Giới thiệu: Phần đầu tiên này trích từ Esoteric Healing nói về Dân tộc Do Thái và Bài Học Nhân Quả. Phần này và hai phần tiếp theo cung cấp khía cạnh bí truyến của dân tộc Do Thái, một lịch sử có thể truy nguyên đến Thái dương hệ trước đây.
Trong nhóm đệ tử của Chân sư DK có nhiều người là người Do Thái như Regina Keller (RSU)—bạn thân của A.A. Bailey, Roberto Assagioli (FCD). Thầy Hiệu trưởng Michael D. Robbins cũng là một người gốc Do Thái. Đặc điểm của người Do Thái là sự chia rẻ, vật chất, nhưng họ cũng là những người tiến hoá rất cao, thông minh, nghệ sĩ. Chân sư DK có nhắc đến trong thế kỷ XX Thánh đoàn sẽ gởi một số đệ tử tái sinh vào dân tộc Do Thái nhằm giải quyết vấn đề Do Thái.
File song ngữ
********
Chương III–Eosteric Healing
[259]
Chúng ta hiện đã đạt đến giai đoạn kết luận của cách tiếp cận vấn đề bệnh tật. Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ đề cập đến thái độ và khí chất của bệnh nhân, có tính đến cung của y và cả trạng thái trí tuệ của người chữa lành; tất cả những điểm này đều có tầm quan trọng hàng đầu khi người ta xem xét nghệ thuật chữa bệnh tinh vi. Tuy nhiên, điều cần thiết là sức khỏe kém, bệnh cấp tính và bản thân cái chết phải tìm được vị trí của chúng trong bức tranh tổng thể. Một lần lâm phàm cụ thể không phải là một sự kiện riêng lẻ trong cuộc đời của linh hồn, mà là một phần và một khía cạnh của một chuỗi kinh nghiệm nhằm dẫn đến một mục tiêu rõ ràng, dứt khoát — mục tiêu của sự lựa chọn tự do và sự trở về có chủ ý từ vật chất đến tinh thần và sự giải thoát cuối cùng.
Đã có nhiều cuộc thảo luận giữa các nhà huyền bí học (đặc biệt là trong sự trình bày về Con Đường đến Thực Tại của phương Đông) về sự giải thoát. Mục tiêu đặt ra trước người sơ cơ là sự giải thoát, tự do, giải phóng; điều này, nói chung, là âm hưởng chủ đạo của chính sự sống. Khái niệm này là sự chuyển tiếp ra khỏi lĩnh vực hoàn toàn ích kỷ và giải thoát cá nhân vào một điều gì đó rộng lớn hơn và quan trọng hơn nhiều. Khái niệm giải thoát này nằm sau việc sử dụng từ “tự do” hiện đại nhưng khôn ngoan hơn, tốt hơn và sâu sắc hơn nhiều trong ý nghĩa của nó. Tự do, trong tâm trí của nhiều người, là sự tự do khỏi sự áp đặt của bất kỳ quy tắc nào của con người [260], tự do làm những gì người ta muốn, suy nghĩ như người ta quyết định và sống như người ta lựa chọn. Điều này là đúng như vậy, miễn là những mong muốn, lựa chọn, suy nghĩ và khát vọng của một người không có sự ích kỷ và được cống hiến cho lợi ích của toàn thể. Điều này, cho đến nay, rất hiếm khi như vậy.
Giải thoát còn hơn thế rất nhiều; đó là sự tự do khỏi quá khứ, tự do tiến lên theo những đường lối định trước nhất định (được linh hồn định trước), tự do thể hiện tất cả sự thiêng liêng mà một người có khả năng thể hiện như một cá nhân, hoặc mà một quốc gia có thể trình bày cho thế giới.
Trong lịch sử hai nghìn năm qua, đã có bốn sự kiện biểu tượng vĩ đại liên tiếp trình bày (cho những người có mắt để thấy, tai để nghe và trí tuệ để giải thích) chủ đề giải thoát — và không chỉ đơn thuần là tự do.
- Cuộc đời của chính Đức Christ. Ngài, lần đầu tiên, đã trình bày ý tưởng về sự hy sinh của đơn vị, được hiến dâng một cách có ý thức và có chủ ý cho sự phụng sự của toàn thể. Đã có những Đấng Cứu Thế khác, nhưng những vấn đề liên quan đã không được thể hiện rõ ràng như vậy, bởi vì trí tuệ của con người chưa sẵn sàng nắm bắt những hàm ý. Phụng sự là âm hưởng chủ đạo của sự giải thoát. Đức Christ là Người Phụng Sự lý tưởng.
- Việc ký kết Magna Charta. Văn kiện này được ký kết tại Runnymede, dưới triều đại của Vua John vào ngày 15 tháng 6 năm 1215 sau Công Nguyên. Ở đây, ý tưởng về sự giải thoát khỏi quyền lực được trình bày với sự nhấn mạnh vào tự do và quyền cá nhân. Sự tăng trưởng và phát triển của ý tưởng cơ bản này, khái niệm trí tuệ và nhận thức được hình thành rơi vào bốn giai đoạn hoặc chương:
-
- Việc ký kết Magna Charta, nhấn mạnh tự do cá nhân. [261]
- Việc thành lập Cộng hòa Pháp với sự nhấn mạnh vào tự do con người.
- Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền, xác định chính sách quốc gia.
- Hiến chương Đại Tây Dương và Bốn Tự do, đưa toàn bộ vấn đề vào lĩnh vực quốc tế, và đảm bảo cho những người nam và nữ ở khắp mọi nơi trên thế giới tự do và sự giải thoát để phát triển thực tại thiêng liêng bên trong họ.
Lý tưởng đã dần dần trở nên rõ ràng để ngày nay quần chúng ở khắp mọi nơi biết được những yếu tố cơ bản của hạnh phúc.
- Sự Giải Phóng Nô Lệ. Ý niệm tinh thần về tự do nhân loại, vốn đã trở thành một lý tưởng được công nhận, đã chuyển hóa thành một khát vọng mãnh liệt, và một sự kiện mang tính biểu tượng vĩ đại đã diễn ra—những người nô lệ đã được giải phóng. Giống như mọi điều mà con người thực hiện, sự hoàn hảo không tồn tại. Người da đen không thực sự được tự do trong vùng đất của tự do này, và nước Mỹ sẽ phải tự thanh lọc trong khía cạnh này; nói một cách rõ ràng và súc tích, Hoa Kỳ phải đảm bảo rằng Hiến pháp và Tuyên ngôn Nhân quyền trở thành hiện thực chứ không chỉ là một giấc mơ. Chỉ bằng cách đó, sự vận hành tất yếu của Định luật Nghiệp Quả (chủ đề của chúng ta hôm nay) mới có thể được hóa giải. Người da đen là công dân Mỹ, cũng như những người New England và tất cả các dân tộc khác không có nguồn gốc bản địa tại đất nước này, và Hiến pháp cũng thuộc về họ. Tuy nhiên, những quyền lợi mà Hiến pháp trao cho vẫn đang bị tước đoạt bởi những kẻ còn là nô lệ của lòng ích kỷ và nỗi sợ hãi.
- Sự Giải Phóng Nhân Loại bởi Liên Hợp Quốc. Chúng ta đang tham gia vào một sự kiện biểu tượng vĩ đại và đầy ấn tượng, đồng thời đang quan sát quá trình diễn tiến của nó. Sự giải phóng cá nhân đã phát triển thành sự giải phóng mang tính biểu tượng của một bộ phận nhân loại (tàn dư của hai giống dân đầu tiên, giống dân Lemuria và giống dân Atlantis) đến sự giải phóng hàng triệu con người bị nô lệ bởi các thế lực tà ác, được thực hiện bởi hàng triệu đồng loại của họ. Lý tưởng này đã được hiện thực hóa thành một nỗ lực mang tính toàn cầu trên cõi trần và đã đòi hỏi sự hy sinh trên quy mô thế giới. Nó đã bao trùm toàn bộ ba cõi giới của sự tiến hóa nhân loại, và chính vì lý do đó mà Đức Christ giờ đây có thể lãnh đạo các lực lượng của Ngài và hỗ trợ nhân loại trong việc giải phóng chính mình.
Vậy điều gì thực sự đã xảy ra trong đời sống của cá nhân, của các quốc gia và của toàn thể nhân loại? Đó là một sự vận động vĩ đại nhằm sửa chữa những tội lỗi cổ xưa nhất, nhằm chủ động hóa giải Định luật Nhân Quả bằng cách nhận thức về những nguyên nhân trong các phạm vi cá nhân, quốc gia và quốc tế đã tạo ra những hệ quả mà nhân loại ngày nay đang phải chịu đựng.
Hiện nay, Định luật Nghiệp Quả là một thực tại vĩ đại và không thể bác bỏ trong tâm thức của nhân loại khắp nơi. Họ có thể không gọi nó bằng tên này, nhưng họ hoàn toàn ý thức được rằng trong mọi sự kiện diễn ra ngày nay, các quốc gia đang gặt hái những gì họ đã gieo trồng. Định luật vĩ đại này—từng được xem như một lý thuyết—nay đã trở thành một thực tế hiển nhiên và một yếu tố được công nhận trong tư duy nhân loại. Câu hỏi “Tại sao?” thường xuyên được đặt ra đã không ngừng mang lại yếu tố nhân quả với tính tất yếu liên tục. Các khái niệm về di truyền và môi trường chỉ là những nỗ lực nhằm giải thích các điều kiện nhân sinh hiện tại; những phẩm chất, đặc điểm chủng tộc, khí chất và lý tưởng quốc gia chứng minh sự tồn tại của một thế giới khởi nguyên nào đó của các nguyên nhân. Các điều kiện lịch sử, mối quan hệ giữa các quốc gia, các điều cấm kỵ xã hội, các xác tín và khuynh hướng tôn giáo—tất cả đều có thể được truy nguyên đến những nguyên nhân khởi đầu—một số trong đó vô cùng cổ xưa. Mọi điều đang diễn ra trong thế giới ngày nay và đang có ảnh hưởng sâu rộng đến nhân loại—từ những điều đẹp đẽ đến những điều kinh hoàng, từ các phương thức sống, nền văn minh và văn hóa, đến những định kiến và sở thích, từ các thành tựu khoa học đến sự biểu đạt nghệ thuật, cùng nhiều cách mà nhân loại trên toàn cầu tô điểm cho sự tồn tại—đều là những khía cạnh của các hệ quả, được khởi phát từ một nơi nào đó, trên một cõi nào đó, vào một thời điểm nào đó, bởi chính con người, dù là cá nhân hay tập thể.
Do đó, nghiệp quả chính là những gì mà Con Người—Đấng Thiên Nhân trong đó chúng ta, toàn thể nhân loại, các nhóm nhân loại với tư cách là các quốc gia, và từng cá nhân, sống—đã khởi xướng, tiếp tục duy trì, xác nhận, bỏ qua hoặc đã hoàn thành xuyên suốt các thời đại cho đến thời điểm hiện tại. Ngày nay, vụ mùa đã chín, và nhân loại đang gặt hái những gì mình đã gieo trồng, chuẩn bị cho một mùa cày mới vào mùa xuân của Kỷ Nguyên Mới, với một đợt gieo hạt mới—mà chúng ta hãy cầu nguyện và hy vọng—sẽ mang lại một vụ mùa tốt đẹp hơn.
Bằng chứng nổi bật nhất về Định luật Nhân Quả là giống dân Do Thái. Tất cả các quốc gia đều minh chứng cho Định luật này, nhưng tôi chọn đề cập đến dân tộc Hebrew vì lịch sử của họ được biết đến rộng rãi, và tương lai cùng vận mệnh của họ là mối quan tâm chung của toàn thế giới. Người Do Thái luôn mang một ý nghĩa biểu tượng; họ tổng hợp trong chính mình—với tư cách là một quốc gia, xuyên suốt các thời đại—cả những chiều sâu của cái ác trong nhân loại lẫn những đỉnh cao của thiên tính nhân loại. Lịch sử hiếu chiến của họ, như được kể lại trong Cựu Ước, có thể so sánh với những thành tựu hiện tại của nước Đức; thế nhưng Đức Christ là một người Do Thái, và chính dân tộc Hebrew đã sinh ra Ngài. Đừng bao giờ quên điều này. Người Do Thái từng là những kẻ xâm lược vĩ đại; họ đã cướp bóc người Ai Cập và chiếm lấy Miền Đất Hứa bằng lưỡi gươm, không tha cho bất kỳ ai—nam, nữ hay trẻ nhỏ. Lịch sử tôn giáo của họ được xây dựng xung quanh một vị Jehovah thiên về vật chất, đầy chiếm hữu, tham lam và khuyến khích xâm lược. Lịch sử của họ là một hình ảnh tượng trưng cho lịch sử của mọi kẻ xâm lược, những kẻ biện minh cho chính mình bằng niềm tin rằng họ đang thực hiện Thiên Ý, chiếm đoạt tài sản của người khác dưới danh nghĩa tự vệ và tìm thấy một lý do nào đó—đối với họ là hợp lý—để biện hộ cho sự bất công của hành động mình. Người Do Thái đã chiếm lấy Palestine bởi vì đó là “một vùng đất tràn trề sữa và mật ong,” và họ tuyên bố rằng hành động này được thực hiện theo lệnh truyền của Thượng đế. Sau này, biểu tượng trở nên đặc biệt thú vị. Họ chia thành hai nhóm: người Israel với trung tâm tại Samaria, và người Do Thái (chỉ gồm hai hoặc ba bộ lạc đặc biệt trong số mười hai bộ lạc) định cư quanh Jerusalem. Tư tưởng nhị nguyên thấm nhuần trong đức tin tôn giáo của họ; họ được giáo dục bởi hai nhóm Sadducee và Pharisee, và hai nhóm này luôn trong trạng thái xung đột. Đức Christ đến với tư cách là một thành viên của dân tộc Do Thái, và họ đã khước từ Ngài.
Ngày nay, định luật đang vận hành, và người Do Thái đang phải trả giá—cả về mặt thực tế lẫn tượng trưng—cho tất cả những gì họ đã làm trong quá khứ. Họ đang minh chứng cho những hiệu ứng sâu rộng của Định luật. Một cách thực tế và tượng trưng, họ đại diện cho văn hóa và nền văn minh; một cách thực tế và tượng trưng, họ chính là nhân loại; một cách thực tế và tượng trưng, họ vẫn tiếp tục đại diện cho cái mà họ đã chọn từ trước đến nay—đó là sự chia rẻ. Họ xem mình là dân tộc được chọn và mang trong mình một ý thức bẩm sinh về vận mệnh cao cả đó, quên mất rằng vai trò biểu tượng của họ là để đại diện cho toàn thể nhân loại, và rằng nhân loại mới là dân tộc được chọn, chứ không phải một bộ phận nhỏ bé và không đáng kể của giống dân này. Một cách thực tế và tượng trưng, họ khao khát sự hợp nhất và hợp tác, nhưng lại không biết cách hợp tác; một cách thực tế và tượng trưng, họ là “Người Hành Hương Vĩnh Cửu”; họ chính là nhân loại, lang thang qua những mê cung của ba cõi tiến hóa nhân loại, và dõi mắt đầy khao khát về Miền Đất Hứa; một cách thực tế và tượng trưng, họ giống như đại đa số nhân loại—từ chối hiểu được mục đích tinh thần ẩn sau mọi hiện tượng vật chất, chối bỏ Đức Christ bên trong chính họ (cũng như họ đã chối bỏ Đức Christ trong chính lãnh thổ của họ từ nhiều thế kỷ trước), bám víu vào lợi ích vật chất và liên tục khước từ những điều thuộc về tinh thần. Họ đòi hỏi “sự khôi phục” của Palestine, cướp đoạt nó khỏi tay những người đã sinh sống tại đó qua nhiều thế kỷ; và bằng việc tiếp tục nhấn mạnh vào sự chiếm hữu vật chất, họ đã đánh mất tầm nhìn về giải pháp thực sự—đó là, cả về biểu tượng lẫn thực tế, họ cần phải được đồng hóa vào tất cả các quốc gia, hòa nhập với tất cả các giống dân, và qua đó thể hiện sự nhận thức về Một Nhân Loại Duy Nhất.
Những người Jews sinh sống tại miền nam Palestine, với thủ phủ là Jerusalem, đã thành công trong việc hòa nhập và được đồng hóa với người Anh, người Hà Lan và người Pháp theo cách mà những người Israel bị cai trị từ Samaria chưa từng làm được. Tôi khuyến khích các bạn suy ngẫm về điều này.
Nếu dân tộc Do Thái có thể hồi tưởng lại định mệnh biểu tượng cao cả của họ, và nếu phần còn lại của nhân loại có thể nhìn thấy chính mình trong dân tộc Do Thái, và nếu cả hai nhóm đều nhấn mạnh vào thực tế của nguồn gốc nhân loại chung và ngừng nghĩ về chính mình dưới dạng các đơn vị quốc gia và chủng tộc, thì nghiệp quả của nhân loại sẽ thay đổi một cách căn bản—từ nghiệp quả báo ứng hiện tại sang nghiệp quả thiện lành của tương lai.
Xem xét vấn đề này từ viễn cảnh dài hạn (nhìn lại quá khứ lịch sử cũng như hướng tới tương lai với hy vọng), vấn đề này chính dân tộc Do Thái phải đóng góp phần lớn nhất. Cho đến nay, họ vẫn chưa từng đối diện một cách thẳng thắn và chân thành (với tư cách một dân tộc) về lý do tại sao nhiều quốc gia, từ thời Ai Cập, chưa từng yêu thích hay chấp nhận họ. Điều này đã lặp đi lặp lại suốt hàng thế kỷ. Tuy nhiên, phải có một lý do nào đó, vốn nội tại trong chính dân tộc này, khi mà phản ứng của thế giới đối với họ lại mang tính phổ quát và toàn cầu đến vậy. Cách tiếp cận của họ đối với vấn đề nghiêm trọng này thường là van xin, than vãn đau khổ hoặc tuyệt vọng. Họ yêu cầu các quốc gia không phải Do Thái giải quyết vấn đề này, và nhiều quốc gia đã cố gắng làm như vậy. Tuy nhiên, cho đến khi chính dân tộc Do Thái [266] đối diện với thực tế và thừa nhận rằng có thể đối với họ, nghiệp quả báo ứng của Luật Nhân Quả đang vận hành, và cho đến khi họ cố gắng tìm hiểu điều gì trong chính họ, với tư cách một dân tộc, đã khởi sinh số phận bi thảm từ xa xưa của họ, thì vấn đề căn bản này của thế giới vẫn sẽ tồn tại như nó đã từng từ buổi đầu của thời gian. Việc trong dân tộc này có những người vĩ đại, thiện lương, công bằng và tâm linh là một sự thật không thể phủ nhận. Một sự tổng quát hóa không bao giờ thể hiện toàn bộ sự thật. Nhưng nếu xem xét vấn đề của người Do Thái trong không gian và thời gian, trong lịch sử và hiện tại, thì những điểm tôi đã nêu ra đáng để người Do Thái suy ngẫm một cách cẩn trọng.
Những gì tôi nói không hề làm giảm đi tội lỗi của những kẻ đã ngược đãi người Do Thái một cách khủng khiếp. Các bạn có một câu tục ngữ, phải không? Rằng “hai cái sai không tạo nên một cái đúng.” [“Hai đen không tạo ra một trắng”] Hành vi của các quốc gia đối với người Do Thái, với đỉnh điểm là những tội ác ghê rợn trong phần tư thứ hai của thế kỷ hai mươi, không thể biện minh. Luật nhân quả chắc chắn sẽ vận hành. Mặc dù nhiều điều đã xảy ra với người Do Thái có nguồn gốc từ lịch sử xa xưa của họ, từ thái độ phân biệt sâu sắc và tính không thể hòa nhập của họ, cũng như từ sự nhấn mạnh của họ vào lợi ích vật chất, nhưng những kẻ đã mang đến nghiệp quả xấu cho họ cũng sẽ phải gánh chịu hệ quả báo ứng của chính luật đó; tình thế hiện nay đã trở thành một vòng luẩn quẩn của sai lầm và tội ác, của báo ứng và trả thù. Trong bối cảnh đó, phải đến một lúc nào đó, các quốc gia sẽ cùng nhau thảo luận về vấn đề này, và họ sẽ hợp tác để chấm dứt những thái độ sai lầm từ cả hai phía. Tất cả nghiệp quả có tính tiêu cực đều có thể được giải quyết bằng sự sẵn lòng chấp nhận, bằng tình thương hợp tác, bằng sự thừa nhận trách nhiệm một cách chân thành và bằng sự điều chỉnh khéo léo các hoạt động chung để mang lại lợi ích cho toàn nhân loại, chứ không chỉ lợi ích của một quốc gia, một dân tộc hay một chủng tộc riêng lẻ. Vấn đề của người Do Thái sẽ không được giải quyết [267] bằng cách chiếm hữu Palestine, bằng việc than vãn và yêu cầu, hay bằng những thao túng tài chính. Điều đó chỉ là sự kéo dài những sai lầm cũ và sự chiếm hữu vật chất. Vấn đề sẽ được giải quyết bằng sự sẵn lòng của người Do Thái trong việc hòa nhập vào nền văn minh, bối cảnh văn hóa và các tiêu chuẩn sống của quốc gia mà—do sự kiện sinh ra và được giáo dục—họ có liên hệ và nên đồng hóa với nó. Điều đó sẽ đến khi họ từ bỏ niềm tự hào về chủng tộc và quan niệm về sự tuyển chọn đặc biệt; điều đó sẽ đến khi họ từ bỏ các giáo điều và tập quán vốn đã lỗi thời một cách nội tại và gây ra những điểm xung đột liên tục với môi trường xã hội mà người Do Thái đang sống; điều đó sẽ đến khi chủ nghĩa vị kỷ trong các mối quan hệ kinh doanh và khuynh hướng thao túng rõ rệt của dân tộc Do Thái được thay thế bằng những hình thức hoạt động vị tha và trung thực hơn.
Người Do Thái, do ảnh hưởng của các cung của họ và trình độ phát triển của họ, là những cá nhân đặc biệt sáng tạo và nghệ thuật. Điều này họ phải nhận thức được, và họ không nên tìm cách, như hiện nay, thống trị trong mọi lĩnh vực, giành lấy mọi cơ hội từ tay người khác, và nhờ đó cải thiện vị thế của họ cũng như dân tộc của họ bằng cách làm tổn hại đến người khác. Sự giải thoát khỏi tình trạng hiện tại sẽ đến khi người Do Thái quên đi rằng mình là người Do Thái và trong tâm thức sâu thẳm nhất của mình trở thành một người Ý, một người Mỹ, một người Anh, một người Đức hoặc một người Ba Lan. Điều này chưa xảy ra vào thời điểm hiện tại. Vấn đề của người Do Thái sẽ được giải quyết bằng việc kết hôn giữa các sắc tộc; vấn đề của người da đen thì không. Điều này sẽ đòi hỏi sự nhượng bộ và thỏa hiệp từ phía những người Do Thái chính thống—không phải là sự nhượng bộ vì tính thực dụng, mà là sự nhượng bộ đến từ niềm tin xác quyết.
Tôi cũng muốn chỉ ra rằng, cũng giống như Kabbalah và Talmud là những tuyến thứ cấp của cách tiếp cận nội môn đối với chân lý, và mang tính vật chất trong kỹ thuật của chúng (khi chứa đựng phần lớn công việc huyền thuật nhằm liên kết một cấp độ vật chất với bản chất của một cấp độ khác), thì Cựu Ước cũng là một Kinh Điển thứ cấp, và về mặt tinh thần, nó không [268] sánh ngang hàng với Bhagavad-Gita, các Kinh Điển cổ đại của phương Đông, hay Tân Ước. Trọng tâm của nó mang tính vật chất và ảnh hưởng của nó là tạo ra một nhận thức thế gian về một vị Jehovah thuần túy mang tính vật chất. Chủ đề chung của Cựu Ước là sự phục hồi của biểu hiện cao nhất về minh triết thiêng liêng trong hệ mặt trời đầu tiên; hệ thống đó đã thể hiện công việc sáng tạo của khía cạnh thứ ba của Thượng Đế—khía cạnh của trí tuệ linh hoạt, biểu lộ qua vật chất. Trong hệ mặt trời này, thế giới sáng tạo được định sẵn là sự thể hiện của khía cạnh thứ hai—tình thương của Thượng Đế. Điều này người Do Thái chưa bao giờ lĩnh hội, vì tình thương được thể hiện trong Cựu Ước là tình thương phân biệt và chiếm hữu của Jehovah dành cho một đơn vị đặc biệt trong giới thứ tư, tức giới nhân loại. Thánh Phao-lô đã tóm tắt thái độ mà nhân loại nên có trong câu: “Không còn người Do Thái hay dân ngoại.” Nghiệp quả xấu của người Do Thái ngày nay nhằm chấm dứt sự cô lập của họ, đưa họ đến điểm từ bỏ các mục tiêu vật chất, từ bỏ một ý thức dân tộc có khuynh hướng mang tính ký sinh trong ranh giới của các quốc gia khác, và thể hiện tình thương bao dung thay vì sự bất hạnh mang tính chia rẽ.
Vậy còn thái độ của những người không phải Do Thái thì sao? Điều hoàn toàn cần thiết là các quốc gia phải chủ động đón nhận người Do Thái hơn một nửa chặng đường khi họ bắt đầu quá trình thay đổi—một cách chậm rãi và dần dần—từ bỏ chủ nghĩa dân tộc chính thống của mình. Cảm xúc bài Do Thái ngày càng gia tăng trên thế giới là điều không thể biện minh trước mắt Thượng Đế và con người. Tôi không đề cập ở đây đến những sự tàn bạo khủng khiếp của dân tộc Đức trong cơn mê sảng của họ. Đằng sau điều đó là một lịch sử quan hệ từ thời Atlantis mà tôi không cần đi sâu, vì tôi không thể chứng minh điều đó cho các bạn. Tôi đang đề cập đến lịch sử của hai nghìn năm qua và hành vi thường nhật của những người không phải Do Thái trên toàn thế giới. Cần có một nỗ lực rõ ràng từ phía công dân của [269] mỗi quốc gia để hòa nhập người Do Thái, để kết hôn với họ, và để từ chối nhìn nhận những thói quen tư duy cũ và những quan hệ tiêu cực từ thời xa xưa như những rào cản. Con người ở khắp nơi phải xem đó là một vết nhơ trên danh dự quốc gia của họ nếu trong biên giới của họ vẫn còn tồn tại sự phân đôi cũ—Do Thái và Dân Ngoại. Không có Do Thái cũng không có Dân Ngoại; chỉ có Nhân Loại. Cuộc chiến này (1914-1945) nên được xem như đã kết thúc mối thù hận lâu đời giữa Do Thái và Dân Ngoại, và cả hai nhóm giờ đây có cơ hội để khởi xướng một phương thức sống mới mẻ và hạnh phúc hơn, cùng một mối quan hệ thực sự hợp tác từ cả hai phía. Quá trình hòa nhập sẽ diễn ra chậm, vì tình trạng này đã có từ quá lâu đời đến mức những thói quen tư duy, thái độ truyền thống và phong tục phân biệt đã ăn sâu và khó có thể vượt qua. Nhưng những thay đổi cần thiết có thể diễn ra nếu thiện chí hướng dẫn lời nói, cách trình bày trên văn bản và phương thức sống chung. Thánh đoàn không nhìn thấy sự phân biệt nào. Người Đứng Đầu Thánh đoàn, dù hiện không mang thân xác Do Thái, nhưng đã đạt đến mục tiêu tâm linh cao nhất của nhân loại trong một thân xác Do Thái. Thánh đoàn cũng đang đưa một số đệ tử vào những thân xác Do Thái, những người sẽ làm việc với ý định trọn vẹn để thay đổi tình trạng này. Hiện nay có một số ít người Do Thái không còn nghĩ về bản thân mình như là người Do Thái; họ không còn bị ám ảnh bởi vấn đề Do Thái đến mức quên hết mọi điều khác, và họ đang cố gắng dung hợp tất cả mọi người thành một nhân loại duy nhất, qua đó xây dựng những nhịp cầu kết nối.
Một lần nữa, tôi nhấn mạnh rằng các Chân sư Minh triết không nhìn thấy Do Thái hay Dân Ngoại, mà chỉ thấy những linh hồn và những người con của Thượng Đế.
Khi bàn về chủ đề nghiệp quả như một yếu tố—mang tính quyết định và lâu dài đối với cả bệnh tật lẫn sức khỏe—một trong những phê bình mà cách tiếp cận của tôi phải đối mặt là tôi đề cập quá nhiều đến những khái quát và không đưa ra phân tích cụ thể, chi tiết về từng loại bệnh, đặc biệt là những căn bệnh [270] cơ bản lớn hiện nay đang gây tổn thất lớn cho nhân loại và chưa thực sự được kiểm soát tận gốc. Tôi không đi sâu vào các triệu chứng hay phương pháp chữa trị của chúng, cũng không chỉ ra các kỹ thuật có thể được áp dụng để đối phó với chúng. Tôi cảm thấy đây là một lời phê bình mà tôi cần xem xét, để các bạn có thể tiếp tục nghiên cứu của mình mà không bị hiểu lầm. Đây là thời điểm thích hợp để dừng lại và đối diện với ý kiến này. Nghiệp quả, tất yếu, là một chủ đề mang tính tổng quát chứ không mang tính cụ thể; nó vẫn chưa được công chúng chấp nhận theo nghĩa huyền môn. Nó phải được xem xét theo những đường hướng rộng lớn cho đến khi Định Luật Nhân Quả được công nhận là một yếu tố quyết định chính yếu trong tâm thức nhân loại—không chỉ trên quy mô lớn mà còn trong đời sống cá nhân. Định Luật này, nói chung, vẫn chưa được công chúng hiểu biết đầy đủ.
TAM GIÁC TÀ VẠY
Giới thiệu: Trong đoạn trích này từ quyển “Rays and Initiations”, có lẽ viết vào những năm kết thúc thế chiến thứ II, Chân sư nói về Tam Giác Tà Vạy gồm các điểm nằm ở Hoa Kỳ, Trung Âu, và Palestine. Ngài cũng nói đến đám mây đen đang bao phủ vùng Cận Đông, Nga, và Châu Âu, và liệu các cường quốc gồm 4 nước có thể chung tay giải quyết cuộc khủng hoảng đang treo lơ lửng trên đầu nhân loại. Thực tế, những tiên đoán đang dần trở thành hiện thực. Những quốc gia từng tham gia vào Lực Lượng Đồng Minh trong Thế Chiến II, giờ dường như “đổi chiều”, như Hoa Kỳ và Nga, và với Hoa Kỳ, lời tiên đoán của Ngài dường như đúng hơn bao giờ hết:
“Sự ích kỷ của Hoa Kỳ cũng bắt nguồn từ sự non trẻ của họ, nhưng cuối cùng nó sẽ nhường chỗ cho kinh nghiệm và đau khổ; may mắn thay cho linh hồn của dân tộc vĩ đại này, vẫn còn nhiều đau khổ đang chờ đợi Hoa Kỳ.” RI 429
The Rays and The Initiations (429-430)
Trong tay Hoa Kỳ, Anh Quốc và Nga, và cũng trong tay Pháp, nằm giữ vận mệnh của người đệ tử thế giới, Nhân Loại. Nhân loại đã và đang trải qua các thử thách chuẩn bị cho lần điểm đạo thứ nhất; chúng đã khắc nghiệt và tàn khốc và vẫn chưa hoàn toàn kết thúc. Các Chúa Tể Nghiệp Quả (bốn vị) ngày nay đang hoạt động thông qua bốn Cường Quốc này; tuy nhiên, đó là một nghiệp quả tìm cách giải thoát, như tất cả các nghiệp quả khác. Trong cuộc khủng hoảng sắp tới, tầm nhìn chân thực và một sự tự do mới, cùng với một chân trời tinh thần rộng lớn hơn có thể đạt được. Cuộc khủng hoảng, nếu được xử lý đúng cách, không cần phải đạt đến mức kinh hoàng tột độ một lần nữa.
Vùng đất khó khăn — như đã biết rõ — là Cận Đông và Palestine. Người Do Thái, bởi các hoạt động bất hợp pháp và khủng bố của họ, đã đặt nền móng cho sự khó khăn to lớn đối với những ai đang tìm cách thúc đẩy hòa bình thế giới. Như một thành viên Do Thái trong Ashram của tôi đã chỉ ra (và tôi khen ngợi về tầm nhìn linh hồn của bạn ấy), người Do Thái đã một phần mở lại cánh cửa [Trang 430] cho các Thế Lực Tà Vạy, vốn ban đầu hoạt động thông qua Hitler và băng đảng ma quỷ của y. Việc “niêm phong” cánh cửa đó đã không được thực hiện thành công, và một phần của sự khôn ngoan là phải khám phá ra điều này kịp thời. Các Thế Lực Tà Vạy này hoạt động thông qua một tam giác tà vạy, một điểm được tìm thấy trong Phong trào Phục quốc Do Thái ở Hoa Kỳ, một điểm khác ở trung Âu, và điểm thứ ba ở Palestine. Palestine không còn là Vùng Đất Thánh và không nên được coi như vậy.
Tôi muốn các bạn ghi nhớ những điểm này trong khi xem xét bức tranh thế giới. Bức tranh này đang hình thành và cần được nhận ra. Nó liên quan đến người Do Thái (những người không phải là một quốc gia mà là một nhóm tôn giáo), Cận Đông và Nga. Trong các bản đồ được tìm thấy trong Kho Lưu trữ của Huyền Giai Tinh Thần, toàn bộ khu vực Cận Đông và Châu Âu — Hy Lạp, Nam Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Palestine, các Quốc gia Ả Rập, Ai Cập và Nga — đang nằm dưới một đám mây bao phủ nặng nề. Liệu đám mây đó có thể bị xua tan bởi tư duy và kế hoạch đúng đắn của Anh Quốc, Hoa Kỳ và đa số các Quốc gia Liên hiệp quốc hay không — hay nó phải vỡ ra trong thảm họa trên toàn thế giới? Liệu nó có phải là một nhiệm vụ quá khó để người đệ tử thiếu kinh nghiệm đó — Nhân Loại — xử lý chính xác hay không?
VẤN ĐỀ DO THÁI P.I [EPI, 393-401]
Giới thiệu: Trong thư của đức DK gởi cho FCD có nhắc đến sứ mệnh của FCD trong kiếp hiện tại và kiếp kế tiếp là giúp giải quyết vấn đề Do Thái. Trong huấn thị của Ngài có nhắc đến lịch sử bí truyền của người Do Thái, số phận đặc biêt của họ, tầm quan trọng của vấn đề Do Thái. FCD được trao sứ mệnh này vì linh hồn Ông đã chọn sinh ra trong chủng tộc Do Thái để thực hiện sứ mệnh đó. Chỉ có Ông mới có điều kiện làm việc đó vì Ông vừa thuộc về chủng tộc Do Thài, đồng thời lại không thuộc về họ. Trong các đệ tử của Đức DK có nhiều người Do Thái như RSU (Regina Keller)… nhưng những người đó không thoát khỏi tư tưởng cổ xưa của chủng tộc Do Thái nên không thể nhận vị trí của FCD được. Lịch sử bí truyền của người Do Thái cho ta một cái nhìn huyền bí về nguồn gốc của họ, giúp giải mã nhiều vấn đề hiện nay. Bài được biên dịch từ Esoteric Psychology quyển I
Quyết định của Tổng Thống Trump công nhận Jeresalem của người Do Thái có thể là một quyết định ‘sai lầm’ từ quan điểm huyền môn. Chúng tôi dịch bài viết đặc biệt này nhằm cung cấp các bạn thêm tư liệu về chủng tộc Do Thái và bài học Nhân Quả của họ.
****************
VẤN ĐỀ DO THÁI
Liên quan đến các quốc gia và các Cung, tôi muốn chỉ ra cho bạn thấy những điều kiện cơ bản nhất định giải thích phần nào cho vấn đề được gọi là vấn đề Do Thái, một vấn đề đã tồn tại từ hàng thế kỷ, và hiện nay có thể là mối quan tâm sâu sắc nhất của nhiều người, bao gồm cả các thành viên của Thánh đoàn. Nếu vấn đề này được giải quyết, nó sẽ là một trong những yếu tố mạnh mẽ giúp vào việc khôi phục sự hiểu biết và hòa hợp trên thế gian. Nó không thể được giải quyết nếu không có sự hợp tác của những người có thiện chí trên khắp thế giới. Có rất ít điều mà tôi có thể nói về vấn đề này có thể được kiểm tra và chứng minh, vì đầu mối cho vấn đề này sẽ được tìm thấy trong bóng đêm của thời gian, theo đúng nghĩa đen, khi mặt trời ở chòm sao Gemini. Vào thời điểm đó, hai trụ cột được thiết lập, như tất cả những người Tam Điểm đều biết, là hai cột mốc nổi bật của Hội Tam Điểm. Do đó, người Do Thái nhuộm màu tất cả các công việc Tam Điểm, mặc dù nó không phải là Do Thái theo nghĩa mà từ này ngày nay truyền tải. Nếu những sự kiện có tầm quan trọng cổ xưa như vậy, vậy ai nói rằng tôi chính xác, hoặc xác định được bản chất của các kết luận của tôi đúng hay sai? Nhưng tôi chỉ trình bày sự thật như tôi biết từ việc truy cập của tôi vào những hồ sơ cổ hơn bất kỳ hồ sơ nào mà con người biết đến.
Cung phàm ngã, Cung hình thể vật chất của người Do Thái, là Cung 3. Cung Chân ngã của họ là Cung 1. Dấu hiệu chiêm tinh của họ là Ma Kết, và Cung Mọc là Xử Nữ. Sao Thủy và Xử Nữ đóng vai trò quan trọng trong vận mệnh của họ. Những gợi ý này đủ để cung cấp cho các học sinh tiên tiến và các nhà chiêm tinh những điểm nổi bật giúp họ soi sáng lịch sử kỳ lạ của người Do Thái. Do ảnh hưởng Cung 3 này, bạn thấy khuynh hướng của người Do Thái là vận dụng mãnh lực và năng lượng, và để “giật dây” để mang lại những mục tiêu mong muốn. Như một chủng tộc, họ là những nhà lập pháp tự nhiên, và do đó có xu hướng thống trị và cai trị bởi Cung Chân ngã của họ là Cung 1. Do đó, cũng có sự xuất hiện liên tục của con dê trong lịch sử của họ, và giáo huấn của họ về người mẹ đồng trinh, những người sinh ra Đấng Cứu Thế (Messiah).
Trong mỗi nhóm, —dù trên trời hay dưới mặt đất—luôn có bằng chứng cho thấy một số đơn vị trong nhóm có xu hướng nổi dậy, nổi loạn và biểu hiện một số hình thức khác với các nhóm khác trong cùng một nhóm. Khi thái dương hệ của chúng ta xuất hiện, các thánh thư cổ đại có kể lại cho chúng ta bằng ngôn từ ẩn dụ về “cuộc chiến ở trên trời”; “mặt trời và bảy anh em của ngài” không hoạt động với sự thống nhất thực sự; vì vậy (và đây là một gợi ý) Trái đất của chúng ta không phải là một trong bảy hành tinh thiêng liêng. Như chúng ta biết, huyền thoại cổ xưa về nàng Pleiad đi lạc, và có rất nhiều câu chuyện như vậy. Một lần nữa, trong phòng họp của Đấng Tối Cao không phải lúc nào cũng có sự bình an và hiểu biết, mà đôi khi là chiến tranh và sự gián đoạn; điều này được thể hiện rõ ràng trong một số câu chuyện của Cựu Ước. Nói một cách biểu tượng, một số người con của Thượng đế đã rơi khỏi địa vị cao quý của họ, bị dẫn dắt bởi “Lucifer, Con của Buổi Sáng”. Sự sa ngã của các thiên thần này là một sự kiện lớn trong lịch sử hành tinh của chúng ta, nhưng đó chỉ là một hiện tượng thoáng qua và thú vị trong lịch sử của hệ mặt trời, và một sự cố không quan trọng trong công việc của bảy chòm sao, mà hệ mặt trời là một trong đó. Bạn hãy tạm dừng lại và xem xét phát biểu này giây lát, và do đó điều chỉnh nhận thức về giá trị của bạn. Tiêu chuẩn của các sự kiện thay đổi tầm quan trọng tùy theo góc nhìn, và điều gì (từ góc độ của sự mở rộng tâm thức của Trái đất chúng ta) có thể là một yếu tố quan trọng hàng đầu và quyết định, có thể (từ góc độ của vũ trụ) là không quan trọng. Các công việc của một cá nhân đối với y là rất quan trọng, nhưng đối với nhân loại như một toàn thể chỉ là một mối quan tâm nhỏ. Tất cả phụ thuộc vào đơn vị nào giữ vị trí trung tâm trên sân khấu của vở kịch cuộc đời, và xung quanh yếu tố trung tâm đó những diễn biến, tầm thường hoặc quan trọng, tuần tự quay quanh.
Bên trong phạm vi quyền lực và SỰ sống là biểu hiện của giới thứ tư trong tự nhiên, giới nhân loại, cũng đã thấy một sự tương ứng với “sự muốn độc lập” và “phá vỡ” đặc trưng cho nhóm chính. Quay trở lại thời Lemurian về sau này, một nhóm người phát triển cao ở thời điểm đó được xếp vào hàng đệ tử thế gian, đã xung đột với Huyền Giai của Hành tinh, và tách khỏi “luật của các điểm đạo đồ”. Đó là thời điểm mà sự nhấn mạnh của giáo lý về phương diện vật chất của cuộc sống, sự tập trung chú ý vào bản chất vật lý và kiểm soát nó. Thiên Cổ Luận diễn tả những gì đã xảy ra bằng các từ sau đây, và khi bạn đọc các đoạn thơ tiết điệu của văn bản cổ đại đó, sẽ rất khôn ngoan để cố gắng nhận ra rằng các cụm từ đang đề cập đến nhóm đệ tử ban đầu vốn là những người sáng lập của chủng tộc Do Thái hiện tại:
“Luật pháp đã ban ra từ nhóm bên trong để hướng dẫn số phận của con người: Hãy Buông bỏ. Hãy rút lại sức mạnh để cầm giữ, hưởng và thu đạt vào bên trong. Những người Con của Thượng đế, tự rèn luyện để từ bỏ thế giới loài người và đi vào ánh sáng, họ luôn đi trong tự do. Họ không giữ lại những gì họ có. Hãy tự giải phóng mình và đi qua những cánh cửa của bình an.
“Một số người con của Thượng đế chờ đợi bên ngoài những cánh cửa đó, sẵn sàng bước vào khi Linh Từ truyền ra, xoay cánh cửa sang một bên, chất nặng với kho báu của trái đất. Họ mang những quà tặng của họ để dâng hiến cho Đấng Chúa Tể của sự sống, Đấng vốn không cần quà tặng của họ. Họ tìm cách vượt qua những cổng này, không phải với mục đích ích kỷ, mà là để dâng những kho báu của thế gian, và vì thế họ bày tỏ tình thương của họ.
“Một lần nữa Lời nói được phán ra: Hãy để tất cả lại phía sau và vượt qua cánh cổng, không mang thứ gì của trần gian. Họ chờ đợi và thảo luận. Những người còn lại của nhóm người chuẩn bị bước vào ánh sáng và đi qua giữa các trụ của cổng; họ bỏ lại phía sau gánh nặng họ mang theo, bước vào tự do, và đã được chấp nhận, không mang gì cả.
“Bởi vì họ đã du hành như một nhóm, và với tư cách một nhóm, họ đã tiến bộ và nắm bắt được nhiều điều, nhóm đó đã đáp ứng mệnh lệnh thiêng liêng và dừng lại. Tại đó, họ chờ đợi, đứng trước cửa ngõ của Thánh đạo, nắm giữ những kho báu đã tích lũy qua hàng nghìn chu kỳ. Họ không muốn bỏ lại bất cứ điều gì. Họ đã lao động vất vả để có được những của cải mà họ đang nắm giữ. Họ yêu kính Thượng Đế của mình, và họ mong muốn dâng lên Ngài toàn bộ sự giàu có mà họ đã đạt được. Họ không yêu thích kỷ luật.”
“Một lần nữa Lời nói được phán ra: Hãy bỏ xuống mặt đất tất cả những gì ngươi giữ, và đi vào tự do.
“Nhưng có ba người nổi dậy chống lại mệnh lệnh nghiêm khắc. Những người còn lại tuân lệnh. Họ đi qua các cánh cửa, để ba người lại bên ngoài. Nhiều người đã được nâng lên các đỉnh cao của phúc lạc. Ba người vẫn ở bên ngoài cánh cổng, cầm giữ chặt kho báu của họ.”
Trong văn bản cổ xưa này, cổ hơn bất kỳ văn bản viết nào trên thế giới, sẽ tìm thấy bí mật của câu chuyện Tam điểm và về sự giết hại vị Sư Phụ bởi cả ba người gần gũi nhất với Ngài, trong cái chết và sự chôn cất Ngài. Tất cả những người Tam Điểm sẽ nhận ra ba người mà tôi nói đến ở đây. Ba người này là những người sáng lập chủng tộc Do Thái hiện đại. Họ là ba đệ tử cao cấp, những người đã chống lại lệnh đi vào, tự do và không vướng víu, nơi ánh sáng được tìm thấy. Họ tìm cách giữ lấy những gì họ đã thu thập và để dành cho việc phục vụ Thiên Chúa. Động cơ không được nhận ra của họ là sự yêu mến giàu có và lòng ham muốn giữ những lợi lộc của họ được an toàn. Truyền thống cổ xưa, như các bậc Huấn Sư thời quá khứ giảng dạy, cho chúng ta biết rằng …
“Họ quay mặt về phía các cánh cổng của trái đất. Các bạn bè của họ tiếp tục bước đi ….. Họ ở lại ….. Các Chân sư họp nhau trong nội điện và quyết định số phận của những người đã đến Cánh Cổng của Ánh sáng, nhưng lại yêu quí của cải thế gian nhiều hơn là họ yêu thương việc phụng sự ánh sáng. Một lần nữa Lời Nói ban ra đến ba người nổi loạn, những người vẫn chờ đợi bên ngoài các cánh cổng:
“‘Hãy giữ những gì ngươi có và thu thập nhiều hơn, nhưng người sẽ không biết được bình an. Hãy thu hoạch những thành quả của trí tuệ, và tìm kiếm sức mạnh của người trong cũa cải rộng lớn, nhưng không có nơi ở nhất định.
“Vì các ngươi là môn đồ của Chúa, bên trong các ngươi sẽ không có sự bình an, không có sự hiểu biết chắc chắn nào về sự thành công, cũng chẳng có sức mạnh để giữ vững lợi ích của mình.
“Sẽ luôn có sự hiểu biết mờ nhạt về Đấng luôn trông chừng tất cả. Luôn có sự thôi thúc để gom góp và tập trung. Không bao giờ có thời gian để giữ và hưởng thụ. Vì vậy, hãy tiếp tục cho đến lúc ngươi đứng trước Cánh Cổng của Ánh sáng lần nữa, lần này với bàn tay trống rỗng. Và khi đó bước vào tự do, được những người Phục Vụ của Chúa chấp nhận, và biết sự bình an mãi mãi.”
Truyền thuyết xưa cho chúng ta biết rằng ba người đã đi ra trong sự buồn khổ và nổi loạn, mang theo đầy kho báu của họ, và do đó lịch sử của người Do thái lang thang bắt đầu. Điều đáng lưu ý là một trong những người con vĩ đại nhất của Thượng đế đã làm việc trên mặt đất, đã tóm lược lại trong chính mình con đường và sự thành tựu, là đức Jesus của xứ Nazareth, một người Do thái. Ngài đã đảo ngược tất cả các điều kiện trước đó. Ngài không sở hữu gì cả. Ngài là người đầu tiên của nhân loại của chúng ta thành tựu, và là hậu duệ trực tiếp của người cao niên nhất trong ba đệ tử ban đầu nổi dậy chống lại trong vở kịch của sự buông bỏ. Người Do Thái thể hiện trong chính mình người con hoang đàng của thế gian. Y là biểu tượng của người đệ tử chưa học được bài học về một giá trị đích thực. Y đã là nạn nhân của Định Luật của Ánh sáng và không có khả năng tuân thủ Định Luật đó. Y đã phạm tội một cách cố ý và với đôi mắt mở rộng chờ đón kết quả. Do đó, y biết định luật mà không một chủng tộc nào khác biết được vì y mãi mãi là nạn nhân của nó. Y đã đề ra pháp luật từ góc độ tiêu cực của nó; Luật của Môi-se ngày nay thống trị phần lớn thế giới, thế nhưng không mang lại công bằng và luật pháp thực sự vào cuộc sống.
Nhóm đệ tử còn lại, những người đại diện (trong thời đại của họ) cho giống dân, đã bước qua những cửa ngõ cổ xưa của điểm đạo và thực hiện bước tiến lớn đầu tiên. Họ trở lại với một ký ức tiềm ẩn và mơ hồ về sự kiện đã tách họ khỏi ba đồng đệ tử của mình. Khi trở lại đời sống trên trần thế, họ đã nói về sự kiện này. Đây chính là sai lầm của họ; từ đó, sự đối kháng kéo dài bắt đầu và vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Những đệ tử đặc biệt đó đã tự mình trải qua cuộc hành hương dài của họ và đã bước vào sự an bình vĩnh cửu, nhưng hậu quả của sự phản bội ban đầu của họ đối với những sự kiện ẩn giấu của điểm đạo vẫn còn tồn tại.
Thật kỳ lạ, chủng tộc cổ xưa này được thành lập bởi ba người đệ tử yêu quí những gì mà họ phải cung cấp nhiều hơn cái mà họ mong muốn chiếm giữ, là những người khởi xướng của truyền thống Tam Điểm (Masonic). Lịch sử của họ (và ngẫu nhiên là lịch sử nhân loại) được thể hiện trong nghi thức kịch tính đó. Phần thưởng cho sự chân thành của họ, vì họ đã nổi loạn trong sự thành thật hoàn toàn, tin rằng họ biết tốt nhất—là sự cho phép ban hành mỗi năm, vào dịp trở lại của ngày mà họ có thể bước vào ánh sáng, câu chuyện về việc tìm kiếm ánh sáng. Bởi vì họ đã gần như phục sinh từ cái chết của trần gian vào đời sống của ánh sáng, truyền thống vĩ đại của các huyền nhiệm được họ bắt đầu. Họ đã chọn cái chết và giết cái mà “đã sống và có thể đã tuyên bố phần thưởng”, và có thể đã nói lên quyền lực từ, vốn có thể làm cho những cánh cửa phục sinh mở rộng.
Chúng ta được cho biết rằng ba người này thề nguyền sẽ mãi đứng cùng nhau và không bao giờ từ bỏ nhau. Họ đã giữ lời thề này theo thời gian; do đó nó đã tạo ra sự chia rẻ chủng tộc, và cộng đồng lợi ích gây ra sự thù nghịch của các chủng tộc khác.
Theo thời gian, người Do Thái đã lang thang, tạo ra nhiều vẻ đẹp trên thế gian, và cho nhân loại nhiều con người vĩ đại nhất của mình, nhưng đồng thời bị ghét bỏ và bách hại, bị phản bội và săn đuổi. Nói một cách biểu tượng, họ biểu hiện trong chính mình lịch sử của nhân loại. Xu hướng cổ xưa của người Do Thái để nắm bắt và cầm giữ, và cũng để bảo vệ tính toàn vẹn chủng tộc và quốc gia của họ, là đặc điểm nổi bật của họ. Họ không thể bị hấp thụ, thế nhưng chủng tộc đó thật cổ xưa đến mức ngày nay không có một quốc gia nào trên thế giới mà không có nguồn gốc từ nhóm đó—ở thời Lemuria cổ—đã tiến hóa đến mức tất cả những người hàng đầu của nhóm đều ở trên Con Đường Đệ tử. Không có chủng tộc nào trong thế giới phương Tây mà không phải là hậu duệ của những người được lựa chọn lâu đời nhất này, ngoại trừ những người Phần Lan (Finns), Lapps và những quốc gia có thể biểu hiện chủng tộc Mông Cổ nhất định. Nhưng hỗn hợp của cái được gọi là dòng máu Do thái không ở cùng mức độ, và người Do Thái hiện đại là một sản phẩm phụ, giống như chủng tộc Anglo-Saxon, chỉ do khuynh hướng chọn lọc và phân biệt chủng tộc, họ đã bảo quản còn nguyên vẹn các đặc tính ban đầu nhiều hơn.
Chính sự nhận thức được nguồn gốc chung này đã khiến người Anh-Israel trở thành sự bắt chước chân lý, và khiến họ truy ngược lịch sử phương Tây hiện đại của chúng ta đến người Do thái Phân tán. Đó là một mối quan hệ cổ xưa hơn, và trở lại thời kỳ có trước lịch sử của người Do Thái như được ghi lại cho chúng ta trong Cựu Ước. Ba người đệ tử ban đầu và các nhóm gia đình của họ là tổ tiên của ba nhóm chủng tộc lớn, có thể khái quát như sau:
- Chủng tộc Semit hay các chủng tộc của Kinh Thánh và của thời hiện đại; người Ả Rập, người Afghanistan, người Moor (Ma rốc), những nhánh và chi nhánh của những người này, kể cả những người Ai Cập hiện đại. Tất cả đều là hậu duệ từ người cao niên nhất trong ba người đệ tử.
- Các dân tộc Latin và các chi nhánh khác nhau của họ trên khắp thế giới, và cả các chủng tộc Celtic ở bất kỳ nơi nào. Đây là hậu duệ của vị đệ tử thứ hai trong ba người đệ tử.
- Người Teuton, Scandinavian, và Anglo-Saxons, những người là con cháu của người thứ ba trong ba đệ tử.
Trên đây là một khái quát hoá rộng. Thời gian bao trùm quá lớn, và sự phân nhánh quá nhiều, tôi không thể làm gì hơn là đưa ra một ý tưởng chung. Dần dần các hậu duệ của hai trong số ba đệ tử này đã chấp nhận các truyền thuyết được ban hành trong thời Atlantean, và đã đứng về phía những người đối kháng với người Do Thái, như y hiện nay; họ đã mất tất cả ý thức về nguồn gốc chung của họ. Hiện nay, không có chủng tộc thuần túy trên thế giới, vì sự kết hôn liên chủng tộc, mối quan hệ bất hợp pháp và chung chạ trong vài triệu năm qua đã nhiều đến mức không còn chủng tộc thuần khiết. Khí hậu và môi trường là các yếu tố cơ bản quyết định lớn hơn bất kỳ sự phân tách cưỡng bức nào, ngoại trừ những vấn đề liên quan đến hôn nhân liên chủng tộc thường xuyên. Trong yếu tố cuối cùng này, chỉ có người Hê-bơ-rơ ngày nay đã bảo tồn một mức độ nào đó về tính toàn vẹn chủng tộc.
Khi nhân loại thức tỉnh với thực tế về nguồn gốc chung của họ, và khi ba chủng tộc lớn trong nền văn minh hiện đại của chúng ta được nhìn nhận, thì chúng ta sẽ thấy mối thù hận người Do thái cũ sẽ mất đi, và họ sẽ hoà trộn với phần còn lại của nhân loại. Ngay cả những chủng tộc phương Đông, những người còn sót lại của nền văn minh Atlantean vĩ đại, đã có trong họ dấu vết của việc kết hôn với tổ tiên của người Do Thái hiện đại và các loại chủng tộc khác, nhưng họ đã không pha trộn tốt, và do đó giữ đặc tính của họ thành công hơn các nhóm người phương Tây của chúng ta.
Nếu bạn suy ngẫm những điều trên, và nếu bạn nghiên cứu về truyền thống Tam Điểm cẩn thận, nhiều điều sẽ trở nên rõ ràng trong trí của bạn. Các nhà nghiên cứu dân tộc học có thể không đồng ý, nhưng họ không thể bác bỏ những gì tôi đã nói, vì nguồn gốc của tình trạng chủng tộc thế giới hiện nay nằm quá xa trong lịch sử loài người mà họ thậm chí không thể chứng minh được sự tranh cãi của chính họ. Tất cả những gì họ có thể xem xét là lịch sử của một trăm nghìn năm qua, và công việc của họ nằm ở hiệu ứng của quá khứ chứ không phải với các nguyên nhân có nguồn gốc.
DÂN TỘC DO THÁI – P.2
Bài được trích từ The Externalisation of the Hierarchy, đề cập đến lịch sử của chủng tộc Do Thái truy nguyên đến Thái dương hệ thứ nhất. Các bạn có thể đọc bài này cùng với phần 1 và bài Dân Tộc Do Thái và Bài học Nhân Quả.
*****************
Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét vấn đề Người Do Thái trong chốc lát. Hãy nhớ rằng đó là một sự kiện đáng chú ý khi người Do Thái có mặt ở mọi vùng đất không trừ nơi nào cả, rằng ảnh hưởng của họ rất mạnh và lan rộng (nhiều hơn là chính họ sẵn sàng công nhận), và rằng họ nắm giữ tiềm năng phong phú về năng lượng được cụ thể hoá một cách đặc biệt mà chúng ta gọi là tiền bạc. Bằng một cách thức lạ kỳ, họ tạo ra một trung tâm năng lượng tách biệt và độc đáo trên thế giới. Lý do của việc này là họ tiêu biểu cho năng lượng và sự sống của Thái Dương Hệ trước. Bạn thường được dạy rằng, vào lúc kết thúc thái dương hệ này, trong gia đình nhân loại có một tỷ lệ phần trăm nào đó sẽ không đủ trình độ giải thoát và bấy giờ sẽ bị giữ lại trong chu kỳ qui nguyên hay là ở vào trạng thái dung giải (solution), cho đến lúc cuộc biểu lộ của Thái Dương Hệ thứ ba kế tiếp lại đến. Bấy giờ họ sẽ họp thành đội ngữ tiến hoá và tượng trưng cho nhân loại mai sau của Thái Dương Hệ đó.
Cùng một sự việc như thế đã xảy ra trong Thái Dương Hệ trước Thái Dương Hệ này, và những người mà bây giờ chúng ta gọi là người Do Thái (một danh xưng và cách phân biệt hoàn toàn hiện đại, như tôi đã cố gắng nêu ra trong một vài trang chót của Luận Về Bảy Cung, quyển I, Tâm Lý Học Nội Môn), là các con cháu của nhóm người trước kia đã bị kẹt lại trong kỳ qui nguyên giữa Thái Dương Hệ thứ nhất và thứ hai. Nếu bạn nhớ lại rằng cung ba chi phối Thái Dương Hệ trước và cũng chi phối giống dân Do Thái, nếu [77] bạn ghi nhớ rằng Thái Dương Hệ đó chỉ bận tâm đến các trạng thái thiêng liêng của vật chất và bận tâm đến các tình trạng bên ngoài, và rằng dân Do Thái (the Jews) là sản phẩm cao nhất của Thái Dương Hệ đó, thì bạn có thể đi đến chỗ hiểu được về dân Do Thái, tính cách ly của giống dân này, ước muốn có được sự thuần khiết về chủng tộc của họ và sự chú tâm của giống dân này vào những gì có liên quan đến thương mại và có tính cách thiết thực. Qua bao thời đại, dân Do Thái cứ khăng khăng tách ra khỏi tất cả các chủng tộc khác, chỉ vì dân tộc này đã mang theo từ Thái Dương Hệ trước cái tri thức (lúc đó là cần thiết, nhưng giờ đã lỗi thời) rằng chủng tộc Do Thái là “dân tộc được tuyển chọn”. Dân “Do Thái Lang Thang” (the “Wandering Jew”) đã đi một cách vô định từ Thái Dương Hệ thứ nhất đến Thái Dương Hệ này, nơi đây người Do Thái phải học bài học hoà nhập, và ngưng việc đi lang thang của mình. Dân Do Thái đã đòi hỏi giữ sự thuần khiết cho chủng tộc mình, vì đó là vấn đề chính của dân tộc này vào đầu thời Lemuria, khi mà giống dân này thừa hưởng một thế giới chưa có con người vì đó là trước khi có sự giáng nhập của các Hoả Tinh Quân; việc đòi hỏi này đã được truyền xuống qua các thời đại và đã chi phối các luật kết hôn, ngoài ra còn có việc lo liệu cho có thức ăn thay vì được bỏ xuống (lẽ ra phải được như vậy) như cách đây hàng ngàn năm.
Chính các sự kiện này (người Do Thái hiện đại không hề biết) đã cản trở dân Do Thái suốt nhiều năm và có thể tạo ra các mãnh lực chia rẽ và hận thù, để dùng giống dân Do Thái khuấy động lên nỗi khó khăn trên thế giới, và như vậy đưa tới cuộc khủng hoảng cho vấn đề chia rẽ cơ bản của nhân loại. Khi nhân loại đã giải quyết được vấn đề Do Thái (với sự hợp tác có hiểu biết của dân Do Thái) và vượt qua được các ác cảm và hận thù xưa cũ, điều đó sẽ tác động như thế bằng cách pha trộn nỗi khó khăn vào một tình hình nhân bản rộng lớn. Khi điều đó xảy ra, vấn đề sẽ được giải quyết nhanh chóng và một trong các nỗi khó khăn chính sẽ biến mất khỏi mặt địa cầu. Sự hoà hợp chủng tộc bấy giờ mới có thể xảy ra. Nhân loại trên địa cầu chúng ta và nhóm người có cội nguồn rất cổ xưa hơn chúng ta, sẽ hợp lại thành nhân loại duy nhất và lúc đó sẽ có được hoà bình trên địa cầu. [78]
Tại sao hành tinh chúng ta và Thái Dương Hệ này lại trở thành chỗ nuôi dưỡng các mầm mống chia rẽ và tại sao phần còn lại này của nhân loại, tiến hoá hơn chúng ta nhiều, lẽ ra được định trước để vạch ra tương lai của nhân loại trên địa cầu chúng ta, lại bị ẩn giấu trong sự hiểu biết của Đấng Cai Quản Shamballa, và sự hiểu biết này, không thể đến được với bạn và thực ra với nhiều vị trong Thánh Đoàn nữa. Đó chẳng qua là một sự kiện phải được bạn chấp nhận mà thôi. Cách giải quyết sẽ đến, như tôi đã nói, khi nhân loại xem vấn đề Do Thái như là một vấn đề nhân đạo chỉ khi nào dân Do Thái cũng góp phần mình vào sự cảm thông, tình thương và hành động đúng đắn. Nói về mặt chủng tộc, người Do Thái chưa làm được điều này. Họ phải từ bỏ các khuynh hướng chia rẽ của riêng mình và từ bỏ ý thức quấy nhiễu ăn sâu của mình. Về sau, họ sẽ làm được điều này một cách rất dễ dàng, khi nào, với tư cách một chủng tộc, họ hiểu được ý nghĩa và tính tất yếu của Luật Nghiệp Quả, và do việc nghiên cứu kỹ về Kinh Cựu Ước và về hành động và việc làm mà họ xem như là các hành vi và các việc làm (có tính chất xâm lăng, khủng bố và tàn bạo) thuộc về chủng tộc họ, họ nhận ra rằng thiên luật đang diễn tiến và tình cờ đưa họ vào một tương lai to tát hơn. Đồng thời đó phải là nhận thức của người Do Thái và người không Do Thái (Gentile) về trách nhiệm đồng đều đối với nỗi khó khăn hiện nay trên thế giới.
Do đó, hai mãnh lực mà tôi đã đề cập đến phải được mọi đệ tử xem xét khi họ tìm cách phụng sự trong chu kỳ có tính cách quyết định này, hai mãnh lực này cũng phải được bạn cân nhắc kỹ khi bạn bắt đầu công việc của nhóm mới này, nếu không chủ nghĩa lý tưởng và các ý tưởng sai lầm của bạn có thể làm cản trở công việc của nhóm. Về mặt lý thuyết bạn phải nhận biết được năm mãnh lực (ba chính yếu và hai thứ yếu) đang đáp ứng và va chạm trong gia đình nhân loại vào lúc này. Theo tôi bạn cần chú ý đến các sự kiện này. Nếu các đệ tử phải làm công tác tập thể chung với nhau trên các phân cảnh của cõi trí thì họ phải tẩy sạch thể trí của mình cho hết các thành kiến, hết oán thù và bất cứ khuynh hướng nào đưa đến sự tự tôn và chỉ trích. Với tư cách một nhóm bạn không thể làm việc được, nếu còn nuôi các ý tưởng này, và hiện giờ tôi đang chuẩn bị để giảng dạy cho bạn một số giai đoạn đầu tiên về công việc và sự hữu ích của nhóm. Theo tôi không cần bàn đến các vấn đề thế giới này nếu bạn không bị ảnh hưởng bởi các phản ứng tình cảm đối với chúng, nhưng rất ít người trong các bạn có được thể trí không còn vướng bận thành kiến và oán thù. Một số ít có thể làm được việc đó và số còn lại trong các bạn cũng có thể tách trí bạn khỏi ảnh hưởng không đúng và các ý tưởng sai lầm. [EOH 77]