KỸ THUẬT ÁNH SÁNG PHẦN 5
Webinar 21 (trang 211-214)
Tóm tắt: Trong bài, bạn sẽ biết được một số điểm chủ yếu như Bài Thiền Xua Tan Ảo cảm Cá Nhân chỉ nên dùng cho các ảo cảm lớn (như các ảo cảm chính của các Cung mà Chân sư liệt kê), các ảo cảm nhỏ chỉ cần nhận diện và áp dụng lương tri (common sense) theo thời gian là có thể loại bỏ được. Bạn cũng sẽ biết được phân cực trí tuệ (mentally polarized) khác tập trung trí tuệ (mentally focussed) như thế nào, khi nào con người có thể đạt sự phân cực trí tuệ.
XEM PHẦN BÌNH GIẢNG TRONG FILE PDF
*******************************************
Tiến trình mà tôi đang triển khai cho bạn là tiến trình xua tan ảo cảm một cách hiệu quả và nhanh chóng, đặt nền tảng trên việc chấp nhận giả thuyết về ánh sáng, trên việc nhận biết sự thật rằng cõi cảm dục không thực sự hiện hữu, trên việc sử dụng trí tưởng tượng sáng tạo đã được huấn luyện, và trên việc tuân theo không đắn đo các giáo huấn về mặt cá nhân cũng như tập thể.
The process I am developing for you is one of rapid and effective dissipation and is based upon the acceptance of the hypothesis of light, upon the recognition of the fact that the astral plane has no true existence, upon a trained use of the creative imagination and upon the unquestioning following of instructions, individually and as a group.
Tôi có ý định đưa ra cho bạn hai công thức —một dùng cho cá nhân và một dùng cho các nhóm khi các nhóm đóng góp nỗ lực hợp nhất của họ vào việc xua tan ảo cảm —ảo cảm của nhóm hoặc có liên quan với một khía cạnh ảo cảm thế gian hiện có nào đó. Đối với bạn, hai điều sẽ trở nên rõ ràng:
It is my intention to give you two formulas—one for the use of the individual and the other which groups can use as they contribute their united effort to the dissipation of glamour, either of group glamour or in relation to some aspect of the prevalent world glamour. Two things will be apparent to you:
Thứ nhất: Những ai đang tham gia vào việc xua tan ảo cảm phải có khả năng phân biệt giữa ảo cảm với thực tại. Khi xem xét bề ngoài, hai điều này thường rất giống nhau. Họ phải nhận biết rằng một trạng thái tình cảm tạo thành bức màn phủ lên chân lý, làm lệch lạc việc đưa ra chân lý hoặc làm lệch lạc sự biểu lộ thiên tính của cá nhân hoặc của nhóm. Do đó, họ phải có khả năng nhìn xa trông rộng, suy tư sáng suốt và nhận thức nhạy bén về những gì đang ngăn chận việc hiện thực hoá tầm nhìn và tiếp nhận chân lý một cách trung thực. Họ cũng phải có khả năng phân biệt giữa ảo cảm lớn và nhỏ. Một ảo cảm nhỏ, một hình tư tưởng chóng tàn, thoáng qua, có bản chất dễ nhận biết, không cần dùng đến một trong hai công thức. Một ảo cảm nhỏ như cảm giác than thân trách phận của một cá nhân, hoặc là việc ca ngợi một cá nhân nổi bật bởi một người, một nhóm hoặc một quốc gia. Thời gian và lương tri đủ để xử lý một tình trạng như thế. Một ảo cảm chính trên thế giới (trước chiến tranh) là nhấn mạnh vào tài sản, tin tưởng rằng hạnh phúc tùy thuộc vào đồ đạc, của cải vật chất và sự tiện nghi.
First: that those participating in the eradication of glamour must be able to distinguish between glamour and the reality. These often closely resemble each other on a superficial examination. They must be in a position to recognise that an emotional or astral condition constitutes a veil over the truth and is a distortion of the presentation or the appearance of the individual’s or the group’s expression of divinity. They must, therefore, be capable of vision, clear thinking, and prompt recognition as to what is preventing [Page 212] the materialising of that vision and the accurate reception of the truth. They must also be able to distinguish between a major and a minor glamour. A minor glamour, a passing evanescent thoughtform of an easily recognisable nature does not warrant the use of either of the formulas. Such a minor glamour would be a sense of self-pity in an individual or the glorification of some notable individual by an individual, a group or a nation. Time and commonsense suffice to take care of such a situation. A major glamour in the world (prior to the war) was the emphasis put upon possessions and the belief that happiness was dependent upon things and upon material good and comfort.
Thứ hai: Ba giai đoạn tập trung nói ở trên hợp thành giai đoạn chuẩn bị. Cả ba giai đoạn này phải được phát triển ở mức độ nào đó trước khi có thể sử dụng các công thức một cách có hiệu quả. Những ai có ý định hoạt động với nhiệm vụ xua tan thế giới ảo cảm phải thường xuyên tự đặt mình vào các giai đoạn này bằng thuật phân cực (art of polarisation), nếu tôi có thể gọi như thế. Họ phải hiểu biết về bộ máy tư tưởng, về việc tạo ra các hình tư tưởng và về bản chất của nhà tư tưởng. Họ phải phân cực ở thể cảm xúc, thế nhưng, trong công việc nhóm, họ tương đối thoát khỏi sự kiềm chế của cảm xúc. Việc tự do thoát khỏi sự kiểm soát cảm xúc này trong mức độ nào đó quyết định sự chọn lựa những ai hoạt động trong việc xua tan ảo cảm chính yếu. Trong trường hợp một người đang tìm cách xua tan ảo cảm trong đời sống cá nhân mình, y nên phân cực trí tuệ bằng quyết tâm và nỗ lực dầu bản chất tình cảm là con đường ít trở ngại nhất đối với y trong kiếp sống nào đó. Những ai đang hoạt động trong hình thức nhóm đã đạt được khả năng tập trung trí tuệ, nhưng đối với các mục tiêu của công việc cần làm, họ sẽ tự tập trung một cách có chủ tâm và thận trọng vào cõi tình cảm qua sự kiểm soát bản chất của họ. Do đó, người hành đạo phải thực hành việc thiền định, phải quán tưởng nhiều về bản chất của tư tưởng cùng công dụng của nó, và phải biết được ánh sáng nội tâm.
Second: that the three stages of focussing, referred to above, constitute a preparatory process. These three stages must be somewhat developed before effective use of the formulas can be possible, and those intending to work at the task of ridding the world of glamour must subject themselves constantly to these phases in the art of polarisation, if I might so call it. They must have an understanding of the apparatus of thought, of the creation of thoughtforms, and of the nature of the thinker. They must be emotionally polarised, yet, in group work relatively free from astral control. This astral liberation must to a certain extent control the choice of those who are to work at major dissipations. In the case of the individual who is seeking to break up glamour in his individual life, he should be mentally polarised by decision and effort even if the emotional nature is for him in any one life the line of least resistance. Those working in group formation will have achieved a measure of mental focus but for the purposes of the work to be done they will focus themselves consciously and deliberately upon the emotional plane through [Page 213] their control of their natures. Workers must therefore have practised meditation, have reflected much upon the nature of thought and its uses, and must be aware of the light within.
Khi ba giai đoạn này được thiết lập như các hoạt động có liên kết, các tập quán và các phản ứng tự động, và khi chí hướng trở nên vững vàng, khả năng tập trung đã trở thành một phản ứng gần như theo bản năng, bấy giờ công việc có hiệu quả và tốt lành mới có thể thực hiện được; thêm vào đó, cần phải có thêm tính kiên nhẫn và sự kiên trì. Tôi có thể nói thêm là không nhất thiết phải đạt được sự hoàn thiện trong tiến trình trước khi bắt đầu công tác phụng sự này. Các đệ tử và người chí nguyện phải vun trồng ý thức hợp tác và sự hiểu biết rằng trong việc phụng sự như đã được đề ra, họ chắc chắn đang tham gia vào hoạt động của Thánh Đoàn, và do đó, đang ở vào vị thế trợ giúp dù họ không thể—nếu đơn độc và không được giúp đỡ—đạt được kết quả mong đợi. Họ có thể thúc đẩy tiến trình bằng sự trợ giúp được kết hợp của họ. Ngày nay, sức mạnh của nỗ lực hợp nhất trên cõi trần đang được nhận biết ở một tầm mức rộng lớn, và nỗ lực chiến tranh trong mọi quốc gia đã thúc đẩy mạnh mẽ việc nhận biết này. Sức mạnh của tình cảm hợp nhất (thường tự biểu hiện trong những gì được gọi là tâm lý quần chúng) đã được nhận biết, và sợ hãi cũng được khai thác ở khắp nơi. Cho đến nay, sức mạnh của tư tưởng hợp nhất ít được hiểu rõ, và mãnh lực có sẵn trong ánh sáng của thể trí—cái làm cho chúng trở thành khí cụ hiệu quả trong các sự việc thế gian, thấu nhập và xua tan ảo cảm, chứng tỏ năng lực sáng tạo trên cõi trần—sẽ thể hiện là một phần của các cách thức làm việc mới được sử dụng trong kỷ nguyên mới. Thánh Đoàn đã hoạch định và làm việc vì mục tiêu này, và hiện nay đã chuẩn bị để trắc nghiệm hiệu quả của công việc đó bằng cách tổ chức một hay nhiều nhóm hoạt động trong vấn đề ảo cảm.
When these three stages are established as related activities, habits and automatic reactions, and when the intention is fixed and the ability to focus has become an almost instinctual reaction, then sound and effective work can be done; to this work must be added persistence and patience. It is not necessary, I might add, to have achieved perfection in the process before starting this work and service. Disciples and aspirants must cultivate the consciousness of cooperation and realisation that in service such as is proposed, they are definitely participating in a hierarchical activity and are, therefore, in a position to render help even if they could not—alone and unaided—achieve the desired results. They can hasten the process by their combined help. The power of united effort upon the physical plane is being realised today on a large scale, and the war effort in all countries has greatly hastened this realisation. The power of unified emotion (often expressing itself in what is called mob psychology) is everywhere recognised and feared as well as exploited. The power of unified thought is little grasped as yet, and the power inherent in the light of many minds, rendering them effective instruments in world affairs, penetrating and dissipating glamour and proving creative upon the physical plane, will prove to be a part of the new modes of work which will be employed in the new age. For this, the Hierarchy has planned and worked and it is now prepared to test the effectiveness of that work by organising a group or groups which will work upon the problem of glamour.
Do đó, bạn có thể thấy những gì mà tôi đang vạch ra đều tương đối mới mẻ. Ấn tượng yếu ớt của phương pháp sắp đến, xét về mặt cá nhân, đã được ghi nhận. Những người nam và nữ khắp nơi trên thế giới đang cố gắng giải thoát mình ra khỏi ảo cảm bằng mãnh lực của sự suy tưởng rõ ràng, giới luật nghiêm nhặt và lương tri, và bằng việc ghi nhận một cách có ý thức mối liên hệ của họ với toàn thể—vốn thôi thúc họ loại ra khỏi cuộc sống của họ tất cả những gì có thể ngăn trở những người khác hoặc làm tăng sự phỉnh gạt trên thế giới thông qua ảo cảm. Thêm vào điều này (có lẽ dưới hình thức một khía cạnh của tôn giáo mới trên thế giới hiện nay đang trên đường hiển lộ) là một nhận thức rằng các nhóm có thể thành công trong việc tẩy sạch các ảo cảm đang làm đen tối con đường dẫn đến mục tiêu của nhân loại nhờ sức mạnh của tư tưởng kết hợp được phóng xuất ra.
You can see, consequently, that what I am outlining is relatively new. The faint impression of the coming technique [Page 214] as far as the individual is concerned has been registered. Men and women everywhere are attempting to rid themselves of glamour by the power of clear thinking, stern discipline and commonsense, and by a recording consciously of their relation to the whole—which prompts them to eliminate out of their lives all that could hinder others or increase world deception through glamour. To this will be added (perhaps as an aspect of the new world religion now on its way towards externalising) the realisation that groups can successfully clear away the glamours which darken humanity’s way to its goal, through the power of combined and projected thought.
Để thực hiện giai đoạn đầu tiên hướng về hoạt động hợp nhất của nhóm theo đường lối phụng sự này, tôi trình bày một công thức hay một nghi thức nhóm mà —nếu được vận dụng bởi những người có cuộc sống tương đối thoát khỏi ảo cảm, những người thực tế và được nhận biết bởi nhóm như tương đối tự do, những người được thúc đẩy bằng ý định tốt đẹp—sẽ làm được nhiều điều để chấm dứt được một vài trạng thái của ảo cảm thế giới. Nỗ lực của họ, kết hợp với nỗ lực của các nhóm tương tự, sẽ làm suy yếu sức mạnh của các ảo cảm xưa cũ đến mức cuối cùng “Ngày Xán Lạn” sẽ đến.
In order to make the first step towards united group activity along this line of service, I present a formula or group ritual which—if employed by those whose lives are relatively free from glamour, who are realists and who are recognised by the group as thus relatively free, and who are animated by good intent—will do much to bring to an end certain aspects of the world glamour. Their effort, combined with that of similar groups, will so weaken the power of these ancient glamours that the “Day of Clarification” will eventually come.
Tuy nhiên, trước hết tôi sẽ nêu ra vắn tắt một công thức cho mỗi người chí nguyện sử dụng, qua đó y có thể giúp mình thoát khỏi một hay nhiều ảo cảm đặc biệt của y. Tôi sẽ liệt kê phương pháp, và người chí nguyện nên làm đúng theo đó, không để ý đến thời gian, sẵn sàng làm công việc này đều đặn trong nhiều tháng, và nếu cần, trong nhiều năm, cho đến khi chính y thoát khỏi ảo cảm và ánh sáng đột nhập vào cõi cảm dục xuyên qua thể cảm dục của y. Tôi xin gợi ý rằng không một người chí nguyện nào nên thử giải quyết toàn bộ vấn đề ảo cảm hoặc tìm cách xua tan mọi ảo cảm mà y dễ mắc phải. Y đang đối phó với tà lực đã có từ rất lâu và đang đối phó với các thói quen về huyễn cảm đã được tạo ra một cách vững chãi. Chúng có liên hệ một cách chặt chẽ với các khía cạnh của đời sống hằng ngày của y, với cuộc sống tính dục, với các tham vọng, các liên hệ của y với người khác, với các lý tưởng vụn vặt và ý tưởng ưa thích, các mơ ước và các thị kiến của y. Y nên chọn một ảo cảm nào đó rõ ràng nhất và gây cản trở nhiều nhất vào bất kỳ thời điểm ấn định nào đó (luôn luôn có một ảo cảm như thế), và với mục đích phá tan ảo cảm đó, y nên tận lực làm việc nếu y muốn đặt các nền móng để phụng sự có hiệu quả trong việc xua tan ảo cảm của thế gian.
First, however, let me briefly offer for the use of the individual aspirant a formula whereby he may aid in freeing himself from his particular glamour or glamours. I will tabulate the process, and the aspirant would do well to follow it as given, having in his mind no sense of time, and being willing to do this work regularly for months, and if necessary for years, until he has freed himself and the light breaks in on the astral plane through the medium of his astral body. I would suggest that no aspirant attempt to tackle the problem of glamour as a whole or seek to dissipate all the glamours to which he is susceptible. He is dealing with very ancient evil and with firmly established [Page 215] habits of glamour. They are closely connected with aspects of his daily living, with his sex life or with his ambitions, with his relations to other people, with his pet ideals and ideas, his dreams and visions. He should choose the glamour that is the most apparent and the most hindering at any given time (and there is always one) and for its dissipation he should work conscientiously, if he would lay the foundations for effective service in the dissipation of world glamour.
Webinar 22 (trang 214-222)
Tóm Tắt: Đây là bài lược dịch webinar số 22 của Thầy Hiệu Trưởng, giảng giải về bài thiền Kỹ Thuật Ánh sáng dùng để phá tan ảo cảm cá nhân. Thực hành bài thiền này sẽ là trọng tâm trong đời sống của người đệ tử hiện nay, vào lúc xung quanh ta tràn ngập ảo cảm. Trong phần hỏi đáp, tôi chỉ chọn dịch hai câu hỏi chủ chốt về bài thiền, đó là ý nghĩa của từ “thấy và cảm nhận”, và câu hỏi thứ hai tại sao không nên dùng trực tiếp ánh sáng của linh hồn để phá tan ảo cảm.
Hi vọng loạt bài này sẽ giúp ích các bạn sinh viên chương trình Quest Universal trong môn học 210 và 140. Tôi cũng sẽ tổng hợp lại 14 bài đã đăng vào một file chung để các bạn tham khảo.
Để thực hiện giai đoạn đầu tiên hướng về hoạt động hợp nhất của nhóm theo đường lối phụng sự này, tôi trình bày một công thức hay một nghi thức nhóm mà —nếu được vận dụng bởi những người có cuộc sống tương đối thoát khỏi ảo cảm, những người thực tế và được nhận biết bởi nhóm như tương đối tự do, những người được thúc đẩy bằng ý định tốt đẹp—sẽ làm được nhiều điều để chấm dứt được một vài trạng thái của ảo cảm thế giới. Nỗ lực của họ, kết hợp với nỗ lực của các nhóm tương tự, sẽ làm suy yếu sức mạnh của các ảo cảm xưa cũ đến mức cuối cùng “Ngày Xán Lạn” sẽ đến.
In order to make the first step towards united group activity along this line of service, I present a formula or group ritual which—if employed by those whose lives are relatively free from glamour, who are realists and who are recognised by the group as thus relatively free, and who are animated by good intent—will do much to bring to an end certain aspects of the world glamour. Their effort, combined with that of similar groups, will so weaken the power of these ancient glamours that the “Day of Clarification” will eventually come.
[22b]
Tuy nhiên, trước hết tôi sẽ nêu ra vắn tắt một công thức cho mỗi người chí nguyện sử dụng, qua đó y có thể giúp mình thoát khỏi một hay nhiều ảo cảm đặc biệt của y. Tôi sẽ liệt kê phương pháp, và người chí nguyện nên làm đúng theo đó, không để ý đến thời gian, sẵn sàng làm công việc này đều đặn trong nhiều tháng, và nếu cần, trong nhiều năm, cho đến khi chính y thoát khỏi ảo cảm và ánh sáng đột nhập vào cõi cảm dục xuyên qua thể cảm dục của y. Tôi xin gợi ý rằng không một người chí nguyện nào nên thử giải quyết toàn bộ vấn đề ảo cảm hoặc tìm cách xua tan mọi ảo cảm mà y dễ mắc phải. Y đang đối phó với tà lực đã có từ rất lâu và đang đối phó với các thói quen về huyễn cảm đã được tạo ra một cách vững chãi. Chúng có liên hệ một cách chặt chẽ với các khía cạnh của đời sống hằng ngày của y, với cuộc sống tính dục, với các tham vọng, các liên hệ của y với người khác, với các lý tưởng vụn vặt và ý tưởng ưa thích, các mơ ước và các thị kiến của y. Y nên chọn một ảo cảm nào đó rõ ràng nhất và gây cản trở nhiều nhất vào bất kỳ thời điểm ấn định nào đó (luôn luôn có một ảo cảm như thế), và với mục đích phá tan ảo cảm đó, y nên tận lực làm việc nếu y muốn đặt các nền móng để phụng sự có hiệu quả trong việc xua tan ảo cảm của thế gian.
First, however, let me briefly offer for the use of the individual aspirant a formula whereby he may aid in freeing himself from his particular glamour or glamours. I will tabulate the process, and the aspirant would do well to follow it as given, having in his mind no sense of time, and being willing to do this work regularly for months, and if necessary for years, until he has freed himself and the light breaks in on the astral plane through the medium of his astral body. I would suggest that no aspirant attempt to tackle the problem of glamour as a whole or seek to dissipate all the glamours to which he is susceptible. He is dealing with very ancient evil and with firmly established [Page 215] habits of glamour. They are closely connected with aspects of his daily living, with his sex life or with his ambitions, with his relations to other people, with his pet ideals and ideas, his dreams and visions. He should choose the glamour that is the most apparent and the most hindering at any given time (and there is always one) and for its dissipation he should work conscientiously, if he would lay the foundations for effective service in the dissipation of world glamour.
Công Thức Xua Tan Ảo Cảm (Dành cho cá nhân)
I. Các giai đoạn chuẩn bị.
1.− Nhận diện ảo cảm cần phải xua tan. Việc này bao gồm:
a. Sẵn sàng hợp tác với linh hồn trên các phương diện thể xác, thể cảm dục và thể trí hầu trợ giúp vào công việc mang nhiều tính kỹ thuật này. Hãy suy gẫm về các hàm ý trong câu này.
b. Nhận ra các cách mà ảo cảm này tác động vào cuộc sống hằng ngày và vào mọi giao tiếp.
2.− Ba giai đoạn tập trung đã vạch ra (tr. 208−210) phải được thực hiện.
a. Giai đoạn tập trung ánh sáng trí tuệ và ánh sáng vật chất trong thể trí. Giai đoạn này được thực hiện bằng tiến trình nâng cao và hòa lẫn, phối hợp, và để làm được như vậy cần phải dùng đến hoạt động của trí tưởng tượng sáng tạo.
b. Giai đoạn tham thiền, mà vào đúng lúc sẽ đưa tới việc hoà nhập ánh sáng vật chất, ánh sáng trí tuệ và ánh sáng linh hồn trên cõi trí.
c. Giai đoạn mà cả ba loại ánh sáng này được nhận ra như là một ánh sáng hợp nhất—một ngọn đèn pha, sẵn sàng chuyển vào hướng cần thiết.
3.− Nhận biết được hai khía cạnh của sự chuẩn bị:
a. Chỉnh hợp phàm ngã, sao cho ba trạng thái của phàm ngã được nhìn thấy như là tạo ra một con người duy nhất đang hoạt động.
b. Tác động hợp nhất trong đó phàm ngã và linh hồn cũng được nhìn thấy như là một đơn vị. Tác động này được thực hiện qua sự dâng hiến phàm ngã cho linh hồn và việc linh hồn chấp nhận phàm ngã.
Hai đường lối suy tư này tạo ra một trường tư tưởng và nhận thức từ tính, trong đó mọi công việc được làm.
4.− Một sự tạm ngưng trong đó toàn thể con người chuẩn bị sẵn cho công việc cần làm. Từ sự bận tâm sâu xa tới giai đoạn tiếp xúc với linh hồn và việc chuẩn bị ban đầu, giờ y tập trung hết tâm trí của mình vào ảo cảm cần được xóa bỏ. Giai đoạn này không bao gồm việc nhận biết về ảo cảm và lý do này nọ của ảo cảm. Nó chỉ có ý nghĩa là chuyển sự chú ý của linh hồn−phàm ngã đã tích hợp vào cõi cảm dục và vào ảo cảm đặc biệt; không chuyển sự chú ý vào thể cảm dục của người chí nguyện, kẻ đang ra sức xua tan ảo cảm. Đây là một phát biểu rất quan trọng, bởi vì trong lúc hủy diệt ảo cảm đặc biệt mà y quan tâm tới, thì người chí nguyện hay vị đệ tử cũng bắt đầu hủy diệt phần đóng góp của mình trong đó—tức là cái trong y giúp cho y tiếp xúc được với ảo cảm—và đồng thời y đang tự chuẩn bị cho việc phụng sự nhóm theo cùng đường lối. Điều này cho thấy đây không phải là việc dễ làm.
II. Kỹ thuật hay công thức.
5.− Bằng tác động của trí tưởng tượng sáng tạo, người hành đạo cố gắng thấy và nghe linh hồn—cội nguồn của ánh sáng và sức mạnh trong ba cõi thấp—đang thở ra thánh ngữ OM vào thể trí của phàm ngã đang chú tâm đợi chờ. Ở đó, ánh sáng và sức mạnh của linh hồn được ghi nhận và giữ lại bởi phàm ngã tích cực, vì một thái độ tiêu cực không còn thích hợp.
6.− Ánh sáng và sức mạnh được giữ lại, kết hợp với ánh sáng kép của phàm ngã (như chúng ta biết, ánh sáng này tập trung trên cõi trí) được nhìn thấy đang sinh ra một ánh sáng mạnh mẽ có thể hình dung được như là ngọn đèn pha chói lọi và mạnh mẽ. Nó phải được thấy giống như một quả cầu ánh sáng rực rỡ linh hoạt, nhưng chưa tỏa ra hay phóng chiếu ra ngoài.
7.− Khi động tác hình dung này được xem như hoàn tất thỏa đáng, tiếp theo là thời gian tạm nghỉ, trong đó người chí nguyện tập trung mọi ý chí mà y đang có đàng sau ánh sáng được tạo ra bằng sự dung hợp của ba loại ánh sáng. Động tác này có liên quan đến giai đoạn mà Patanjali đã nói đến, đó là giai đoạn “thể trí được giữ ổn định trong ánh sáng”. Công dụng của ý chí này—ý chí linh hồn−phàm ngã—thì mãnh liệt, nhưng vào giai đoạn này thì yên tĩnh và không thu hút hay tỏa ra.
8.− Kế tiếp là tiến trình mà ảo cảm cần xua tan và ngọn đèn pha của trí tuệ được mang vào sự giao tiếp lẫn nhau bằng mãnh lực của tư tưởng. Ảo cảm và tính chất của nó, ngọn đèn pha và sức mạnh của nó đều được nhận biết đúng theo bản chất của chúng, một hoặc nhiều hiệu quả được mang lại bằng mối liên hệ đó nên được xem xét cẩn thận. Không thực hiện điều này theo cách mà tiến trình trí tuệ, ánh sáng và sức mạnh sẽ làm mạnh thêm ảo cảm vốn đã mạnh sẵn. Cần phải thực hiện như thế nào mà vào lúc kết thúc tiến trình, ảo cảm sẽ bị suy yếu một cách đáng kể và sau rốt bị xua tan. Đây là một nhận thức quan trọng.
9.− Sau khi đạt được sự định trí, sự nhận thức và mối liên hệ cần thiết, bấy giờ người chí nguyện (bằng tác động của ý chí và của trí tưởng tượng sáng tạo) chuyển hướng ngọn đèn pha và thấy được một chùm ánh sáng linh hoạt phóng ra và xuyên thủng ảo cảm. Y phải hình dung ra một chùm ánh sáng chói lọi rộng lớn, đang từ thể trí giác ngộ tuôn tràn lên cõi cảm dục. Y phải tin rằng việc xảy ra như thế.
10.− Kế đó đến giai đoạn quan trọng và khó khăn của công việc, đó là người hành đạo gọi tên ảo cảm và nhìn thấy ảo cảm ở trong tiến trình tan rã. Y giúp vào tiến trình này bằng cách nói với sự nhất tâm và không phát thành lời:
Sức mạnh của ánh sáng ngăn chận việc xuất hiện ảo cảm (đọc tên ảo cảm).
Sức mạnh của ánh sáng làm vô hiệu tính chất của ảo cảm, không cho ảnh hưởng đến tôi.
Mãnh lực của ánh sáng hủy diệt sự sống ở sau ảo cảm.
Thốt ra ba câu này, có nghĩa là tạo ra sự xác quyết về sức mạnh, về mục tiêu, và phải được thốt ra với sự nhất tâm an trụ, với thể trí được giữ ổn định và với một định hướng tích cực.
11.− Lần nữa Linh Từ được ngân lên với ý định tạo ra những gì mà ngôn từ huyền linh học gọi là “Tác Động Thâm Nhập”; bấy giờ ánh sáng được thấy hoàn tất ba việc:
a. Tạo một tác động rõ rệt lên ảo cảm.
b. Xâm nhập vào ảo cảm và bị nó thu hút.
c. Từ từ xua tan ảo cảm; theo thời gian qua ảo cảm sẽ không bao giờ mạnh trở lại và sau rốt sẽ cùng biến mất.
12.− Tiến trình này được nối tiếp bằng một tiến trình thu hồi, trong đó người chí nguyện một cách chủ tâm và cố ý thu hồi chùm ánh sáng, đồng thời tái định hướng chính mình vào cõi trí.
Tôi muốn nói rằng ảo cảm không bao giờ bị xua tan ngay lập tức. Ảo cảm có nguồn gốc quá lâu đời. Nhưng kiên trì sử dụng công thức này sẽ làm suy yếu ảo cảm và nó sẽ từ từ và chắc chắn biến mất, con người sẽ tự do bước khỏi chướng ngại đặc biệt đó. Công thức này có vẻ khá dài, nhưng tôi đã cố ý phân nó ra thành chi tiết với đầy đủ ý nghĩa để người chí nguyện có thể hiểu được một cách rõ ràng những gì mà y định làm. Sau khi thực hành đúng và tuân theo một cách trung thực các điều kiện cần thiết, người chí nguyện sẽ tuân theo nó hầu như một cách tự động và tất cả những gì mà bấy giờ y cần sẽ là phương thức rút gọn theo nét phác họa vắn tắt sau đây.
Hỡi huynh đệ, các bạn sẽ thấy những gì tôi đang làm thực ra là giảng dạy cho thế hệ sắp đến cách hủy diệt các hình tư tưởng đang cầm giữ nhân loại, và, trong trường hợp ảo cảm, vốn là các hình thức mà dục vọng, xúc cảm, sự nhạy cảm với môi trường, đạo tâm đang phát triển và các lý tưởng cổ xưa đã chiếm đoạt và đang ngăn chận ánh sáng của linh hồn không cho chiếu rọi vào ý thức đang thức tỉnh
Các năng lượng hình thành trên cõi cảm dục đều không phải là xúc cảm và cảm giác thuần khiết, được khoác dưới lớp chất liệu thuần túy cảm dục, vì không có sự việc nào như thế. Chúng là các ham muốn theo bản năng được khơi hoạt bằng vật chất tiến hóa của cõi trần, và trong toàn bộ của nó và qua hoạt động của gia đình nhân loại vật chất này đang được chuyển đổi và nâng lên cho đến một ngày nào đó chúng ta sẽ thấy sự biến hình của vật chất đó và “Sự Huy Hoàng của Đức Mẹ Đồng Trinh” – Trạng Thái Mẹ liên quan với thiên tính.
Chúng cũng là các hình tư tưởng đi xuống mà con người phát triển luôn luôn tạo ra và lôi cuốn vào sự biểu lộ, khoác cho chúng chất liệu của dục vọng. Khi các hình tư tưởng đang đi xuống này (một phản chiếu trong ba cõi thấp của “đám mây lớn chứa các điều khả tri” (“cloud of knowable things) đang được nhận biết như Patanjali đã gọi, và đang lượn lờ trên cõi Bồ Đề chờ lắng tụ xuống) và khối giáng xuống gồm các đòi hỏi theo bản năng từ trạng thái thấp của từng cá nhân và từ nhân loại nói chung, gặp nhau ở điểm nhất tâm (point of tension) lúc bạn có sự xuất hiện của cõi cảm dục – một lãnh vực hoạt động do con người tạo ra. Đây là một trong các lối nói của huyền linh học mà vị đệ tử phải học cách hiểu và dùng để mô tả sự biểu lộ.
Trong thiên nhiên, các giới dưới nhân loại không hề biết cõi cảm dục; các giới siêu nhân loại đã vượt qua cõi ấy, đã tìm ra cái bí ẩn về sự phỉnh lừa của cõi cảm dục và không còn thừa nhận cõi đó nữa ngoài việc xem cõi đó như lãnh vực kinh nghiệm tạm thời mà con người sinh hoạt trong đó. Trong lãnh vực đó con người học được sự thật rằng “Thực tại vốn không là cái nào trong những cái này mà chỉ có Cái Này (the One) và Cái Kia (the Other) có liên quan với nhau”