken in preparation for initiation. Speech is the most occult manifestation in existence; it is the means of creation and the vehicle for force. In the reservation of words, esoterically understood, lies the conservation of force; in the utilization of words, justly chosen and spoken, lies the distribution of the love force of the solar system, — that force which preserves, strengthens, and stimulates. Only he who knows somewhat of these two aspects of speech can be trusted to stand before the Initiator and to carry out from that Presence certain sounds and secrets imparted to him under the pledge of silence.

Người đệ tử phải học cách giữ im lặng trước những gì độc ác xấu xa. Y phải học cách giữ im lặng trước những sự đau khổ của thế giới, không phí thì giờ để phàn nàn vô ích và tỏ ra buồn rầu, mà chăm lo nâng đỡ gánh nặng của thế gian; làm việc, và không phí năng lượng trong lời nói. Tuy nhiên, y lại nên nói khi cần để khích lệ, dùng lời nói cho mục tiêu xây dựng; phát biểu mãnh lực yêu thương của thế giới, theo mức có thể lưu chuyển qua y, khi nào nó phụng sự tốt nhất để làm nhẹ đi một trọng trách hay nâng đỡ một gánh nặng, và nhớ rằng khi nhân loại tiến bộ thì tình yêu giữa hai phái và biểu lộ của nó sẽ được chuyển hoá lên một cảnh giới cao hơn, Bấy giờ, qua lời nói, chứ không qua biểu lộ trên cảnh giới hồng trần như hiện nay, người ta sẽ nhận thức được tình thương chân chính, kết hợp những người đồng nhất trong phụng sự và nguyện vọng tìm đạo. Bấy giờ, tình thương giữa các thành viên của gia đình nhân loại sẽ biểu lộ dưới hình [75] thức sử dụng lời nói để sáng tạo trên mọi cảnh giới, và năng luợng hiện trong đa số đang phát biểu qua các luân xa thấp để sinh sản, sẽ được chuyển lên luân xa cổ họng. Đây là một lý tưởng hãy còn xa vời, nhưng ngay cả hiện nay một số người có thể hình dung lý tưởng đó, và tìm cách định hình tạo dạng cho nó —thông qua phụng sự kết hợp, cộng tác yêu thương, và thống nhất nguyện vọng, tư tưởng và nỗ lực—dù rằng vẫn còn chưa đầy đủ.

The disciple must learn to be silent in the face of that which is evil. He must learn to be silent before the sufferings of the world, wasting no time in idle plaints and sorrowful demonstration, but lifting up the burden of the world; working, and wasting no energy in talk. Yet withal he should speak where encouragement is needed, using the tongue for constructive ends; expressing the love force of the world, as it may flow through him, where it will serve best to ease a load or lift a burden, remembering that as the race progresses, the love element between the sexes and its expression will be translated to a higher plane. Then, through the spoken word, and not through the physical plane expression as now, will come the realization of that true love which unites those who are one in service and in aspiration. Then love between the units of the human family will take the form of the utilization of [75] speech for the purpose of creating on all planes, and the energy which now, in the majority, finds expression through the lower or generating centers will be translated to the throat center. This is as yet but a distant ideal, but even now some can vision that ideal, and seek — through united service, loving co-operation, and oneness in aspiration, thought, and endeavor, — to give shape and form to it, even though inadequately.

Các quan hệ tập thể. Group Relationships

Con đường của người đệ tử là một con đường chông gai; gai gốc cản trở mỗi bước đi, và ở mỗi khúc quanh y phải gặp các khó khăn. Tuy nhiên, khi dấn bước trên đường đạo, vượt qua các trở ngại, một lòng gắn bó với phúc lợi tập thể, quan tâm đúng mức đến các cá nhân và sự phát triển tiến hoá của họ, rốt cuộc sẽ mang lại thành quả và giúp đạt được mục tiêu. MỘT NGƯỜI PHỤNG SỰ NHÂN LOẠI đang trỗi bước. Y là người phụng sự vì y không có các mục đích riêng tư khi phụng sự, và các hạ thể của y không phát ra rung động nào có thể khiến y đi lệch con đường đã chọn. Y phụng sự, bởi vì y biết được tính chất của con người, và vì trong nhiều kiếp sống y đã làm việc với các cá nhân và các tập thể, từ từ mở rộng phạm vi cố gắng của mình cho đến khi y đã qui tụ được quanh mình các đơn vị tâm thức mà y có thể trợ lực, sử dụng, và thông qua họ y có thể thực thi các kế hoạch của thượng cấp. Đó là mục đích, nhưng các giai đoạn trung gian lại đầy những nỗi khó khăn cho những người sắp sửa tự biết mình, và sắp trở thành chính Con Đường Đạo.

The path of the disciple is a thorny one; briars beset his every step, and difficulties meet him at every turn. Yet in the treading of the path, in the overcoming of the difficulties, and in a single-hearted adherence to the good of the group, with a proportionate attention to the individuals and their evolutionary development, comes at length fruition, and the attainment of the goal. A SERVER of the race stands forth. He is a server because he has no ends of his own to serve, and from his lower sheaths goes out no vibration which can beguile him from his chosen path. He serves, because he knows what is in man, and because for many lives he has worked with individuals and with groups, gradually expanding the range of his endeavor until he has gathered around him those units of consciousness whom he can energize, and use, and through whom he can work out the plans of his superiors. Such is the goal, but the intermediate stages are fraught with difficulty for all who stand on the verge of self-discovery, and of becoming the Path itself.

Ở đây, tưởng cũng hữu ích mà đưa ra một vài lời khuyên thiết thực:-

Hãy nghiên cứu kỹ ba cuốn đầu của Chí Tôn Ca (Bhagavad Gita). Vấn đề khó khăn của Arjuna là vấn đề của tất cả các đệ tử và giải pháp thì bao giờ cũng vậy.

Hãy sẵn sàng và quán xét tâm hồn mình. Việc chuyển lửa từ nhật tùng đến luân xa tim gây ra nhiều đau khổ. Không dễ gì mà thương yêu như các Đấng Cao Cả thương yêu, với tình thương thuần khiết, không đòi hỏi điều gì đáp lại; một tình thương vô tư, hân hoan khi được đáp ứng, nhưng không tìm kiếm sự đáp ứng, và liên tục yêu thương, thâm trầm, sâu sắc qua tất cả các dị biệt ở bề ngoài, biết rằng khi mỗi người đã tìm được con đường về quê cũ, thì họ sẽ thấy đó là nơi hợp nhất. [76]

Some practical advice might be of value here:

Study with care the first three books of the Bhagavad Gita. The problem of Arjuna is the problem of all disciples, and the solution is eternally the same. [76]

Stand ready and watch the heart. In the transferring of the fire from the solar plexus to the heart center comes much pain. It is not easy to love as do the Great Ones, with a pure love which requires nothing back; with an impersonal love that rejoices where there is response, but looks not for it, and loves steadily, quietly, and deeply through all apparent divergences, knowing that when each has found his own way home, he will find that home to be the place of at-one-ment.

Hãy sẵn sàng để đón nhận sự cô đơn. Đó là định luật. Khi hành giả tự tách rời khỏi tất cả những gì liên quan đến các thể hồng trần, cảm dục và trí tuệ của y, và tự tập trung trong Chân nhân, thì điều đó gây nên một sự chia cách tạm thời. Người đệ tử phải chịu đựng và trải qua tình trạng này, nó đưa đến một mối liên kết chặt chẽ hơn về sau với những người cộng sự với y do nghiệp quả của các tiền kiếp, qua công tác tập thể, và qua hoạt động của y (lúc đầu được tiến hành hầu như vô thức) để qui tụ lại những người mà sau này y sẽ làm việc thông qua họ.

Be prepared for loneliness. It is the law. As a man dissociates himself from all that concerns his physical, astral and mental bodies, and centers himself in the Ego, it produces a temporary separation. This must be endured and passed, leading to a closer link at a later period with all associated with the disciple through the karma of past lives, through group work, and through the activity of the disciple (carried on almost unconsciously at first) in gathering together those through whom later he will work.

Hãy vun trồng hạnh phúc, và hiểu rằng sự buồn nản, sự khảo xét quá bệnh hoạn về động cơ nội tâm, và nhạy cảm quá đáng đối với những lời chỉ trích của người khác, sẽ đưa đến một tình trạng khiến người đệ tử gần như vô dụng. Hạnh phúc vốn dựa trên niềm tin vào Thượng Đế nội tâm, do đánh giá đúng đắn được thời gian, và hoàn toàn quên đi tư ngã. Hãy nhận lấy tất cả những điều vui vẻ có thể đến với bạn, xem đó là những điều được uỷ thác cho bạn để ban rải niềm vui; đừng chống đối hạnh phúc và niềm vui, và đừng xem đó là dấu hiệu của những gì không lành mạnh. Đau khổ nảy sinh khi phàm ngã nổi loạn. Hãy chủ trị phàm ngã, loại trừ dục vọng, và tất cả sẽ là hoan hỉ.

Cultivate happiness, knowing that depression, an overmorbid investigation of motive, and undue sensitiveness to the criticism of others leads to a condition wherein a disciple is almost useless. Happiness is based on confidence in the God within, a just appreciation of time, and a forgetfulness of self. Take all the glad things which may come as trusts to be used to spread joy, and rebel not at happiness and pleasure in service, thinking it an indication that all is not well. Suffering comes as the lower self rebels. Control that lower self, eliminate desire, and all is joy.

Hãy kiên nhẫn. Nhẫn nại là một đặc tính của Chân nhân. Chân nhân kiên trì vì biết mình bất tử. Phàm nhân trở nên buồn nản vì biết rằng thời gian ngắn ngủi. [77]

Have patience. Endurance is one of the characteristics of the Ego. The Ego persists, knowing itself immortal. The personality becomes discouraged, knowing that time is short. [77]

Đối với người đệ tử, không có gì xảy ra ở ngoài kế hoạch, và khi động cơ và nguyện vọng duy nhất ở nội tâm là nhằm thực hiện ý muốn của Chân sư và phụng sự nhân loại, thì thành quả sẽ có mang mầm giống của công tác kế tiếp và tạo điều kiện cho bước tiến tiếp theo. Vị thế này giải rõ được nhiều điều, và đây có thể là cơ sở để người đệ tử an trụ vào đó khi tầm nhìn bị che án, khi sự rung động bị hạ thấp hơn mức cần có, và khi trí phán đoán bị phủ mờ bởi ảnh hưởng xấu xa nổi lên từ các tình huống ở cõi trần. Đối với nhiều người, phần lớn những điều nảy sinh trong thể cảm dục đều dựa trên các rung động cũ kỹ và không có cơ sở gì thực tế, và cuộc chiến là nhằm chế ngự được tình huống cảm dục, để từ những băn khoăn lo lắng hiện tại có thể phát triển niềm tin và thái hoà, và từ các bạo hành, tranh chấp có thể tạo được sự thanh bình như đã định.

To the disciple naught occurs but what is in the plan, and where the motive and sole aspiration of the heart are towards the carrying out of the Master’s will and the serving of the race, that which eventuates has in it the seeds of the next enterprise, and embodies the environment of the next step forward. Herein lies much of clarification, and herein may be found that on which the disciple may rest when the vision is clouded, the vibration lower than perhaps it should be, and the judgment fogged by the miasma’s arising from circumstances on the physical plane. With many, much arises in the astral body that is based on old vibration and has no foundation in fact, and the battle ground is so to control the astral situation that out of present anxieties and worries may grow confidence and peace, and out of violent action and interaction there may be elaborated tranquility.

Chúng có thể đạt đến mức mà không điều gì xảy ra có thể làm xáo trộn được sự an tĩnh nội tâm; trong đó ta biết được và thể nghiệm được sự bình an còn ở ngoài tầm hiểu biết, bởi vì tâm thức được tập trung trong Chân nhân, mà Chân nhân chính là bình an, là phạm vi của sự sống bồ-đề; trong đó ta cảm biết được chính sự điềm tĩnh, và sự quân bình ngự trị, bởi vì trung tâm của sự sống ở trong Chân nhân, mà Chân nhân cốt yếu là thăng bằng; trong đó sự an tịnh chế ngự, không hề bị xáo trộn và lay chuyển, và vị Thức giả thiêng liêng cầm quyền ngự trị, không cho phép có sự khuấy rối nào từ phàm ngã; trong đó chúng ta đạt đến chân phúc, vốn không dựa vào các hoàn cảnh trong tam giới mà căn cứ vào nhận thức nội tâm về sự sống hằng hữu độc lập với phi ngã, một sự sinh tồn vẫn duy trì khi thời gian, không gian và tất cả những gì hàm chứa trong đó không còn hiện hữu; đó là điều chúng ta biết được khi đã thể nghiệm, trải qua, chuyển hoá và vượt lên khỏi tất cả các ảo tưởng của những cảnh giới thấp; đó là điều vẫn thường tồn khi thế giới bé nhỏ của nỗ lực con người đã [78] tiêu tan, trước mắt hành giả không còn giá trị; và là điều căn cứ trên hiểu biết rằng TÔI LÀ CÁI ĐÓ.

It is possible to reach a point where naught that occurs can ruffle the inner calm; where the peace that passeth understanding is known and experienced, because the consciousness is centered in the Ego, who is peace itself, being the circle of the buddhic life; where poise itself is known and felt, and equilibrium reigns because the center of the life is in the Ego, who is — in essence — balance; where calm rules unruffled and unshaken, because the divine Knower holds the reins of government, and permits no disturbance from the lower self; where bliss itself is reached that is based, not on circumstances in the three worlds, but on that inner realization of existence apart from the not-self, an existence that persists when time and space and all that is contained therein, are not; that is known when all the illusions of the lower planes are experienced, passed through, transmuted and transcended; that endures when the little world of human endeavor has dissipated and gone, being [78] seen as naught; and that is based on the knowledge that I AM THAT.

Một thái độ và kinh nghiệm như thế dành để cho những ai kiên trì trong nỗ lực cao thượng, xem tất cả mọi sự đều không đáng kể, miễn sao có thể đạt được mục tiêu, tiến tới liên tục qua mọi hoàn cảnh, chăm chú vào viễn ảnh trước mắt, tai lắng nghe tiếng nói của Thượng Đế nội tại, vang lên trong sự tĩnh lặng của tâm hồn, dấn bước vững vàng trên con đường đưa đến Cửa Điểm Đạo, đôi tay sẵn sàng trợ giúp thế gian, và trọn cả cuộc đời phụ thuộc vào tiếng gọi phụng sự. Bấy giờ, tất cả những gì xảy đến đều nhằm mang lại điều tốt đẹp nhất—bệnh tật, cơ hội, thành công, thất bại, những lời chế nhạo và các mưu đồ đen tối của kẻ thù, thiếu sự thông cảm về phía những người chúng ta thương yêu—tất cả đều được sử dụng, tất cả đều hiện hữu chỉ để được chuyển hoá. Sự liên tục của tầm nhìn tinh thần, của chí nguyện và sự tiếp xúc nội tâm được xem là quan trọng hơn tất cả các điều trên. Đó là sự liên tục cần nhắm tới, mặc dù và bất chấp các hoàn cảnh có thế nào.

Such an attitude and experience is for all those who persist in their high endeavor, who count all things but naught if they may but achieve the goal, and who steer a steady course through circumstances, keeping the eyes fixed upon the vision ahead, the ears attentive to the Voice of the God within, that sounds in the silence of the heart; the feet firmly placed on the path that leads to the Portal of Initiation; the hands held out in assistance to the world, and the whole life subordinated to the call of service. Then all that comes is for the best — sickness, opportunity, success, and disappointment, the gibes and machinations of enemies, the lack of comprehension on the part of those we love — all is but to be used, and all exists but to be transmuted. Continuity of vision, of aspiration, and of the inner touch, is seen to be of more importance than them all. That continuity is the thing to be aimed at, in spite of, and not because of circumstances.

Khi người tìm đạo tiến bộ, không những y cân bằng được các cặp đối cực mà điều bí mật trong tâm hồn của người huynh đệ cũng được tiết lộ cho y. Y trở thành một sức mạnh được thừa nhận trên thế giới và được công nhận là một người đáng tin cậy trong phụng sự. Mọi người hướng về y để được phù trợ và giúp đỡ theo đường lối được công nhận của y, và y bắt đầu phát ra âm điệu của mình để được nghe thấy trong hàng ngũ các thiên thần và nhân loại. Vào giai đoạn này, y thực hiện điều trên bằng ngòi bút trong văn chương, bằng lời nói trong diễn thuyết và giảng dạy, qua âm nhạc, hội họa và nghệ thuật. Bằng cách này hay cách khác, y thấu đến tâm hồn mọi người, và trở thành một người phù trợ và phụng sự chủng tộc của mình. Ở đây có thể kể ra thêm hai đặc điểm của giai đoạn này:-

As the aspirant progresses he not only balances the pairs of opposites, but is having the secret of his brother’s heart revealed to him. He becomes an acknowledged force in the world and is recognized as one who can be depended upon to serve. Men turn to him for assistance and help along his recognized line, and he begins to sound forth his note so as to be heard in deva and human ranks. This he does — at this stage — through the pen in literature, through the spoken word in lecturing and teaching, through music, painting and art. He reaches the hearts of men in some way or another, and becomes a helper and server of his race. Two more characteristics of this stage might here be mentioned:

Người tìm đạo ý thức được giá trị huyền bí của tiền bạc trong phụng sự. Y không tìm kiếm điều gì cho riêng mình, trừ những [79] gì có thể giúp y thực hiện được công việc cần phải làm, và y xem tiền bạc cũng như những gì tiền bạc có thể mua được là những điều cần được sử dụng cho người khác, và là một phương tiện để hoàn thành những kế hoạch của Chân sư, theo mức y cảm nhận được các kế hoạch đó. Ý nghĩa huyền bí của tiền bạc ít được mọi người thấu hiểu, tuy nhiên, một trong những thử thách lớn nhất đối với vị thế của hành giả trên Đường Dự Bị liên quan đến thái độ và cách hành xử của y đối với những gì mà mọi người đều tìm kiếm để thỏa mãn lòng ham muốn. Chỉ người nào không ham muốn gì cho riêng mình mới có thể nhận được tài chánh dồi dào, và làm người phân phối nguồn phong phú của vũ trụ. Trong các trường hợp khác, khi tài sản gia tăng, chúng không mang lại điều gì ngoài nỗi buồn rầu, đau khổ, bất mãn và lạm dụng.

The aspirant has an appreciation of the occult value of money in service. He seeks nothing for himself, save [79] that which may equip him for the work to be done, and he looks upon money and that which money can purchase as something which is to be used for others and as a means to bring about the fruition of the Master’s plans as he senses those plans. The occult significance of money is little appreciated, yet one of the greatest tests as to the position of a man upon the Probationary Path is that which concerns his attitude to and his handling of that which all men seek in order to gratify desire. Only he who desires naught for himself can be a recipient of financial bounty, and a dispenser of the riches of the universe. In other cases where riches increase they bring with them naught but sorrow and distress, discontent, and misuse.

Cũng vào giai đoạn này cuộc sống của người tìm đạo trở thành một khí cụ hủy diệt, hiểu theo nghĩa huyền bí của từ đó. Bất cứ nơi nào y đi đến, mãnh lực lưu chuyển qua y từ các cảnh giới cao và từ Thượng Đế nội tâm của chính y, đôi lúc tạo ra những kết quả đặc biệt lên môi trường chung quanh. Nó tác động như một lực kích thích cho cả điều thiện lẫn điều ác. Các Nguyệt thần, hay là các sinh linh bé nhỏ tạo thành các thể của huynh đệ y và của chính y đều cùng bị kích thích, hoạt động của chúng bị gia tăng, và năng lực của chúng được tăng cường mạnh mẽ. Sự kiện này được các Đấng làm việc ở nội giới sử dụng để mang lại một số mục tiêu mong muốn. Đây cũng là điều thường gây nên sự sa ngã tạm thời của các linh hồn tiến hoá. Họ không thể chịu đựng nỗi các mãnh lực tuôn đổ vào họ hay trên họ, và trở nên bất lực do các luân xa và các hiện thể của họ tạm thời bị kích thích quá độ. Chúng ta có thể thấy điều này xảy ra trong các đoàn thể cũng như các cá nhân. Nhưng trái lại, nếu các Nguyệt thần, hay các sinh linh của phàm ngã đã sớm được khuất phục và chế ngự, thì bấy giờ các mãnh lực và năng lực tiếp xúc được sẽ có hiệu quả kích thích ý thức của não bộ hồng trần và các luân [80] xa ở đầu để tiếp xúc với Chân nhân. Bấy giờ mãnh lực thay vì có tính hủy diệt lại trở thành một yếu tố lành thiện, một sự kích thích hữu ích, và có thể sử dụng bởi các Đấng biết phương cách, để đưa mọi người tiếp tục tiến xa hơn trên đường giác ngộ.

At this stage also the aspirant’s life becomes an instrument of destruction in the occult sense of the term. Wherever he goes the force which flows through him from the higher planes and his own inner God produces at times peculiar results upon his environment. It acts as a stimulator of both the good and the evil. The lunar Pitris, or little lives which form the bodies of his brother and his own body, are likewise stimulated, their activity is increased and their power greatly aggravated. This fact is used by those who work on the inner side to bring about certain desired ends. This it is also which often causes the temporary downfall of advanced souls. They cannot stand the force pouring into them, or upon them, and through the temporary over-stimulation of their centers and vehicles they go to pieces. This can be seen working out in groups as well as in individuals. But, inversely, if the lunar Lords, or lives of the lower self, have been earlier subjugated and brought under control, then the effect of the force and energy contacted is to stimulate the response of the physical brain consciousness and the head centers to egoic contact. [80] Then the otherwise destructive force becomes a factor for good and a helpful stimulation, and can be used by those who know how, to lead men on to further illumination.

Tất cả các bước này đều phải thể hiện trên cả ba cảnh giới thấp, trong ba hạ thể, và được thực hiện tùy theo cung và phụ cung của riêng từng người. Theo lối này, công việc của người đệ tử được xúc tiến, việc thử thách và huấn luyện y được thực hiện. Do thế, thông qua việc lèo lái năng lượng đúng đắn và vận dụng khôn ngoan các dòng mãnh lực, y được đưa đến Cửa Điểm Đạo và tốt nghiệp từ Phòng Học Tập sang Phòng Minh Triết. Trong phòng này y dần dần trở nên “ý thức” được các mãnh lực và các quyền năng tiềm tàng trong chính Chân nhân và nhóm chân nhân của y; trong phòng này, mãnh lực của nhóm chân nhân được trao cho y sử dụng, bởi vì giờ đây y được tin cậy để vận dụng mãnh lực đó chỉ cho việc trợ giúp nhân loại, và cũng trong phòng này, sau lần điểm đạo thứ tư, y được dự vào, và được uỷ thác một phần năng lượng của Đức Hành Tinh Thượng Đế, và nhờ thế mà có khả năng xúc tiến các kế hoạch tiến hoá của Ngài.

All these steps have to work out on all the three lower planes, and in the three bodies, and this they do according to the particular ray and sub-ray. In this fashion is the work of the disciple carried forward, and his testing and training carried out. Thus is he brought — through right direction of energy and wise manipulation of force currents — to the Portal of Initiation, and he graduates from the Hall of Learning into the Hall of Wisdom, that Hall wherein he gradually becomes “aware” of forces and powers latent in his own Ego and egoic group, wherein the force of the egoic group is his for the using, for he can now be trusted to wield it only for the helping of humanity, and wherein — after the fourth initiation — he becomes a sharer in, and can be trusted with, some part of the energy of the Planetary Logos, and thus be enabled to carry forward the plans of that Logos for evolution.

Chúng ta nên nhớ rằng các đệ tử thuộc Cung một hiểu con đường đạo phần lớn trong phạm vi năng lượng, mãnh lực hay hoạt động, trong khi các đệ tử thuộc Cung hai hiểu con đường đạo nhiều hơn trong phạm vi tâm thức hay điểm đạo. Vì thế mà có sự khác biệt trong những lối phát biểu thường dùng và thiếu sự thông cảm giữa các nhà tư tưởng. Hẳn là hữu ích khi chúng ta phát biểu ý niệm về con đường đệ tử trong phạm vi các cung khác nhau—theo đó cho thấy ý nghĩa của con đường đệ tử như nó biểu hiện trong cuộc phụng sự trên cảnh giới hồng trần:

It would be well to remember that disciples on the first ray understand discipleship largely in terms of energy, or force, or activity, whilst disciples on the second ray understand it more in terms of consciousness or initiation. Hence the divergence of expressions in ordinary use, and the lack of comprehension among thinkers. It might prove useful to express the idea of discipleship in terms of the different rays-meaning by this, discipleship as it manifests on the physical plane in service:

Cung 1…Mãnh lực…………Năng lượng …Hành động……….Nhà Huyền bí học.

Cung 2…Tâm thức…………Triển khai……Điểm đạo…………Nhà thần thông chân chính.

Cung 3…Tính thích nghi…Phát triển ……Tiến hoá………….Thuật sĩ.

Cung 4…Rung động ………Ứng đáp ……..Phát biểu…………Nghệ sĩ.

Cung 5…Trí năng ………… Kiến thứ c …..Khoa học…………Nhà khoa học.

Cung 6…Sùng tín…………. Họat động……Theo đuổi………..Người sùng tín.

trừu tượng Lý tưởng

Cung 7…Thần chú…………Pháp thuật …..Nghi thức…………Nhà nghi thức. [81]

1st Ray Force Energy Action The Occultist.
2nd Ray Consciousness Expansion Initiation The true Psychic.
3rd Ray Adaptation Development Evolution The Magician.
4th Ray Vibration Response Expression The Artist.
5th Ray Mentation Knowledge Science The Scientist.
6th Ray Devotion Abstraction Idealism The Devotee.
7th Ray Incantation Magic Ritual The Ritualist.

Xin nhớ kỹ rằng ở đây chúng ta đang bàn đến các đệ tử. Về sau, khi họ tiến bộ, thì nhiều đường lối khác nhau sẽ trở nên tương tự và hoà hợp. Có một thời tất cả đã là thuật sĩ vì mọi người đều đã trải qua cung ba. Vấn đề này hiện nay liên quan đến nhà thần bí học và nhà huyền bí học, và sự tổng hợp chung cuộc của họ. Khi nghiên cứu kỹ các điều nói trên, chúng ta sẽ nhận biết rằng sở dĩ có những nỗi khó khăn giữa các nhà tư tưởng và giữa những người đệ tử trong tất cả các nhóm, vì họ tự đồng hoá với một hình thức nào đó, và vì họ không thể thông cảm được các quan điểm khác của tha nhân. Theo thời gian, khi họ liên lạc mật thiết hơn với hai vị Chân sư mà họ có quan hệ (vị Thượng Đế ở nội tâm là Chân sư của cá nhân họ), thì họ sẽ không còn thiếu khả năng cộng tác và hoà hợp quyền lợi của mình trong lợi ích tập thể, và nỗ lực chung, mục đích giống nhau, cùng nhau hợp tác, sẽ thay thế cho các dị biệt, là những gì quá thường thấy hiện nay. Chúng ta đáng nên suy gẫm kỹ điều này vì nó soi tỏ được nhiều điều đang gây nan giải và đau khổ cho biết bao người.

[81] Remember carefully that we are here dealing with disciples. Later on as they progress, the various lines approximate and merge. All have been at one time magicians, for all have passed upon the third ray. The problem now is concerned with the mystic and the occultist, and their eventual synthesis. A careful study of the foregoing will lead to the realization that the difficulties between thinkers, and between disciples of all groups, consist in their identifying themselves with some form, and in their inability to understand the different points of view of others. As time elapses, and they are brought into closer relationship with the two Masters with whom they are concerned (their own inner God and their personal Master), the inability to cooperate and to merge their interests in the good of the group will pass away, and community of endeavour, similarity of object, and mutual co-operation will take the place of what is now so much seen, divergence. We might well ponder on this, for it holds the key to much that is puzzling and, to many, distressing. [82]

 

Xem tiếp Chương 9: Con đường Điểm đạo 

12 Comments

  1. jupiter nguyen

    Những lời dạy của chân sư D.K vô cùng Minh Triết và Trí Tuệ có tác dụng như một chất xúc tác làm đẩy nhanh sự khai mở trí tuệ và từ sự hiểu đó mới đưa đến sự thay đổi trong cách sống , bởi vì tôi nghĩ rằng đức hạnh hay đạo hạnh của một người phải nên bắt nguồn từ một nền tảng vững chắc là trí tuệ thì đức hạnh hay đạo hạnh đó sẽ không bao giờ có thể thay đổi trước bất kỳ sức mạnh nào hay hoàn cảnh trở ngại nào. Nếu không có chất xúc tác từ trí tuệ cao siêu đó của chân sư D.K thì tự hỏi chúng ta sẽ mất bao nhiêu ngàn năm hay triệu năm nữa mới tự mình hiểu được ? Trong chương 8 này tôi nhận thấy chân sư D.K nói ra một vài điều khá bất ngờ nhưng lại là sự thật 100 % , ví dụ Ngài nói :
    – ” Hãy sẵn sàng để đón nhận sự cô đơn. Đó là định luật. “

  2. jupiter nguyen

    Trong chương 8 này rất nhiều lời dạy thâm sâu , kỳ diệu được chân sư D.K ban tặng cho chúng ta , ví dụ Ngài nói :
    ” – Đau khổ nảy sinh khi phàm ngã nổi loạn
    . Suffering comes as the lower self rebels.
    – Hãy nhận lấy tất cả những điều vui vẻ có thể đến (với bạn)
    . Take all the glad things which may come.
    – Đừng chống đối hạnh phúc và niềm vui.
    . Rebel not at happiness and pleasure in service.

  3. jupiter nguyen

    Khi đọc câu này của bạn Webmaster ” Y không còn quan tâm đến cái tôi của mình nhiều nữa, mà bắt đầu quan tâm đến tập thể mà trong đó y là một thành phần. ” , câu nói đó của bạn Webmaster rất đúng chân lý . Tôi nghĩ rằng các Chân sư có lẽ sẽ không bao giờ quan tâm đến những phản ứng của phàm ngã cá nhân cũng như những nỗi ưu tư , phiền muộn hay đau khổ mang tính cá nhân , nhỏ nhoi tầm thường và không quan trọng . Tôi nhớ chân sư D.K đã nói rất rõ ràng , dứt khoát về điều đó như sau ( xin phép được trích dẫn ) :
    ” – Đừng nói về “cái ta”. Đừng thương cảm cho số phận của mình. Các ý tưởng về bản ngã và về thân phận thấp kém của bạn sẽ ngăn không cho tiếng nói nội tâm của chính linh hồn bạn vang đến tai bạn. Hãy nói về linh hồn; hãy bàn luận sâu về thiên cơ; hãy quên mình đi trong việc kiến tạo cho thế giới.
    .Speak not of self. Pity not thy fate. The thoughts of self and of thy lower destiny prevent the inner [475] voice of thine own soul from striking upon thine ear. Speak of the soul; enlarge upon the plan; forget thyself in building for the world. ”
    ( Trích từ quyển Luận Về Huyền Linh Thuật [ trang 571 bản tiếng Việt ] – A treatise on white magic [ trang 474 bản tiếng Anh ] ).

  4. jupiter nguyen

    Khi đọc câu nói này của chân sư D.K :
    – ” Khi tài sản gia tăng, chúng không mang lại điều gì ngoài nỗi buồn rầu, đau khổ, bất mãn và lạm dụng. ” thì tôi nhớ trong một quyển sách khác ( tôi tạm thời chưa nhớ quyển nào ) chân sư D.K có nói một cách bí ẩn như sau :
    – ” Tiền bạc là năng lượng được cụ thể hóa ” .
    Và phải chăng tiền bạc không chỉ là năng lượng được cụ thể hóa mà tiền bạc còn có sự sống và sức mạnh riêng của chính nó ? Và phải chăng khi một người nào đó gom góp quá nhiều tiền bạc của nhân loại vào tay mình mà không có cho ra thì người đó đang trở thành kẻ thù của mọi người ? Và phải chăng khi mà ta tích chứa và gom góp quá nhiều tiền bạc trong tay ta ( là thứ năng lượng được cụ thể hóa đó ) mà không tìm cách cho ra thì chính khi đó cái ác ( evil ) tiềm ẩn trong ta sẽ có cơ hội để bùng phát mạnh mẽ nhất và ta sẽ trở thành một người rất ác độc ?

  5. jupiter nguyen

    Khi đọc và suy gẫm câu nói này của chân sư D.K :
    ” – … và nhạy cảm quá đáng đối với những lời chỉ trích của người khác, sẽ đưa đến một tình trạng khiến người đệ tử gần như vô dụng. ”
    thì tôi cũng nhớ một lời dạy khác của chân sư D.K ( tôi tạm thời không nhớ trong quyển nào và trích dẫn lại theo trí nhớ của mình ) , chân sư D.K nói như sau :
    ” – Những lời chỉ trích vẫn là lành mạnh nếu chúng ta không để cho nó trở thành phá hủy ” .

  6. jupiter nguyen

    Lời dạy này của chân sư D.K thật kỳ diệu và minh triết vô cùng :
    ” – Không còn âu lo. Ở đây nên nhớ rằng sự âu lo vốn căn cứ trên phàm nhân, và là kết quả của việc thiếu hạnh vô dục ” .
    Có phải là khi ta bám víu hay lưu luyến người nào hay vật nào là ta sẽ sớm hay muộn bị người đó ( hay vật đó ) làm cho ta âu lo và phiền não ?

  7. jupiter nguyen

    Đây lại là câu nói vô cùng tuyệt diệu và minh triết tuyệt đỉnh của chân sư D.K :
    ” – Đây có nghĩa là đạt đến một trạng thái tâm thức cân bằng, trong đó lạc thú và đau khổ đều không chế ngự, vì chúng được thay thế bằng sự hoan hỉ và chân phúc. ”
    Phải chăng tất cả mọi mưu toan để chống cự lại sư cám dỗ của lạc thú đều có thể thấy trước sẽ thất bại ? Và do đó chỉ bằng cách thay thế nó mà thôi.

  8. jupiter nguyen

    Đây lại là một câu nói của chân sư D.K mà vô cùng kỳ diệu và bí ẩn:
    ” … cho những người sắp sửa tự biết mình, và sắp trở thành chính Con Đường Đạo ”
    Phải chăng sự thật là không có Con Đường Đạo nào ở bên ngoài ta cả mà chính là ta phải tự tạo ra (hay xây dựng) Con Đường Đạo đó cho chính mình?

    • webmaster

      Đây là một trong những “Công Án” mà đức DK nhắc đi nhắc lại trong các sách của Ngài:

      “Before a man can tread the path, he must become that path himself”

      “Trước khi một người có thể bước trên Thánh đạo, chính y phải trở thành Con Đường Đạo”.

      Câu nói này là câu nói trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh của bà Blavatsky, và đức DK lập lại không dưới 10 lần trong các sách của Ngài. Đây là một đoạn trong quyển Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới I, đức DK giải thích câu nói trên:

      Gradually the antahkarana is built and in this way the “greater Light and the lesser light” are consciously related. A path of light and energy is established or created between these two divine aspects. As time goes on, there appears in the egoic group what is technically known as the “linking light” or the “bridging radiance.” This is the Path referred to in The Old Testament as “the path of the just is as a shining light which shineth more and more until the day be with us.” In the esoteric [Page 715] books it is referred to in the following terms: “Before a man can tread the path, he must become that path himself.” [DINA I]

      Con đường đó là đường Antahkarana nối liền Phàm Ngã và Chân Ngã, hay giữa Ánh sáng nhỏ bé và Ánh Sáng Lớn hơn. Con Người chỉ có thể bước vào Con Đường Đệ Tử và Con Đường Điểm đạo khi y đã xây dựng đường Antakarana nới liền giữa hai yếu tố đó. Become the Path hàm ý nghĩa đó. Trước đây trong thế kỷ 20, các đệ tử theo học tại trường Arcane phải mất 14 năm để đạt đến cấp bậc thứ 4, cấp the Weaver in the Light. Khi đó y mới được truyền dạy phương pháp xây dựng đường Antahkarana. Ngày nay trong thế kỷ 21, khoa học tiến bộ hơn, học viên học nhanh hơn, và chỉ cần 8 năm để hòan tất chương trình đó, và đến năm thứ III của Quest Universal là đã được dạy phương pháp xây dựng đường Antahkarana. Khoa học làm cho việc học đạo nhanh chóng hơn, nhưng yêu cầu giai đoạn đệ tử cũng khó hơn trước…

  9. Thùy Dương

    Chú ơi, còn chương 9 thì sao ạ, tại con chưa thấy nên hơi thắc mắc. Con cảm ơn Chú nhiều!

Leave a Reply to jupiter nguyen Cancel reply