Huấn thị cá nhân cho I.B.S (Phần 4)

Bài 4

Đây là bài dịch cuối cùng các huấn thị của đức DK cho IBS, từ năm 1940 đến năm 1946. Như đã nói trước đây, IBS là pháp danh của Anne Dixon, một giảng viên thanh nhạc. Cấu trúc cung của Bà là 1 6 463, linh hồn cung 1, phàm ngã cung 6, thể trí cung 4, cảm xúc cung 6, thể xác cung 3. Bà thuộc nhóm 9 người (Group of Nine) làm việc với Ảo Cảm thế gian, giúp vào việc phá tan ảo cảm đó. Bản thân những đệ tử trong nhóm Trained Observers là những người từng bị ảo cảm, đã chiến thắng ảo cảm, nhờ thế mới có kinh nghiệm làm việc trong lãnh vực đó. Trong nhóm Trained Observers ta thấy các đệ tử như L.T.S-K (mà chúng tôi đã biên dịch các huấn thị cho Ông) và L.U.T.

Cũng nói sơ qua về các nhóm đệ tử của đức DK. Bắt đầu Ngài dự định thành lập 10 nhóm gọi là Seed Group (Nhóm Hạt Giống) hay Group of Nine (Nhóm chín người, vì mỗi nhóm sẽ gồm chín thành viên), mỗi nhóm làm việc trong các lãnh vực khác nhau như nhóm 1 là Telepathic (Viễn Cảm) … Các bạn xem chi tiết trong quyển Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới. Trong 10 nhóm, thật sự chỉ có 5 nhóm được thành lập là:

Telepathic Communicators

Trained Observers (Glamour)

Magnetic Healers

Cultural Service (Education)

Political Service

Sau đó, Ngài giải tán các Nhóm 9 người và lập ra Nhóm Hạt Giống Mới gồm 24 đệ tử để huấn luyện cho group initiation. Mười bốn đệ tử sống ở New York và vùng lân cận được mời thành lập nhóm Outer Ashram Group (Nhóm Đạo Viện Ngoại tại) vào đầu những năm 1940 nhằm thí nghiệm trong công cuộc hiển lộ của Thánh đoàn trên thế gian. Nhóm họp hằng tháng vào thời điểm trăng tròn. Sau đó nhóm ngưng hoạt động và 4 thành viên lập thành nhóm mới tiếp tục công việc.

Một nhóm khác được gọi là AUM Group nhằm khôi phục các nguyên lý bí truyền của Hội Tam Điểm. Nhóm bao gồm Svetoslav Roerich (con trai của Nicholas và Helena Roerich) và hai người con gái của Bà AAB là Mildred and Ellison

Đọc qua các huấn thị của đức DK viết cho bà từ năm 1932 đến năm 1946 (14 năm), chúng ta có thể thấy bước tiến của người đệ tử dưới sự hướng dẫn của Ngài, từ những ngày đầu tiên vướng vào ảo cảm cõi trung giới (bản chất của Anne Dixon là một nhà ngoại cảm, có khả năng thông linh), thêm cung Phàm ngã và Cung Cảm xúc đều là Cung 6, nhấn mạnh đến sự sùng tín, hoặc ở phương diện thấp hơn là cuồng tín, đã gây cho Bà nhiều khó khăn. Đây là bình luận của đức DK về cung Phàm ngã và Cung Cảm xúc của Bà:

Khi Cung phàm ngã giống như Cung của thể cảm xúc (như trong trường hợp của em), một tình huống khó khăn nhất dễ phát sinh, ngăn cản sự phụng sự cho tới khi có sự điều chỉnh đúng đắn

Các đệ tử khác có Cung Phàm ngã và Cung Cảm xúc giống nhau là JWK-P (Foster Bailey), 2/2; SCP, 6/6; CDP, 6/6; EES, 6/6; WDS, 1/1; PDW, 6/6; and DEI, 1/1.

Trong trường hợp của JWK-P (Foster Bailey, chồng bà Bailey), sự trùng hợp của Cung Phàm ngã và Cung Cảm xúc (Cung 2) lại là một thuận lợi thay vì trở ngại, vì Cung 2 mạnh sẽ hóa giải những tiêu cực của Cung 1 trong Ông (Ông có Linh hồn Cung 1). Trong những đệ tử khác, sự trùng hợp này là một trở ngại khi Cung trùng hợp là Cung 6 hay Cung 1

Ngài giải thích cho bà cách hóa giải những ảnh hưởng xấu đó, nhờ vào thể trí Cung 4 (Hài Hòa thông qua xung đột):

Yếu tố hóa giải là thể trí của em được điều chỉnh bởi Cung 4. Ảnh hưởng này cũng thường được tìm thấy trong nhóm hạt giống này, vì mười người trong số các thành viên của nhóm có thể trí là bãi chiến trường xung đột—một cuộc xung đột được lên kế hoạch để tạo ra sự hài hòa cuối cùng. Do đó, các đệ tử như các em sẽ không tìm được sự giải thoát khỏi cuộc xung đột thông qua sự kiểm soát ham muốn, hoặc thông qua việc trốn tránh hoặc ức chế. Họ sẽ tìm thấy nó thông qua việc sử dụng đúng đắn các quá trình tư tưởng và thông qua chính thể trí, vì nó có thể rọi ánh sáng chiếu qua nó lên vấn đề. Điều này sẽ mang lại giải pháp đúng đắn và sự hiểu biết chính xác. Em hãy đấu tranh với vấn đề của em, hỡi huynh đệ của tôi, vì sự ham muốn chân thành của em là đi theo con đường phát triển tinh thần nhưng em đã làm cho thể cảm xúc của mình trở thành bãi chiến trận của em, trong khi toàn bộ vấn đề nên được nâng lên đến mức trí tuệ. Hãy nghĩ đến điều này và sau đó tiến hành hành động đúng theo hai hướng: trên cõi trí để được hướng dẫn và xuống đến cõi vật lý để thể hiện.

Trong bức thư 1944, Ngài dạy cho IBS kỹ thuật “As If” technique, “như thể”, mà Ngài gọi là “hành động như thể là một trong những thực hành huyền linh nhất.”, Và nếu bạn suy ngẫm kỹ (Ngài yêu cầu IBS suy ngẫm trong ba năm), bạn sẽ thấy rất nhiều điều bổ ích. Và Ngài yêu cầu IBS trả lời cho Ngài sự khác biệt giữa kỹ thuật này và câu huấn thị “con người nghĩ gì trong trái tim thì y sẽ trở thành như thế”. Đây là hướng dẫn của Ngài:

Một thời gian trước đây, tôi đã nói với nhóm rằng điểm đạo là sự đơn giản hóa. Do đó, đơn giản hóa những năm còn lại của em bằng cách hành động “như thể.” Thông qua quá trình sống này, em sẽ đánh mất những ngọn lửa của sự hiểu biết. Tôi tự hỏi tôi có làm một số ý tưởng về giá trị rõ ràng với em hay không? Hãy luôn hành xử “như thể” [555] sự hiểu biết thiêng liêng của em đã hoàn thiện, và kết quả trong cuộc sống hàng ngày của em sẽ “như thể” tất cả những ảo cảm ẩn giấu và tất cả những màn che lừa gạt đều không tồn tại. Người đệ tử hành động “như thể” anh ta là điểm đạo đồ và sau đó phát hiện ra rằng “một người suy nghĩ như thế nào trong trái tim thì y sẽ như thế nấy,” bởi vì trái tim là cái cất giữ quyền năng của sự tưởng tượng. Sự tưởng tượng được phóng thích vào hoạt động sáng tạo khi người đệ tử hành động “như thể” y là linh hồn biểu hiện đầy đủ, “như thể” Chân sư luôn biết được những hành động của người đệ tử của Ngài, “như thể” y bước đi trong sự giải thoát hoàn toàn một cách có ý thức. Đối với em, hai từ này sẽ mang lại sự giải thoát và hạnh phúc.

Thú thật, đọc và hiểu hết tất cả những lời dạy của đức DK cho tất cả các đệ tử là một khó khăn, nhưng đó là những huấn thị và lời day thực tiển nhất, vô cùng hữu ích cho người học đạo. Cuối cùng, xin ghi lại lời nói ngắn gọn của Ngài:

Hãy suy nghĩ khiêm nhường, nói một cách khôn ngoan và làm việc không ngừng nghỉ.

Sau các huấn thị cá nhân, chúng tôi sẽ khảo sát lá số chiêm tinh của IBS để minh họa và học hỏi về chiêm tinh học nội môn.

****************************

August 1940

MY BROTHER:

There is a question concerning the future and your responsibility which is at this time much disturbing your mind. It intrudes powerfully at times into your consciousness. Up till now—after a period of inner wrestling and consequent decision—you have evaded the full facing of the implications and the effect which action may have upon the future. The service of a disciple is frequently affected by his inner worries and defensive suppressions. The free flow of inspiration is halted in the astral body and there stagnates (if I may use so inappropriate a word). He is conscious of the inspiration but is puzzled at the small effect it appears to have upon other people. He wonders constantly where the difficulty lies. Often it lies in an unsolved problem which serves to bewilder the subconscious nature, as the psychologists call it; it may lie in a half-realised inability to work out right relations with people, fretting and gnawing at the lower layers of unformulated thought; it may be found in a state of inner rebellion against life, against people, against the disciple’s own decisions, leading thus to a most definite orientation or focus of the entire personality.

Tháng 8 năm 1940

Em thân mến

Có một vấn đề liên quan đến tương lai và trách nhiệm của em tại thời điểm này đang làm bận rộn tâm trí em rất nhiều. Nhiều lúc nó xâm nhập mạnh mẽ vào tâm thức của em. Cho đến bây giờ—sau một thời gian đấu tranh bên trong và kết quả là sự quyết định—em đã tránh né đối mặt đầy đủ những vấn đề liên quan và ảnh hưởng của hành động đó đối với tương lai. Sự phụng sự của một đệ tử thường bị ảnh hưởng bởi những lo lắng bên trong của mình và những sự kềm chế tự vệ. Dòng chảy tự do của cảm hứng bị dừng lại trong thể cảm xúc và có tình trạng trì trệ (nếu tôi có thể sử dụng một từ không thích hợp như vậy). Y ý thức được nguồn cảm hứng nhưng cảm thấy bối rối trước những ảnh hưởng dường như nhỏ bé của nó đối với người khác. Y thường thắc mắc không biết khó khăn nằm ở đâu. Thường thì nó nằm ở một vấn đề chưa được giải quyết làm bối rối bản chất tiềm thức, như các nhà tâm lý học gọi; nó có thể nằm ở sự bất lực chỉ được nhận ra một nửa trong việc thực hiện những mối quan hệ đúng đắn với con người, phiền muộn và gặm nhấm ở những tầng thấp của tư tưởng chưa hình thành; nó có thể được tìm thấy trong một cuộc nổi loạn bên trong chống lại cuộc sống, chống lại con người, chống lại quyết định của chính mình, do đó dẫn đến một định hướng rõ ràng nhất hoặc sự tập trung của toàn bộ phàm ngã.

[545]

When the personality ray is the same as the ray of the astral body (as in your case) a most difficult situation is apt to arise, handicapping the service until such time as right inner adjustments are made. In a curious way, you are isolated from many people by the power and focus of your third ray physical body—a thing which you are the last to desire but which is due to the dominance of the first ray element in your nature, for it conditions your soul quality and that expresses itself through the third ray physical nature. Intense focus is, therefore, the continuous theme of your life expression for—as you know—you have the first ray and the sixth ray continuously interrelated in your nature.

Khi Cung phàm ngã giống như Cung của thể cảm xúc (như trong trường hợp của em), một tình huống khó khăn nhất dễ phát sinh, ngăn cản sự phụng sự cho tới khi có sự điều chỉnh đúng đắn. Một cách kỳ lạ, em bị cô lập với nhiều người bởi sức mạnh và sự tập trung của thể vật lý Cung 3 của em—cái mà em mong muốn sau cùng nhưng do sự thống trị của Cung 1 trong bản chất của em, vì nó kiểm soát phẩm chất linh hồn của em, và tự thể hiện thông qua bản chất vật lý Cung 3. Do đó, sự tập trung mạnh mẽ là chủ đề liên tục của cuộc đời em—như em biết—em có Cung 1 và Cung 6 liên tục tương quan trong bản chất của em.

The offsetting factor is your mind which is governed by the fourth ray. This influence too is frequently found in this seed group, for ten of the group members have the mind as the battle ground of conflict—a conflict which is thus planned in order to produce an eventual harmony. Disciples such as yourselves, therefore, will not find release from conflict through the control of desire, or through evasion or through inhibition. They will find it through the right use of the thought processes and through the mind itself, for it can throw upon the problem the light which shines through it. This will bring right solution and correct understanding. You do wrestle with your problem, my brother, for your sincere desire is to follow the path of spiritual development but you make the astral body your battle ground whereas the whole problem should be elevated to mental levels. Think this out and then carry forward right action in two directions: on the mental plane for guidance and down to the physical plane for demonstration.

Yếu tố hóa giải là thể trí của em được điều chỉnh bởi Cung 4. Ảnh hưởng này cũng thường được tìm thấy trong nhóm hạt giống này, vì mười người trong số các thành viên của nhóm có thể trí là bãi chiến trường xung đột—một cuộc xung đột được lên kế hoạch để tạo ra sự hài hòa cuối cùng. Do đó, các đệ tử như các em sẽ không tìm được sự giải thoát khỏi cuộc xung đột thông qua sự kiểm soát ham muốn, hoặc thông qua việc trốn tránh hoặc ức chế. Họ sẽ tìm thấy nó thông qua việc sử dụng đúng đắn các quá trình tư tưởng và thông qua chính thể trí, vì nó có thể rọi ánh sáng chiếu qua nó lên vấn đề. Điều này sẽ mang lại giải pháp đúng đắn và sự hiểu biết chính xác. Em hãy đấu tranh với vấn đề của em, hỡi huynh đệ của tôi, vì sự ham muốn chân thành của em là đi theo con đường phát triển tinh thần nhưng em đã làm cho thể cảm xúc của mình trở thành bãi chiến trận của em, trong khi toàn bộ vấn đề nên được nâng lên đến mức trí tuệ. Hãy nghĩ đến điều này và sau đó tiến hành hành động đúng theo hai hướng: trên cõi trí để được hướng dẫn và xuống đến cõi vật lý để thể hiện.

You will know to what problem or problems I refer. None of your group brothers will understand to what particular condition I now make allusion. It is a problem which you must handle in isolation and when handled, it will open for you a perfect floodgate of relationships and opportunities. Your aim should therefore be the intensification of the illumination of the mind so that the searchlight of the mind can be turned upon the fogs and difficulties of the astral body.

Em sẽ biết những vấn đề hoặc những vấn đề tôi mà tôi đề cập đến. Không có huynh đệ nào trong nhóm của em hiểu được tình trạng cụ thể mà tôi đang ám chỉ. Đó là một vấn đề mà em phải xử lý trong sự cô lập và khi được giải quyết, nó sẽ mở ra cho em một cửa ngõ hoàn hảo cho các mối quan hệ và cơ hội. Do đó, mục tiêu của em phải là việc tăng cường sự soi sáng của trí tuệ để ngọn đèn pha của thể trí có thể chiếu vào sương mù và những khó khăn của thể cảm xúc.

Of one thing we who are watching the disciples of the [546] world today are convinced, and that is that you are a sincere and intelligent devotee; intelligence and devotion go hand in hand in the accepted disciple, balancing each other and then producing a definite focus of power. For all of you this is an incarnation wherein the life focus becomes either irrevocably oriented toward the soul, as must be the case with newly accepted disciples, or powerfully expanded and inclusive as in the case of older disciples. In your case, the achievement of a definite focus is now essential. In the manifestation of souls in time and space, there come lives wherein—at times—a soul problem (as the personality embraces it) becomes a dominant theme and the whole incarnation (with definite points of intensive crisis) is given to the understanding of the problem and its solution. In the orientation of your life towards the soul, the keynote of renunciation is wisely clear but you need to see to it that even renunciation is not over-emphasised and that its conditioning power is not applied to that for which there is no call, because such renunciation would constitute an error.

Một điều mà chúng tôi đang quan sát các đệ tử của thế giới ngày nay bị thuyết phục, và đó là việc em là một người mộ đạo chân thành và thông minh; trí thông minh và lòng mộ đạo song hành cùng nhau trong người đệ tử thực thụ, cân bằng nhau và khi đó tạo ra một sự tập trung rõ rệt của năng lực. Đối với tất cả các em, đây là một kiếp sống trong đó sự tập trung của đời sống bắt đầu hướng đến linh hồn không lay chuyển, như trong trường hợp của các đệ tử thực thụ mới được chấp nhận, hoặc mở rộng mạnh mẽ và toàn diện như trong trường hợp các đệ tử thâm niên hơn. Trong trường hợp của em, việc đạt được một trọng tâm xác định bây giờ là rất cần thiết. Trong sự biểu hiện của linh hồn theo thời gian và không gian, có những kiếp sống trong đó—đôi khi—một vấn đề linh hồn (khi phàm ngã bao hàm nó) trở thành một chủ đề nổi bật và toàn bộ kiếp sống (với những điểm đặc biệt của cuộc khủng hoảng dữ dội) dành cho việc hiểu vấn đề và giải quyết. Trong định hướng cuộc sống của em hướng về linh hồn, chủ đề từ bỏ thật rõ ràng một cách sáng suốt, nhưng em cần phải nhận ra rằng ngay cả sự từ bỏ cũng không nên được nhấn mạnh quá mức và sức mạnh điều chỉnh của nó không được áp dụng cho cái mà không có yêu cầu, bởi vì sự từ bỏ như thế sẽ tạo ra một lỗi lầm.

I am giving you, therefore, a personal meditation. I too must have this in mind, reminding you that renunciation itself can be a glamour and a sixth ray idealist is prone to over-express. I shall not give you what you would call a real meditation. That which will aid you the most at this time is a visualisation exercise on Light.

1. Sit quietly and relax. Deal not with problems but during the period of this exercise endeavour simply to be a point of focussed vision, with the eye of the mind directed towards the soul.

2. When your focus seems adequate then see (by the power of the creative imagination) a distant peak or pyramid and on its summit there shines a clear pure light of great intensity.

3. With that light you seek to identify yourself, to merge within and thus to avail yourself of its illumination in order that in it the lesser light may shine. You say, after some minutes of careful identification:

Do đó tôi sẽ cho em một bài tham thiền cá nhân. Tôi cũng phải ghi nhớ điều này, nhắc nhở em rằng chính sự từ bỏ đó cũng có thể là một ảo cảmmột người lý tưởng Cung 6 có xu hướng thể hiện quá mức. Tôi sẽ không cho em cái mà em gọi là một bài tham thiền thực sự. Điều sẽ giúp em nhiều nhất vào thời điểm này là một bài tập hình dung về Ánh Sáng.

1. Ngồi yên tĩnh và thư giãn. Không đề cập đến các vấn đề, nhưng trong giai đoạn này của bài tập, chỉ đơn giản nỗ lực để là một điểm của tầm nhìn tập trung, với con mắt của tâm trí hướng về linh hồn.

2. Khi sự tập trung của em dường như tương xứng rồi, khi đó thấy (bằng sức mạnh của trí tưởng tượng sáng tạo) một đỉnh núi hoặc một kim tự tháp đằng xa, trên đỉnh tỏa ra một ánh sáng tinh khiết rõ ràng với cường độ cao.

3. Em tìm cách đồng hóa bản thân với ánh sáng đó, hợp nhất vào bên trong, và nhờ đó tận dụng ánh sáng của nó để ánh sáng nhỏ hơn có thể tỏa sáng. Hãy nói, sau vài phút đồng hóa cẩn thận:

[547]

“Dim light am I and yet the pure light shines. Not distant is that light but daily, hourly drawing nearer.

The light that is my little self must disappear within the greater Light.

So with that Light, that all-pervading, all-consuming Light, I blend and merge.

I can no longer see the two—the greater Self, the little self, the pilgrim and the way, for only one is seen—the greater lighted Whole.”

“Tôi là ánh sáng mờ nhạt, thế nhưng ánh sáng tinh khiết sáng tỏa. Ánh sáng đó không xa, mà hàng ngày, hàng giờ càng gần hơn.

Bản ngã nhỏ bé của tôi là ánh sáng nhỏ phải biến mất vào trong Ánh Sáng lớn hơn.

Vì vậy với Ánh Sáng đó, cái Ánh sáng tràn ngập, bao trùm khắp nơi, tôi hoà vào và hợp nhất.

Tôi không còn có thể nhìn thấy hai cái—Đại Ngã (Greater Self) và Tiểu Ngã (Little Self), người hành hương và con đường, vì chỉ có một được nhìn thấy—Cái Toàn Thể được chiếu sáng vĩ đại hơn”.

4. Picture the fusion of the light of the personality and the light of the Soul and see that light focussed in the personality upon the astral plane.

5. Then produce stabilisation of the light appropriated by the sounding of the OM.

Seek not to use the light directly for the clarification of problems, teaching or ideas. That will take place automatically once the light is focussed; it must inevitably bring release and knowledge. Seek simply to visualise the process, knowing that “as a man thinketh so is he.” Then forget about the acquiring of the light and endeavour to manifest that which exists as the result of your own effort. Light is within you. Seek not for immediate instantaneous solution of your problems. Look not, my brother, for results. Remember ever that as you continue faithfully with the indicated exercise, the results are sure or I would not waste your time or mine in giving you this work to do. Regularly and without anxiety do as you are told. The results will in due time manifest.

4. Hình dung sự kết hợp ánh sáng của phàm ngã và ánh sáng của Linh hồn và thấy rằng ánh sáng đó tập trung vào phàm ngã trên cõi trung giới.

5. Sau đó tạo ra sự ổn định của ánh sáng bằng cách xướng Linh Tự OM.

Đừng tìm cách sử dụng ánh sáng trực tiếp để làm rõ các vấn đề, cho giảng dạy hoặc cho các ý tưởng. Điều đó sẽ diễn ra một cách tự động khi ánh sáng được tập trung; nó chắc chắn sẽ mang lại sự giải thoát và sự hiểu biết. Chỉ đơn giản hình dung quá trình, và biết rằng “khi một người nghĩ như thế nào thì y sẽ trở thành như thế đó.” Sau đó, quên đi sự thu nhận ánh sáng và cố gắng để hiển thị những gì tồn tại như là kết quả của nỗ lực của riêng em. Ánh sáng nằm trong em. Cũng đừng tìm cách giải quyết ngay lập tức vấn đề trước mắt của em. Huynh đệ của tôi, cũng đừng trông chờ kết quả. Hãy nhớ rằng khi em tiếp tục kiên trì với các bài tập được chỉ định, kết quả chắc chắn sẽ có, nếu không tôi đã không lãng phí thời gian của em hoặc của tôi để yêu cầu em làm việc này. Làm đều đặn và không lo lắng, như em đã được dạy. Kết quả sẽ được hiển thị đúng lúc.

August 1942

1. As the hours of service pass around the clock of time look for the sounding of the hour. What hour is that?

2. As the minutes tick away the passing hour, watch for the minute when My voice is heard. When will that be?

3. As the seconds note the passing of the minute hand upon the clock of time, expect the second when My face appears. Why has it not appeared? [548]

4. When you think freedom lies within your grasp and when you think that you have done the utmost that you can, Beware! Obedience lies ahead, with freedom in its hand.

5. Within the Ashram you must work. Cycles of speech transmute themselves into periods of silence. Yet both must play their part.

6. You are passing on the Lighted Way, my brother. You have placed your hand in mine. I hold it firm.

1. Khi những giờ của việc phụng sự đi qua đồng hồ thời gian, hãy tìm kiếm âm thanh của giờ. Đó là giờ nào?

2. Khi những phút trôi qua trên giờ, hãy nhìn xem cái phút khi tiếng nói của Tôi được nghe. Lúc đó khi nào?

3. Như những giây ghi nhận việc đi qua kim phút trên đồng hồ thời gian, hãy mong đợi cái giây khi khuôn mặt của Tôi xuất hiện. Tại sao nó không xuất hiện? [548]

4. Khi em nghĩ rằng tự do nằm trong sự nắm bắt của em và khi em nghĩ rằng em đã làm hết sức mình có thể, Hãy coi chừng! Sự vâng lời nằm ở phía trước, với sự tự do trong tay của nó.

5. Trong Ashram em phải làm việc. Chu trình diễn thuyết chuyển hóa thành những khoảng thời gian im lặng. Tuy nhiên, cả hai phải đóng vai trò của chúng.

6. Em đang đi qua con đường được Soi Ánh, huynh đệ của tôi. Em đã đặt bàn tay của em trong tôi. Tôi giữ nó vững chắc.

September 1943

MY BROTHER:

You may have noted that there is a slight difference in the type of instructions which I am now giving to this group of disciples in my Ashram, of whom you are one. It is not that each of them is not definitely personal in their application or that they do not carry a meaning of very real import to the disciple for whom they are intended; this they do and should. It is now, however, my intention to convey certain principles and certain aspects of truth which have more of a group implication than a personal one. The previous two cycles of teaching to which you have all submitted yourselves were primarily concerned with the training of the threefold personality and with an effort to bring it into a closer relation with the soul, and therefore with the Ashram. This was peculiarly so in the work of the Groups of Nine, and in the first cycle of the New Seed Group work this was continued, though in a lessened degree and with a specific emphasis laid upon the required training for initiation. It was not so much the training of the personality which was under consideration. All this is a part of a definite plan, and the teaching which I intend now to give will have a clear group import, even though adapted to the disciple’s personality and to the particular individual to whom the instruction is given. In spite of the individual usefulness, it will profit each member of the group also to read and study and apply the teaching from the group angle.

Huynh đệ của tôi,

Có thể em đã lưu ý thấy có một sự khác biệt nhỏ trong các huấn thị mà hiện nay tôi đang đưa ra cho nhóm đệ tử này trong Ashram của tôi, trong đó em là một. Nó không phải rằng mỗi huấn thị không hoàn toàn có tính chất cá nhân trong áp dụng của chúng, hoặc chúng không mang ý nghĩa thực sự quan trọng cho người đệ tử mà chúng được dự định viết; điều này chúng có làm và nên như vậy. Tuy nhiên, bây giờ tôi muốn truyền đạt một số nguyên tắc nhất định và một số khía cạnh của chân lý có ý nghĩa nhóm nhiều hơn là ý nghĩa cá nhân. Hai chu kỳ giảng dạy trước mà tất cả các em đã trải qua chủ yếu liên quan đến việc huấn luyện phàm ngã tam phân với một nỗ lực để đưa nó vào một mối quan hệ gần gũi với linh hồn, và do đó với Ashram. Điều này đặc biệt đúng như thế trong công việc của các Nhóm Chín người, và trong chu kỳ đầu tiên của Nhóm Hạt Giống Mới, điều này vẫn được tiếp tục, mặc dù ở một mức độ thấp hơn và với sự nhấn mạnh đặc biệt vào việc huấn luyện cần thiết cho điểm đạo. Nó không tập trung quá nhiều vào đào tạo phàm ngã đang được xem xét. Tất cả những điều này là một phần của một kế hoạch nhất định, và giáo huấn mà tôi dự định đưa ra sẽ có một tầm quan trọng nhóm rõ ràng, mặc dù thích nghi với phàm ngã của người đệ tử và cho cá nhân cụ thể mà huấn thị được đưa ra. Mặc dù hữu ích cho cá nhân, nó sẽ mang lợi ích cho mỗi thành viên của nhóm để đọc, nghiên cứu và áp dụng giáo lý từ góc độ của nhóm.

There are, of course, three basic principles governing all work in an Ashram. I refer not here to occult principles of [549] life, but to governing principles in training. These three are: Occult Obedience. Group Integration. Right of Access. Let us consider each of them for a minute with a view to group instruction, but with an individual application which will be purely your own.

Tất nhiên, có ba nguyên tắc cơ bản chi phối tất cả các công việc trong một Ashram. Tôi không đề cập đến các nguyên tắc huyền bí của đời sống, mà tới các nguyên tắc chi phối trong việc huấn luyện. Ba nguyên tắc này là: Sự Vâng Lời Huyền môn (Occult Obedience). Tích hợp Nhóm. Quyền Truy cập (Right of Access). Chúng ta hãy xem xét mỗi điều này một chút với quan điểm huấn thị nhóm, nhưng áp dụng cho cá nhân vốn hoàn toàn của riêng em.

Occult Obedience. In the six statements given to you in the preceding instruction I used the words, “Obedience lies ahead with freedom in its hand.” Upon these words I presume that you have pondered. The disciple so often gives obedience within limits. His personal sense of liberty (due largely to a rapidly developing mental grasp of life and living) prompts him to concede certain forms of obedience to the Master Who has him in training, but to refrain from a complete surrender through fear of losing his sense of free action, free thought and free choice of relationships. The older the disciple, the less is this the case, for the life of the Ashram and an increasing steady contact with the Master demonstrate to him the complete and utter freedom which governs the entire circle of ashramic life—both within the Ashram and within the field of its interior and exterior service. But the development of this discreet appreciation takes time, and the neophyte is always on guard against any intrusion into his organised field of determined self-government. Let me illustrate in a manner which I believe will convey to you a much needed suggestion.

Sự Vâng Lời Huyền Môn. Trong sáu phát biểu dành cho em trong hướng dẫn trước tôi đã sử dụng các từ sau, Sự vâng lời nằm ở phía trước với sự tự do trong tay của nó. Tôi đoán rằng em đã suy ngẫm về những lời này. Người đệ tử thường vâng lời trong các giới hạn. Ý thức cá nhân của y về tự do (phần lớn là do sự phát triển trí năng nhanh chóng về cuộc sống và việc sống) nhắc nhở y thừa nhận một số hình thức vâng lời đối với vị Chân sư đang huấn luyện y, nhưng từ chối sự vâng lời hoàn toàn vì sợ mất ý thức hành động tự do của mình, tư duy tự do và tự do lựa chọn các mối quan hệ. Người đệ tử càng già dặn, thì trường hợp này càng ít, vì đời sống của Aramram và mối liên hệ vững chắc với Sư Phụ chứng minh cho y sự tự do hoàn toàn và tuyệt đối chi phối toàn bộ vòng tròn của đời sống Ashram—cả bên trong Ashram lẫn bên trong lĩnh vực phụng sự bên trong và bên ngoài. Nhưng sự phát triển của sự nhận thức thận trọng này cần có thời gian, và người đệ tử mới luôn cảnh giác trước bất cứ sự xâm nhập vào lĩnh vực được tổ chức của y về tự trị được quyết định. Hãy để tôi minh họa theo cách mà tôi tin sẽ truyền tải cho em một gợi ý rất cần thiết.

The beginner and newcomer in the Ashram, new in his service (from the angle of his present life experience if not from the angle of the soul), new in his registering of a sense of power which relation to the Ashram always conveys, and new in his joyous reaction to the recognition given him by those to whom he seeks to give help, speaks increasingly of “my work, my group, my teaching, my people, my plans,” and in so doing stabilises himself in his chosen field of service. This is a temporary phase, oft unrecognised by the disciple, though annoying to those who hear. As he proceeds in the spiritual life and intensifies his understanding of the Master, as he enters more deeply into the life of the Ashram and into the aura of his Master, and as his vision grows—revealing possibilities of service and the limitations of his equipment, plus a [550] divine indifference—he drops the possessiveness of his approach to service and regards all that he does as his response to the life of the Ashram, as his contribution to the work of the Ashram, and thus eventually comes to the point where he himself fades out of his own picture and from the centre of his work, and only the need to be met and the power of the Ashram to meet that need remain.

Người sơ cơ và người mới gia nhập vào Ashram, mới trong việc phụng sự của y (từ góc độ kinh nghiệm cuộc sống hiện tại chứ không phải từ góc độ của linh hồn), mới trong việc ghi nhận một cảm giác quyền lực liên quan đến Ashram luôn luôn truyền tải, và mới trong phản ứng hoan hỷ của y đối với sự công nhận của y đối với những người mà y tìm kiếm để giúp đỡ, nói nhiều hơn về “công việc của tôi, nhóm của tôi, giáo huấn của tôi, dân tộc tôi, kế hoạch của tôi” và khi làm như vậy y ổn định trong lĩnh vực mà y chọn phụng sự. Đây là giai đoạn tạm thời, không được người đệ tử nhận ra, dù gây phiền nhiễu cho những người nghe. Khi y tiến triển trong đời sống tinh thần và tăng cường sự hiểu biết của mình về Sư Phụ, khi y đi sâu vào đời sống của Ashram và vào hào quang của Sư Phụ, và khi tầm nhìn của y phát triển—tiết lộ những khả năng của phụng sự và những hạn chế của thiết bị của y , cộng với sự thản nhiên thiêng liêng [550]—y buông bỏ tính chiếm hữu của sự tiếp cận phụng sự của mình, và coi tất cả những gì y làm như phản ứng của y đối với đời sống của Ashram, như sự đóng góp của y đối với công việc của Ashram, và do đó cuối cùng đến điểm mà chính bản thân y biến mất khỏi hình ảnh của chính y và từ trung tâm công việc của y, và chỉ là nhu cầu cần được đáp ứng và sức mạnh của Ashram đáp ứng nhu cầu đó.

This marks a definite step forward, and it is this attitude of selflessness and this capacity to be a channel for the power, the love, the knowledge and the life of the Ashram which constitute in the last analysis what is meant by occult obedience.

Điều này đánh dấu một bước tiến rõ ràng, và chính thái độ vô ngã và khả năng để trở thành một kênh dẫn truyền cho quyền lực, tình thương, kiến ​​thức và đời sống của Ashram, vốn cấu thành, trong phân tích cuối cùng, những gì được hàm ý trong sự vâng lời huyền môn.

You, my brother, are now at a point where you need to fade more definitely out of your own picture of yourself as a worker. The first indication of this deepened approach to service will appear in your speech when in company of your group brothers and of other workers in the field of general human service. I stated in the last instruction to you that “cycles of speech transmute themselves into periods of silence.” What does this mean? Something very simple, my beloved chela. Your service in the world and in your chosen and useful field could at present be characterised by the term “cycles of speech,” could it not? Yet within the Ashram, if those cycles of speech are to be eloquent of truth, the quality which will distinguish you will be the balancing “periods of silence”; in order to acquire this quality of silence (ashramic silence) you will have to learn to practice silence within the ranks of your brothers and co-workers.

Speaking symbolically, and without enlarging upon the significances, it might be stated that an Ashram has three circles (I refer not here to grades or ranks):

Huynh đệ của tôi, bây giờ em đang ở một vị trí mà em cần phải phai mờ đi hơn một cách rõ rệt ra khỏi hình ảnh của chính em về bản thân như là một người làm việc. Dấu hiệu đầu tiên của cách tiếp cận sâu sắc hơn đối với việc phụng sự này sẽ xuất hiện trong phát biểu của em khi em làm việc trong nhóm huynh đệ của em và các người phụng sự khác trong lĩnh vực phụng sự nói chung của con người. Tôi đã nói trong hướng dẫn cuối cùng cho em rằng “chu kỳ của lời nói chuyển hóa thành những giai đoạn im lặng.” Điều này có ý nghĩa gì? Một điều gì đó rất đơn giản, người đệ tử yêu quý của tôi. Công việc phụng sự của em trên thế gian và trong lĩnh vực được lựa chọn và hữu ích của em có thể được mô tả bằng thuật ngữ “chu kỳ phát biểu”, phải không? Tuy nhiên, trong Ashram, nếu những chu kỳ phát biểu đó là hùng biện về chân lý, phẩm chất sẽ phân biệt em sẽ là “những khoảng khắc im lặng” cân bằng; để có được phẩm chất của sự im lặng này (im lặng đạo viện), em sẽ phải học cách thực hành sự im lặng trong hàng ngũ các huynh đệ và đồng nghiệp của em.

Nói một cách biểu tượng ​​và không mở rộng ý nghĩa, có thể nói rằng một Ashram có ba vòng tròn (ở đây tôi không đề cập các cấp bậc):

a. The circle of those who talk and who stand close to the outer door. Their voices may not penetrate too far and thus disturb the Ashram.

b. The circle of those who know the law of silence, but find it hard. They stand within the central part and utter not a word. They know not yet the silence of the Ashram. [551]

c. The circle of those who live within the secret quiet place. They use not words and yet their sound goes forth and when they speak—and speak they do—men listen.

a. Vòng tròn của những người nói chuyện và những người đứng gần cánh cửa ngoài. Tiếng nói của họ có thể không thâm nhập quá xa và do đó làm phiền Ashram.

b. Vòng tròn của những người biết luật của sự im lặng, nhưng thấy điều đó khó. Họ đứng trong phần trung tâm và không nói gì. Họ chưa biết sự im lặng của Ashram. [551]

c. Vòng tròn của những người sống trong nơi yên tĩnh bí mật. Họ không sử dụng lời nói, thế nhưng âm thanh của họ vang vọng, và khi họ nói—và họ có nói—con người lắng nghe.

This triple presentation of the balancing potencies of speech and of silence are the comprehended effects of occult obedience—in itself a voluntary response to the power of the life of the Ashram, and to the mind and the love of the Master of the Ashram. It is upon these potencies I would have you reflect during the coming interlude between this instruction and the next. Make the results of your reflection practical, and thus learn to know when to speak and when to be silent, remembering that the elimination of possessiveness and of self-reference will reduce speech to its spiritual essentials.

Sự thể hiện tam phân này về những năng lực cân bằng của lời nói và sự im lặng là những ảnh hưởng hiểu được của sự vâng lời huyền bí—tự nó là phản ứng tự nguyện đối với sức mạnh của cuộc sống của Ashram, và đối với tâm trí và tình yêu của Chân sư của Ashram. Tôi muốn em suy ngẫm về những sức mạnh này trong khoảng thời gian trung chuyển giữa hướng dẫn này và hướng dẫn tiếp theo. Hãy làm cho kết quả của sự suy ngẫm của em trở nên thực tiễn, và do đó học cách biết khi nào nói và khi nào im lặng, hãy nhớ rằng việc loại bỏ sở hữu và tự tham chiếu sẽ rút lời nói thành các yếu tố thiết yếu tinh thần.

Your next incarnation holds for you a peculiar form of service, for which this life has been preparatory. It is related to speech, to words, to the voice, and to the creative power of sound; for the remainder of this life, the theme of much of your thinking should be concerned with the occult meaning of silence, of voiceless interludes and of the “spiritual retention of sound.” This may, and probably will, manifest itself in an increase of voiced teaching of those you seek to help, but its quality will be different.

Kiếp sống tiếp theo của em sẽ cho em một hình thức phụng sự đặc biệt mà kiếp sống này đã chuẩn bị. Nó liên quan đến lời nói, ngôn từ, tiếng nói, và sức mạnh sáng tạo của âm thanh; trong phần còn lại của cuộc đời này, chủ đề suy nghĩ của em nên liên quan nhiều đến ý nghĩa huyền bí của sự im lặng, của những khoảnh trung gian không nói và của việc “giữ lại âm thanh một cách tinh thần.” Điều này, và có lẽ sẽ, tự biểu hiện trong việc gia tăng giảng dạy bằng lời nói những người mà em mong muốn giúp đỡ, nhưng tính chất của nó sẽ khác đi.

The teaching of the ones you seek to help will blot out the picture of yourself, the teacher, and obliterate it from your mind. This will happen automatically and not by planned intent. Some years ago I could not have told you this; you would not have accepted it. Today you will and will profit thereby. Some years ago you would have wasted time and strength in inner worry, in self-condemnation or in refutation. Today you know better the meaning of occult obedience and the acceptance of the statement and expressed wish of your Master—and this because you know me better and trust me more.

Việc giảng dạy cho những người mà em tìm cách giúp đỡ sẽ xóa đi hình ảnh của chính em, vị huấn sư, và xoá nó khỏi tâm trí của em. Điều này sẽ xảy ra tự động và không phải do ý định được hoạch định. Cách đây vài năm, tôi không thể nói với em điều này; em sẽ không chấp nhận nó. Hôm nay em sẽ chấp nhận và sẽ có lợi từ điều đó. Cách đây vài năm, em đã lãng phí thời gian và sức mạnh trong sự lo lắng bên trong, tự kết án hoặc bác bỏ. Hôm nay em biết rõ hơn về ý nghĩa của sự vâng lời huyền bí và chấp nhận lời tuyên bố và ước muốn được diễn đạt của Sư Phụ em—và điều này xảy ra bởi vì em biết tôi tốt hơn và tin tưởng tôi nhiều hơn.

Let me give you a visualisation exercise to be followed by you each Sunday morning, every Friday morning, and for the five days which come at the time of the Full Moon each month. In company of your group brothers, you have for [552] years visualised me standing by an open window, and you have thus sought contact with me. This trained facility forms the basis of the following suggested exercise, the procedure of which is as follows:

Tôi sẽ cho em một bài tập hình dung để thực hành vào mỗi sáng chủ nhật, mỗi sáng thứ Sáu và trong năm ngày vào mỗi thời điểm Trăng Tròn mỗi tháng. Trong nhóm huynh đệ của em, em đã [552] nhiều năm hình dung thấy tôi đang đứng bên cửa sổ mở, và em đã tìm cách tiếp xúc với tôi. Cơ sở đào tạo này là nền tảng cho bài tập được gợi ý sau đây, trình tự của nó như sau:

1. Picture to yourself a wood of pine trees, a purling brook, a winding, mounting path, and at the end a low built bungalow of undressed wood, in which I live. With you are walking your group brothers, and all of you are talking on the way.

1. Hãy hình dung một khu rừng thông, một dòng suối róc rách, một con đường dốc lên uốn lượn, và cuối cùng là một cái nhà gỗ thấp, nơi mà tôi đang sống. Các huynh đệ của em đang đi bộ cùng em, và tất cả các em đang nói chuyện trên đường.

2. You stand before the door, the outer door, and pass inside and hear a voice which says, “You stand within the circle of those who talk and, talking, cannot hear the Master’s voice.” Stand there. Listen. Reflect and cease from speech.

2. Em đứng trước cánh cửa, cánh cửa bên ngoài, đi qua vào bên trong và nghe một tiếng nói, “Em đứng trong vòng những người nói chuyện, và đang nói, không thể nghe tiếng của Sư Phụ.” Đứng ở đó. Nghe. Suy nghĩ và ngừng nói.

3. Picture a curtain, hanging across the space near to the place where you stand. Imagine yourself achieving, with effort, that complete silence which will enable you to hear a voice which says, “Move forward into the circle of those who know the Law of Silence. You now can hear my voice.” Then imagine yourself obeying the summons and passing beyond the partitioning curtain into the central room within my place of retreat. There sit in quietude and contemplative reflection, and listen.

3. Hình dung một bức màn, treo ngang không gian gần nơi em đứng. Hãy tưởng tượng em đạt được, với nỗ lực, sự im lặng hoàn toàn cho phép em nghe một giọng nói vang lên “Hãy tiến lên phía trước vào vòng tròn của những người biết Luật Yên lặng. Bây giờ em có thể nghe thấy tiếng của tôi.” Sau đó hãy tưởng tượng em tuân theo lệnh triệu tập và vượt qua bức màn phân chia vào phòng trung tâm nơi tôi ẩn dật. Ở đó, em ngồi trong sự suy nghĩ tĩnh lặng và chiêm nghiệm, lắng nghe.

4. Then across the silence and breaking into the current of your quiet thought will come a voice, inviting you to enter the circle of those who live within the secret quiet place.

You will note, my brother, how I emphasise for you the need to listen. That must be the keynote of your inner life for the remainder of this incarnation. When you can thus listen, the two other principles to which I earlier referred as governing the life of the Ashram—Group Integration and Right of Access—will take on new and vital meanings to you. Within the circle of those who talk there is no group integration. Right of access comes to those who know the Law of Silence.

4. Sau đó một tiếng nói vang lên xuyên qua sự im lặng và phá vỡ vào dòng suy nghĩ yên tĩnh của em, mời em vào vòng tròn của những người sống trong nơi yên tĩnh bí mật.

Em sẽ lưu ý, huynh đệ của tôi, tôi nhấn mạnh cho em sự cần thiết phải lắng nghe như thế nào. Đó phải là điểm mấu chốt của cuộc sống bên trong của em cho phần còn lại của kiếp sống này. Khi em có thể lắng nghe, hai nguyên tắc khác mà tôi đã đề cập trước đây như là điều khiển đời sống của Đạo Viện—Hội nhập Ashram và Quyền Truy cập—sẽ mang những ý nghĩa mới và quan trọng đối với em. Bên trong vòng tròn của những người nói chuyện không có sự hội nhập nhóm. Quyền tiếp cận chỉ đến với những người biết Luật Tĩnh lặng.

[553]

This exercise will deepen your life, increase your capacity to serve, make pregnant every word you speak to those you teach, and bring you to a point of group usefulness next life. Then you will carry out certain work that you and I together have already planned.

Bài tập này sẽ làm sâu sắc thêm cuộc sống của em, nâng cao khả năng của em để phụng sự, làm phong phú mọi từ em nói với những người em dạy, và đưa em đến một điểm hữu ích cho nhóm trong kiếp sống tiếp theo. Khi đó, em sẽ thực hiện một số công việc mà em và tôi đã cùng nhau đã lên kế hoạch.

November 1944

MY BROTHER:

If you will reread the instructions which I gave you last year, I think you will realise that there is little that I need add to them. I gave you an instruction which through its directive injunction covered the remainder of your life events—as I foresaw them.

You have lived for years at the high point of tension. Fire has been the quality of your life. This fire was at first destructive, but in later years it has been warming and nurturing. I think you know that sound and fire are closely allied. I think you know also that disciples are gathered by the Masters into Their Ashrams when their sound has gone forth and when the fire that is in them has successfully burned away the intervening barriers between the soul and the personality. Then their sound can safely be added to the sound of the Ashram, enriching its volume, adding quality to its tone, and conveying the needed creative qualities.

Huynh dệ của tôi,

Nếu em đọc lại những huấn thị mà tôi đã ban cho em năm ngoái, tôi nghĩ em sẽ nhận ra rằng sẽ có rất ít điều mà tôi cần thêm vào. Tôi đã cho em một chỉ dẫn mà thông qua huấn lệnh chỉ thị của nó bao gồm những sự kiện cho phần còn lại của cuộc đời em—như tôi đã nhìn thấy trước.

Em đã sống nhiều năm ở điểm cao của căng thẳng. Lửa đã là phẩm chất của đời sống em. Ban đầu, lửa này tàn phá, nhưng trong những năm sau nó đã ấm áp và nuôi dưỡng. Tôi nghĩ em biết âm thanh và lửa liên kết chặt chẽ nhau. Tôi nghĩ em cũng biết rằng các đệ tử được các Chân sư tụ tập lại vào Ashram của các Ngài khi âm thanh của họ đã vang lên và khi ngọn lửa trong họ đã đốt cháy thành công những rào cản ngăn cản giữa linh hồn và phàm ngã. Khi đó, âm thanh của họ có thể được an toàn thêm vào âm thanh của Ashram, làm phong phú âm lượng của nó, thêm chất lượng cho giai điệu, và chuyển tải những phẩm chất sáng tạo cần thiết.

The next few years will not be easy ones for you, my brother. Be not over-anxious over anything that may eventuate. Speaking symbolically, I might express your future thus: The nature of fire will be brought more clearly and essentially to your attention; fire will be the subject of your thinking. Do not infer from this that I am indicating to you the way of fire, of pain or of sorrow. Such is not my intention. I do not mean that the future holds for you any passing through the fires of purification. You have moved across the burning-ground—as have all your group brothers. The whole of mankind is passing en masse through the fires which precede the first initiation. Every disciple creates his own burning-ground; he then takes his stand within it, and eventually [554] passes out of it to stand before the Angel of the Presence, at the very door of initiation. These are to you the platitudes of the Path and require from me no explanation.

Những năm tiếp theo sẽ không dễ dàng cho em, huynh đệ của tôi. Đừng quá lo lắng về bất cứ điều gì có thể xảy ra. Nói một cách biểu tượng, tôi có thể diễn tả tương lai của em như sau: Bản chất của lửa sẽ rõ ràng hơn và về cơ bản cho sự quan tâm của em ; lửa sẽ là chủ đề cho suy nghĩ của em. Đừng suy luận từ điều này rằng tôi đang chỉ cho em con đường của lửa, của đau đớn hay buồn khổ. Đó không phải là ý định của tôi. Tôi không hàm ý rằng trong tương lai em sẽ đi qua các bất kỳ ngọn lửa thanh lọc nào. Em đã bước qua vùng đất cháy (burning-ground)—cũng như tất cả huynh đệ trong nhóm của em. Toàn thể nhân loại đang ồ ạt bước qua ngọn lửa vốn đi trước cuộc điểm đạo thứ nhất. Mọi đệ tử đều tạo ra vùng đất cháy của riêng mình; sau đó y đứng trong đó, và cuối cùng [554] đi ra khỏi nó để đứng trước Thiên thần của Sự Hiện Diện (Thiên Thần của Hằng Hữu), ngay chính cửa điểm đạo. Với em đây là những lời quá quen thuộc của Đường Đạo và không cần tôi giải thích.

There is one fire, however, with which you should now concern yourself. I would call it “the fire of comprehension.” It is closely related to the blinding light of realisation, but ever precedes it because it destroys all the glamours which may hide or veil the immediate point of illumination for the disciple. You have approached this fire from the standpoint of the emotional nature and it has been associated in your mind with the waters of the astral plane, thus producing the symbols of mist and fog which are ever caused by the bringing together of fire and water. This concept has conditioned your thinking. I would have you now consider glamour in the light of the fires of comprehension. There comes a time in the disciple’s life when he must assume that he knows; he must take the position that he comprehends, and must proceed to act upon the comprehended knowledge. That is definitely the point that you have now reached.

Tuy nhiên, có một ngọn lửa mà bây giờ em phải quan tâm. Tôi gọi đó là “ngọn lửa của hiểu biết”. Nó liên quan chặt chẽ với ánh sáng chói lòa của sự nhận thức, nhưng bao giờ cũng đi trước nó bởi nó phá hủy tất cả những ảo cảm có thể che đậy hay che giấu điểm giác ngộ sáng trước mắt của người đệ tử. Em đã tiếp cận ngọn lửa này từ quan điểm của bản chất cảm xúc, và trong tâm trí của em, nó đã liên kết với các dòng nước của cõi giới trung giới, do đó tạo ra các biểu tượng của sương mù vốn luôn được tạo ra do việc mang lửa và nước lại với nhau. Khái niệm này đã điều chỉnh những suy nghĩ của em. Bây giờ tôi muốn em xem xét ảo cảm trong ánh sáng của những ngọn lửa của hiểu biết. Có một thời gian trong cuộc đời của người đệ tử khi anh ta phải thừa nhận rằng anh ta biết; anh ta phải đảm nhiệm vị trí rằng anh ta hiểu, và phải tiến hành hành động theo các kiến thức đã được thấu hiểu. Đó chắc chắn là điểm mà em đã đạt tới.

The results of this definite assumption, and of the activities which it initiates, are oft surprising and apt to be painful; that is why the symbol of fire is again appropriate at this point.

Kết quả của hiểu biết chắc chắn này, và của các hoạt động mà nó khởi xướng, thường đáng ngạc nhiên và có khuynh hướng gây đau đớn; đó là lý do tại sao biểu tượng của lửa lại thích hợp vào thời điểm này.

Act in the future “as if” there are for you no more glamours, and see, my brother, what will eventuate. Endeavour always to live within the Ashram, which is insulated from glamour, and act “as if” the consciousness of the Ashram was intrinsically your consciousness. Go forth to the service which you are rendering “as if” you remained immovable in the Ashram; live always “as if” the eyes of the entire Ashram were upon you. For the remainder of your life let the esoteric philosophical concept “as if” actuate all you do. It is this constant awareness which the two words “as if” embody that will produce in you a fresh use of the creative imagination.

Trong tương lai, hãy hành động “như thể” với em không còn ảo cảm nữa, và, huynh đệ của tôi, hãy xem những gì sẽ xảy ra. Nỗ lực để luôn sống trong Ashram, cách ly khỏi ảo cảm, và hành động “như thể” tâm thức của Ashram thực chất là tâm thức của em. Hãy tiến bước thực hiện các công việc phụng sự mà em đang làm “như thể” em vẫn ở lại không lay chuyển trong Ashram; luôn luôn sống “như thể” đôi mắt của toàn bộ Ashram đang theo dõi em. Trong suốt phần còn lại của cuộc đời em, hãy để cho khái niệm triết học bí truyền “như thể” điều khiển tất cả những gì em làm. Chính sự nhận thức liên tục mà hai từ “như thể” thể hiện sẽ tạo ra trong em một tơi sử dụng mới mẻ của sự tưởng tượng sáng tạo.

Some time ago I told the group that initiation was simplification. Therefore, simplify your remaining years by ever acting “as if.” Through this living process you will let loose the fires of comprehension. I wonder if I am making some idea of value clear to you? Govern yourself always “as if” [555] your divine comprehension was perfected and the result in your daily life will be “as if” all concealed glamours and all hiding deceptive veils were non-existent. The disciple acts “as if” he were initiate and then discovers that “as a man thinketh in his heart so is he,” because the heart is the custodian of the power of the imagination. The imagination is released into creative activity when the disciple acts “as if” he were the soul in full expression, “as if” the Master were ever aware of the doings of His disciple, “as if” he walked in full liberation consciously. For you, these two words will bring release and happiness.

Một thời gian trước đây, tôi đã nói với nhóm rằng điểm đạo là sự đơn giản hóa. Do đó, đơn giản hóa những năm còn lại của em bằng cách hành động “như thể.” Thông qua quá trình sống này, em sẽ đánh mất những ngọn lửa của sự hiểu biết. Tôi tự hỏi tôi có làm một số ý tưởng về giá trị rõ ràng với em hay không? Hãy luôn hành xử “như thể” [555] sự hiểu biết thiêng liêng của em đã hoàn thiện, và kết quả trong cuộc sống hàng ngày của em sẽ “như thể” tất cả những ảo cảm ẩn giấu và tất cả những màn che lừa gạt đều không tồn tại. Người đệ tử hành động “như thể” anh ta là điểm đạo đồ và sau đó phát hiện ra rằng “một người suy nghĩ như thế nào trong trái tim thì y sẽ như thế nấy,” bởi vì trái tim là cái cất giữ quyền năng của sự tưởng tượng. Sự tưởng tượng được phóng thích vào hoạt động sáng tạo khi người đệ tử hành động “như thể” y là linh hồn biểu hiện đầy đủ, “như thể” Chân sư luôn biết được những hành động của người đệ tử của Ngài, “như thể” y bước đi trong sự giải thoát hoàn toàn một cách có ý thức. Đối với em, hai từ này sẽ mang lại sự giải thoát và hạnh phúc.

The trends of your life and service are established. Seek not to change them. The fund of knowledge which you have accumulated in this life is very real. Draw, however, what you need for your teaching work from the ancient reservoir of wisdom, and not so much from the pool of knowledge. Deepen your meditation and intensify the inner silence within which it is desirable that you should live. Think humbly, speak wisely and work ceaselessly. The opportunity today is great for all disciples everywhere, and the potencies at their disposal are more vital than ever before. Link up with me each day and count on my sustaining love.

Các xu hướng của cuộc sống và công việc phụng sự của em được thiết lập. Đừng tìm cách thay đổi chúng. Lượng kiến thức mà em đã tích lũy trong cuộc sống này là rất thực. Tuy nhiên, hãy lấy những gì em cần cho công việc giảng dạy của em từ kho chứa xưa của minh triết, chứ đừng lấy nhiều từ kho tri thức. Hãy làm sâu sắc hơn sự tham thiền của em và tăng cường sự im lặng bên trong, mà trong đó em nên sống. Hãy suy nghĩ khiêm nhường, nói một cách khôn ngoan và làm việc không ngừng nghỉ. Cơ hội ngày hôm nay rất lớn cho tất cả các đệ tử ở khắp nơi, và sức mạnh của chúng là quan trọng hơn bao giờ hết. Hãy kết nối với tôi mỗi ngày và dựa vào tình yêu bền vững của tôi.

August 1946

MY FRIEND OF MANY YEARS:

I know how greatly distressed you will be at the termination of our outer (not the inner) fellowship; forget not that the outer fellowship was only the sign of a strong, vital and unshatterable inner fellowship. The inner relation of the group to me and to the Ashram and towards each other is as strong as it has ever been; it is in no wise altered. Because of the very real progress you have made in freeing yourself from glamour, that fellowship can now become even more intimate. I can reach you more easily than in the past. I am telling you this because I know it will reassure you and because I know you will not take advantage of it. The further a disciple penetrates into the Ashram, the less need he finds for contact with the Master; he comes to realise the extent of [556] the Master’s responsibilities and arrives at a juster value of his own relative unimportance. He then submits himself to “the sustaining aura of the Ashram.”

Tôi biết em sẽ đau khổ như thế nào khi chấm dứt mối liên hệ bên ngoài (không phải bên trong) của chúng ta; đừng quên rằng sự liên hệ bên ngoài chỉ là chỉ dẫn của một mối liên hệ nội tại mạnh mẽ, sống động và không thể lay chuyển. Mối quan hệ bên trong của nhóm đối với tôi, với Ashram và đối với nhau là mạnh mẽ như nó đã từng là; nó không hề thay đổi. Vì sự tiến bộ thực sự mà em đã thực hiện trong việc giải phóng bản thân khỏi ảo cảm, sự liên hệ đó bây giờ có thể trở nên gần gũi hơn. Tôi có thể tiếp cận em dễ dàng hơn so với quá khứ. Tôi nói với em điều này bởi vì tôi biết rằng nó sẽ trấn an em và vì tôi biết em sẽ không lợi dụng nó. Một đệ tử càng thâm nhập vào Ashram, thì càng ít cần tìm gặp Sư Phụ; y nhận ra mức độ trách nhiệm của Sư Phụ và đạt đến một giá trị đáng công nhận về sự không quan trọng của y. Sau đó y tự qui phục “hào quang duy trì của Ashram.”

In my last two communications to you I left you with the impression that I had already given you as much teaching as would serve to carry you through this life. I urged on you a steadfast adherence to established spiritual habits. Enough emphasis is seldom put on the necessity for such a stabilisation of spiritual rhythm, and too much emphasis is frequently laid upon that which is new and on progress. Yet disciples have to learn to turn their spiritual habits into instinctual spiritual responsiveness; this is the higher correspondence to the instinctual animal reactions with which we are all familiar. When this has been achieved, the disciple can then depend upon himself automatically to do or say the right thing; more important still, the Master can count upon him, knowing that he can be depended upon. He is then “permitted to move throughout the Ashram without impediment, and all the Plan is safe with him.” This is what I want you to aim at in your remaining years, so that you will (in your next life) from childhood, express the way of the disciple.

Trong hai liên lạc cuối cùng của tôi với em, tôi đã để lại cho em ấn tượng rằng tôi đã cho em nhiều lời dạy sẽ đưa em qua cuộc đời này. Tôi kêu gọi ở em một sự kiên định tuân thủ các thói quen tinh thần đã được thiết lập. Ít khi có đủ nhấn mạnh vào sự cần thiết cho việc ổn định nhịp điệu tinh thần như vậy, và thường có quá nhiều nhấn mạnh được đặt vào những cái mới và tiến bộ. Tuy nhiên, các đệ tử phải học cách biến những thói quen tinh thần của họ thành nhưng phản ứng tinh thần tự nhiên; đây là sự tương ứng cao hơn với các phản ứng động vật bản năng mà chúng ta đều quen thuộc. Khi điều này đã đạt được, người đệ tử có thể tự động dựa vào chính mình để hành động hoặc nói một cách đúng đắn; và quan trọng hơn, Chân sư có thể tin tưởng vào anh ta, biết rằng anh ta có thể được dựa vào. Sau đó anh ta “được phép di chuyển khắp Ashram mà không có trở ngại, và tất cả Kế hoạch đều an toàn với anh ta”. Đây là những gì tôi muốn em hướng đến trong những năm còn lại của em, để trong kiếp sống sau, em sẽ thể hiện con đường đệ tử ngay từ thơ ấu.

In my last instruction to you I gave you the injunction to act as if the ideal which you have set before yourself was an accomplished fact. This as if behaviour is one of the most occult of practices. It in reality presupposes the imposition of the highest grasped aspiration upon the normal personality in the form of changed behaviour. This injunction is not the same in meaning as the injunction “as a man thinketh in his heart, so is he.” That injunction, if rightly followed, brings about the imposition of mental control upon the personality; it affects the brain, and therefore the two lower vehicles. The as if type of behaviour (for the disciple) brings in a still higher factor than that of thought; it involves the constant attempt to live as if the soul (not the mind but through the mind) is in constant control and the dominating aspect of expression.

Trong hướng dẫn cuối cùng của tôi cho tôi, tôi đã ban cho em huấn thị chỉ đạo để hành động như thể cái lý tưởng mà em đã đặt ra cho chính em đã là một thực tế đã được hoàn tất. Hành động như thể là một trong những thực hành huyền linh nhất. Trên thực tế, nó giả định việc áp đặt nguyện vọng cao nhất lên phàm ngã bình thường dưới dạng hành vi đã thay đổi. Chỉ thị này không có cùng nghĩa như chỉ thị “con người nghĩ như thế nào trong trái tim mình, y sẽ như vậy.” Chỉ thị đó, nếu được tuân theo đúng đắn, sẽ dẫn đến việc áp đặt sự kiểm soát trí tuệ lên phàm ngã; nó ảnh hưởng đến bộ não, và do đó hai thể thấp hơn. Loại hành động như thể (đối với người đệ tử) mang lại một yếu tố còn cao hơn tư tưởng; nó liên quan đến nỗ lực không ngừng để sống như thể là linh hồn (chứ không phải là cái trí, mà là thông qua cái trí) luôn ở trong sự kiểm soát liên tục và là khía cạnh thống trị của biểu hiện.

This may involve close thinking about the soul and its relation to the personality, but it is a great deal more than [557] just that. It necessitates, when correctly applied, the growing automatic control of the entire lower threefold man by the soul. I am going to give you six themes for meditation built around the as if idea. These will cover one year’s work. I would like to see you take these themes and give them full consideration for three years. At the end of that time you will probably wish to go over all the work again, on a higher level and with a deeper intent.

Điều này có thể liên quan đến suy nghĩ gần gũi về linh hồn và mối quan hệ của nó với phàm ngã, nhưng nó còn nhiều hơn điều đó [557]. Điều này đòi hỏi, khi được áp dụng đúng cách, sự kiểm soát tự động ngày càng tăng của linh hồn với toàn bộ phàm ngã. Tôi sẽ cung cấp cho em sáu chủ đề để tham thiền được xây dựng xung quanh ý tưởng như thể. Những ý tưởng này sẽ bao gồm một năm làm việc. Tôi muốn thấy em xem xét những chủ đề này, và xem xét đầy đủ trong ba năm. Vào cuối thời gian đó, em có thể sẽ muốn làm lại tất cả các công việc một lần nữa, ở một cấp cao hơn và với một ý định sâu sắc hơn.

1. Sound the OM inaudibly three times, as a physical person, as an emotional person, and as a mind.

Then sound the OM as the soul.

2. Themes for meditative reflection:

1. Xướng linh từ OM vô âm ba lần, như một con người vật lý, như một con người cảm xúc, và như một thể trí.

Sau đó xướng linh từ OM như linh hồn.

2. Các chủ đề để suy ngẫm tham thiền:

a. What, in your life, would happen if you really acted as if the soul were sounding the OM?

b. If you are truly thinking as if the mind were the instrument of the soul, what lines of thought will you have to eliminate, cultivate or express?

c. If you are realistically living as if the soul were visible in your daily life, what will happen to the astral body?

d. Provided the as if theory were controlling your physical brain and consequently your daily activities, in what way would it alter your mode of living? (This is not the same as question a.)

e. Do you understand clearly the difference between the “as a man thinketh…,” and the as if modes of procedure? How do they differ in application?

a. Điều gì trong cuộc đời của em sẽ xảy ra nếu em thực sự hành động như thể linh hồn đang xướng linh từ OM?

b. Nếu em đang thực sự suy nghĩ như thể cái trí là công cụ của linh hồn, em nghĩ những dòng tư tưởng nào sẽ phải loại trừ, bồi đắp hay thể hiện?

c. Nếu thực tế em sống như thể linh hồn hữu hình trong cuộc sống hàng ngày của em, điều gì sẽ xảy ra với thể cảm xúc?

d. Miễn là lý thuyết như thể đã kiểm soát não bộ của em và do đó các hoạt động hàng ngày của em, nó sẽ làm thay đổi cách sống của em như thế nào? (Câu hỏi này không giống câu hỏi a.)

e. Em có hiểu rõ sự khác biệt giữa ” một người suy nghĩ như thế nào…,” và phương thức thủ tục như thể? Chúng khác nhau trong ứng dụng như thế nào?

f. What qualities would your particular mechanism or personality demonstrate if you acted as if you were anchored in the Ashram and not just on the periphery? Do not be vague in this reply, but be extremely personal in your analysis of the situation.

3. Then, as if you were consciously standing before your Master and definitely aware of my presence, dedicate yourself to the service of the Ashram for this life and the next.

4. Say the new Invocation, sounding the OM after each stanza. [558]

f. Những phẩm chất nào mà cơ chế hoặc phàm ngã đặc biệt của em sẽ thể hiện nếu em hành động như thể em đang an trụ trong Ashram chứ không chỉ ở ngoại vi? Đừng mơ hồ trong việc trả lời câu này, nhưng hãy cực kỳ cá nhân trong việc phân tích tình huống của em.

3. Sau đó, như thể em đang đứng một cách có ý thức trước mặt Chân sư của em và chắc chắn nhận thức được sự hiện diện của tôi, hãy dâng hiến cho việc phụng sự Ashram trong kiếp sống này và kiếp sống tiếp theo.

4. Đọc lời Khân Nguyện mới, xướng linh từ OM sau mỗi đoạn. [558]

5. Sound the OM at as high a point in consciousness as possible.

Then, my brother, go your way in peace, knowing the ferment of living energies within you will enable you to act as if you were the soul. This will be a growing, conscious experience. Know too that I, your Master and your friend, will also be aware of it. My love surrounds you and the link remains unbroken.

5. Xướng linh từ OM ở mức tâm thức cao nhất có thể được .

Sau đó, huynh đệ của tôi, hãy đi con đường bình an của em, biết rằng sự lên men của năng lượng sống trong em sẽ cho phép em hành động như thể em là linh hồn. Đó sẽ là một trải nghiệm có ý thức ngày càng tăng. Hãy biết rằng tôi, Chân sư và huynh đệ của em, cũng sẽ nhận thức được nó. Tình thương của tôi ở quanh em và mối liên kết vẫn không gián đoạn.

5 Comments

  1. Jupiter Nguyen

    _ ” Hành động như thể là một trong những thực hành huyền linh nhất. Trên thực tế, nó giả định việc áp đặt nguyện vọng cao nhất lên phàm ngã bình thường dưới dạng hành vi đã thay đổi. Chỉ thị này không có cùng nghĩa như chỉ thị “con người nghĩ như thế nào trong trái tim mình, y sẽ như vậy.” Chỉ thị đó, nếu được tuân theo đúng đắn, sẽ dẫn đến việc áp đặt sự kiểm soát trí tuệ lên phàm ngã; nó ảnh hưởng đến bộ não, và do đó hai thể thấp hơn. Loại hành động như thể (đối với người đệ tử) mang lại một yếu tố còn cao hơn tư tưởng; nó liên quan đến nỗ lực không ngừng để sống như thể là linh hồn (chứ không phải là cái trí, mà là thông qua cái trí) luôn ở trong sự kiểm soát liên tục và là khía cạnh thống trị của biểu hiện. ”

    . Thật khó giải thích ý nghĩa của cụm từ ” as if ” ( như thể ) , vì vậy tôi hiểu như thế nào thì nói như thế đó.

    . Trước tiên phải hiểu lý do tại làm sao mà một người nào đó có thể hiểu được những suy nghĩ , tình cảm , tư tưởng cũng như những gì mà kẻ khác sẽ hành động. Lý do là y đã dùng quyền năng của sự tưởng tượng để tự đặt mình vào vị trí của đối tượng mà y muốn tìm hiểu như thể ( as if) y chính là đối tượng đó.

    . Tóm lại ý tôi muốn nói rằng kỹ thuật hành động ” như thể ” ( as if ) là một kỹ thuật dùng quyền năng của sự tưởng tượng kết hợp với hoạt động sáng tạo để có thể hiểu được người khác đang nghĩ gì và sẽ hành động như thế nào bằng cách tưởng tượng người kia chính ta trước đây. ( Mặc dù ta đã thay đổi và sẽ không suy nghĩ hay hành động như thế nữa nhưng người kia chưa thay đổi nên sẽ suy nghĩ và hành động như ta đã suy nghĩ và hành động )

    . Tóm lại nói một cách ngắn gọn thì ta chỉ có thể hiểu được những suy nghĩ , tình cảm và những gì người khác sẽ làm hay hành động chỉ khi nào ” người kia chính là ta trước đây ” . ( chính quyền năng của sự tưởng tượng và hoạt động sáng tạo giúp ta làm được điều đó )

    . Do đó tôi cảm thấy rằng kỹ thuật hành động ” như là ” ( as if ) là một nghệ thuật sống rất cao siêu và khi thành thạo thì nó thật sự là một quyền năng.

    • webmaster

      Có lẽ Jupiter Nguyễn nên đọc lại đoạn nói về kỹ thuật “như thể”. Nó không phải là:

      một kỹ thuật dùng quyền năng của sự tưởng tượng kết hợp với hoạt động sáng tạo để có thể hiểu được người khác đang nghĩ gì và sẽ hành động như thế nào bằng cách tưởng tượng người kia chính ta trước đây. ( Mặc dù ta đã thay đổi và sẽ không suy nghĩ hay hành động như thế nữa nhưng người kia chưa thay đổi nên sẽ suy nghĩ và hành động như ta đã suy nghĩ và hành động ).

      Đây là đoạn văn của đức DK:

      Một thời gian trước đây, tôi đã nói với nhóm rằng điểm đạo là sự đơn giản hóa… Hãy luôn hành xử “như thể” [555] sự hiểu biết thiêng liêng của em đã hoàn thiện, và kết quả trong cuộc sống hàng ngày của em sẽ “như thể” tất cả những ảo cảm ẩn giấu và tất cả những màn che lừa gạt đều không tồn tại. Người đệ tử hành động “như thể” anh ta là điểm đạo đồ và sau đó phát hiện ra rằng “một người suy nghĩ như thế nào trong trái tim thì y sẽ như thế nấy,” bởi vì trái tim là cái cất giữ quyền năng của sự tưởng tượng. Sự tưởng tượng được phóng thích vào hoạt động sáng tạo khi người đệ tử hành động “như thể” y là linh hồn biểu hiện đầy đủ, “như thể” Chân sư luôn biết được những hành động của người đệ tử của Ngài, “như thể” y bước đi trong sự giải thoát hoàn toàn một cách có ý thức. Đối với em, hai từ này sẽ mang lại sự giải thoát và hạnh phúc.

      Nếu người đệ tử lúc nào cũng tưởng chừng như thể con mắt của Chân sư thấy và biết những gì mình làm, thì họ sẽ hành động ra sao? hoặc “luôn luôn sống “như thể” đôi mắt của toàn bộ Ashram đang theo dõi.” Khi đó, ta sẽ cố gắng sống trong sự hiện diện của Chân sư hoặc linh hồn 24 giờ /ngày. Kỹ thuật này khác với huấn lệnh “con người nghĩ thế nào trong trái tim thì y sẽ trở thành như thế ấy. Khi bạn nghĩ đến điều tốt đẹp, đối nghịch với điều xấu xa, thì cái đẹp sẽ dần thay thế cái xấu trong tâm trí, nhưng ảnh hưởng đến từ hạ trí. Còn trong “As If“, sức mạnh đến từ linh hồn, tác động thông qua thể trí nên sẽ mạnh hơn nhiều. Nó là kỹ thuật thực tập kết nối vối linh hồn thường xuyên, tạo ra sự tích hợp giữa phàm ngã và linh hồn ngày càng tăng. IBS là đệ tử thực thụ mới được chấp nhận, nên Ngài dạy kỹ thuật này để tăng cường sự tích hợp với linh hồn. Nó không phải là nghĩ về cái ta trước đây, mà là nghĩ dường như thể “linh hồn hay Chân sư đang theo dõi từng hành động của chúng ta, dường như thể chúng ta không còn ảo cảm…”

  2. HQKhanh

    Xin chào các vị sư huynh. Lâu ngày, đệ mới quay lại ngôi nhà minhtrietmoi, và cảm giác thực là hoan hỷ khi được gặp lại các huynh.

    Đệ xin phép được đưa ra một vài suy ngẫm về chủ đề này, do bởi, việc học tập theo các lời khuyên của Đức DK dành cho đệ tử thì khó khăn, vậy nên, chúng ta có thể cùng nhau xây dựng, bằng cách nghiền ngẫm và trình bày các luận điểm. Đệ nghĩ về minhtrietmoi như một ngôi nhà và là một tập thể những người huynh đệ đồng chí hướng.

    Một người suy nghĩ như nào trong trái tim” là việc tạo hình tư tưởng mà hình tư tưởng này nếu được xây dựng theo các phẩm tính, trạng thái, tính chất đúng đắn sẽ tạo một từ lực, mà lực này thu hút sự chú ý của linh hồn, đang trong cơn thiền định thâm sâu trên cõi riêng của mình. Khi đó, linh hồn sẽ đáp ứng với “hình bóng” của mình và tuôn đổ năng lượng làm sinh động hình tư tưởng ấy. Đây có lẽ là phương thức đi từ ngoại vi vào trung tâm.

    Kĩ thuật “như thể” dành cho những người đã có sự tiếp xúc với linh hồn và nhờ thế, đã phần nào có được sự giác ngộ, sự thấu hiểu và tình thương. Chính ba yếu tố này hình thành lên trực giác. Chúng ta đều biết, chỉ có trực giác mới xua tan được ảo cảm. “Hãy luôn hành xử “như thể” sự hiểu biết thiêng liêng của em đã hoàn thiện, và kết quả trong cuộc sống hàng ngày của em sẽ “như thể” tất cả những ảo cảm ẩn giấu và tất cả những màn che lừa gạt đều không tồn tại”. Dưới ánh sáng trong trẻo của trực giác, với tính chất không thể sai lầm, thì “tất cả những ảo cảm ẩn giấu và tất cả những màn che lừa gạt đều không tồn tại”.

    IBS là một vị đệ tử, già dặn hơn chúng ta, những người sơ cơ, rất nhiều. Bà đã là nạn nhân của ảo cảm và từ đó đạt được hiểu biết và kinh nghiệm của ảo cảm, vì vậy ánh sáng trực giác có thể tuôn đổ mà không phải gặp trở ngại nhiều. Có thể yếu tố “giác ngộ” của trực giác, với việc làm sáng tỏ thể trí, đã trợ giúp cho bà rất nhiều trong việc mang ánh sáng soi rõ thể cảm xúc.

    Đây có lẽ là phương thức đi từ trung tâm ra ngoại vi. Chúng ta chưa đạt được linh hồn thức, và vì vậy chưa biết được tập thể thức. Bản thân IBS đã là một đệ tử trong Ashram, và ngày càng tiến sâu vào vòng trong của Ashram. Đó là người đã hành động như một tập thể, theo các mục tiêu và kế hoạch của tập thể và vì vậy tiếp xúc được với trung tâm năng lượng của nhóm. Có những sự khác biệt cần phải làm rõ, vì vận dụng phương pháp cho phù hợp với trình độ luôn rất quan trọng. Sự an toàn, khả năng thành tựu, hiệu quả ứng dụng trong phụng sự đều phụ thuộc vào đó.

    “Sự tưởng tượng được phóng thích vào hoạt động sáng tạo khi người đệ tử hành động ‘như thể‘ y là linh hồn biểu hiện đầy đủ”. Một linh hồn biểu hiện đầy đủ có thể là cách nói khác của nguyên lí Bác Ái đã được khai mở và được vận dụng triệt để. Chính từ vị trí này mà bà đã đạt được sự Minh Triết vì Minh Triết là việc vận dụng Tình thương thông qua hoạt động sáng tạo. Lớp cánh hoa bác ái của linh hồn bà đã được khai mở và vì vậy, bà chuyển từ phòng học tập, nơi mà tri thức được tích lũy thông qua kinh nghiệm, bước vào phòng Minh triết. Bấy giờ, bà có khả năng “hãy lấy những gì em cần cho công việc giảng dạy của em từ kho chứa xưa của minh triết, chứ đừng lấy nhiều từ kho tri thức“. Đó là một đặc quyền và là di sản của một người Con của Thượng Đế. Ngoài ra, “hoạt động sáng tạo” với mục đích thực hiện Thiên Cơ trên cõi trần, chỉ được thực hiện trên cấp độ linh hồn. Ngài đã từng nói, phải mất rất nhiều thời gian, mới đạo tạo được một nhà huyền thuật chánh đạo. Theo khái niệm Ngài đưa ra, hoạt động huyền thuật dành cho linh hồn, vì tình chất không thể sai lầm, hướng tới tập thể và có động cơ là Bác Ái. Đối với chúng ta, ánh sáng phàm ngã có thể mới thức động, ánh sáng linh hồn chưa được nhận biết, ánh sáng trí tuệ chưa được kiểm soát. Khi ba ánh sáng hợp nhất, thì những khả năng sáng tạo thiêng liêng mới được phó thác. Có lẽ vì vậy mà chúng ta cần đánh giá đúng tình trạng của mình trước khi học theo phương pháp của một vị Đệ tử.

    Ở câu, “như thể Chân sư luôn biết được những hành động của người đệ tử của Ngài” Chúng ta đều biết rằng, chỉ khi tiếp xúc với linh hồn của mình, tiếp theo đến nhóm Linh hồn, thì sự tiếp xúc với vị Chân Sư mới được thiết lập. Việc này cũng đã rõ ràng vì bà là đệ tử của Đức DK. Tuy vậy, đây là khó khăn đối với một người chí nguyện, ở trong mức độ tiến hóa hiện tại, anh ta không thể tiếp xúc được với Đức Thầy. Hoặc nếu việc tiếp xúc này là mục tiêu trong nỗ lực hành thiền của mình, anh ta dễ mắc phải ảo cảm và chỉ tìm thấy một hình tư tưởng của các Đấng Cao Cả ở cõi phụ cao của cõi trung giới mà thôi.

    “Người đệ tử hành động “như thể” anh ta là điểm đạo đồ và sau đó phát hiện ra rằng “một người suy nghĩ như thế nào trong trái tim thì y sẽ như thế nấy,” bởi vì trái tim là cái cất giữ quyền năng của sự tưởng tượng” Chúng ta biết rằng, tương ứng bậc cao của trái tim chính là linh hồn, vì cả hai đều là biểu hiện của trạng thái Thiêng Liêng thứ hai . Chúng ta suy nghĩ như thế nào, là quá trình kiến tạo hình tư tưởng, được làm sinh động bởi năng lượng của linh hồn, được linh hồn truyền cho tính chất, phẩm tính. Chỉ có linh hồn mới có hiểu biết trực tiếp và rõ ràng về mục đích của Thiên Cơ, chỉ có linh hồn với bản chất bác ái sáng suốt mới được phó thác cho tri thức và các công thức từ cõi nguyên hình hay ý tưởng, đó là quyền năng và là nền tảng của sự tưởng tượng, chỉ có linh hồn mới có thể hoạt động trong ba cõi thấp mà không dính mắc, và tách biệt, từ đó không tạo ra các nghiệp quả. Một khó khăn khác đối với người chí nguyện còn đang chiến đấu với phàm ngã của mình. “Chúng ta suy nghĩ gì trong trái tim thì sẽ trở nên như thế”, anh ta “suy nghĩ” bằng trí cụ thể, và do chưa kiểm soát được hạ trí, anh ta chỉ là nạn nhân của ngọn lửa chia rẽ, kiêu căng, tự mãn, ích kỉ, cá nhân. Cùng thể cảm giác, ví như trái tim của mình, còn đầy dục vọng thấp kém, với các ham muốn vật chất như là động lực thúc đẩy. Hậu quả sẽ xảy ra. Định luật tương ứng “trên sao, dưới vậy” luôn tác động. Đệ nghĩ rằng, bài học vẫn là tham thiền, giới luật và phụng sự, trước khi thực hiện các phương pháp huyền linh.

    Ở câu “áp đặt sự kiểm soát trí tuệ lên phàm ngã; nó ảnh hưởng đến bộ não, và do đó hai thể thấp hơn.” có thể thấy đường Antahkarana đã được thiết lập, vì “sự áp đặt” là một hành vi hữu thức. Ngài đã từng dạy rằng, các ứng viên điểm đạo dùng cả sutratma và antahkarana và sử dụng như một đơn vị duy nhất. Năng lực của tam nguyên tinh thần bắt đầu tuôn đổ, để tăng cường tất cả các hoạt động của họ trên cõi trần và ngày càng làm sinh động các hình tư tưởng của họ. Việc làm sinh động các hình tư tưởng diễn ra ở cấp độ trí tuệ, còn việc tăng cường trên cõi trần thông qua ảnh hưởng của bộ não.

    Một đệ tử trước khi điểm đạo, con đường tri thức đã hợp nhất với con đường bác ái, hay con đường nhãn pháp và con đường tâm pháp đã được tổng hợp. “em là một người mộ đạo chân thành và thông minh; trí thông minh và lòng mộ đạo song hành cùng nhau trong người đệ tử thực thụ, cân bằng nhau và khi đó tạo ra một sự tập trung rõ rệt của năng lực.” Bởi vì không phụ thuộc vào cung chân ngã hay phàm ngã, cung cứng hay cung mềm, cuối cùng thì nhà thần bí cũng phải trở thành nhà huyền bí, và nhà huyền bí chính đạo vốn phải là một nhà thần bí thánh thiện. Đây là lời khuyên rõ ràng và thiết thực đối với chúng ta, những người mà trong một kiếp sống thường đi theo một khuynh hướng hoặc thần bí, hoặc huyền bí.

    Loại hành động như thể (đối với người đệ tử) mang lại một yếu tố còn cao hơn tư tưởng” Vì vận dụng chất liệu trí tuệ nhằm tạo ra hình tư tưởng là khả năng của hạ trí. Đối với người đệ tử, các vị đã tiếp xúc với cõi nguyên hình, cõi của ý nghĩa hay cõi của ý tưởng. Sau khi một phàm ngã đã điều hợp, với việc liên tục được giữ ổn định, thể trí trở thành một công cụ, hay phương tiện cho linh hồn biểu lộ các mục tiêu và kế hoạch trong ba cõi tiến hóa bình thường của con người. Thể trí thông qua khả năng sáng tạo và tạo hình tư tưởng, trở thành tác nhân cho các ý tưởng mà linh hồn đã tiếp xúc được biểu hiện.

    Trong câu “Ít khi có đủ nhấn mạnh vào sự cần thiết cho việc ổn định nhịp điệu tinh thần như vậy” và “các đệ tử phải học cách biến những thói quen tinh thần của họ thành nhưng phản ứng tinh thần tự nhiên“. Phương pháp này giữ tâm thức ổn định ở cấp độ linh hồn. Còn mục tiêu của chúng ta là tiếp xúc với linh hồn, và “giữ thể trí ổn định trong ánh sáng của linh hồn”. Đây có lẽ là khó khăn chung đối với các cấp độ dưới đệ tử thực thụ. Chúng ta tham thiền, một trong các mục tiêu là đưa tâm thức lên càng cao càng tốt, hay đạt mức rung động cao nhất có thể. Thường thì chúng ta có thể đạt được trong một khoảnh khắc hoặc chỉ trong thời gian tham thiền. Sau đó thì rung động lại bị hạ thấp, vì vậy mà mục đích là sự tiết điệu, ổn cố thường khi khó đạt. Một khó khăn khác, là việc chúng ta bị phân tán sự tập trung trong quá trình học các bí nhiệm huyền linh. Lại nữa, chỉ có linh hồn, vị Thái Dương Thiên Thần, mới có thể phân tán sự chú ý mà vẫn đạt mục tiêu, khi Ngài có thể vừa hướng lên các cõi tinh thần, vừa hoạt động trong cõi giới linh hồn, đồng thời hướng về phía con người đang lâm phàm. Chúng ta chưa có khả năng đó, trong khi sự phân tán khiến năng lượng không được tập trung, do bởi học cái mới thì dễ dàng hơn là thực hiện mục tiêu ổn định rung động. Chúng ta có một lời khuyên thiết thực, mà khi thực hiện, kết quả sẽ là sự “tỉnh thức” tùy mức độ cao nhất mà chúng ta đạt được, một cách liên tục, hàng giờ, hàng ngày và hàng năm.

    Đệ viết bằng điện thoại nên các điểm trình bày chưa sắp xếp theo một trình tự logic. Mong các huynh đánh giá, bổ sung, loại bỏ những gì sai sót giúp đệ. Chân thành cảm ơn!

Leave Comment