Lịch sử bí truyền của người Do Thái -1

VẤN ĐỀ DO THÁI

Trong thư của đức DK gởi cho FCD có nhắc đến sứ mệnh của FCD trong kiếp hiện tại và kiếp kế tiếp là giúp giải quyết vấn đề Do Thái. Trong huấn thị của Ngài có nhắc đến lịch sử bí truyền của người Do Thái, số phận đặc biêt của họ, tầm quan trọng của vấn đề Do Thái. FCD được trao sứ mệnh này vì linh hồn Ông đã chọn sinh ra trong chủng tộc Do Thái để thực hiện sứ mệnh đó. Chỉ có Ông mới có điều kiện làm việc đó vì Ông vừa thuộc về chủng tộc Do Thài, đồng thời lại không thuộc về họ. Trong các đệ tử của Đức DK có nhiều người Do Thái như RSU (Regina Keller)… nhưng những người đó không thoát khỏi tư tưởng cổ xưa của chủng tộc Do Thái nên không thể nhận vị trí của FCD được. Lịch sử bí truyền của người Do Thái cho ta một cái nhìn huyền bí về nguồn gốc của họ, giúp giải mã nhiều vấn đề hiện nay. Bài được biên dịch từ Esoteric Psychology quyển I

Quyết định của Tổng Thống Trump công nhận Jeresalem của người Do Thái có thể là một quyết định ‘sai lầm’ từ quan điểm huyền môn. Chúng tôi dịch bài viết đặc biệt này nhằm cung cấp các bạn thêm tư liệu về chủng tộc Do Thái và bài học Nhân Quả của họ.

****************

b. THE JEWISH PROBLEM <Pages 393,401>

In connection with the nations and the rays I want now to indicate to you certain fundamental conditions which partially account for the (so-called) Jewish problem, —a problem which has existed for centuries, and which is, at this time, causing the deepest possible concern to many, including members of the planetary Hierarchy. If this problem can be solved, it will be one of the potent factors in the restoration of world understanding and harmony. It cannot be solved without the cooperation of the men of good will throughout the world. There is little that I can say anent this matter that can be checked and proved, for the clue to the problem is to be found back in the very night of time and, literally, when the sun was in the constellation Gemini. At that time, the two pillars were set up which, as all Masons know, are two great landmarks in Masonry. Hence the Jewish colouring of all the Masonic work, though it is not Jewish [Page 394] in the sense that that word conveys today. Who, therefore, if the facts are of such ancient import, shall say that I speak with accuracy, or establish the right or wrong nature of my conclusions? I but present the facts as I know them from my access to records more ancient than any known to man.

Liên quan đến các quốc gia và các Cung, tôi muốn chỉ ra cho bạn thấy những điều kiện cơ bản nhất định giải thích phần nào cho vấn đề được gọi là vấn đề Do Thái, một vấn đề đã tồn tại từ hàng thế kỷ, và hiện nay có thể là mối quan tâm sâu sắc nhất của nhiều người, bao gồm cả các thành viên của Thánh đoàn. Nếu vấn đề này được giải quyết, nó sẽ là một trong những yếu tố mạnh mẽ giúp vào việc khôi phục sự hiểu biết và hòa hợp trên thế gian. Nó không thể được giải quyết nếu không có sự hợp tác của những người có thiện chí trên khắp thế giới. Có rất ít điều mà tôi có thể nói về vấn đề này có thể được kiểm tra và chứng minh, vì đầu mối cho vấn đề này sẽ được tìm thấy trong bóng đêm của thời gian, theo đúng nghĩa đen, khi mặt trời ở chòm sao Gemini. Vào thời điểm đó, hai trụ cột được thiết lập, như tất cả những người Tam Điểm đều biết, là hai cột mốc nổi bật của Hội Tam Điểm. Do đó, người Do Thái nhuộm màu tất cả các công việc Tam Điểm, mặc dù nó không phải là Do Thái theo nghĩa mà từ này ngày nay truyền tải. Nếu những sự kiện có tầm quan trọng cổ xưa như vậy, vậy ai nói rằng tôi chính xác, hoặc xác định được bản chất của các kết luận của tôi đúng hay sai? Nhưng tôi chỉ trình bày sự thật như tôi biết từ việc truy cập của tôi vào những hồ sơ cổ hơn bất kỳ hồ sơ nào mà con người biết đến.

The personality ray, the material form ray of the Jewish people, is the third ray. Their egoic ray is the first. Their astrological sign is Capricorn, with Virgo rising. Mercury and Virgo play a prominent part in their destiny. These clues should suffice to give to the advanced student and astrologer those salient points which will give him light upon their strange history. Because of this third ray influence, you have the tendency of the Jew to manipulate forces and energies, and to “pull strings” in order to bring about desired ends. As a race, they are natural law makers, and hence their tendency to dominate and govern, because their egoic ray is the first. Hence also the constant appearance of the goat in their history, and their teaching about the virgin mother who should give birth to the Messiah.

Cung phàm ngã, Cung hình thể vật chất của người Do Thái, là Cung 3. Cung Chân ngã của họ là Cung 1. Dấu hiệu chiêm tinh của họ là Ma Kết, và Cung Mọc là Xử Nữ. Sao Thủy và Xử Nữ đóng vai trò quan trọng trong vận mệnh của họ. Những gợi ý này đủ để cung cấp cho các học sinh tiên tiến và các nhà chiêm tinh những điểm nổi bật giúp anh ta ánh sáng về lịch sử kỳ lạ của người Do Thái. Do ảnh hưởng Cung 3 này, bạn thấy khuynh hướng của người Do Thái là vận dụng mãnh lực và năng lượng, và để “giật dây” để mang lại những mục tiêu mong muốn. Như một chủng tộc, họ là những nhà lập pháp tự nhiên, và do đó có xu hướng thống trị và cai trị bởi Cung Chân ngã của họ là Cung 1. Do đó, cũng có sự xuất hiện liên tục của con dê trong lịch sử của họ, và giáo huấn của họ về người mẹ đồng trinh, những người sinh ra Đấng Cứu Thế (Messiah).

In every grouping, —whether in heaven or on earth—there is always evidenced a tendency by some units in the group to revolt, to rebel and to show some form of initiative different to that of the other units in the same grouping. When our solar universe came into being, we are told in the allegorical language of the ancient scriptures, there “was war in Heaven”; “the sun and his seven brothers” did not function with true unanimity; hence (and herein lies a hint) our Earth is not one of the seven sacred planets. There is, as we know, the ancient legend of the lost Pleiade, and there are many such stories. Again, in the council chamber of the Most High, there has not always been peace and understanding, but at times, war and disruption; this is made abundantly clear by several of the stories in the Old Testament. Symbolically [Page 395] speaking, some of the sons of God fell from their high estate, led, at one time, by “Lucifer, Son of the Morning”. This “fall of the angels” was a tremendous event in the history of our planet, but was nevertheless only a passing and interesting phenomenon in the history of the solar system, and a trifling incident in the affairs of the seven constellations, of which our solar system is but one. Pause and consider this statement for a moment, and so readjust your sense of values. The standard of happenings varies in importance according to the angle of vision, and what (from the angle of our Earth’s unfoldment in consciousness) may be a factor of prime importance and of determining value may (from the angle of the universe) be of trifling moment. The affairs of an individual are, to him, of momentous import; to humanity, as a whole, they are of small concern. It all depends upon which unit holds the centre of the stage in the drama of life, and around which central factor the happenings, trivial or important, pursue their cyclic way.

Trong mỗi nhóm, —dù trên trời hay dưới mặt đất—luôn có bằng chứng cho thấy một số đơn vị trong nhóm có xu hướng nổi dậy, nổi loạn và biểu hiện một số hình thức khác với các nhóm khác trong cùng một nhóm. Khi thái dương hệ của chúng ta xuất hiện, các thánh thư cổ đại có kể lại cho chúng ta bằng ngôn từ ẩn dụ về “cuộc chiến ở trên trời”; “mặt trời và bảy anh em của ngài” không hoạt động với sự thống nhất thực sự; vì vậy (và đây là một gợi ý) Trái đất của chúng ta không phải là một trong bảy hành tinh thiêng liêng. Như chúng ta biết, huyền thoại cổ xưa về nàng Pleiad đi lạc, và có rất nhiều câu chuyện như vậy. Một lần nữa, trong phòng họp của Đấng Tối Cao không phải lúc nào cũng có sự bình an và hiểu biết, mà đôi khi là chiến tranh và sự gián đoạn; điều này được thể hiện rõ ràng trong một số câu chuyện của Cựu Ước. Nói một cách biểu tượng, ​​một số người con của Thượng đế đã rơi khỏi địa vị cao quý của họ, bị dẫn dắt bởi “Lucifer, Con của Buổi Sáng”. Sự sa ngã của các thiên thần này là một sự kiện lớn trong lịch sử hành tinh của chúng ta, nhưng đó chỉ là một hiện tượng thoáng qua và thú vị trong lịch sử của hệ mặt trời, và một sự cố không quan trọng trong công việc của bảy chòm sao, mà hệ mặt trời là một trong đó. Bạn hãy tạm dừng lại và xem xét phát biểu này giây lát, và do đó điều chỉnh nhận thức về giá trị của bạn. Tiêu chuẩn của các sự kiện thay đổi tầm quan trọng tùy theo góc nhìn, và điều gì (từ góc độ của sự mở rộng tâm thức của Trái đất chúng ta) có thể là một yếu tố quan trọng hàng đầu và quyết định, có thể (từ góc độ của vũ trụ) là không quan trọng. Các công việc của một cá nhân đối với y là rất quan trọng, nhưng đối với nhân loại như một toàn thể chỉ là một mối quan tâm nhỏ. Tất cả phụ thuộc vào đơn vị nào giữ vị trí trung tâm trên sân khấu của vở kịch cuộc đời, và xung quanh yếu tố trung tâm đó những diễn biến, tầm thường hoặc quan trọng, tuần tự quay quanh.

Within the radius of power and life which is the expression of the fourth kingdom in nature, the human, there was to be found a correspondence to that “assumption of independence” and to that “breaking away” which characterised the major grouping. Back in later Lemurian times, a group of men of high development, from the point of view of that time, and numbered among the then disciples of the world, took issue with the planetary Hierarchy, and broke away from the “law of the initiates”. It was a time wherein the emphasis of the teaching was upon the material side of life, and where the focus of attention was upon the physical nature and its control. The Old Commentary expresses what happened in the following terms, and as you read the measured cadences of that ancient script, it would be wise to try and realise that the phrases are referring to that group of [Page 396] disciples who were the early founders of the present Jewish race:

Bên trong phạm vi quyền lực và cuộc sống là biểu hiện của giới thứ tư trong tự nhiên, giới nhân loại, cũng đã thấy một sự tương ứng với “sự muốn độc lập” và “phá vỡ” đặc trưng cho nhóm chính. Quay trở lại thời Lemurian về sau này, một nhóm người phát triển cao ở thời điểm đó được xếp vào hàng đệ tử thế gian, đã xung đột với Huyền Giai của Hành tinh, và tách khỏi “luật của các điểm đạo đồ”. Đó là thời điểm mà sự nhấn mạnh của giáo lý về phương diện vật chất của cuộc sống, sự tập trung chú ý vào bản chất vật lý và kiểm soát nó. Thiên Cổ Luận diễn tả những gì đã xảy ra bằng các từ sau đây, và khi bạn đọc các đoạn thơ tiết điệu của văn bản cổ đại đó, sẽ rất khôn ngoan để thử và nhận ra rằng các cụm từ đang đề cập đến nhóm đệ tử ban đầu của chủng tộc Do Thái hiện tại:

“The law went forth from the inner group which guided the destinies of men: Detach yourselves. Withdraw within yourselves the power to hold and gain and get. The sons of God, who train themselves to leave the world of men and enter into light, they ever travel free. They hold not what they have. Release yourselves, and enter through the gates of peace.

“Luật pháp đã ban ra từ nhóm bên trong để hướng dẫn số phận của con người: Hãy Buông bỏ. Hãy rút sức mạnh để cầm giữ, hưởng và thu đạt vào bên trong. Những người Con của Thượng đế, tự rèn luyện để từ bỏ thế giới loài người và đi vào ánh sáng, họ luôn đi trong tự do. Họ không giữ lại những gì họ có. Hãy tự giải phóng mình và đi qua những cánh cửa của bình an.

“Some of the sons of God, waiting outside those gates, ready to enter when the Word went forth to roll the gates aside, were laden with the treasure of the earth. They brought their gifts as offerings to the Lord of life, who needed not their gifts. They sought to enter through those gates, not with a selfish end in view, but to present the garnered treasures of the world, and thus shew their love.

“Một số người con của Thượng đế chờ đợi bên ngoài những cánh cửa đó, sẵn sàng bước vào khi Linh Từ truyền ra, xoay cánh cửa sang một bên, chất nặng với kho báu của trái đất. Họ mang những quà tặng của họ để dâng hiến cho Đấng Chúa Tể của sự sống, Đấng vốn không cần quà tặng của họ. Họ tìm cách vượt qua những cổng này, không phải với mục đích ích kỷ, mà là để dâng những kho báu của thế gian, và vì thế họ bày tỏ tình thương của họ.

“Again the Word went forth: Leave all behind and pass beyond the portal, laden with naught of earth. They waited and discussed. The rest of those who were prepared entered into light and passed between the pillars of the gate; they left behind the loads they brought and entered free, and were accepted, carrying naught.

“Một lần nữa Lời nói được phán ra: Hãy để tất cả lại phía sau và vượt qua cánh cổng, không mang thứ gì của trần gian. Họ chờ đợi và thảo luận. Những người còn lại của nhóm người chuẩn bị bước vào ánh sáng và đi qua giữa các trụ của cổng; họ bỏ lại phía sau gánh nặng họ mang theo, bước vào tự do, và đã được chấp nhận, không mang gì cả.

“Because they travelled as a group, and as a group progressed and grasped, the group responded to the divine command and halted. There they waited, standing before the portal of the Path, grasping the garnered treasures of a thousand cycles. Naught did they wish to leave behind. They had laboured for the riches which they held. They loved their God, and Him they sought to dower with the fullest measure of the riches they had gained. They loved not discipline.

“Bởi vì họ đã đi như một nhóm, và như một nhóm họ tiến bộ và nắm bắt, nhóm đã đáp lại mệnh lệnh thiêng liêng và dừng lại. Họ chờ đợi ở đó, đứng trước Cánh Cổng của Đường Đạo, nắm giữ kho báu của một ngàn chu kỳ. Họ không muốn bỏ gì lại phía sau. Họ đã làm việc vất vả để có của cải mà họ nắm giữ. Họ yêu mến Thiên Chúa của họ, và họ tìm cách dâng hiến cho Ngài sự giàu có mà họ đã đạt được ở mức độ đầy đủ nhất. Họ không yêu mến kỷ luật.

“Again the Word went forth: Drop on the ground all that you hold, and enter free.

“But three revolted from that stern command. The rest obeyed. They passed within the gates, leaving the three outside. Many were raised unto the heights of joy. The three remained without the gates, holding their treasure firm.”

“Một lần nữa Lời nói được phán ra: Hãy bỏ xuống mặt đất tất cả những gì ngươi giữ, và đi vào tự do.

“Nhưng có ba người nổi dậy chống lại mệnh lệnh nghiêm khắc. Những người còn lại tuân lệnh. Họ đi qua các cánh cửa, để ba người lại bên ngoài. Nhiều người đã được nâng lên các đỉnh cao của phúc lạc. Ba người vẫn ở bên ngoài cánh cổng, cầm giữ chặt kho báu của họ.”

In this ancient writing, older than any of the written scriptures of the world, is to be found the secret of the Masonic story and of the slaying of the Master by the three most [Page 397] closely associated with Him in His death and burial. Masons will all recognise the three to whom I here refer. These three were the founders of the modern Jewish race. They were three advanced disciples who resented the command to enter, free and untrammelled, the place where light is to be found. They sought to hold that which they had gathered and to dedicate it to the service of God. Their unrecognised motive was love of riches and a desire to hold safe their gains. Ancient tradition, as taught by the teachers of the past, tells us that…

Trong văn bản cổ xưa này, cổ hơn bất kỳ văn bản viết nào trên thế giới, sẽ tìm thấy bí mật của câu chuyện Tam điểm và về sự giết hại vị Sư Phụ bởi cả ba người gần gũi nhất với Ngài, trong cái chết và sự chôn cất Ngài. Tất cả những người Tam Điểm sẽ nhận ra ba người mà tôi nói đến ở đây. Ba người này là những người sáng lập chủng tộc Do Thái hiện đại. Họ là ba đệ tử cao cấp, những người đã chống lại lệnh đi vào, tự do và không vướng víu, nơi ánh sáng được tìm thấy. Họ tìm cách giữ lấy những gì họ đã thu thập và để dành cho việc phục vụ Thiên Chúa. Động cơ không được nhận ra của họ là sự yêu mến giàu có và lòng ham muốn giữ những lợi lộc của họ được an toàn. Truyền thống cổ xưa, như các bậc Huấn Sư thời quá khứ giảng dạy, cho chúng ta biết rằng …

“They turned their faces towards the gates of earth. Their friends went on….. They stayed behind …. The Masters met in conclave and decided what should be the fate of those who, having reached the Gates of Light, loved the possessions of the world more than they loved the service of the light. Again the Word went forth to the revolting three, who waited still without the gates:

“Họ quay mặt về phía các cánh cổng của trái đất. Các bạn bè của họ tiếp tục bước đi ….. Họ ở lại ….. Các Chân sư họp nhau trong nội điện và quyết định số phận của những người đã đến Cánh Cổng của Ánh sáng, nhưng lại yêu quí của cải thế gian nhiều hơn là họ yêu thương việc phụng sự ánh sáng. Một lần nữa Lời Nói ban ra đến ba người nổi loạn, những người vẫn chờ đợi bên ngoài các cánh cổng:

“`Hold what you have and gather more, but know no peace. Garner the fruits of mind, and seek your power in wide possessions, but have no sure abiding place.

“`Within yourselves, because you are disciples of the Lord, you shall have no share in peace, no sure and certain knowledge of success, nor power to hold your gains.

“`Always shall there be the knowledge dim of Him Who watches over all. Always the urge to gather and amass. Never the time to hold and to enjoy. Pass on therefore until the time shall come, and again you stand before the Gates of Light, this time with empty hands. Then enter, free, accepted by the Servants of the Lord, and know, forever, peace.’“

“‘Hãy giữ những gì ngươi có và thu thập nhiều hơn, nhưng người sẽ không biết được bình an. Hãy thu hoạch những thành quả của trí tuệ, và tìm kiếm sức mạnh của người trong cũa cải rộng lớn, nhưng không có nơi ở nhất định.

“Vì các ngươi là môn đồ của Chúa, bên trong các ngươi sẽ không có sự bình an, không có sự hiểu biết chắc chắn nào về sự thành công, cũng chẳng có sức mạnh để giữ vững lợi ích của mình.

“Sẽ luôn có sự hiểu biết mờ nhạt về Đấng luôn trông chừng tất cả. Luôn có sự thôi thúc để gom góp và tập trung. Không bao giờ có thời gian để giữ và hưởng thụ. Vì vậy, hãy tiếp tục cho đến lúc ngươi đứng trước Cánh Cổng của Ánh sáng lần nữa, lần này với bàn tay trống rỗng. Và khi đó bước vào tự do, được những người Phục Vụ của Chúa chấp nhận, và biết sự bình an mãi mãi.”

The ancient legend tells us that the three went forth in sorrow and revolt, laden with their treasures, and thus the history of the wandering Jew began. It is significant to remember that one of the greatest sons of God Who has worked on earth, and Who epitomised in Himself the way and the achievement, Jesus of Nazareth, was a Jew. He reversed all the earlier conditions. He possessed nothing at [Page 398] all. He was the first of our humanity to achieve, and was a direct descendant of the eldest of the original three disciples who revolted from the drama of detachment. The Jew embodies in himself the world prodigal son. He is the symbol of the disciple who has not yet learned the lesson of a just sense of values. He has been the victim of the Law of Light and of his inability to comply with that Law. He sinned wilfully and with his eyes wide open to results. Hence he knows the law as no other race knows it, for he is eternally its victim. He has enunciated the law from its negative angle; the Law of Moses today rules most of the world, and yet fails to bring into life justice and true legality.

Truyền thuyết xưa cho chúng ta biết rằng ba người đã đi ra trong sự buồn khổ và nổi loạn, mang theo đầy kho báu của họ, và do đó lịch sử của người Do thái lang thang bắt đầu. Điều đáng lưu ý là một trong những người con vĩ đại nhất của Thượng đế đã làm việc trên mặt đất, đã tóm lược lại trong chính mình con đường và sự thành tựu, là đức Jesus của xứ Nazareth, một người Do thái. Ngài đã đảo ngược tất cả các điều kiện trước đó. Ngài không sở hữu gì cả. Ngài là người đầu tiên của nhân loại của chúng ta thành tựu, và là hậu duệ trực tiếp của người cao niên nhất trong ba đệ tử ban đầu nổi dậy chống lại trong vở kịch của sự buông bỏ. Người Do Thái thể hiện trong chính mình người con hoang đàng của thế gian. Y là biểu tượng của người đệ tử chưa học được bài học về một giá trị đích thực. Y đã là nạn nhân của Định Luật của Ánh sáng và không có khả năng tuân thủ Định Luật đó. Y đã phạm tội một cách cố ý và với đôi mắt mở rộng chờ đón kết quả. Do đó, y biết định luật mà không một chủng tộc nào khác biết được vì y mãi mãi là nạn nhân của nó. Y đã đề ra pháp luật từ góc độ tiêu cực của nó; Luật của Môi-se ngày nay thống trị phần lớn thế giới, thế nhưng không mang lại công bằng và luật pháp thực sự vào cuộc sống.

The other group of disciples, the representatives (in their day and age) of the race, passed through the ancient portals of initiation and took the first great step. They came back with a latent and dim recollection of the episode which separated them from three of their co-disciples. On their return to life on earth, they spoke of this event. This was their error; the long antagonism started, which persists until today. Those particular disciples have themselves passed through their long pilgrimage and have entered into eternal peace, but the results of their early betrayal of the hidden events of initiation still persist.

Nhóm đệ tử khác, những người đại diện (trong thời đại của họ) của chủng tộc, đã đi qua những cánh cổng điểm đạo cổ xưa và bắt đầu bước đầu tiên vĩ đại. Họ đã trở lại với hồi ức mờ nhạt và tiềm ẩn về câu chuyện đã phân tách họ khỏi ba đồng môn. Khi trở lại cuộc sống trần gian, họ đã nói về sự kiện này. Đây là lỗi lầm của họ; sự đối kháng kéo dài bắt đầu, kéo dài đến tận ngày nay. Các người đệ tử đặc biệt này bản thân đã vượt qua cuộc hành hương dài ngày của họ và đã bước vào sự bình an vĩnh cửu, nhưng kết quả của sự phản bội ban đầu của họ về những sự kiện che dấu của cuộc điểm đạo vẫn còn.

Curiously enough, this ancient race, founded by the three who loved that which they had to offer more than that which they longed to take, were the originators of the Masonic tradition. Their history (and incidentally the history of humanity) is embodied in that dramatic ritual. The reward for their sincerity, —for they revolted in utter sincerity, believing they knew best—was the permission to enact each year, on the return of the day when they might have entered into light, the story of the search for light. Because they had been so [Page 399] nearly resurrected from the death of earth into the life of light, the great tradition of the mysteries was started by them. They chose death and slew that which “had lived and which could have claimed reward”, and which could have spoken the word of power which would have caused the gates of resurrection to open wide.

Thật kỳ lạ, chủng tộc cổ xưa này được thành lập bởi ba người đệ tử yêu quí những gì mà họ phải cung cấp nhiều hơn cái mà họ mong muốn chiếm giữ, là những người khởi xướng của truyền thống Tam Điểm (Masonic). Lịch sử của họ (và ngẫu nhiên là lịch sử nhân loại) được thể hiện trong nghi thức kịch tính đó. Phần thưởng cho sự chân thành của họ, vì họ đã nổi loạn trong sự thành thật hoàn toàn, tin rằng họ biết tốt nhất—là sự cho phép ban hành mỗi năm, vào dịp trở lại của ngày mà họ có thể bước vào ánh sáng, câu chuyện về việc tìm kiếm ánh sáng. Bởi vì họ đã gần như phục sinh từ cái chết của trần gian vào đời sống của ánh sáng, truyền thống vĩ đại của các huyền nhiệm được họ bắt đầu. Họ đã chọn cái chết và giết cái mà “đã sống và có thể đã tuyên bố phần thưởng”, và có thể đã nói lên quyền lực từ, vốn có thể làm cho những cánh cửa phục sinh mở rộng.

We are told that these three swore an everlasting vow to stand together and never to desert each other. This vow down the ages they have kept; it has consequently produced that racial separativeness and community of interests which arouses the antagonism of other races.

Chúng ta được cho biết rằng ba người này thề nguyền sẽ mãi đứng cùng nhau và không bao giờ từ bỏ nhau. Họ đã giữ lời thề này theo thời gian; do đó nó đã tạo ra sự chia rẻ chủng tộc, và cộng đồng lợi ích gây ra sự thù nghịch của các chủng tộc khác.

Down the ages, the Jew has been wandering, producing much of beauty in the world, and giving to humanity many of its greatest men, but he has (at the same time) been hated and persecuted, betrayed and hounded. He embodies, in himself, symbolically, the history of humanity. The ancient tendency of the Jews to grasp and hold, and also to preserve their racial and national integrity, are their outstanding characteristics. They cannot be absorbed, and yet so ancient is the race that nevertheless today no nation in the world but has its roots in that group which—in old Lemuria—had advanced so far that all its foremost people stood upon the path of discipleship. There are no racial strains in the Western world which are not offshoots of this oldest select people, with the exception of the Finns, Lapps and those nations which show definite mongoloid strains. But the admixture of what is now called Jewish blood is not found to the same extent, and the modern Jew is as much a by-product as is the Anglo-Saxon race, only, through an imposed selective tendency and racial segregation, he has preserved intact more of the original characteristics.

Theo thời gian, người Do Thái đã lang thang, tạo ra nhiều vẻ đẹp trên thế gian, và cho nhân loại nhiều con người vĩ đại nhất của mình, nhưng đồng thời bị ghét bỏ và bách hại, bị phản bội và săn đuổi. Nói một cách biểu tượng, họ biểu hiện trong chính mình ​​lịch sử của nhân loại. Xu hướng cổ xưa của người Do Thái để nắm bắt và cầm giữ, và cũng để bảo vệ tính toàn vẹn chủng tộc và quốc gia của họ, là đặc điểm nổi bật của họ. Họ không thể bị hấp thụ, thế nhưng chủng tộc đó thật cổ xưa đến mức ngày nay không có một quốc gia nào trên thế giới mà không có nguồn gốc từ nhóm đó—ở thời Lemuria cổ—đã tiến hóa đến mức tất cả những người hàng đầu của nhóm đều ở trên Con Đường Đệ tử. Không có chủng tộc nào trong thế giới phương Tây mà không phải là hậu duệ của những người được lựa chọn lâu đời nhất này, ngoại trừ những người Phần Lan (Finns), Lapps và những quốc gia có thể biểu hiện chủng tộc Mông Cổ nhất định. Nhưng hỗn hợp của cái được gọi là dòng máu Do thái không ở cùng mức độ, và người Do Thái hiện đại là một sản phẩm phụ, giống như chủng tộc Anglo-Saxon, chỉ do khuynh hướng chọn lọc và phân biệt chủng tộc, họ đã bảo quản còn nguyên vẹn các đặc tính ban đầu nhiều hơn.

It is the realisation of this common origin which has led [Page 400] the British-Israelites into their travesty of the truth, and caused them to trace our modern Western history to the Jews of the Dispersion. It is a far more ancient relation than that, and dates back into a period that antedates the history of the Jews as it is related for us in the Old Testament. The original three disciples and their family groups were the ancestors of three major racial groupings, which can be generalised as follows:

Chính sự nhận thức được nguồn gốc chung này đã khiến người Anh-Israel trở thành sự bắt chước chân lý, và khiến họ truy ngược lịch sử phương Tây hiện đại của chúng ta đến người Do thái Phân tán. Đó là một mối quan hệ cổ xưa hơn, và trở lại thời kỳ có trước lịch sử của người Do Thái như được ghi lại cho chúng ta trong Cựu Ước. Ba người đệ tử ban đầu và các nhóm gia đình của họ là tổ tiên của ba nhóm chủng tộc lớn, có thể khái quát như sau:

1. The Semitic race or races of Biblical and modern times; the Arabs, the Afghans, the Moors and the offshoots and affiliations of those peoples, including the modern Egyptians. These are all descended from the eldest of the three disciples.

2. The Latin peoples and their various branches throughout the world, and also the Celtic races wherever found. These are descended from the second of the three disciples.

3. The Teutons, the Scandinavians, and the Anglo-Saxons, who are the descendants of the third of the three disciples.

1. Chủng tộc Semit hay các chủng tộc của Kinh Thánh và của thời hiện đại; người Ả Rập, người Afghanistan, người Moor (Ma rốc), những nhánh và chi nhánh của những người này, kể cả những người Ai Cập hiện đại. Tất cả đều là hậu duệ từ người cao niên nhất trong ba người đệ tử.

2. Các dân tộc Latin và các chi nhánh khác nhau của họ trên khắp thế giới, và cả các chủng tộc Celtic ở bất kỳ nơi nào. Đây là hậu duệ của vị đệ tử thứ hai trong ba người đệ tử.

3. Người Teuton, Scandinavian, và Anglo-Saxons, những người là con cháu của người thứ ba trong ba đệ tử.

The above is a broad generalisation. The period covered is so vast, and the ramifications down the ages are so numerous, that it is not possible for me to do more than give a general idea. Gradually the descendants of two of these three disciples have accepted the legends which were promulgated in Atlantean times, and have ranged themselves on the side of those who are antagonistic to the Jew, as he is today; they have lost all sense of their common origin. There is no pure race in the world today, for intermarriage, illicit relations and promiscuity during the past few million years have been so numerous that there exists no pure strain. Climate and environment [Page 401] are fundamentally greater determining factors than any forced segregation, except that which comes through a constant racial intermarriage. Of this latter factor, only the Hebrew today has preserved any measure of racial integrity.

Trên đây là một khái quát hoá rộng. Thời gian bao trùm quá lớn, và sự phân nhánh quá nhiều, tôi không thể làm gì hơn là đưa ra một ý tưởng chung. Dần dần các hậu duệ của hai trong số ba đệ tử này đã chấp nhận các truyền thuyết được ban hành trong thời Atlantean, và đã đứng về phía những người đối kháng với người Do Thái, như y hiện nay; họ đã mất tất cả ý thức về nguồn gốc chung của họ. Hiện nay, không có chủng tộc thuần túy trên thế giới, vì sự kết hôn liên chủng tộc, mối quan hệ bất hợp pháp và chung chạ trong vài triệu năm qua đã nhiều đến mức không còn chủng tộc thuần khiết. Khí hậu và môi trường là các yếu tố cơ bản quyết định lớn hơn bất kỳ sự phân tách cưỡng bức nào, ngoại trừ những vấn đề liên quan đến hôn nhân liên chủng tộc thường xuyên. Trong yếu tố cuối cùng này, chỉ có người Hê-bơ-rơ ngày nay đã bảo tồn một mức độ nào đó về tính toàn vẹn chủng tộc.

When humanity awakens to the fact of its common origin, and when the three great major strains in our modern civilisation are recognised, then we shall see the old hatred of the Jew die out, and he will fuse and blend with the rest of mankind. Even the oriental races, who are the remnants of the great Atlantean civilisation, have in them traces of intermarriage with the ancestors of the modern Jews and other racial types, but they have not mixed well, and have therefore preserved their characteristics more successfully than have the groups of our Western men.

Khi nhân loại thức tỉnh với thực tế về nguồn gốc chung của họ, và khi ba chủng tộc lớn trong nền văn minh hiện đại của chúng ta được nhìn nhận, thì chúng ta sẽ thấy mối thù hận người Do thái cũ sẽ mất đi, và họ sẽ hoà trộn với phần còn lại của nhân loại. Ngay cả những chủng tộc phương Đông, những người còn sót lại của nền văn minh Atlantean vĩ đại, đã có trong họ dấu vết của việc kết hôn với tổ tiên của người Do Thái hiện đại và các loại chủng tộc khác, nhưng họ đã không pha trộn tốt, và do đó giữ đặc tính của họ thành công hơn các nhóm người phương Tây của chúng ta.

If you ponder upon the above, and if you study the Masonic tradition with care, much will become clarified in your mind. Ethnologists may disagree, but they cannot disprove what I have said, for the origins of the present racial world situation lie so far back in the history of mankind that they cannot even prove their own contentions. All they are capable of considering is the history of the past one hundred thousand years, and their work lies with effects of that past and not with originating causes.

Nếu bạn suy ngẫm những điều trên, và nếu bạn nghiên cứu về truyền thống Tam Điểm cẩn thận, nhiều điều sẽ trở nên rõ ràng trong trí của bạn. Các nhà nghiên cứu dân tộc học có thể không đồng ý, nhưng họ không thể bác bỏ những gì tôi đã nói, vì nguồn gốc của tình trạng chủng tộc thế giới hiện nay nằm quá xa trong lịch sử loài người mà họ thậm chí không thể chứng minh được sự tranh cãi của chính họ. Tất cả những gì họ có thể xem xét là lịch sử của một trăm nghìn năm qua, và công việc của họ nằm ở hiệu ứng của quá khứ chứ không phải với các nguyên nhân có nguồn gốc.

Leave Comment