Kỹ Thuật Ánh Sáng – Phần 3

Kỹ Thuật Ánh Sáng – Phần 3

(Trang 196-202)

Giới thiệu: Trong Phần II của loạt bài Kỹ Thuật Ánh Sáng, tôi đã biên dịch các webinar 182-187 bình giảng từ trang 195-202, tuy nhiên, cũng có một loạt webinar trước đó khá lâu (năm 2016), Thầy Hiệu trưởng cũng đã bình giảng các trang đó. Do đó, tôi biên dịch các webinar đó để các bạn so sánh hai lần bình giảng khác nhau của Thầy, một lần rất đầy sức sống, nói rất nhanh (đôi khi cô Tuija phải nhắc Thầy nói chậm lại 😊, nhưng Thầy nói do Thầy có Mercury ở Thiên đỉnh + dấu hiệu mọc Bạch Dương thì phải thế), và lần sau Thầy rất chậm rãi, trầm tư.

Sau phần này chúng ta sẽ đi vào Phần IV, nói về Kỹ Thuật Ánh sáng dành cho cá nhân, phần quan trọng và thiết thực nhất.

Các bạn đọc phần bình giảng trong file pdf tại đây

Phần trích từ sách (trang 196-202)

Trên một vòng xoắn ốc cao hơn, trực giác là sự biểu hiện của Tam Nguyên Tinh Thần tam phân, đặt nó trong mối quan hệ với các cấp độ cao hơn của biểu hiện thiêng liêng; nó là kết quả của sự sống của Chân thần—một năng lượng mang lại sự tiết lộ về mục đích thiêng liêng. Chính trong thế giới của sự tiết lộ thiêng liêng này mà người đệ tử cuối cùng học cách làm việc và trong đó điểm đạo đồ hoạt động một cách có ý thức. Về trải nghiệm cao hơn này, cuộc sống hoạt động trong ba thế giới là một sự biểu hiện méo mó nhưng cũng tạo thành nền tảng huấn luyện, nơi mà khả năng sống cuộc đời của điểm đạo đồ với nhận thức trực giác và phụng sự Thiên Cơ được phát triển dần dần. Những sự phân biệt này (trong thời gian và không gian, bởi vì tất cả các sự phân biệt đều là một phần của đại ảo ảnh, dù cần thiết và không thể tránh khỏi khi trí tuệ kiểm soát) phải được xem xét cẩn thận. Các đệ tử sẽ đạt đến một điểm trong sự phát triển của họ, nơi họ sẽ biết liệu họ đang phản ứng với ánh sáng của linh hồn hay với nhận thức trực giác của Tam Nguyên Tinh Thần. Họ sau đó sẽ đạt đến điểm mà họ nhận ra rằng nhận thức trực giác—như họ gọi nó—chỉ là phản ứng của phàm ngã được chiếu sáng đối với xu hướng đồng nhất hóa của Tam Nguyên Tinh Thần. Nhưng những khái niệm này vượt xa tầm hiểu biết của người trung bình vì sự dung hợp và sự đồng nhất không hề giống nhau.

On a higher turn of the spiral, the intuition is the expression of the threefold Spiritual Triad, placing it in relation to the higher levels of divine expression; it is a result of the life of the Monad—an energy which carries revelation of divine purpose. It is in the world of this divine revelation that the disciple learns eventually to work and in which the initiate consciously functions. Of this higher experience, the active life of the three worlds is a distorted expression but constitutes also the training ground in which capacity to live the initiate life of intuitional perception and to serve the Plan is slowly developed. These distinctions (in time and space, because all distinctions are part of the great illusion, though necessary and inevitable when the mind controls) must be carefully considered. Disciples will reach a point in their development where they will know whether they are reacting to the light of the soul or to the intuitional perception of the Triad. They will then come to the point where they will realise that intuitive perception—as they call it—is only the reaction of the illumined personality to the identification tendency of the Triad. But these concepts are beyond the grasp of the average man because fusion and identification are by no means the same.

Những quy luật cho Kỹ Thuật Ánh Sáng đã được trình bày đầy đủ trong hệ thống Raja Yoga của Patanjali, trong đó năm giai đoạn Tập trung, Tham thiền, Chiêm nghiệm, Soi sáng và Cảm hứng là minh họa; những điều này, đến lượt chúng, phải song hành với việc tuân theo Năm Quy luật và Năm Giới răn. Tôi yêu cầu bạn nghiên cứu những điều này. Chúng, đến lượt mình, tạo ra nhiều kết quả trong nhạy cảm tâm linh, mà sự tiếp xúc thánh đoàn, soi sáng, phụng sự và kỷ luật là những mô tả và, cuối cùng, giai đoạn “hợp nhất cô lập”, là thuật ngữ nghịch lý mà Patanjali sử dụng để mô tả cuộc sống nội tâm của điểm đạo đồ.”

The rules for the Technique of Light have been adequately laid down in the Raja Yoga system of Patanjali, of which the five stages of Concentration, Meditation, Contemplation, Illumination, and Inspiration are illustrative; these, in their turn, must be parallelled by a following of the Five Rules and the Five Commandments. I would ask you to study these. They, in their turn, produce the many results in psychic sensitivity, of which hierarchical contact, illumination, service and discipline are descriptive and, finally, the [Page 196] stage of “isolated unity,” which is the paradoxical term used by Patanjali to describe the inner life of the initiate.

Webinar 11

Hầu hết những gì tôi đã nói ở trên đều được tất cả những người chí nguyện biết rõ, dù họ nghiên cứu giáo lý Raja Yoga của Ấn Độ hay đời sống thần bí thực tiễn như được đề ra bởi những nhà thần bí như Meister Eckhart và các nhà huyền môn hiện đại có xu hướng thiên về trí tuệ hơn. Những người này đã vượt ra ngoài tầm nhìn thần bí bằng cách đạt đến sự dung hợp. Tôi không cần phải mở rộng thêm về điều này. Đó là giai đoạn cao hơn của sự hợp nhất mà tất cả các nhà thần bí chân chính đều chứng thực.

Most of what I have said above is well known to all aspirants whether they study the Raja Yoga teaching of India or the life of practical mysticism as laid down by such mystics as Meister Eckhart and the more mentally polarised modern esotericist. These latter went beyond the mystical vision by arriving at fusion. I need not enlarge on this. It is the higher stage of at-one-ment to which all true mystics bear witness.

Điều chúng ta quan tâm ở đây là làm thế nào ánh sáng này được nhận biết, tiếp nhận và sử dụng để làm tiêu tán ảo cảm và cung cấp một sự phụng sự nội môn sâu sắc cho thế giới. Có thể nói rằng ánh sáng bên trong giống như một ngọn đèn pha, tỏa ra thế giới của ảo cảm và sự đấu tranh của nhân loại từ những gì mà một Chân sư đã gọi là “bệ của linh hồn và ngọn tháp hoặc ngọn hải đăng tinh thần. Những thuật ngữ này truyền đạt ý tưởng về độ cao và khoảng cách, đặc trưng của phương pháp tiếp cận thần bí. Sức mạnh để sử dụng ánh sáng này như một tác nhân làm tiêu tán chỉ đến khi những biểu tượng này bị loại bỏ và người phụng sự bắt đầu xem mình như ánh sáng và như trung tâm chiếu sáng. Đây là lý do cho một số kỹ thuật của khoa học huyền môn. Nhà huyền môn biết rằng trong mỗi nguyên tử của cơ thể mình đều có một điểm sáng. Y biết rằng bản chất của linh hồn là ánh sáng. Trong nhiều kỷ nguyên, y bước đi nhờ ánh sáng sinh ra bên trong các thể của mình, bởi ánh sáng trong chất liệu nguyên tử của cơ thể, và do đó được hướng dẫn bởi ánh sáng của vật chất. Sau đó, y phát hiện ra ánh sáng của linh hồn. Sau đó nữa, y học cách dung hợp và kết hợp ánh sáng của linh hồn và ánh sáng vật chất. Sau đó, y chiếu sáng như một Người mang ánh sáng, với ánh sáng tinh khiết của vật chất và ánh sáng của linh hồn được kết hợp và tập trung. Việc sử dụng ánh sáng tập trung này khi nó xua tan ảo cảm cá nhân dạy cho các đệ tử các giai đoạn đầu của kỹ thuật sẽ xua tan ảo cảm nhóm và cuối cùng là ảo cảm thế giới, và đây là điểm tiếp theo mà chúng ta sẽ đề cập.”

What does concern us here is how this light is recognised, appropriated and used in order to dispel glamour and render a deeply esoteric service to the world. It might be said that the inner light is like a searchlight, swinging out into the world of glamour and of human struggle from what one Master has called “the pedestal of the soul and the spiritual tower or beacon.” These terms convey the idea of altitude and of distance which are so characteristic of the mystical approach. Power to use this light as a dissipating agent only comes when these symbols are dropped and the server begins to regard himself as the light and as the irradiating centre. Herein lies the reason for some of the technicalities of the occult science. The esotericist knows that in every atom of his body is to be found a point of light. He knows that the nature of the soul is light. For aeons, he walks by means of the light engendered within his vehicles, by the light within the atomic substance of his body and is, therefore, guided by the light of matter. Later, he discovers the light of the soul. Later still, he learns to fuse and blend soul light and material light. Then he shines forth as a Light bearer, the purified light of matter and the light of the soul being blended and focussed. The use of this focussed light as it dispels individual glamour teaches the disciples the early stages of the technique which will dispel [Page 197] group glamour and eventually world glamour, and this is the next point with which we will deal.

Chủ đề mà chúng ta đang xem xét—ánh sáng của linh hồn khi nó làm tan biến ảo cảm trong ba thế giới—là chủ đề thực tiễn và hữu ích nhất và cần thiết nhất để nghiên cứu hiện nay: nó liên quan đến cõi cảm dục, và phụng sự cần được thực hiện là rất quan trọng và kịp thời. Việc giải thoát thế giới cá nhân và thế giới nhân loại như một tổng thể, ra khỏi ảo cảm đang bao bọc tất cả (vốn cầm giữ nhân loại trong tình trạng nô lệ) là một nhu cầu thiết yếu cho nhân loại. Kỷ nguyên mới sẽ mở ra trước nhân loại khi cuộc chiến kết thúc sẽ được đặc trưng bởi sự phân cực trí tuệ và do đó tự do khỏi ảo cảm; sau đó ảo tưởng sẽ kiểm soát trong một thời gian cho đến khi trực giác được phát triển đầy đủ hơn. Ảo tưởng này sẽ tạo ra kết quả hoàn toàn khác so với những gì xảy ra khi con người sống và làm việc giữa ảo cảm. Đặc điểm thứ hai của kỷ nguyên mới sẽ là cách tiếp cận khoa học đối với toàn bộ vấn đề ảo cảm khi đó sẽ được nhận ra đúng bản chất của nó và sẽ được làm tan biến một cách khoa học bằng việc sử dụng trí tuệ sáng suốt của các nhóm, làm việc phối hợp vì mục đích đó.

The theme with which we are dealing—the light of the soul as it dissipates glamour in the three worlds—is the most practical and useful and needed subject for study to be found today: it concerns the astral plane, and the service to be rendered is vital and timely. The ridding of the world of the individual and the world of humanity as a whole of the all-enveloping glamour which holds humanity in thrall is an essential requirement for the race. The new era which will open up before mankind at the close of the war will be distinguished by its mental polarisation and consequent freedom from glamour; then illusion will for a time control until the intuition is more fully developed. This illusion will produce vastly different results to those which follow when men live and work in the midst of glamour. The second characteristic of the new era will be the scientific approach to the entire problem of glamour which will then be recognised for what it is and will be scientifically dissipated by the use of the illumined minds of groups, working in unison for just that purpose.

Do đó, đề xuất mà tôi đang đặt ra trước bạn (những người chí nguyện và đệ tử của thế giới) là khả năng của một sự phụng sự thế giới rõ ràng. Các nhóm cuối cùng sẽ được hình thành từ những người đang làm việc để xua tan ảo cảm trong cuộc sống cá nhân của họ và làm điều đó không chỉ để đạt được sự giải thoát cho bản thân mà còn với mục tiêu đặc biệt là loại bỏ những ảo cảm đáng kể của cõi cảm dục. Họ sẽ cùng nhau làm việc trên một giai đoạn chính của ảo cảm thế giới bằng sức mạnh của những tâm trí cá nhân được soi sáng của họ; họ sẽ cùng nhau hướng “ngọn đèn pha của tâm trí, phản chiếu ánh sáng của mặt trời nhưng đồng thời tỏa sáng ánh sáng nội tại của chính mình lên những màn sương mù của Trái Đất, vì trong những màn sương mù này, tất cả mọi người đều vấp ngã. [Trang 198] Trong phạm vi được chiếu sáng của ánh sáng tập trung rực rỡ, thực tại sẽ xuất hiện một cách thắng lợi.

The proposition, therefore, which I am laying before you (who are the aspirants and the disciples of the world) is the possibility of a definite world service. Groups will eventually be formed of those who are working at the dissipation of glamour in their individual lives and who are doing so not so much in order to achieve their own liberation but with the special objective of ridding the astral plane of its significant glamours. They will work unitedly on some major phase of world glamour by the power of their individual illumined minds; unitedly they will turn “the searchlight of the mind, reflecting the light of the sun but at the same time radiating its own inner light upon the mists and fogs of Earth, for in these mists and fogs all men stumble. [Page 198] Within the lighted sphere of the focussed radiant light, reality will issue forth triumphant.”

Thật thú vị khi lưu ý rằng lời cầu nguyện cổ xưa nhất trên thế giới đề cập đến ba khía cạnh của ảo cảm, và chính vì những khía cạnh này mà ba kỹ thuật phải được sử dụng để tạo ra sự giải thoát và tiến bộ. Như các bạn đã biết, lời cầu nguyện này như sau (Brihadaranyaki Upanishad I, 3, 28):

It is interesting to note that the most ancient prayer in the world refers to the three aspects of glamour, and it is for these that the three techniques must be used to make release and progress possible. As you know, this prayer runs as follows (Brihadaranyaki Upanishad I, 3, 28):

Webinar 12

“Lạy Chúa, xin dắt chúng con từ bóng tối đến ánh sáng; từ điều không thật đến điều thật; từ sự chết đến sự bất tử.”

“Xin dắt chúng con từ bóng tối đến ánh sáng” đề cập đến thể trí khi nó cuối cùng trở nên rực rỡ bởi ánh sáng của trực giác; sự chiếu sáng này được mang lại bằng phương pháp của Kỹ Thuật của Hiện Diện từ Đấng mà ánh sáng tỏa ra. Đây là yếu tố trung gian tạo ra sự Biến Hình của phàm ngã, và một trung tâm ánh sáng rực rỡ trên cõi trí. Tuyên bố này đúng cho dù nói về một cá nhân hay về tiêu điểm ánh sáng được hình thành bởi sự thống nhất về mặt trí tuệ và suy nghĩ rõ ràng của nhân loại tiến bộ. Những người này, thông qua sức mạnh của thể trí thống nhất của họ, sẽ thành công trong việc giải thoát thế giới khỏi một số khía cạnh của Đại Ảo Tưởng.

“Lead us, O Lord, from darkness to light; from the unreal to the real; from death to immortality.”

“Lead us from darkness to light” refers to the mind as it becomes eventually illumined by the light of the intuition; this illumination is brought about by the means of the Technique of the Presence from Whom the light shines. This is the mediating factor producing the Transfiguration of the personality, and a centre of radiant light upon the mental plane. This statement is true whether one is speaking of an individual or of that focal point of light which is formed by the mental unity and the clear thinking of advanced humanity. These, through the power of their unified minds, will succeed in ridding the world of some aspects of the Great Illusion.

“Xin dắt chúng con từ điều không thật đến điều thật” có mối liên hệ cụ thể với cõi cảm dục và những ảo cảm bao trùm toàn bộ của nó. Những ảo cảm này bao hàm điều không thật và trình bày chúng cho những tù nhân của cõi cảm dục, khiến họ nhầm lẫn chúng với Thực Tại. Sự giam cầm này bởi ảo cảm có thể chấm dứt bằng hoạt động của Kỹ Thuật Ánh Sáng, được sử dụng bởi những người làm việc—theo nhóm—để giải tán ảo cảm và để sự xuất hiện trong tâm thức của con người một khái niệm rõ ràng và sự nhận thức về bản chất của Thực Tại.

“Lead us from the unreal to the Real” has specific relation to the astral plane and its all-encompassing glamours. These glamours embody the unreal and present them to the prisoners of the astral plane, leading them to mistake them for the Reality. This imprisonment by glamour can be ended by the activity of the Technique of Light, utilised by those who work—in group formation—for the dissipation of glamour and for the emergence in the consciousness of men of a clear conception and recognition of the nature of Reality.

Công việc giải tán cụ thể này là chủ đề cấp bách của chúng ta. Điều quan trọng là những ai nhận ra cánh cửa mở ra tương lai mà qua đó tất cả mọi người phải đi qua nên bắt đầu tiến hành công việc này. Chỉ bằng cách này, nhân loại mới có thể được giúp đỡ để rời bỏ những sai lầm, ảo cảm và thất bại của quá khứ. Chính kỹ thuật này mang lại sự tự do khỏi ảo cảm và có thể biến đổi cuộc sống con người, và do đó mang lại nền văn minh và văn hóa mới. Việc giải tán này có thể được thực hiện bởi các đệ tử ở khắp nơi trên hành tinh, với sự giúp đỡ của các người chí nguyện thế giới; tuy nhiên, nó sẽ chủ yếu là công việc của những người có tiêu điểm cung làm cho đời sống cảm xúc trở thành đường lối ít trở ngại nhất, và những người đã học hoặc đang học cách thống trị nó bằng sức mạnh của tư duy và ánh sáng trí tuệ. Đây là những người cung sáu trong trường hợp đầu tiên, được hỗ trợ bởi các người chí nguyện và đệ tử trên cung hai và cung bốn.

This particular work of dissipation is our immediate theme. It is of vital importance that those who recognise [Page 199] the open door to the future through which all men must pass should begin to carry forward this work. Only thus can humanity be helped to leave behind the errors, the glamours and the failures of the past. It is this technique which brings freedom from glamour and which can transform human living, and so bring in the new civilisation and culture. This dissipation can be carried forward by disciples in all parts of the planet, aided by the world aspirants; it will, however, be primarily the work of those whose ray focus makes astral living the line of least resistance and who have learnt or are learning to dominate it by the power of thought and mental light. These are the sixth ray people in the first instance, aided by aspirants and disciples upon the second and fourth rays.

Trong thời gian và không gian, nhiệm vụ này trước hết sẽ được khởi xướng và được kiểm soát trong hình thức nhóm chỉ bởi những người chí nguyện có cung linh hồn hoặc cung phàm ngã là cung sáu, hoặc bởi những người có thể cảm dục được qui định bởi cung sáu. Khi họ đã nắm bắt được bản chất của công việc cần làm và “nhiệt thành áp dụng kỹ thuật ánh sáng trong phụng sự nhân loại,” công việc của họ sẽ được hoàn tất bởi các đệ tử cung hai, làm việc từ các Ashram của những Chân sư nhận đệ tử. Công việc được thực hiện bởi hai nhóm này cuối cùng sẽ được tiết lộ (và vào một thời điểm muộn hơn nhiều) bởi những người chí nguyện và đệ tử sẽ chuyển sang hoạt động cảm dục khi cung bốn bắt đầu biểu hiện trở lại. Do đó, công việc xua tan ảo cảm được tiếp tục bởi những người xuất hiện theo các đường năng lượng thể hiện cung hai, cung bốn và cung sáu. Tôi nhấn mạnh điều này vì các đệ tử thường đảm nhận những nhiệm vụ mà họ không phù hợp và các cung của họ không giúp họ hoàn thành nhiệm vụ và đôi khi ngăn cản việc hoàn thành đó. [Trang 200]

In time and space, this task will be first of all instituted and controlled in group formation only by aspirants whose soul or personality rays are the sixth or by those whose astral bodies are conditioned by the sixth ray. When they have grasped the nature of the work to be done and “fanatically adopted the technique of light in the service of the race,” their work will be completed by second ray disciples, working from the Ashrams of those Masters Who take disciples. The work done by these two groups will be finally revealed (and at a much later date) by those aspirants and disciples who will swing into astral activity when the fourth ray again begins to manifest. Therefore, the work of dissipating glamour is carried forward by those who come out into manifestation along the lines of energy which embody the second, fourth and sixth rays. I emphasise this as disciples frequently undertake tasks for which they are not particularly fitted and whose rays do not aid them in accomplishment and sometimes prevent that accomplishment.

Webinar 13

Toàn bộ chủ đề này liên quan đến tâm thức, đến khía cạnh thứ hai, và liên quan đến các hình tướng thông qua đó loài người dần dần trở nên nhận thức. Ảo cảm được gây ra bởi sự nhận thức về những gì mà con người đã tự mình tạo ra, và như được nói một cách huyền bí, “Con người chỉ nhận ra thực tại khi y đã phá hủy những gì y tự tạo ra.” Những hình tướng này rơi vào hai nhóm chính:

The whole subject is related to consciousness, to the second aspect, and concerns the forms through which mankind becomes progressively aware. Glamour is caused by the recognition of that which man has himself created and, as has occultly been said, “Man only becomes aware of reality when he has destroyed that which he has himself created.” These forms fall into two major groups:

1. Những hình tướng có nguồn gốc rất cổ xưa và là kết quả của hoạt động, của tư duy và sai lầm của con người. Chúng bao gồm tất cả các hình tướng mà bản chất dục vọng của con người đã tạo ra qua các thời đại và là chất liệu mơ hồ của ảo cảm—mơ hồ từ góc độ vật lý nhưng đậm đặc từ góc độ cõi cảm dục. Chúng là những gì cung cấp động lực đằng sau mọi nỗ lực và hoạt động trên cõi bên ngoài khi con người cố gắng thỏa mãn dục vọng. Từ những hình tướng này, người chí nguyện cá nhân phải luôn tự giải thoát, và sau khi làm như vậy xuất hiện thông qua cánh cổng mà chúng ta gọi là lần điểm đạo thứ hai, bước vào một tâm thức rộng lớn hơn.

1. Those forms which are of very ancient origin and which are the result of human activity, human thinking and of human error. They embrace all the forms which the desire nature of man has created down the ages and are the nebulous substance of glamour—nebulous from the physical angle but dense from the angle of the astral plane. They are that which provides the incentive behind all striving and activity upon the outer plane as man attempts to satisfy desire. From these forms the individual aspirant has ever to rid himself, emerging after so doing through that gate which we call the second initiation into a wider consciousness.

2. Những hình tướng được tạo ra liên tục và không ngừng sản sinh để đáp ứng bản chất khát vọng của nhân loại và cung cấp sự cám dỗ dẫn con người tới thành tựu cá nhân cao ở giai đoạn đầu và thành tựu tinh thần sau này. Chúng chứa đựng các dấu hiệu của cái mới và cái khả thi. Những hình tướng này cũng (kỳ lạ thay) tạo thành một ảo cảm, vì chúng tạm thời và hư ảo và không được phép che giấu Điều Thực. Thực tại sẽ tự xuất hiện vào thời điểm thích hợp khi ánh sáng cao hơn tuôn đổ vào. Chúng biểu thị Điều Thực và thường bị nhầm lẫn với Điều Thực; chúng xung đột với những suy nghĩ và dục vọng cũ của quá khứ và cuối cùng phải nhường chỗ cho sự hiện diện thực tế của Điều Thực. Chúng cung cấp (trong thời điểm khủng hoảng) thử thách lớn cho tất cả người chí nguyện và đệ tử, khơi dậy loại phân biện tinh tế nhất; nhưng một khi thử thách đó đã được vượt qua một cách xuất sắc, nhiệm vụ xua tan cả hai loại ảo cảm này có thể được giao cho đệ tử và người chí nguyện, với trọng tâm là nhu cầu cấp bách hoặc bất kỳ ảo cảm thế giới hiện tại nào.

2. Those forms which are being constantly created and ceaselessly produced in response to the aspirational nature of humanity and which provide the enticements which lead the man along towards high personal achievement in the first instance and spiritual achievement later. They have in them the indications of the new and the possible. These likewise (strange as it may seem) constitute a glamour, for they are temporary and illusory and must not be permitted to hide the Real. That Reality will precipitate itself at the right moment once the higher light pours in. They are indicative of the Real and are often mistaken for the Real; they are in conflict with the old thoughts and desires of the past and must eventually give place to the factual presence of the [Page 201] Real. They provide (in times of crisis) the great testing for all aspirants and disciples, evoking the subtlest kind of discrimination; but once that testing has been triumphantly passed, then can the task of dissipating both these types of glamour be given to the disciple and aspirant, with the emphasis upon the immediate need or any particular and current world glamour.

Webinar 14

Do đó, điều rõ ràng với bạn là các nhóm làm việc có ý thức trong việc xua tan ảo cảm sẽ có các đặc điểm sau:

1. Họ sẽ bao gồm những người chí nguyện và đệ tử thuộc cung sáu, được hỗ trợ bởi những người hoạt động tinh thần thuộc cung hai.

It will be apparent to you, therefore, that groups working consciously at the service of dissipating glamour will have the following characteristics:

1. They will be composed of sixth ray aspirants and disciples, aided by second ray spiritual workers.

2. Họ sẽ được hình thành từ những người:

a. Đang học hoặc đã học cách xua tan các ảo cảm cá nhân của chính họ và có thể mang lại sự hiểu biết cho nhiệm vụ.

b. Tập trung vào cõi trí và do đó, có một mức độ soi sáng trí tuệ nhất định. Họ đang tinh thông Kỹ Thuật Ánh Sáng.

c. Nhận thức được bản chất của những ảo cảm mà họ đang cố gắng xua tan và có thể sử dụng thể trí được soi sáng như một đèn pha.

2. They will be formed of those who:

a. Are learning or have learnt to dissipate their own individual glamours and can bring understanding to the task.

b. Are focussed upon the mental plane and have, therefore, some measure of mental illumination. They are mastering the Technique of Light.

c. Are aware of the nature of the glamours which they are attempting to dissipate and can use the illumined mind as a searchlight.

3. Trong số họ sẽ có những người (nói một cách huyền bí) đang trong quá trình phát triển nhanh chóng các năng lực sau:

a. Năng lực không chỉ nhận ra ảo cảm là gì, mà còn phân biệt giữa các loại ảo cảm khác nhau và của nhiều loại ảo cảm.

b. Năng lực tiếp thu ánh sáng, hấp thụ nó vào bản thân và sau đó chủ động và khoa học chiếu nó vào thế giới của ảo cảm. Các Chân sư, những điểm đạo đồ cao cấp và các đệ tử thế giới có thể làm điều này một mình nếu cần, và không cần sự bảo vệ của nhóm hoặc sự hỗ trợ của ánh sáng từ các thành viên trong nhóm.

c. Năng lực sử dụng ánh sáng không chỉ thông qua sự hấp thụ và chiếu sáng mà còn bằng việc sử dụng ý chí có ý thức, mang năng lượng trên chùm ánh sáng chiếu rọi. Họ bổ sung cho điều này một sự tập trung kiên định và liên tục. Chùm sáng này, khi được chiếu rọi, có hai công dụng: Nó hoạt động một cách mạnh mẽ và năng động, giống như một cơn gió mạnh thổi bay hoặc xua tan một làn sương mù dày đặc hoặc như tia nắng mặt trời làm khô và hấp thụ sương mù. Nó cũng hoạt động như một chùm sáng để những điều mới mẻ và một phần của ý định thiêng liêng có thể nhập vào. Những ý tưởng mới và lý tưởng mong muốn có thể đi vào “trên chùm sáng,” giống như chùm sáng hướng dẫn và đưa các máy nay đáp xuống nơi được mong muốn.

3. They will count among their numbers those who (occultly speaking) have the following powers in process of rapid development:

a. The power not only to recognise glamour for what it is, but to discriminate between the various and many types of glamour.

b. The power to appropriate the light, absorbing it into themselves and then consciously and scientifically project it into the world of glamour. The [Page 202] Masters, the higher initiates and the world disciples do this alone, if need be, and require not the protection of the group or the aid of the light of the group members.

c. The power to use the light not only through absorption and projection but also by a conscious use of the will, carrying energy upon the beam of projected light. To this they add a persistent and steady focus. This beam, thus projected, has a twofold use: It works expulsively and dynamically, much as a strong wind blows away or dissipates a dense fog or as the rays of the sun dry up and absorb the mist. It acts also as a beam along which that which is new and a part of the divine intention can enter. The new ideas and the desired ideals can come in “on the beam,” just as the beam directs and brings in the airplanes to a desired landing place.

 

Leave Comment