Điểm đạo – Chương 16: Truyền thụ các Bí Nhiệm

TRUYỀN THỤ CÁC BÍ NHIỆM

THE IMPARTING OF THE SECRETS

Đây là chương áp chót của quyển Điểm đạo trong Nhân loại và thái dương hệ. Trong chương trước và chương này, chúng tôi không tóm tắt và giải thích ở phần mở đầu của bài viết như trước đây, mà để bạn đọc tự đọc và suy gẫm lấy. Chắc các bạn cũng thấy, càng về sau nội dung sách càng trừu tượng và khó hiểu. Đây là quyển sách đầu tiên mà đức DK viết để đặt nền tảng cho tất cả những gì Ngài dự định phổ biến trong 30 năm tới. Đương nhiên càng về sau thì giáo lý của Ngài càng thâm sâu và khó hiểu hơn nhiều. Các quyển như A Treatise on Seven Rays (5 quyển) phản ảnh những giáo lý vi diệu đó. Khi đọc các quyển sách của Ngài viết, chúng tôi vẫn tự hỏi bao giờ mới có thể đọc hếthiểu phần nào những gì Ngài nói. Và khi học hỏi những gì Ngài dạy, chúng tôi không khỏi liên tưởng đến những quyển sách hoặc giáo lý được cho hay tự xưng là do các bậc còn cao cả hơn Ngài nữa (như đức M. hay đức St. Germain …) đọc cho tác giả viết lại. Do đó, phân biện là đức tính đầu tiên mà người học đạo phải rèn luyện, và phân biện phải được khai mở thông qua việc học hỏi nghiêm túc và tham thiền huyền môn.

*******************

Nay chúng ta xét đến các bí nhiệm được truyền cho điểm đạo đồ trong cuộc lễ điểm đạo. Dĩ nhiên, rõ ràng là chúng ta chỉ có thể đề cập đến sự có thật của điều bí nhiệm, cũng như nêu lên vấn đề chính nó liên hệ, và ngay cả vấn đề này cũng sẽ không được đưa ra nếu sự hiểu biết tổng quát về vấn đề đó không khiến cho ứng viên điểm đạo có thể nghiên cứu vấn đề kỹ lưỡng hơn và trang bị kiến thức cho thể trí y một cách chu đáo hơn. Nhờ đó (khi đứng trước Đấng Điểm Đạo đúng lúc) y sẽ không mất thì giờ khi sử dụng điều bí nhiệm được giao.

We now come to the consideration of the secrets committed at the initiation ceremony to the initiate. It is apparent of course, that only the fact of the secret, and an indication as to the matter with which it concerns itself can be touched upon, and even this would be left unmentioned were it not that a knowledge of the general outline of the subject may inspire the applicant for initiation to a more careful study of such a subject and to a more diligent equipping of his mental body with information. Thereby (when in due course of time he stands before the Initiator) he will lose no time in utilizing the acquired secret.

 

Bí nhiệm Thất phân. The Sevenfold Secret

Sau khi tuyên thệ giữ kín điều bí nhiệm và không vi phạm, tân điểm đạo đồ một mình tiến đến gần vị Chủ lễ, rồi đặt tay lên phần dưới của Điểm đạo Thần trượng mà vị Chủ lễ cầm ở phần giữa. Bấy giờ, ba Vị đứng chung quanh ngôi chủ lễ mới đặt tay các Ngài lên viên kim cương chói rạng gắn trên đầu Thần trượng, và khi cả năm vị được liên kết theo cách này bởi năng lượng luân chuyển phát ra từ Thần trượng, thì Đấng Điểm Đạo giao phó bí nhiệm cho điểm đạo đồ. Lý do của điều này là: Mỗi một trong năm cuộc điểm đạo trực tiếp liên quan đến chúng ta (hai cuộc điểm đạo cao hơn không có tính bắt buộc, nên chúng ta không xét đến) đều ảnh hưởng đến một trong năm luân xa nơi con người, [164]

  1. Luân xa ở đầu,
  2. Luân xa tim,
  3. Luân xa cổ họng.
  4. Luân xa nhật tùng [tùng thái dương],
  5. Luân xa chót xương sống,

tiết lộ cho y kiến thức về các loại mãnh lực và năng lượng khác nhau làm sinh động thái dương hệ, và đến với y qua một luân xa dĩ thái đặc biệt. Khi áp dụng Thần trượng, các luân xa của y được ảnh hưởng một cách đặc biệt. Qua việc truyền thụ Bí nhiệm, y được cho biết lý do của nó và cho thấy nó đồng nhất với lý do nhất thiết tạo nên một sự biểu lộ hành tinh đặc biệt, và gây nên một chu kỳ đặc biệt lớn hơn.

After the administration of the oath which pledges the initiate to inviolable secrecy, the newly made initiate advances alone closer to the Hierophant; he then places his hand upon the lower end of the Rod of Initiation which is held in the center by the Hierophant. The three who stand around the throne of office then place their hands upon the glowing diamond which surmounts the Rod, and when these five personalities are thus linked by the circulating energy emanating from the Rod, the Initiator confides to the initiate the secret. The reason for this is as follows: Each of the five initiations with which we are immediately concerned (for the higher two, not being compulsory, are outside our present consideration) affects one of the five centers in man, [164]

  1. The head,
  2. The heart,
  3. The throat,
  4. The solar plexus,
  5. The base of the spine,

and reveals to him knowledge concerning the various types of force or energy by which the solar system is animated, and which reach him via a particular etheric center. At the application of the Rod his centers were affected in a particular fashion. By the impartation of the Secret, the reason is committed to his care, and that reason is demonstrated to him to be identical with that which necessarily produces some particular planetary manifestation, and which causes a certain specific greater cycle.

Có thể nói rằng:-

  1. Mỗi bí nhiệm liên quan đến một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ.
  2. Mỗi bí nhiệm liên quan đến và phát biểu một trong bảy định luật của thiên nhiên. Vì thế chúng liên hệ đến một trong các trường tiến hoá cơ bản của mỗi hành tinh hệ. Mỗi hệ thể hiện một trong các định luật là luật chính yếu của nó, và tất cả các trường tiến hoá của nó đều có khuynh hướng biểu dương sự hoàn thiện của định luật đó với sáu biến thái phụ thuộc của nó, sáu biến thái này khác nhau một chi tiết trong mỗi trường hợp, tùy theo định luật chính được phát biểu.
  3. Mỗi bí nhiệm truyền đạt chìa khoá để hiểu bản tính của một vị Hành Tinh Thượng Đế, và do đó đưa ra manh mối để biết những đặc tính của các Chân thần thuộc cung hành tinh đó. Hiển nhiên là sự hiểu biết như thế rất cần cho vị Chân sư đang cố gắng làm việc cho nhân loại, vận dụng các dòng mãnh lực đang ảnh hưởng đến họ và do họ phát ra. [165]
  4. Mỗi bí nhiệm liên quan đến một cung hay một màu sắc nào đó và cho biết con số, nốt nhạc và sự rung động tương ứng.

It might be pointed out that:

  1. Each secret concerns one or other of the seven great planes of the solar system.
  2. Each secret deals with, and is the enunciation of, one of the seven laws of nature. They therefore concern one or other of the basic evolutions of each planetary scheme. Each scheme embodies one of the laws as its primary law, and all its evolutions tend to demonstrate the perfection of that law with its six subsidiary mutations, these six differing in one particular in each case according to the primary law manifested.
  3. Each secret conveys a key to the nature of some particular Planetary Logos, and consequently gives the clue to the characteristics of those Monads who are on that particular planetary ray. It is obvious how necessary such knowledge is to the adept who seeks to work with the sons of men, and to manipulate the force currents affecting them and which they emanate. [165]
  4. Each secret concerns some one ray or color and gives the number, note, and the vibration which corresponds.

Bảy bí nhiệm này chỉ là những công thức ngắn gọn, không có giá trị của thần chú, như trong trường hợp của Linh từ, mà có tính chất toán học, ngôn từ được dùng chính xác để truyền đạt đúng đắn ý định của người nói. Đối với người chưa được điểm đạo thì các bí nhiệm này trông có vẻ và nghe giống như các công thức đại số, ngoại trừ (khi thấy bằng nhãn thông) thì mỗi bí nhiệm gồm một hình bầu dục với một màu nhất định, tùy theo bí nhiệm được truyền đạt, có chứa năm chữ tượng hình hay biểu tượng đặc biệt. Một biểu tượng chứa công thức của định luật liên hệ, một biểu tượng khác cho biết khoá và âm độ hành tinh, biểu tượng thứ ba đề cập đến rung động, trong khi biểu tượng thứ tư cho biết con số và ngành của cung liên hệ. Chữ tượng hình cuối cùng đưa ra một trong bảy chìa khoá của ĐĐCG để các thành viên của ĐĐCG hành tinh chúng ta có thể liên lạc với các cấp thái dương. Đây hiển nhiên là những chi tiết rất mơ hồ và tối nghĩa, nhưng để nêu rõ rằng, như trong trường hợp các Linh từ, phải dùng hai giác quan để hiểu, muốn nhận thức được các bí nhiệm cũng phải sử dụng hai giác quan, để nghe, và thấy các biểu tượng bằng nội nhãn.

These seven secrets are simply short formulas, not of mantric value, such as in the case of the Sacred Word, but of a mathematical nature, precisely worded so as to convey the exact intent of the speaker. To the uninitiated they would look and sound like algebraically formulas, except that each is composed (when seen clairvoyantly) of an oval of a specific hue, according to the secret imparted, containing five peculiar hieroglyphics or symbols. One symbol contains the formula of the law concerned, another gives the planetary key and tone, a third deals with vibration, whilst the fourth shows the number and department under which the ray concerned falls. The last hieroglyph gives one of the seven hierarchical keys by means of which the members of our planetary hierarchy can link up with the solar. This is evidently very vague and ambiguous information, but it will serve to show that, as in the case of the Words, apprehension had to involve two senses, so in the cognition of the secrets the two senses again come into play, and the secret is both heard and appears symbolically to the inner eye.

Giờ đây ta mới rõ ràng là tại sao phải đặt nhiều chú trọng đến việc nghiên cứu các biểu tượng, và tại sao người ta khuyến khích các môn sinh hãy suy gẫm và tham thiền về các thiên tượng thái dương hệ và vũ trụ. Điều đó chuẩn bị cho họ thấu hiểu và ghi nhớ trong tâm các biểu tượng và công thức thể hiện kiến thức mà rốt cuộc nhờ đó họ có thể làm việc. Các công thức này dựa trên chín biểu tượng được biết hiện nay:-

  1. Các dạng thập tự giá.
  2. Hoa sen.
  3. Tam giác.
  4. Khối vuông. [166]
  5. Hình cầu và điểm.
  6. Tám hình thể động vật: dê, bò mộng, voi, người, rồng, gấu, sư tử, và chó.
  7. Đường thẳng.
  8. Một số thiên tượng của Hoàng đạo, do đó cần phải nghiên cứu khoa chiêm tinh.
  9. Cái ly có chân hay chén thánh.

It will now be apparent why so much stress is laid upon the study of symbols, and why students are urged to ponder and meditate upon the cosmic and systemic signs. It prepares them for the grasp and inner retention of the symbols and formulas which embody the knowledge whereby they can eventually work. These formulas are based upon nine symbols which are now recognized: —

  1. The cross in its varying forms.
  2. The lotus.
  3. The triangle.
  4. The cube. [166]
  5. The sphere and the point.
  6. Eight animal forms, the goat, the bull, the elephant, the man, the dragon, the bear, the lion, and the dog.
  7. The line.
  8. Certain signs of the Zodiac, hence the need for the study of astrology.
  9. The cup, or the holy grail.

Tất cả các biểu tượng này liên kết, xen lẫn nhau, hoặc dùng một phần, được phối hợp, để phát biểu một trong bảy Bí nhiệm. Điểm đạo đồ phải nhận ra chúng bằng thị giác cũng như thính giác, và dùng nỗ lực của ý chí để khắc ghi chúng trong trí nhớ không thể xoá nhoà. Có ba cách giúp y thực hiện điều này: Thứ nhất, bằng việc rèn luyện trước đó trong một thời gian dài; tất cả những người chí nguyện đều có thể bắt đầu làm việc ngay từ bước hiện tại, và khi học cách ghi khắc chính xác các chi tiết vào trí nhớ, họ đặt nền tảng cho sự lãnh hội chính xác được ngay những điều Đấng Điểm Đạo bày tỏ cho họ; thứ hai, nhờ đã tự phát triển năng lực hình dung lại những điều đã có lần họ thấy. Ở đây, chúng ta thấy rõ tại sao các bậc thầy minh triết về thiền đã chú trọng vào khả năng kiến tạo thận trọng các hình tư tưởng. Mục đích này có hai mặt:-

All these symbols allied, interwoven, or taken in part, are combined to express one or other of the seven Secrets. The initiate has to recognize them by sight as well as to hear them, and by an effort of the will to imprint them irrevocably upon his memory. This he is aided to do in three ways: First, by a long prior training in observation; this can be begun here and now by all aspirants, and as they learn to imprint details accurately upon their memory they are laying the foundation for that acute instantaneous apprehension of that which is shown them by the Hierophant; secondly, by having cultivated within themselves the power to visualize again that which has once been seen. It will be apparent here why the emphasis has been laid by all wise teachers of meditation upon the faculty of the careful building of mental pictures. The aim has been two-fold:

  1. Dạy người môn sinh hình dung chính xác các hình tư tưởng của y, để khi bắt đầu sáng tạo hữu thức, y có thể không bị mất thì giờ do biến đổi thiếu chính xác.
  2. Giúp y có thể hình dung lại chính xác bí nhiệm y đã được truyền đạt, để bất cứ khi nào cần y có thể sử dụng được ngay.

Cuối cùng, nhờ sự mạnh mẽ áp dụng ý chí của bốn Vị đang cầm [167] Thần trượng cùng một lúc với điểm đạo đồ, sự định trí kiên cường và điêu luyện của các Ngài giúp y lãnh hội hết sức dễ dàng.

  1. To teach the student to visualize his thought-forms accurately, so that when he begins to create consciously he may lose no time in inaccurate transformation.
  2. To enable him to picture again accurately the imparted secret, so that it may instantly be of use to him whenever needed.

Finally, by the strongly applied will of the other four Personalities who are holding the Rod at the same time as the [167] initiate. Their trained intense mental concentration greatly facilitates his apprehension.

Trong trường hợp cuộc tiến hoá của nhân loại, một số loại mãnh lực được sản xuất, xử lý, đồng hoá và sử dụng, lúc đầu thì vô ý thức và cuối cùng với trí thông minh đầy đủ.

  1. Trong Phòng Vô Minh, mãnh lực hay năng lượng của Brahma (sự hoạt động thông tuệ của vật chất) được xử lý nhiều nhất, và con người phải học biết ý nghĩa của hoạt động dựa trên:-
    1. Năng lượng cố hữu.
    2. Năng lượng được hấp thụ.
    3. Năng lượng tập thể.
    4. Năng lượng vật chất, hay năng lượng ẩn trong vật chất hồng trần.

In the case of human evolution certain types of force are generated, dealt with, assimilated, and used, at first unconsciously, and finally with full intelligence.

  1. In the Hall of Ignorance the force or energy of Brahma (the activity and intelligence of substance) is that mostly dealt with, and the man has to learn the meaning of activity based on:
    1. Inherent energy.
    2. Absorbed energy.
    3. Group energy.
    4. Material energy, or that which is hidden in physical plane matter.
  1. Trong Phòng Học Tập, y trở nên ý thức được, và sử dụng năng lượng của trạng thái thứ nhì trong việc kiến tạo hình thể, trong các quan hệ xã hội và các liên hệ gia đình. Y đến mức nhận thức được giới tính và các quan hệ giới tính, nhưng cho đến bây giờ vẫn còn xem mãnh lực này là điều phải được chủ trị, mà không thấy nó cần được sử dụng một cách hữu thức và xây dựng.
  2. Trong Phòng Minh Triết, y đến mức biết được trạng thái thứ nhất của năng lượng, công dụng năng động của ý chí trong hy sinh, và y được giao phó chìa khoá của bí nhiệm tam phân của năng lượng. Trong hai phòng kia y đã biết được trạng thái tam phân của năng lượng này. Vào cuộc điểm đạo thứ ba, thứ tư và thứ năm, y được trao cho ba chìa khoá của ba bí nhiệm.
  1. In the Hall of Learning he becomes aware of, and uses the energy of the second aspect in form building, in social relations, and in family affiliations. He comes to the recognition of sex and its relations, but as yet views this force as something to be controlled, but not consciously and constructively utilized.
  2. In the Hall of Wisdom he comes to the knowledge of the first aspect of energy, the dynamic use of will in sacrifice, and to him is then committed the key to the threefold mystery of energy. This energy in its threefold aspect he became aware of, in the other two Halls. At the third initiation, and at the fourth and fifth, the three keys to the three mysteries are given to him.

Y được trao cho chìa khoá của bí nhiệm mà y đã cảm thấy trong Phòng thứ nhất, bí nhiệm của Brahma, và bấy giờ y có thể mở ra các năng lượng ẩn tàng của chất liệu [168] nguyên tử. Chìa khoá của bí nhiệm giới tính, hay là các cặp đối cực, được trao vào tay y, và bấy giờ y có thể khai mở các mãnh lực ẩn tàng của trạng thái ý chí. Có thể nói là y được cho thấy bộ máy phát điện của thái dương hệ và được tiết lộ cho biết những sự phức tạp của cơ cấu này.

The key to the mystery sensed in the first Hall, the mystery of Brahma, is handed to him, and he can then unlock the hidden energies of atomic substance. [168]

The key to the mystery of sex, or of the pairs of opposites, is thrust into his hand, and he can then unlock the hidden forces of the will aspect. The dynamo of the solar system is shown to him, — if it might be so expressed — and the intricacies of the mechanism revealed.

 

Ba Bí nhiệm Thái dương- The Three Solar Mysteries

 

Ba bí nhiệm của thái dương hệ là:-

  1. Bí nhiệm về Điện. Bí nhiệm của Brahma. Bí mật của trạng thái thứ ba, ẩn tàng trong mặt trời hồng trần
  2. Bí nhiệm của sự Phân Cực, hay là xung lực tính dục vũ trụ. Bí mật của trạng thái thứ hai, ẩn tàng trong Tâm Mặt trời, hay Mặt trời nội tại.
  3. Bí nhiệm của Lửa, hay là động lực trung ương của thái dương hệ, bí mật của trạng thái thứ nhất, ẩn tàng trong Mặt trời Tinh thần Trung ương.

The three mysteries of the solar system are:

  1. The mystery of Electricity. The mystery of Brahma. The secret of the third aspect. It is latent in the physical sun.
  2. The mystery of Polarity, or of the universal sex impulse. The secret of the second aspect. It is latent in the Heart of the Sun, or the subjective Sun.
  3. The mystery of Fire itself, or the dynamic central systemic force. The secret of the first aspect. — It is latent in the Central Spiritual Sun.

Sự Khải thị Tuần tự các Bí nhiệm. Their Sequential Revelation

Các bí nhiệm được tuần tự truyền đạt cho điểm đạo đồ, nói chung gồm có ba, dù trong đó có thể có những bí nhiệm thứ yếu được tiết lộ sớm hơn. Vào cuộc điểm đạo thứ ba, bí nhiệm đầu tiên trong ba bí nhiệm cơ bản của thái dương hệ được truyền cho điểm đạo đồ, ngay sau khi đã tuyên thệ. Chúng ta có thể gọi đây là “Bí nhiệm về điện,” vì thiếu thuật ngữ. Nó liên quan đến những hiện tượng biểu lộ khách quan của Thượng Đế. Ở đây, người môn sinh nên sáng suốt nhớ rằng ba cõi của tam giới, là cõi trần, cõi cảm dục và cõi trí, hợp thành thể xác trọng trược của [169] Đức Thái Dương Thượng Đế, còn bốn cõi cao hơn hợp thành thể dĩ thái của Ngài. Các môn sinh thường quên rằng bảy cõi của chúng ta là bảy phân cảnh của cảnh giới hồng trần vũ trụ. Điều này có liên hệ rõ rệt đến bí nhiệm về điện. Đây là lý do tại sao bí nhiệm này không được tiết lộ trước cuộc điểm đạo thứ ba và được chuẩn bị bằng việc truyền đạt hai bí nhiệm thứ yếu liên hệ đến cõi trần và cõi cảm dục, do Đức Bồ-tát truyền đạt vào hai cuộc điểm đạo đầu tiên.

The secrets, as imparted sequentially to the initiate, are roughly three in number, though within them may be found lesser mysteries which are earlier revealed. At the third initiation the first of the three fundamental secrets of the solar system is imparted to the initiate, immediately after he has taken the oath. This we might, for lack of a better term, call “the secret of electricity.” It concerns the phenomena of the dense objective manifestation of the Logos. It would be wise here for the student to remember that the three planes of the three worlds, physical, astral, and mental, form the dense physical body of the solar Logos, whilst the [169] four higher form his etheric body. Students are apt to forget that our seven planes are the seven sub-planes of the cosmic physical. This has a very definite bearing on the secret of electricity. This is why the secret is not revealed till the third initiation, and is prepared for by the impartation of two lesser secrets which concern the physical and astral planes, and which are imparted at the first two initiations by the Bodhisattva.

Khoa học công nhận các hiện tượng điện là có bản tính lưỡng phân, nhưng tính tam phân cố hữu của điện vẫn còn chỉ là vấn đề phỏng đoán đối với khoa học hiện tại. Vào cuộc điểm đạo thứ nhất, điểm đạo đồ được cho thấy tính tam phân của điện, và được tiết lộ cho biết bí nhiệm của cách làm cân bằng các lực ở cõi trần, để nhờ đó tạo được sự quân bình. Bí nhiệm này cũng giúp y tiếp xúc được với một số vị Kiến tạo ở cõi trần—tức là trên các cấp dĩ thái—và bấy giờ y có thể tạo ra các hiện tượng ở cõi trần, nếu y thấy đó là điều khôn ngoan. Y ít khi làm điều này, vì những kết quả đạt được do đó thực tế là không quan trọng và y không phí năng lượng như vậy. Những kẻ làm việc với các mãnh lực giáng hạ tiến hoá, là các huynh đệ bóng tối, sử dụng phương pháp này để làm kinh ngạc và mê hoặc những người bất cẩn. Các vị huynh đệ của nhân loại không làm như thế.

Electrical phenomena are scientifically recognized as dual in nature, but the inherent triplicity of electricity is as yet but a matter for speculation for modern science. The fact that it is triple is demonstrated to the initiate at the first initiation, and the secret of how to balance forces on the physical plane, and thereby produce equilibrium, is revealed to him at the first initiation. This secret likewise puts him in touch with certain of the Builders on the physical plane — that is, on the etheric levels — and he can then produce physical plane phenomena should he deem it wise. This he seldom does, as the results gained thereby are practically unimportant and he wastes not energy in this manner. The workers with the involutionary forces, the brothers of darkness, employ this method for the startling and the enthralling of the unwary. Not thus work the brothers of humanity.

Bí nhiệm về sự kết hợp của nguyên tử được tiết lộ cho điểm đạo đồ, và bấy giờ y ở vị thế nghiên cứu tiểu vũ trụ theo luật tương ứng, một cách mới mẻ và sáng tỏ hơn. Tương tự, qua sự khải thị này liên quan đến phần trọng trược nhất của cơ thể Thượng Đế, y có thể xác định được nhiều điều về thái dương hệ trước, và các sự kiện về vòng tiến hoá thứ nhất của hành tinh hệ chúng ta. Bí nhiệm này cũng gọi là “bí nhiệm của vật chất.”

Vào cuộc điểm đạo thứ nhì “bí nhiệm của biển” được mở ra cho y, và qua sự hiển lộ này hai vấn đề rất đáng quan tâm trở [170] nên sáng tỏ với nội nhãn của y. Đó là:-

  1. Bí nhiệm của ánh sáng cảm dục (Astral Light).
  2. Luật Nghiệp Quả.

The secret of the coherence of the atom is revealed to the initiate, and he then is in a position to study the microcosm under the law of correspondences in a new and illuminating manner. Similarly, through this revelation concerning the densest part of the logoic body, he can ascertain much concerning the previous solar system, and the facts anent the first round of our scheme. This secret is also called “the mystery of matter.”

At the second initiation “the secret of the sea” is unfolded to him, and through this revelation two subjects of profound [170] interest become clarified to his inner vision. They are:

  1. The mystery of the astral light.
  2. The law of karma.

Sau đó, y có khả năng làm được hai điều, mà nếu không, y không thể dẹp tan các chướng ngại để đạt giải thoát; y có thể đọc được các tiên thiên ký ảnh và xác định được quá khứ, để có thể làm việc một cách sáng suốt trong hiện tại, có thể bắt đầu thanh toán nghiệp quả, giải quyết các nghĩa vụ của mình, và biết cách hoá giải nghiệp quả trong tam giới. Điểm đạo đồ được cho biết sự liên hệ với các đẳng cấp tinh thần là các Đấng liên quan đến Luật Nghiệp Quả khi nó ảnh hưởng đến con người; y cũng trực tiếp biết rằng các vị Nghiệp Quả Tinh Quân không phải là chuyện thần thoại hay chỉ có tính cách tượng trưng, mà là những Đấng rất cao minh, vận dụng định luật vì lợi ích của nhân loại, để giúp mọi người trở nên hữu ngã thức đầy đủ và độc lập theo nghĩa huyền bí, và trở thành những vị sáng tạo qua kiến thức hoàn toàn.

He is, after this, in a position to do two things, without which he cannot work off that which hinders, and thus achieve liberation; he can read the akashic records and ascertain the past, thereby enabling himself to work intelligently in the present, and he can begin to balance his karma, to work off his obligations, and to understand how karma in the three worlds can be negated. The relation of that hierarchy of spiritual beings who are connected with the law of karma as it affects man is demonstrated to him, and he knows with first-hand knowledge that the lords of karma are no myth, or symbolical Units, but are highly intelligent entities who wield the law for the benefit of humanity, and thus enable men to become fully self-conscious and self-reliant in the occult sense, and to become creators through perfected knowledge.

Vào cuộc điểm đạo thứ ba, điểm đạo đồ được trao cho “bí nhiệm của fohat,” và bấy giờ y biết được bí nhiệm của cơ thể tam phân của Thượng Đế ba ngôi, và nguyên do của các hiện tượng trong các thể đặc, lỏng, và hơi của Đấng Tối Cao mở ra trước tầm mắt ngạc nhiên của y. Hai bí nhiệm trước đã truyền đạt và kiến thức trong đó đã được sử dụng, và giờ đây điểm đạo đồ đến mức ích dụng được sự khải thị lớn lao này, và hiểu được phần nào các sự kiện sau:-

  1. Tiến trình sáng tạo trong việc tạo hình tư tưởng.
  2. Việc truyền năng lượng của Chân nhân đến thể xác qua các trung tâm lực trên các cõi khác nhau. [171]
  3. Sự đi lên của Kundalini, nó tiến lên theo đường hình học và khơi hoạt tất cả các luân xa.

At the third initiation “the secret of fohat” is given to him, and then the mystery of the threefold body of the triple Logos is his, and the why of the phenomena of the dense liquid and gaseous bodies of the Supreme Being is unfolded before his amazed vision. The two secrets previously imparted, and the knowledge which they gave having been utilized, the initiate is now in a position to profit by this greater revelation, and to understand somewhat the following facts:

  1. The creative process of thought form building.
  2. The transmission of energy from the Ego to the physical body via the force centers on the various planes. [171]
  3. The uprising of kundalini, its geometrical progression, and its vivification of all the centers.

Nhờ kiến thức được truyền đạt, và tiến bộ trong việc nghiên cứu luật tương đồng, điểm đạo đồ có thể biết cách vận dụng cũng cùng những mãnh lực này trên qui mô rộng lớn hơn, trong hành tinh hệ và thái dương hệ. Y được tiết lộ cho biết phương pháp phát triển trong ba vòng tiến hoá trước, và y hiểu được các giai đoạn đầu của diễn trình tiến hoá, về mặt thực hành cũng như lý thuyết. Y nắm trong tay chìa khoá của ba giới hạ đẳng trong thiên nhiên, và bắt đầu ý thức được một số ý niệm về vấn đề phân cực, sự hoà hợp và hợp nhất cơ bản, chỉ chờ đến cuộc điểm đạo thứ tư để được tiết lộ hoàn toàn.

By the knowledge thus imparted, and the progress which the initiate has made in the study of the law of analogy, he can comprehend the manipulation of the same forces on a vastly larger scale in the planetary scheme and in the solar system. The method of development in the three earlier rounds is revealed to him, and he understands, practically as well as theoretically, the evolutionary process in its earlier stages. The key to the three lower kingdoms of nature is in his hands, and certain ideas anent the subject of polarity, of at-one-ment, and essential union, are beginning to come within his range of consciousness, only waiting for the fourth initiation to complete the revelation.

Bí nhiệm này của điện, chủ yếu là có tính tam phân, liên quan đến Brahma hay trạng thái thứ ba, và đôi khi được gọi bằng những tên sau đây:-

  1. Bí mật của Brahma.
  2. Sự hiển lộ của Đức Mẹ.
  3. Bí mật của Lực Fohat.
  4. Bí nhiệm của Đấng Tạo Hoá.
  5. Bí mật của Ba phát xuất từ (thái dương hệ) thứ Nhất,

và cũng được gọi bằng bốn nhóm từ thần bí, mang nhiều ánh sáng đến cho trực giác:

  1. Con Tàu Bí nhiệm vượt Đại dương.
  2. Chìa khoá của Kho tàng Thiêng liêng.
  3. Ánh sáng Hướng dẫn qua ba động U minh.
  4. Đầu mối đưa đến Năng lượng kết hợp Lửa và Nước. [172]

This secret of electricity, which is essentially triple in its nature, deals with the Brahma or third aspect, and is called sometimes by the following names:

  1. The Secret of Brahma.
  2. The Revelation of the Mother.
  3. The Secret of Fohatic Force.
  4. The Mystery of the Creator.
  5. The Secret of the Three who issued from the First (solar system)

and also by four mystic phrases conveying much light to the intuition:

  1. The Boat of Mystery which Ploughs the Ocean.
  2. The Key to the Divine Storehouse.
  3. The Light that Guides through the triple caves of Darkness.
  4. The Clue to the Energy uniting Fire and Water. [172]

Trong tất cả các tên gọi này có nhiều kiến thức sẽ đến với người môn sinh suy gẫm chúng cẩn thận, nhớ rằng chúng chỉ về trạng thái Brahma ở mức biểu hiện thấp nhất, và chỉ về ba cảnh giới nỗ lực của nhân loại; khi tham thiền như thế, người môn sinh phải liên hệ thái dương hệ hiện nay với thái dương hệ trước, trong đó trạng thái Brahma chế ngự, cũng như trạng thái tâm thức hay Vishnu chế ngự trong thái dương hệ này.

Qua kiến thức được truyền đạt, nay điểm đạo đồ đến mức hiểu được phàm tính tam phân của chính mình, và do đó làm nó thăng bằng trong quan hệ với bản tính cao siêu, đọc được các ký ảnh và biết được vị trí của y trong tập thể, vận dụng được các mãnh lực trong tam giới để tự giải thoát, nhờ đó trợ giúp các mục tiêu tiến hoá, và cộng tác một cách thông minh với các kế hoạch của Đức Hành Tinh Thượng Đế, khi các kế hoạch đó được phép tiết lộ cho y trong từng giai đoạn. Giờ đây y có thể vận dụng quyền lực, và trở nên một trung tâm năng lượng với mức độ gia tăng lớn lao, có thể phân phối hay thu hồi các dòng mãnh lực. Khi một người trở nên mạnh mẽ một cách hữu thức trên cõi trí, thì năng lực hành thiện của y gia tăng gấp trăm lần.

In all these names much information will come to the student who carefully ponders them, remembering that they deal with the Brahma aspect in its lowest manifestation and with the three worlds of human endeavor, and thus meditating, the student must relate this present solar system to the preceding one, in which the Brahma aspect dominated, as the Vishnu, or consciousness aspect dominates in this.

The initiate, through the knowledge imparted, is now in a position to understand his own triple lower nature, and therefore to balance it in relation to the higher, to read the records and understand his place within the group, to manipulate the forces in the three worlds and thereby effect liberation for himself, thus helping the ends of evolution, and to co-operate intelligently with the plans of the Planetary Logos as they may be revealed to him stage by stage. He can now wield power, and becomes a center of energy in a greatly increased degree, being able to dispense or retract force currents. The moment a man becomes consciously powerful on the mental plane, his power for good is a hundredfold increased.

Vào cuộc điểm đạo thứ tư, một bí nhiệm trọng đại khác nữa được tiết lộ cho y, gọi là “bí nhiệm về sự phân cực,” và y được trao cho manh mối ý nghĩa của giới tính trong mọi phân bộ của thiên nhiên trên tất cả các cảnh giới. Không thể nói nhiều theo các đường hướng này. Điều có thể làm là kể ra một vài chủ đề mà bí nhiệm này cho manh mối, và nói thêm rằng trong hệ hành tinh chúng ta, bí nhiệm này hết sức quan trọng, do trình độ tiến hoá của Đức Hành Tinh Thương Đế của chúng ta. Ngài đang ở giai đoạn hữu ý tìm cách hoà hợp với đối cực của Ngài, là một vị [173] Hành Tinh Thượng Đế khác.

At the fourth initiation another of the great secrets is revealed to him. It is called “the mystery of polarity,” and the clue to the significance of sex in every department of nature on all the planes is given to him. It is not possible to say much along these lines. All that can be done is to enumerate some of the subjects to which it gives the clue, adding to this the information that in our planetary scheme, owing to the point in evolution of our own Planetary Logos, this secret is the most vital. Our Planetary Logos is at the stage wherein he is consciously seeking the at-one-ment with his polar opposite, another Planetary Logos. [173]

Các chủ đề mà bí nhiệm này soi sáng là:-

  1. Giới tính ở cõi trần. Nó cho chúng ta chìa khoá của bí nhiệm về sự phân chia nam nữ vào thời kỳ Lemuria.
  2. Sự cân bằng các mãnh lực trong mọi phân bộ của thiên nhiên.
  3. Manh mối về hệ hành tinh hợp với hệ của chúng ta thành một lưỡng nguyên.
  4. Danh hiệu thật của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta và quan hệ của Ngài với Thái Dương Thượng Đế.
  5. “Cuộc Hôn phối của con Chiên” và vấn đề của cô dâu thiên giới. Manh mối của vấn đề này ẩn tàng trong thái dương hệ S. . . . phải được đọc theo khoa chiêm tinh.
  6. Bí nhiệm của Song Nam, và sự liên kết của Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta với chòm sao đó.

The subjects on which this secret throws a flood of light are:

  1. Sex on the physical plane. It gives us a key to the mystery of the separation of the sexes in Lemurian days.
  2. The balancing of forces in all departments of nature.
  3. The clue as to which Scheme forms with ours a duality.
  4. The true name of our Planetary Logos and his relation to the Solar Logos.
  5. “The Marriage of the Lamb” and the problem of the heavenly bride. A clue to this lies in the solar system of S… which must be read astrologically.
  6. The mystery of the Gemini, and the connection of our particular Planetary Logos with that constellation.

Trên qui mô nhỏ hơn, và đối với tiểu vũ trụ, những chủ đề sau đây được soi sáng khi điểm đạo đồ nhận đại bí nhiệm thứ nhì, hoặc bí nhiệm thứ tư bao gồm các bí nhiệm thứ yếu trước đó:-

  1. Các tiến trình hoà hợp trong các giới khác nhau của thiên nhiên. Y được cho thấy sự nối kết giữa các giới tiến hoá, và thấy sự thống nhất của hệ hành tinh.
  2. Y được tiết lộ cho thấy rõ phương pháp hoà hợp với Chân nhân, được cho thấy thực tính của antahkarana, và khi đã được tiết lộ như thế, nó không cần thiết nữa.
  3. Y thấy được tính duy nhất cốt yếu giữa Chân nhân và phàm nhân.
  4. Mối liên hệ giữa hai giới tiến hoá, nhân loại và thiên thần, không còn là điều bí nhiệm nữa, và y thấy vị trí của hai giới này trong cơ thể của Đấng Thiên Nhân (Thượng Đế) là một sự kiện thật. [174]

On a lesser scale, and in relation to the microcosm, the following subjects are illuminated when the initiate receives the second great secret, or the fourth which includes the earlier lesser ones:

  1. The processes of at-one-ment in the different kingdoms of nature. The bridging between the kingdoms is shown him, and he sees the unity of the scheme.
  2. The method of egoic at-one-ment is seen clearly revealed, and the antahkarana is shown in its real nature, and having been thus revealed, is dispensed with.
  3. The essential unity existing between the Ego and the personality is seen.
  4. The relation of the two evolutions, human and deva, is no longer a mystery, but their position in the body of the Heavenly Man is seen to be a fact. [174]

Chúng ta có thể chú trọng thêm đến nhiều vấn đề mà bí nhiệm phân cực, khi được tiết lộ, sẽ giúp điểm đạo đồ hiểu rõ, nhưng những điều nói trên là đủ. Bí nhiệm này chính yếu là liên quan đến Vishnu, hay trạng thái thứ nhì. Nó tóm tắt trong một câu ngắn gọn toàn bộ kiến thức thu được trong Phòng Minh Triết, cũng như các bí nhiệm trước tóm lược hoàn toàn những gì đã đạt trong Phòng Học Tập. Nó đề cập đến tâm thức và sự phát triển của tâm thức nhờ và thông qua trạng thái vật chất. Nó thực sự liên quan đến sự thống nhất của ngã và phi-ngã cho đến khi chúng thực sự là một.

One could go on emphasizing the multiplicity of matters which the mystery of polarity, when revealed, makes clear to the initiate, but the above suffices. This secret concerns primarily the Vishnu, or second aspect. It sums up in one short phrase the totality of knowledge gained in the Hall of Wisdom, as the earlier secrets summed up the totality achieved in the Hall of Learning. It deals with consciousness and its development by and through the matter aspect. It concerns literally the unification of the self and the not-self till they are verily and indeed one.

Vào cuộc điểm đạo thứ năm, đại bí nhiệm về lửa hay trạng thái tinh thần được tiết lộ cho vị Chân sư đang ngạc nhiên, thắc mắc, và Ngài hiểu, theo một ý nghĩa mà người phàm không thể hiểu được, sự kiện tất cả là lửa và lửa là tất cả. Có thể nói là bí nhiệm này tiết lộ cho điểm đạo đồ những điều giúp Ngài hiểu rõ:-

  1. Danh hiệu bí mật của Đức Hành Tinh Thượng Đế, và thế là tiết lộ một vần trong danh hiệu của Thái Dương Thượng Đế.
  2. Công tác và phương pháp của trạng thái hủy diệt của thiêng liêng.
  3. Các tiến trình dùng để tạo nên thời kỳ tiềm sinh hay ngơi nghỉ.
  4. Công thức toán học tóm tắt tất cả các chu kỳ biểu hiện.
  5. Bản tính tam phân của lửa, và ảnh hưởng của đại hoả trên tiểu hoả.

At the fifth initiation the great secret which concerns the fire or spirit aspect is revealed to the wondering and amazed Master, and he realizes in a sense incomprehensible to man the fact that all is fire and fire is all. This secret may be said to reveal to the Initiate that which makes clear to him:

  1. The secret name of the Planetary Logos, thus revealing one syllable of the name of the Solar Logos.
  2. The work and method of the destroyer aspect of divinity.
  3. The processes whereby obscuration and pralaya are induced.
  4. The mathematical formula which sums up all the cycles of manifestation.
  5. The triple nature of fire, and the effect of the great fire upon the lesser.

Vì trạng thái Shiva hay trạng thái thứ nhất này sẽ đạt được mức hoàn thiện, hay đúng ra là đến mức có thể thấu hiểu trong thái dương hệ tới, nên tiếp tục xem xét bí nhiệm này không có lợi gì. Bảng kê sau đây có thể giúp cho người môn sinh hiểu rõ toàn bộ vấn đề:- [175]

As this Shiva, or first, aspect is the one which will arrive at perfection, or, rather, come within the reach of comprehension within the next solar system, it profits not to continue considering this secret. The following tabulation may make the whole matter clearer to the mind of the student: [175]

 

Bí nhiệm của Điểm đạo Ngôi Thượng Đế Nguồn năng lượng Cõi liên hệ
Fohat Ba Brahma – Đấng Sáng Tạo Mặt trời Vật chất Bảy, Sáu, Năm
Sự Phân cực Bốn Vishnu Đấng Bảo Tồn Mặt trời Tinh Thần Bốn, Ba
Lửa Năm Shiva Đấng Hủy Diệt Mặt Trời Tinh Thần Trung Ương Hai

 

 

Secret of Initiation Logos Concerned Source of Energy Planes
Fohat Third Brahma Creator Physical Sun Seven, Six, Five
Polarity Fourth Vishnu Preserver Subjective Sun Four, Three
Fire Fifth Shiva Destroyer Central Spiritual Sun Two

 

Như người môn sinh sẽ nhận thấy, nguồn năng lượng cụ thể liên hệ là một trạng thái của năng lượng mặt trời. Vào các cuộc điểm đạo thứ sáu và thứ bảy thêm hai bí nhiệm được tiết lộ, một là bí nhiệm thứ yếu mở đường cho sự hiển lộ bí nhiệm thứ tư. Chỉ có bốn bí nhiệm chính yếu được tiết lộ cho điểm đạo đồ trên hành tinh này, và đây là manh mối của vị thế chúng ta trong hệ thống tiến hoá thái dương. Tất cả chỉ có năm bí nhiệm chính yếu được tiết lộ trong thái dương hệ này, do sự kiện đây là một hệ thống trong đó chủ yếu nguyên lý thứ năm, trí tuệ, là cơ sở phát triển. Điều thiên khải thứ năm này chỉ truyền thụ cho những vị nào chuyển sang các Hệ tổng hợp. [176]

As the student will observe, the source of the particular energy concerned is one aspect of the sun.

At the sixth and seventh initiations two more secrets are revealed, one — a lesser secret — preparing the way for the revelation of the fourth. Only four secrets of a major order are revealed to initiates on this planet, and herein lies the clue to our position in the scheme of solar evolution. There are only five secrets altogether, of a major kind, revealed in this solar system, owing to the fact that this is a system wherein pre-eminently the fifth principle of mind forms the basis of unfoldment. This fifth revelation is only imparted to those who pass to the Schemes of synthesis. [176]

6 Comments

  1. jupiter nguyen

    Tôi nhớ trước đây đã có một dịch giả dịch từ Akashic Records là Ký Ức Không Gian , theo sự hiểu biết của tôi thì một Vị Điểm Đạo Đồ bậc cao có cái quyền năng có thể nghe và nhìn thấy các sự kiện diễn ra trong Không Gian và trong quá khứ cách xa hàng triệu và thậm chí là hàng tỷ năm về trước một cách rõ ràng , chính xác.
    Theo ý của tôi thì dịch từ Akashic Records là Ký Ức Không Gian ( mặc dù nghe có vẻ huyền bí ) hoặc là Hình Ảnh Quá Khứ sẽ chính xác và hay hơn là Tiên Thiên Ký Ảnh.

  2. Thùy Dương

    Ngoài ra có một số phiên bản dịch khác của Akashic Records là các “Bản Ghi Nghiệp Quả” trong “Thư Viện Nghiệp Quả” – Thư Viện Akasha, “Tàng Thư Vũ Trụ” (Akashic Library), “Cuốn Sách Đời Sống” – Book of Life, …

  3. webmaster

    Chữ Tiên Thiên Ký Ảnh là từ mà các tác giả Thông Thiên Học Việt Nam dùng dịch chữ Akashic Records. Theo từ nguyên tiếng Phạn thì Akasha có nghĩa là Không Gian, do đó một số tác giả theo đó mà dịch là Ký Ức Không Gian. Nhưng Akasha dùng trong Thông Thiên Học có ý nghĩa hoàn toàn khác với ý nghĩa thông thường là không gian, nó dùng để chỉ vật chất của cõi trí tuệ (mental plane). Do đó, các nhà Thông Thiên Học dùng từ Akashic Records để chỉ những hình ảnh được lưu lại trên vật chất cõi trí tuệ. Hình ảnh này cũng được phản ảnh một cách bất toàn trên vật chất cõi trung giới (gọi là Astral Light). Akasha đã được các nhà Thông Thiên Học Việt Nam dịch là Tiên Thiên Khí, nên Akashic Records là Tiên Thiên Ký Ảnh, “hình ảnh trên chất liệu Tiên Thiên Khí“.

    Đó chỉ là giáo lý của Thông Thiên Học. Đức DK dạy khác khá nhiều. Trong thuật ngữ của Ngài, Akasha là vật chất của cõi thứ nhì (đếm từ trên xuống), hay là cõi Chân Thần. Vật chất của cõi thứ Nhất (cõi Adi) gọi là Sea of Fire (Biển Lửa). Sau đây là các trích dẫn từ sách của Ngài:

    The etheric body of man holds hid the secret of his objectivity. It has its correspondence on the archetypal plane,—the plane we call that of the divine manifestation, the first plane of our solar system, the plane Adi. The matter of that highest plane is called often the “sea of fire” and it is the root of the akasha, the term applied to the substance of the second plane of manifestation.

    Thễ dĩ thái của con người nắm giữ bí mật của sự biểu lộ của y. Nó có sự tương ứng trên cõi nguyên hình—cõi giới mà chúng ta gọi là cõi giới của sự Biểu Lộ Thiêng Liêng, cõi thứ nhất hay cõi Adi. Vật chất của cõi thứ nhất thường được gọi “biển lửa”, và nó là nguồn gốc của Akasha. Từ Akasha được dùng để chỉ vật chất của cõi thứ nhì.

    Mọi biến cố, hành động trên cõi trần đều được ghi lại trên Akasha, giống như được ghi lại trên một phim âm bản. Cõi trung giới là phản ảnh của cõi thứ nhì, và Akasha Records được phản ảnh lại trong Astral Light (thường gọi là Tinh Tú Quang) trên cõi trung giới. Theo đức DK, người nào muốn đọc được chính xác các record này phải “trường chay nghiêm nhặt ít nhất là 10 năm, không có ngoại lệ“. Những người không thỏa mãn điều này thì thường diễn giải sai lạc, méo mó các hình ảnh mà họ thấy được (từ mà đức DK dùng là wild and incorrect reading of past lives). Lý do tại sao phải trường chay ít nhất 10 năm? Ngài giải thích là có sự tương ứng của giới thứ 2 (giới thực vật) và cõi thứ hai, cõi thứ 6. Do đó muốn muốn đọc chính xác hình ảnh của Astral Light (là phản ảnh của Akashic Records), cơ thể người đó phải liên hệ mật thiết giới thực vật. Sau đây là lời của Ngài (trích trong Esoteric Psychology I, trang 242]

    One point of interest might here be noted. It is known esoterically that the vegetable kingdom is the transmitter and the transformer of the vital pranic fluid to the other forms of life on our planet. That is its divine and unique function. This pranic fluid, in its form of the astral light, is the reflector of the divine akasha. The second plane therefore reflects itself in the astral plane. Those who seek to read the akashic records, or who endeavour to work upon the astral plane with impunity, and there to study the reflection of events in the astral light correctly, have perforce and without exception to be strict vegetarians. It is this ancient Atlantean lore which lies behind the vegetarian’s insistence upon the necessity for a vegetarian diet, and which gives force and truth to this injunction. It is the failure to conform to this wise rule which has brought about the misinterprertions of the astral and akashic records by many of the psychics of the present time, and has given rise to the wild and incorrect reading of past lives. Only those who have been for ten years strict vegetarians can work thus in what might be called the “record aspect of the astral light”. When they add to their purified astral and physical bodies the light of reason and illumination of the focussed mind (which is very rarely found), then they become accurate interpreters of astral phenomena. Their link with the vegetable kingdom is then very close and unbreakable, and that link or binding chain will lead them through the door to the scene of their investigations.

    Do đó, từ Tiên Thiên Ký Ảnh dùng dịch Akashic Records quá quen thuộc, và cũng không có lý do nào hay hơn để đổi sang từ khác.

  4. jupiter nguyen

    Cám ơn Webmaster , tôi học hỏi được rất nhiều từ những câu trả lời của bạn và do đó được mở rộng thêm kiến thức.

  5. Thùy Dương

    Con cũng học hỏi được rất nhiều từ những giải thích của Chú, con thích đọc những giải thích đó vì nó làm sáng tỏ ra những gì Đức D. K. giảng vốn khó hiểu. Cảm ơn Chú nhiều! 🙂

Leave a Reply to Thùy Dương Cancel reply