Sự Chết (Phần 3) – Nghệ thuật loại bỏ — The Art of Elimination

Đây là phần thứ ba trong loạt bài về sự chết, trích dịch từ quyển Esoteric Healing. Trong bài này, đức DK dạy về những hoạt động của con người tiếp theo sau khi con ngươi bỏ xác và tách khỏi thể dĩ thái. Quá trình tách khỏi thể dĩ thái Ngài gọi là Tiến trình Hoàn nguyên (The Process of Restitution), cát bụi trần gian được trả về kho chất liệu của vũ trụ. Tiến trình tiếp theo bắt đầu từ khi con người sống trong thể cảm xúc của mình và dần dần rủ bỏ thể này. Ngài gọi giai đoạn này là The Art of EliminationNghệ thuật loại bỏ. Ngài không gọi đó là một tiến trình nữa, mà là một nghệ thuật. Bạn đọc kỹ trong bài viết và sẽ hiểu tại sao Ngài gọi đó là một nghệ thuật. Trong bài, có đôi chỗ cần giải thích thêm để các bạn dễ hiểu, chúng tôi ghi chú các giải thích đó trong dấu ngoặc [ ]. Phần kinh văn cổ từ quyển The Old Commentary chúng tôi không dịch, nếu cần các bạn nên đọc thẳng bằng tiếng Anh. Quyển The Old Commentary là kinh sách rất cổ của Thánh đoàn, thường được Ngài trích dịch sang Anh ngữ trong các quyển sách của Ngài. Khi bạn đi sâu hơn nữa vào giáo lý, bạn nên đọc thẳng bằng tiếng Anh vì thật sự chúng rất khó dịch.

Trong bài viết Ngài hay dùng từ inner man mà chúng tôi dịch là con người nội tại, để chỉ con người sau khi bỏ xác. Còn từ inner planes chúng tôi dịch là nội giới hay cõi cao, cõi thanh v.v… Đây là những cảnh giới phía sau cõi trần như cõi trung giới, cõi trí … Trong các hình vẽ minh họa các cảnh (hay cõi) giới, các cõi Trung giới (astral plane), cõi Trí (mental plane) … được vẽ nằm trên cõi trần dễ gây hiểu lầm là các cõi này nằm bên trên cõi hồng trần, chứ thực ra các cõi giới xuyên thấu vào nhau, và các cõi astral plane, mental plane … có thể nói nằm sâu bên trong các cõi physical plane. Do đó từ inner planes phù hợp hơn từ higher planes. Ông C.W. Leadbeater cũng dùng từ inner life cũng hàm ý tương tự. Trong khi tham thiền, chúng ta cũng thường được khuyên rút tâm thức vào sâu bên trong cũng là với ý nghĩa như trên…. Còn từ cõi trung giới dùng để dịch Astral plane đã quá quen thuộc với bạn đọc nên chúng tôi giữ nguyên, nó chính là dục giới của Nhà Phật, còn sắc giớivô sắc giới tương ứng với cõi hạ trí và thượng trí. Cũng trong bài viết, Ngài phân biệt ba hạng người khác nhau:

  • Kamic person: người sống nặng về cảm tính
  • Kama-manasic person: người trí-cảm, người vẫn còn sống nặng về cảm tính nhưng cũng đã phát triển phần nào trí tuệ.
  • Manasic person: người sống nặng về trí tuệ

Ba hạng người này có cách rủ bỏ thể cảm xúc khác nhau, và thời gian lưu lại trên cõi trung giới cũng khác.

Bạn cũng nên lưu ý câu nói của Ngài: “Thời gian (vốn là sự nối tiếp các diễn biến được bộ não ghi nhận) không còn tồn tại theo cách chúng ta hiểu thuật ngữ đó”. Ở đây, Ngài không nói đến thời gian khách quan, tồn tại biệt lập với chủ thể nhận thức, mà Ngài muốn nói đến thời gian mà con người cảm nhận trong bộ óc xác thịt của mình, là sự kế tiếp cũa các trạng thái tâm thức. Do đó, khi không còn bộ óc nữa, thì con người không còn thấy hoặc cảm nhận được thời gian nữa. Do vậy, trong một khoảnh khắc con người có thể thấy lại cả cuộc đời của mình trong kiếp sống đã qua. Trong khoảnh khắc này, cái khoảnh khắc mà con người thấy lại cuộc đời vừa qua, y tách ra hay cô lập (isolate) ba kinh nghiệm chính sẽ quyết định tương lai của kiếp sống sắp tới. Ở đây Ngài dùng từ Seed, là  hạt giống, chúng tôi dịch là chủng tử, theo thuật ngữ nhà Phật.

Ngài cũng xem hai thể: thể xác và thể dĩ thái là hai khía cạnh hay hai phương diện (dual aspects) của cùng một thể mà Ngài gọi bằng tên chung là physical body.

Một điểm cũng cần lưu ý là Ngài nhắc lại Linh hồn tự quyết định chọn cha mẹ trong kiếp sống tương lai, những người sẽ cung ứng cho mình xác thân và những mối quan hệ ràng buộc tập thể.

Những câu nói khác của Ngài bạn cũng cần lưu ý là “một cõi giới (plane) là một trạng thái tâm thức”, hoặc “cõi trung giới không có thực, nó sẽ biến mất khi con người tiến hóa” v.v… Đây là những câu nói Ngài thường lặp đi lặp lại trong sách của Ngài.

NGHỆ THUẬT LOẠI BỎ – The Art of Elimination

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét hoạt động của con người tâm linh nội tại đã rủ bỏ thể xác và thể dĩ thái của mình, và giờ đây đang ở bên trong lớp vỏ của thể tinh anh—một thể làm bằng chất liệu cảm xúc và trí tuệ. Do người trung bình tập trung mạnh mẽ vào thể tình cảm, con người đã khắc sâu cái ý tưởng cho rằng sau khi chết thực sự con người trước tiên rút vào thể cảm xúc, và sau đó vào thể hạ trí. Nhưng thực ra không phải vậy. Một thể được cấu tạo chủ yếu bằng chất cảm xúc là nền tảng của ý tưởng này. Cho đến nay, ít ai tiến hóa đến mức sau khi chết  cái hiện thể mà họ ở trong đó phần lớn làm bằng chất liệu trí tuệ. Chỉ có đệ tử và điểm đạo đồ, tức là những người hầu như sống trong thể trí của mình, lập tức bước vào cõi trí tuệ sau khi chết. Còn hầu hết những người khác bước vào cõi trung giới (cõi trung giới),  khoác vào một lớp vỏ bằng chất liệu cảm xúc (astral matter) và phải trải qua tiến trình thải bỏ (period of elimination) bên trong vùng huyễn tưởng của cõi trung giới.

To take up again the thread of our instruction, we will now consider the activity of the inner spiritual man who has discarded his physical and etheric bodies and now stands within the shell of the subtle body—a body composed of astral or sentient substance and of mental substance. Owing to the strongly emotional and sentient polarization of the average man, the idea has taken hold that man withdraws, after true death, first of all into his astral body, and then, later, into his mental vehicle. But this is not actually the case. A body constructed predominantly of astral matter is the basis of this idea. Few people are as yet so developed that the vehicle in which they find themselves after death is largely composed of mental substance. Only disciples and initiates who live mostly in their minds find themselves, after death, immediately upon the mental plane. Most people discover themselves upon the astral plane, clothed in a shell of astral matter and committed to a period of elimination within the illusory area of the astral plane.

Như tôi đã nói với bạn trước đây, cõi trung giới không có thực, nó là một sáng tạo hão huyền của con người. Tuy nhiên, từ giờ trở đi (do sự thất bại của tà lực và sự thất bại thảm hại Bàng Môn Tả đạo), cõi trung giới từ từ trở thành một tạo vật chết dần mòn, và trong giai đoạn cuối cùng của lịch sử nhân loại—trong giống dân chính thứ bảy—nó sẽ biến mất. Nhưng điều này chưa xảy ra ngày nay. Chất liệu tình cảm tạo thành cõi trung giới vẫn còn được thu gom lại thành các hình thể ảo tưởng và vẫn tạo thành một rào chắn ngăn cách trên con đường linh hồn tìm kiếm giải thoát. Nó vẫn còn “giam hãm” những người lìa trần mà khi còn sống những phản ứng chủ yếu của họ đối với đời sống là lòng ham muốn, mơ ước, và cảm xúc. những người như thế vẫn là đa số. Cõi trung giới xuất hiện vào thời Atlantis; lúc đó trạng thái ý thức trí tuệ thực sự chưa có, mặc dù “các con của trí tuệ” đã có vị trí của chúng trên cái mà ngày nay là các mức độ cao của cõi đó. Nguyên tử thường tồn trí tuệ cũng hầu như yên lặng trong mỗi hình hài con người, và tất nhiên không có “sức lôi cuốn” thu hút từ cõi trí, như trường hợp ngày nay. Nhiều người vẫn ở trong tâm thức thời Atlantis, và khi họ chuyển ra trạng thái tâm thức hồng trần và vứt bỏ thể xác nhị phân của họ, họ phải đối diện với vấn đề loại bỏ thể cảm xúc, nhưng họ có ít điều cần làm để giải thoát chính họ ra khỏi bất luận ngục tù trí tuệ nào của linh hồn. Đây là những người kém phát triển và bình thường, sau khi loại bỏ thể cảm xúc, họ có ít chuyện khác để làm; không có thể trí nào để kéo họ vào hội nhập trí tuệ, vì không có một sức mạnh tập trung về mặt trí tuệ nào; cho đến nay, linh hồn ở trên các phân cảnh trí tuệ cao, “trong trạng thái thiền định sâu xa” và hoàn toàn không biết cái bóng của nó (shadow) [phàm ngã] trong ba cõi thấp [cõi trần, cõi trung giời, cõi Devachan].

As I have earlier told you, the astral plane has no factual existence, but is an illusory creation of the human family. From now on, however (through the defeat of the forces of evil and the disastrous setback suffered by the Black Lodge), the astral plane will slowly become a dying creation, [487] and in the final period of human history (in the seventh root-race), it will become non-existent. Today this is not the case. The sentient substance which constitutes the astral plane is still being gathered into forms of illusion and still forms a barrier in the path of the soul seeking liberation. It still “holds prisoner” the many people who die whilst their major reaction to life is that of desire, of wishful thinking and of emotional sentiency. These are still the vast majority. In Atlantean days the astral plane came into being; the mental state of consciousness was then practically non existent, though the “sons of mind” had their place on what is today the higher levels of that plane. The mental permanent atom was also practically quiescent within each human form, and there was consequently no attractive “pull” from the mental plane, as is the case today. Many people are still Atlantean in consciousness, and when they pass out of the physical state of consciousness and discard their dual physical body, they are faced with the problem of elimination of the astral body, but they have little to do to release themselves from any mental prison of the soul. These are the undeveloped and average persons who, after the elimination of the kamic or desire body, have little else to do; there is no mental vehicle to draw them into a mental integration because there is no mentally focused potency; the soul on the higher mental levels is as yet “in deep meditation” and quite unaware of its shadow in the three worlds.

Do đó, nghệ thuật loại bỏ bao gồm ba cách khác nhau:

  1. Cách thực hành bởi những người có tính chất và cấu tạo thuần cảm xúc. Những người này được gọi là những người “cảm xúc” (“kamic” people).
  2. Cách thực hành bởi những người quân bình. Đây là những phàm ngã gắn kết và được gọi là các “cá nhân trí-cảm” (“kama-manasic” individuals).
  3. Cách thực hành bởi người tiến hóa và các đệ tử thuộc mọi cấp bậc. Những người này phần lớn sống thiên về trí tuệ. Họ được gọi là các chủ thể “trí tuệ” (“manasic” subject).

The art of elimination falls, therefore, into three categories:

  1. As practiced by those people who are purely astral in quality and constitution. These we call “kamic” people.
  2. As practiced by those balanced people who are integrated personalities and who are called [488] “kama-manasic” individuals.
  3. As practiced by advanced people and disciples of all grades who are mainly mental in their “living focus.” These are called “manasic” subjects.

Các qui luật căn bản chi phối họ thì giống nhau, nhưng trọng điểm của từng loại thì khác hẳn. Tôi muốn bạn ghi nhớ rằng khi không còn bộ óc xác thịt và khi trí tuệ kém phát triển, con người nội tại thực sự thấy mình bị bao phủ trong một lớp vỏ bằng chất cảm xúc và chìm đắm trong một thời gian dài trong cái mà chúng ta gọi là cõi trung giới. Người “trí tuệ-cảm xúc” có được cái gọi là “sự tự do của đời sống song đôi”. Y sở hữu một thể kép cho phép y tiếp xúc tùy ý với các phân cảnh cao của cõi trung giới và các phân cảnh (cõi phụ) thấp của cõi hạ trí. Tôi lại xin nhắc bạn rằng không có bộ óc hồng trần nào để ghi nhận các tiếp xúc này. Ý thức về sự tiếp xúc này tùy thuộc vào hoạt động tự nhiên của con người nội tại và trạng thái hiểu biết và đánh giá đặc biệt của y. Người thiên về trí tuệ có một thể trí trong suốt với một mật độ thưa thớt tương ứng với tình trạng không bị ảnh hưởng của dục vọng và tình cảm.

The same basic rules control them all, but the emphasis differs in each case. I would have you bear in mind that where there is no physical brain and where the mind is undeveloped, the inner man finds himself practically smothered in an envelope of astral matter and is for a long time immersed in what we call the astral plane. The kama-manasic person has what is called the “freedom of the dual life,” and finds himself possessed of a dual form which enables him to contact at will the higher levels of the astral plane and the lower levels of the mental plane. I would again remind you that there is no physical brain to register these contacts. Awareness of contact is dependent upon the innate activity of the inner man and his peculiar state of apprehension and of appreciation. The manasic person is possessed of a translucent mental vehicle with a light density which is in proportion to his freedom from desire and emotion.

 

Cả ba loại người này đều dùng một tiến trình loại bỏ có bản chất tương tự, nhưng sử dụng một kỹ thuật khác nhau bên trong tiến trình. Để rõ ràng ta có thể nói rằng:

1. Người thuần cảm xúc (kamic person) loại bỏ thể cảm xúc của mình bằng cách làm hao mòn và thoát ra khỏi thể cảm xúc xuyên qua luân xa tùng thái dương của thể cảm xúc. Sự hao mòn xảy ra vì vào giai đoạn này tất cả dục vọng và xúc cảm cố hữu và bẩm sinh có liên hệ với thú tính (animal nature) và xác thân, mà cả hai hiện giờ không còn hiện hữu nữa.

These three types of people all use an eliminative process of a similar nature, but employ a different technique within the process. For the sake of clarity, it might be stated that:

1. The kamic person eliminates his astral body by means of attrition, and vacates it via the astral correspondence to the solar plexus center. This attrition is brought about because all the innate desire and inherent emotion are, at this stage, related to the animal nature and the physical body—both of which are now non-existent.

2. Người trí-cảm sử dụng hai kỹ thuật. Điều này đương nhiên phải vậy, vì trước tiên y loại bỏ thể cảm xúc rồi sau đó đến thể hạ trí của mình.

a/ Y loại bỏ thể cảm xúc bằng cách gia tăng sự ham muốn đời sống trí tuệ. Y rút lui dần và đều đặn vào thể trí, còn thể cảm xúc “rớt ra” một cách huyền bí và cuối cùng biến mất. Điều này thường xảy ra một cách vô thức và có thể đòi hỏi thời gian khá lâu. Tuy nhiên, khi con người tiến hóa trên mức trung bình và ở ngưỡng cửa trở thành người sống thiên về trí tuệ, sự biến mất của thể cảm xúc xảy ra thình lình và dứt khoát, linh hồn được tự do trong thể trí của mình. Điều này xảy ra một cách có ý thức và nhanh chóng.

b/ Y phá hủy thể hạ trí (mental body) bằng một tác động của ý chí, và cũng vì linh hồn đang bắt đầu từng bước nhận biết cái hình bóng [phàm ngã] của mình. Do đó con người nội tại (inner man) bị thu hút về phía linh hồn, mặc dù lực hút vẫn còn yếu ớt. Tiến trình này tương đối nhanh và tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng của thượng trí (manasic influence).

2. The kama-manasic individual uses two techniques. This would naturally be so because he eliminates, first of all, his astral body, and then his mental vehicle. [489]

a. He eliminates the astral body by means of his growing desire for mental life. He withdraws gradually and steadily into the mind body, and the astral body esoterically “drops away” and finally disappears. This takes place usually unconsciously and may require quite a long time. Where, however, the man is above the average, and on the verge of becoming a manasic person, the disappearance is brought about suddenly and dynamically, and the man stands free in his mental body. This takes place consciously and rapidly.

b. He shatters the mental body by an act of the human will, and also because the soul is beginning to be slowly aware of its shadow. The inner man is therefore attracted towards the soul, though still only in a somewhat feeble manner. This process is relatively quick and is dependent upon the extent of the manasic influence.

3. Người thiên về trí tuệ (manasic man), hiện đang tập trung vào thể hạ trí của mình, cũng có hai việc cần hoàn thành:

a/ Làm tan rã và thoát ra khỏi những cặn bã cảm xúc vốn có thể làm đổi màu thể hạ trí trong suốt của y. Cái gọi là thể cảm xúc giờ đây thực sự không hiện hữu nữa như là một yếu tố của sự biểu lộ. Y thực hiện điều này bằng cách thu hút ánh sáng ngày càng tăng lên từ linh hồn. Vào giai đoạn này, chính ánh sáng linh hồn làm tan rả chất liệu cảm xúc, cũng như ánh sáng kết hợp của linh hồn của toàn thể nhân loại cuối cùng sẽ làm tan rả cái được gọi là cõi trung giới.

b/ Hủy diệt thể hạ trí bằng cách sử dụng một số Linh Từ. Các Linh Từ này được truyền dạy cho người đệ tử thông qua Ashram của Chân sư. Chúng tăng cường sức mạnh của linh hồn đến một tầm mức lớn hơn nhiều, và như thế tạo ra một sự mở rộng tâm thức trong thể hạ trí đến nỗi thể trí bị phá vỡ và không còn là một bức tường ngăn trở nữa đối với con người nội tại. Giờ đây y trở thành đứa con trí tuệ tự do bên trong Ashram của Chân sư của y, và “sẽ không còn đi ra ngoài nữa”.

 

  1. The manasic man, focused now in his mental body, has also two things to accomplish:
    1. To dissolve and rid himself of any astral sediment which may be discoloring his translucent mental body. The so-called astral body is now practically non-existent as a factor of expression. This he does by calling in increased light from the soul. It is soul light which, at this stage, dissolves the astral substance, just as it will be the combined light of the soul of humanity (as a whole) which will dissolve finally the astral plane—again so-called.
    2. To destroy the mental body through the use of certain Words of Power. These Words are communicated to the disciple via the Ashram of his Master. They bring in soul power to a greatly enhanced extent, and produce consequently such an [490] expansion of consciousness within the mental body that it is broken up and no longer constitutes a barrier to the inner man. He can now stand, a free son of mind, within the Ashram of his Master and “shall no more go out”.<

Activities Immediately After Death—Hoạt động ngay sau khi chết

Ngay sau cái chết và nhất là khi được hỏa thiêu, con người ở trong thể hạ trí – cảm xúc của mình, có đầy tỉnh táo và sống động với môi trường chung quanh như bình thường họ phản ứng ở cõi trần lúc còn sống. Nói như thế không có nghĩa rằng ai cũng tỉnh táo và ý thức sự việc chung quanh cùng mức độ như nhau, cũng giống như tình trạng những người sống ở cõi trần. Tuy nhiên, bởi đa số người đã có nhiều ý thức về cõi tình cảm hơn là cõi trần và khi sống thường trụ vào thể này, họ thấy trạng thái tâm thức sau khi chết rất quen thuộc. Chúng ta chớ quên rằng “cõi” theo đúng nghĩa là một trạng thái tâm thức chứ không phải là một nơi chốn địa lý như rất nhiều môn phái huyền bí học nghĩ tưởng. Người ta nhận ra nó do phản ứng của mình với môi trường xung quanh, với dục vọng nếu đó là những cảnh thấp; với người khá hơn, do tình thương và ước nguyện; họ mê man đắm chìm vào cái gì thu hút tình cảm họ lúc còn sống. Tôi cũng xin nhắc các bạn rằng vào lúc đó không còn bộ óc hồng trần để đáp ứng với các xung động phát sinh bởi con người nội tại,tình dục—hiểu theo ý nghĩa trần gian—là không tồn tại.

Immediately after death, and particularly if cremation has taken place, the man, in his kama-manasic body, is as much aware and alert to his environment as he was upon the physical plane when alive. This phrasing permits latitude as to the extent of the awareness and of observation, for a similar latitude must be allowed for those on the physical plane. People are not all equally awake or equally conscious of circumstances or immediate experience. However, as most people are more conscious emotionally than they are physically, and live to a great extent focused in their astral vehicles, the man is quite familiar with the state of consciousness in which he finds himself. Forget not that a plane is essentially a state of consciousness and not a locality, as so many esotericism seem to think. It is recognized by the focused reaction of the self-conscious person who—constantly and distinctly aware of himself—is sentient to the theme of his environment and of his outgoing desires, or (where advanced people are concerned, functioning upon the more advanced levels of the astral plane) sentient of outgoing love and aspiration; the man is engrossed with what engrossed his attention and involved the kamic principle during his incarnated experience. May I again remind you that there is now no physical brain to respond to impacts generated by the inner man, and also that sex, as it is physically understood, is non-existent.

Các nhà thần linh học (spiritualists) nên nhớ kỹ điều này và nhờ thế họ sẽ hiểu được rằng việc một vài trường phái của phong trào thần linh học giảng dạy và thực hành về các đám cưới bên kia cửa tử là chuyện xuẩn dại và không thể xảy ra. Con người trong thể cảm xúc của mình vào lúc này hoàn toàn thoát khỏi sự thôi thúc của các dục vọng thú tính— vốn là chuyện bình thường và đúng chỗ trên cõi trần, nhưng giờ đây hoàn toàn vô nghĩa đối với con người trong thể cảm xúc của mình.

Spiritualists would do well to remember this and so grasp the foolishness as well as the impossibility of those spiritual [491] marriages which certain schools of thought in the movement teach and practice. The man, in his astral body, is now free from the strictly animal impulses which, upon the physical plane, are both normal and right, but which now have no meaning to him in his kamic body.

Do đó, lấy trường hợp của một người trung bình, các phản ứng và hoạt động đầu tiên của y sau tiến trình hoàn trả thể xác vào kho chất liệu vũ trụ là như thế nào? Tôi sẽ liệt kê cho bạn một vài hoạt động như sau:

Therefore, taking the average man, what are his first reactions and activities after the restitution of the physical body to the universal reservoir of substance? Let me enumerate some of these reactions:

1. Họ ý thức về chính mình, có một sự nhận thức rõ ràng mà người còn sống, còn mang thân xác ở cõi trần không thể biết được.

2. Thời gian (vốn là sự nối tiếp các diễn biến được bộ não ghi nhận) không còn tồn tại theo cách chúng ta hiểu thuật ngữ đó, và—khi con người hướng sự chú tâm của mình vào thể tình cảm ngày càng xác định rõ ràng hơn— kết quả luôn luôn là có một thời điểm con người tiếp xúc trực tiếp với linh hồn của mình. Điều này do bởi linh hồn không thể không chú ý đến giây phút hoàn nguyên hoàn toàn, cho dù đó là con người dốt nát và kém phát triển nhất. Việc này có một ảnh hưởng rõ rệt lên linh hồn, tựa như sợi dây chuông bị kéo mạnh một hồi lâu, nếu tôi có thể so sánh một cách đơn giản như thế. Trong một tích tắc linh hồn đáp ứng và kết quả là con người trong thể cảm xúc thấy cuộc đời cũ trải ra trước mặt như tấm bn đồ. Y kinh nghiệm được trạng thái phi thời gian.

1. He becomes consciously aware of himself. This involves a clarity of perception unknown to the average man whilst in physical incarnation.

2. Time (being the succession of events as registered by the physical brain) is now non-existent as we understand the term, and—as the man turns his attention to his more clearly defined emotional self—there ensues invariably a moment of direct soul contact. This is due to the fact that even in the case of the most ignorant and undeveloped man, the moment of complete restitution does not pass unnoticed by the soul. It has a definite soul effect, something like a long and strong pull at a bell rope, if I might use so simple a simile. For a brief second the soul responds, and the nature of the response is such that the man, standing in his astral body, or rather in his kama-manasic vehicle, sees the experience of the past incarnation spread before him like a map. He records a sense of timelessness.

3. Do kết quả của việc nhận biết các kinh nghiệm này, con người cô lập ba yếu tố chính vốn chi phối kiếp sống đã qua và nắm giữ chìa khóa cho kiếp sống sắp tới. Tất cả cái khác bị lãng quên, các kinh nghiệm thứ yếu mờ nhạt khỏi ký ức, không để lại gì trong tâm thức y trừ cái được gọi một cách huyền bí là “ba hạt giống hay chủng tử của tương lai”. Ba chủng tử này đặc biệt liên quan đến nguyên tử thường tồn hồng trần và cảm dục (permanent physical and astral atoms), và do vậy tạo ra mãnh lực ngũ phân vốn sẽ tạo ra các hình thể xuất hiện sau này. Ta có thể nói rằng:

3. As a result of the recognition of these experiences, the man isolates those three which were the three major conditioning factors in the life which has gone and which also hold the keys to his future incarnation which he will next initiate. All else is forgotten, and all the lesser experiences fade out of his memory, leaving nothing in [492] his consciousness but what are esoterically called “the three seeds or germs of the future”. These three seeds are in a peculiar manner related to the permanent physical and astral atoms, and thus produce the fivefold force which will create the forms later to appear. It might be said that:

a/ Chủng tử Một quyết định bản chất của hoàn cảnh trên trần gian mà con người sau này tái sinh vào. Nó có liên quan tới tính chất của hoàn cảnh tương lai và như thế chi phối các môi trường hay lãnh vực tiếp xúc cần có.

a/Seed One determines later the nature of the physical environment in which the returning man will find his place. It is related to the quality of that future environment and thus conditions the needed field or area of contact.

b/ Chủng tử Hai quyết định tính chất của thể dĩ thái như là dẫn thể thông qua đó các mãnh lực của các Cung có thể tiếp xúc với xác thân. Nó ấn định cấu trúc dĩ thái hay là lưới sinh lực mà các dòng năng lượng đến sẽ lưu chuyển dọc theo đó. Điều này đặc biệt liên hệ đến một trong bảy luân xa vốn sẽ là luân xa linh hoạt và sống động nhất trong kiếp sống sắp tới.

b/ Seed Two determines the quality of the etheric body as a vehicle through which the ray forces can make contact with the dense physical body. It delimits the etheric structure or vital web along which the incoming energies will circulate and is related in particular to the special one of the seven centers which will be the most active and alive during the coming incarnation.

c/ Chủng tử Ba mang đến chìa khóa cho thể cảm xúc mà con người sẽ an trụ trong đó trong kiếp sống sắp tới. Bạn đừng quên rằng tôi đang đề cập đến một người bình thường, chứ không bàn đến người tiến hóa, đệ tử, hoặc điểm đạo đồ. Chính chủng tử này—qua các lực mà nó thu hút—khiến con người tiếp xúc trở lại những người mà trước đây y đã yêu thương hoặc có mối liên hệ chặt chẽ. Ta có thể chấp nhận sự thật rằng ý tưởng tập thể hay nhóm chi phối về mặt nội tại mọi kiếp luân hồi, và con người đầu thai không phải chỉ vì ý muốn có kinh nghiệm cõi trần, mà còn do sự thúc đẩy của nhóm, và phù hợp với nhân quả nhóm lẫn nhân quả riêng y. Điều này cần được nhấn mạnh, và khi ta đã nắm vững và hiểu rõ rồi thì nỗi sợ hãi do ý tưởng chết chóc gây ra sẽ biến mất. Khung cảnh quen thuộc và người mình thương vẫn còn là cái quen thuộc và người mình thương, nhờ mối liên hệ chặt chẽ được thiết lập qua bao lần tái sinh, và—như Thiên Giảng Luận Xưa (The Old Commentary) diễn tả:

Seed Three gives the key to the astral vehicle in which the man will be polarized in the next incarnation. Forget not, I am dealing here with the average man and not with the advanced human being, disciple or initiate. It is this seed which—through the forces it attracts—brings the man again into relation with those he previously loved or with whom he had close contact. It can be accepted as a fact that the group idea governs subjectively all incarnations, and that reincarnated man is brought into incarnation not only through his own desire for physical plane experience, but also under group impulse and in line with the group karma as well as with his own. This is a point which should receive more emphasis. Once this is truly grasped and understood, a great deal of the [493] fear engendered by the thought of death would disappear. The familiar and the loved will still remain the familiar and the loved, because the relation has been closely established over many incarnations and—as the Old Commentary expresses it:

“These seeds of determining recognition are not unique to me and you, but also for the group; within the group they relate one to the other in time and space. Only in the lower three shall those related find their true existence. When soul knows soul and in the meeting-place within the Master’s call, these seeds shall disappear.”

It will be apparent, therefore, how necessary it is to train children to recognize and profit by experience, for this, once learnt, will greatly facilitate this third activity upon the astral plane after death.

4. Sau khi đã hoàn tất “việc cách ly kinh nghiệm” này, con người sẽ đi tìm và tự động gặp lại những ai mà ảnh hưởng của chủng tử thứ ba chỉ rõ có tham gia thường xuyên vào kinh nghiệm tập thể mà y là một thành phần trong đó một cách hữu thức hoặc vô thức. Mối liên hệ được nối lần nữa, và nếu những người mà y tìm thấy chưa qua đời, y sẽ hành động giống y như lúc còn sống, vơ vẩn ở cạnh họ theo thói quen và mức tiến hóa của y. Nếu những người gần gũi nhất mà y thương mến hoặc thù hận nhất vẫn còn sống, y sẽ tìm ra họ, và xử sự như khi còn sống, quanh quẩn cạnh họ, biết sinh hoạt của họ dù những người ấy không cảm được ý của y. Tôi không thể đi sâu vào chi tiết cách và phương thức tiếp xúc. Mọi người đều khác nhau, mỗi tính khí là độc đáo và riêng rẽ. Tôi chỉ muốn làm rõ một vài cách hành xử cơ bản của con người trước khi loại bỏ thể cảm xúc.

4. Having completed this “isolating of experience,” the man will then seek and automatically find those whom the third seed influence indicates as possessing a constant part in the group experience of which he is an element, consciously or unconsciously. The relation once again established (if those sought have not yet eliminated the physical body), the man acts as he would on earth in the company of his intimates and according to his temperament and point in evolution. If those who are closest to him and whom he deeply loves or hates are still in physical incarnation, he will also seek them out and—just again as he did on earth—he will remain in their neighborhood, aware of their activities, though (unless highly evolved) they will not be aware of his. I can give no detail as to reciprocal give and take or to the modes and methods of contact. Each person differs; each temperament is largely unique. I only seek to make [494] clear certain basic lines of behavior pursued by man prior to the act or acts of elimination.

Bốn hoạt động này trải qua một thời gian lâu hay mau khác nhau—đây là nói theo góc độ của “những người sống bên dưới” [người sống nặng về cảm tính]—mặc dầu con người trên cõi trung giới không còn nhận biết thời gian. Dần dần, sự quyến rũ và huyễn cảm (thuộc cấp bậc cao hay thấp) mất dần, con người bước vào giai đoạn mà—do thể trí giờ nhạy bén và chi phối nhiều hơn— y biết y đang sẵn sàng cho cái chết thứ hai, loại bỏ toàn bộ thể cảm xúc hay thể trí-cảm.

These four activities cover varying periods of time—from the angle of “those who live below,” though there is no time recognized on the part of the man on the astral plane. Gradually the lure and glamor (of a low or high order) wears off, and the man enters into the stage where he knows—because the mind is now more incisive and dominating—that he is ready for the second death and for the entire elimination of the kamic body or of the kama-manasic vehicle.

Một điểm cần nhớ ở đây là một khi việc hoàn nguyên thể xác dưới hai phương diện [thể xác và thể dĩ thái—ND] xảy ra, con người nội tại vẫn còn ý thức đầy đủ như tôi có nói trước đây. Bộ óc hồng trần và xoáy lực dĩ thái (hầu hết có phần xáo trộn trong đa số con người) không còn hiện hữu nữa. Đây là hai yếu tố đã khiến cho các nhà nghiên cứu tin rằng các kinh nghiệm của con người trên các cõi giới cao là kinh nghiệm một sự trôi dạt mơ hồ, của kinh nghiệm bán-ý-thức, hoặc là một đời sống lặp đi lặp lại, trừ trường hợp của người tiến hóa cao, các đệ tử và các điểm đạo đồ. Nhưng không đúng như thế. Một người ở cõi cao không những ý thức về mình như một cá thểvới các dự định, đời sống, và các sự việc riêng của mìnhgiống như y còn ở trên cõi trần, mà y cũng ý thức được một cách tương tự các trạng thái tâm thức xung quanh. Y có thể bị cám dỗ bởi đời sống trên cõi trung giới, chịu tác động của các ấn tượng viễn cảm của các luồng tư tưởng khác nhau xuất phát từ cõi trí; nhưng y cũng biết rõ về chính mình và về trí tuệ của y một cách mạnh mẽ hơn nhiều so với khi y phải làm việc qua trung gian của bộ óc hồng trần, khi sự tập trung tâm thức của y là sự tập trung của người tầm đạo, nhưng neo vào bộ óc xác thịt. Kinh nghiệm của y phong phú và đầy đủ hơn so với cái mà y từng biết khi còn sống. Nếu bạn xem xét đôi chút về điều này, bạn sẽ nhận ra rằng điều này tất phải như thế.

One of the things to remember here is that once restitution of the physical in its two aspects has taken place, the inner man is, as I have earlier said, fully conscious. The physical brain and the swirl of etheric forces (mostly somewhat disorganized in the case of the majority of men) are no longer present. These are the two factors which have led students to believe that the experiences of the man on the inner planes of the three worlds are those of a vague drifting, of a semi-conscious experience, or indicate a repetitive life, except in the case of very advanced people or disciples and initiates. But this is not the case. A man on the inner planes is not only as conscious of himself as an individual—with his own plans, life and affairs—as he was on the physical plane, but he is also conscious in the same manner of the surrounding states of consciousness. He may be glamored by astral existence or subject to the telepathic impression of the varying thought currents emanating from the mental plane, but he is also conscious of himself and of his mind (or of the measure of manasic life developed) in a far more potent manner than when he had to work through the medium of the physical brain, when the focus of his consciousness was that of the aspirant, but anchored in the [495] brain. His experience is far richer and fuller than he ever knew when in incarnation. If you will think this out for a little, you will realize that this necessarily would be so.

Do đó, có thể cho rằng Nghệ Thuật Loại Bỏ được thực hành một cách dứt khoát hơn và hiệu quả hơn là việc hoàn nguyên thể xác. Một điểm khác cũng cần được xem xét. Trên nội giới, con người biết rằng Luật Luân Hồi chi phối tiến trình kinh nghiệm của cuộc sống hồng trần, và kế đó họ nhận thức rằng, trước khi loại bỏ các thể cảm dục, thể trí-cảm hoặc thể trí, họ chỉ trải qua giai đoạn chuyển tiếp giữa các kiếp sống, và do đó họ đối mặt với hai kinh nghiệm lớn:

It may therefore be assumed that the Art of Elimination is practiced more definitely and more effectively than was the restitution of the physical vehicle. Another point must also be considered. On the inner side, men know that the Law of Rebirth governs the experience-process of physical plane living, and they realize then that, prior to the elimination of the kamic, kama-manasic or manasic bodies, they are only passing through an interlude between incarnations and that they consequently face two great experiences:

1. Một thời gian (dài hoặc ngắn tùy theo mức tiến hóa của Linh hồn) con người tiếp xúc với linh hồn hoặc với Đấng Thái dương Thiên thần (Solar Angel).

2. Sau sự tiếp xúc đó, một sự tái định hướng tương đối mãnh liệt hướng về đời sống dưới trần xảy ra, dẫn đến cái được gọi là “tiến trình đi xuống và kêu gọi”, trong đó con người:

a/ Chuẩn bị cho việc đầu thai trở lại.

b/ Xướng lên nốt (note) đích thực của chính mình vào chất liệu của ba cõi thấp.

c/ Làm sinh động lại các nguyên tử thường tồn (vốn tạo thành một tam giác lực bên trong linh hồn).

d/ Gom chất liệu cần thiết để tạo ra các thể biểu lộ sau này.

e/ Tô điểm các thể đó bằng các tính chất và đặc điểm mà y đã thu nhặt được qua kinh nghiệm sống.

f/ Trên cõi dĩ thái, sắp xếp chất liệu của thể sinh lực của mình sao cho bảy luân xa hình thành và thành nơi tiếp nhận các lực bên trong.

g/ Quyết định chọn lựa những người sẽ cung cấp cho y xác thân cần thiết, và tiếp đó chờ lúc giáng sinh. Các sinh viên huyền môn cần nhớ rõ rằng cha mẹ chỉ ban cho ta xác thân. Họ không đóng góp gì khác trừ một thể xác có tính chất và bản chất đặc biệt. Cơ thể này sẽ trở thành hiện thể tiếp xúc với hoàn cảnh mà linh hồn tái sinh đòi hỏi. Cha mẹ cũng có thể cung cấp một mức độ quan hệ tập thể, là nơi mà kinh nghiệm của linh hồn lâu dài và mối liên hệ tập thể thực sự đã được thiết lập.

Người chết đối mặt hai thời điểm có tính quyết định này một cách có ý thức và biết rằng cái mà y đang làm nằm trong các giới hạn được ấn định bởi mức độ tiến hóa của y.

  1. A moment (long or short, according to the attained point in evolution) wherein contact will be made with the soul or with the solar angel.
  2. After that contact, a relatively violent reorientation to earth life takes place, leading to what is called “the process of descent and calling,” wherein the man:
    1. Prepares for physical incarnation again.
    2. Sounds his own true note into the substance of the three worlds.
    3. Revitalizes the permanent atoms, which form a triangle of force within the causal body.
    4. Gathers together the needed substance to form his future bodies of manifestation.
    5. Colors them with the qualities and characteristics he has already achieved through life-experience.
    6. On the etheric plane arranges the substance of his vital body so that the seven centers take shape and can become the recipients of the inner forces.
    7. Makes a deliberate choice of those who will provide him with the needed dense physical covering, and then awaits the moment of incarnation. Esoteric [496] students would do well to remember that parents only donate the dense physical body. They contribute naught else save a body of a particular quality and nature which will provide the needed vehicle of contact with the environment demanded by the incarnating soul. They may also provide a measure of group relationship, where the soul experience is long and a true group relation has been established.

These two critical moments are consciously faced by the discarnate man and he knows what he is doing within the limits set by his point in evolution.

 

8 Comments

  1. jupiter nguyen

    ” … và lúc đó không còn bộ óc hồng trần để đáp ứng … và tình dục hiểu theo nghĩa thế gian là không tồn tại ” . Tôi đã nhiều lần suy gẫm về tình dục , nó là điều kỳ lạ , khó hiểu và nhiều bí ẩn đối với tôi bởi vì khi nó đến thì kêu gợi lòng ham muốn tột độ nhưng khi thõa mãn rồi thì để lại tâm trạng chán chường , cũng như khi đói thì thèm ăn , khi khát thì thèm uống . Nhưng mà vấn đề tình dục nó còn rắc rối hơn rất nhiều vì nó chi phối và làm con người điên đảo vì nó , làm mất rất nhiều thời giờ về nó … Krishnamutri đã từng nói ” Càng Thèm Thì Càng Sướng ” . Ta càng thèm khát nhiều chừng nào thì ta càng sướng chừng đó khi được thõa mãn. Do đó tôi nghĩ rằng khoái lạc và đau khổ là ” bằng nhau ” . Giờ đây đối với tôi vấn đề tình dục ( hoặc là tình yêu đôi lứa ) là chuyện vô cùng nhảm nhí và vớ vẫn ( vì nó đã từng làm mất nhiều thời gian và tâm trí của tôi ) . Phải chăng một người thật sự từ bỏ là thật sự sẵn sàng từ bỏ cả hai khoái lạc và đau khổ ở cõi hồng trần này ? Tôi không có khao khát nào hơn là trở thành một người không có tình dục .

    • Phuc

      Tình dục: nếu đó là một bài học, thì đối với ai đã học rồi khi ôn lại sẽ nhanh hơn khi chưa học.

  2. Jupiter nguyen

    ” … một cõi giới là một trạng thái tâm thức ” , ” … cõi trung giới không có thật và nó sẽ biến mất khi con người tiến hoá. ” . Tôi tin rằng không những cõi trung giới mà tất cả mọi cõi giới thiên đàng và địa ngục đều do tâm thức hay tư tưởng của con người tạo ra mà thôi và nó chỉ có vẻ như thực với những người có trình độ tiến hoá tâm linh bình thường. Nhưng với các bậc siêu nhân thì nó biến mất ( không tồn tại ). Tôi nhớ rằng Mahavata Babaji đã từng nói rằng ” với sự hiện diện của Ta thì tất cả mọi thiên đường và địa ngục đều bị xoá bỏ “.Do đó tôi tin rằng tâm thức của các vị Thánh Nhân chỉ sống trong cõi giới Phi Thời Gian và Phi Tư Tưởng.

    • webmaster

      Để hiểu rõ những câu nói của đức DK như “một cõi giới là một trạng thái tâm thức”, “cõi trung giới không thật và sẽ biến mất,” “thời gian không tồn tại“… chúng ta cần suy gẫm thật nhiều. Chúng tôi nhớ có lần Ngài hóm hỉnh nói “các nhà triết học thích dùng những từ khó hiểu, bí hiểm”, nhưng Ngài là một Chân Sư Minh Triết, một nhà Huyền Bí Học, nên những từ Ngài dùng đều chuẩn xác theo cách của một nhà Khoa học. Những câu nói của Ngài đôi lúc khó hiểu bởi vì Ngài diễn tả những cái mà chúng ta chưa có kinh nghiệm, hoặc trong cõi trần gian này không có điểm tương ứng để mô tả, do đó Ngài khó diễn tả cho chúng ta hiểu được. Chúng tôi sẽ có dịp quay lại những đề tài này.

      • Phuc

        Đề tài: Thiên đàng – Cực lạc – Devachan có thật không ? Cõi này được hình thành bởi những Vị đi trước, được bổ sung năng lượng bởi những ai chuyên về niềm tin, … những ai đến sau sẽ thấy cõi này là thật. Kết luận: là có thật đối với tất cả những ai tiến hóa cao hay thấp.

  3. conghk

    Các bác cho em hỏi: Câu trích ở phần trên là “Con người trong thể cảm xúc của mình vào lúc này hoàn toàn thoát khỏi sự thôi thúc của các dục vọng thú tính— vốn là chuyện bình thường và đúng chỗ trên cõi trần, nhưng giờ đây hoàn toàn vô nghĩa đối với con người trong thể cảm xúc của mình” là hơi khó hiểu vì theo em, con người khi chết vẫn còn nhiều cảm xúc, dục vọng, thèm muốn. Trải qua thời gian khi ý thức được xác thân không còn nữa, không còn gì để thóa mãn được dục vọng thì dục vọng mới tiêu mòn bớt đi chứ. Mong các bác cho ý kiến nhé!

    • Thanh Khac Nguyen

      Tôi nghĩ rằng câu ở trên có nghĩa là những dục vọng của thể xác, mang bản chất vật chất và thú tính thì khi không còn thể xác thì nó sẽ không còn nữa. Các dục vọng có bản chất cảm dục thì vẫn còn. Ví dụ như đối với người không còn thể xác thì vấn đề ham muốn tình dục đối với họ là vô nghĩa, nhưng ham muốn được thương yêu, quyến luyến tình cảm, được ca ngợi… thì vẫn còn.

Leave a Reply to Jupiter nguyen Cancel reply