Bản pdf, download ở đây
NHỮNG BÍ ẨN VỀ ĐỨC PHẬT
Trong GIÁO LÝ BÍ NHIỆM III, Bà Blavatsky dành khoảng 11 chương nói về những bí ẩn xung quanh Đức Phật, Bà gọi là “Mysteries of the Buddha”, và Bà cẩn thận chú thích thêm những dòng sau đây:
Việc để cho người viết tùy chọn và chịu trách nhiệm kể lại các sự kiện theo như cá nhân Bà ấy hiểu, thì trách nhiệm cho những quan niệm sai lầm có thể xảy ra chỉ thuộc về Bà ấy. Bà đã được dạy giáo lý, nhưng việc xâu chuỗi các sự kiện bí ẩn và khó hiểu lại với nhau được giao cho trực giác duy nhất của Bà—cũng như bây giờ được giao cho sự sáng suốt của người đọc.
Sau khi Bà mất, những bài viết này được Bà Annie Besant tập hợp lại và xuất bản trong quyển III của bộ Giáo Lý Bí Nhiệm. Lịch sử của quyển III Giáo Lý Bí Nhiệm cũng lắm truân chuyên, nhiều người Thông Thiên Học có thành kiến với Bà Annie Besant đã bác bỏ nó, cho rằng nó là giả mạo, không đáng tin cậy. Chỉ sau này, gần đây, người ta mới phát hiện những chứng cứ rằng nó đúng là do Bà Blavatsky viết, người ta mới thôi bác bỏ quyển sách.
Về các chương nói về Đức Phật, Bà Annie Besant ghi chú thêm:
Việc chuẩn bị tập sách này để xuất bản là một nhiệm vụ khó khăn và đầy lo âu, và cần phải nói rõ những gì đã được thực hiện. Những bản thảo mà H.P.B. trao cho tôi hoàn toàn chưa được sắp xếp và không có trật tự rõ ràng: do đó, tôi đã lấy mỗi bản thảo làm một Phần riêng biệt, và sắp xếp chúng theo trình tự liền mạch nhất có thể. Ngoại trừ việc sửa lỗi ngữ pháp và loại bỏ những cách diễn đạt rõ ràng không theo kiểu tiếng Anh, các bản thảo được giữ nguyên như H.P.B. để lại, trừ khi có đánh dấu khác. Trong một vài trường hợp, tôi đã bổ sung vào những chỗ khuyết, nhưng bất kỳ phần bổ sung nào cũng được đặt trong dấu ngoặc vuông, để phân biệt với nguyên văn.
Trong “Bí Nhiệm về Đức Phật”, một khó khăn khác đã phát sinh; một số Phần đã được viết lại bốn hoặc năm lần, mỗi phiên bản có chứa những câu không có trong các bản khác; tôi đã chắp nối các phiên bản này lại với nhau, lấy bản đầy đủ nhất làm nền tảng, và chèn vào đó mọi chi tiết được thêm trong các bản khác. Tuy nhiên, tôi đã khá do dự khi đưa các Phần này vào Giáo Lý Bí Nhiệm. Cùng với một số tư tưởng rất gợi mở, chúng chứa vô số sai sót về mặt thực tế, và nhiều tuyên bố dựa trên các văn bản ngoại môn, chứ không phải từ minh triết nội môn. Chúng đã được trao vào tay tôi để xuất bản, như một phần của Tập Ba của Giáo Lý Bí Nhiệm, và vì thế tôi không cảm thấy có quyền xen vào giữa tác giả và công chúng, dù là bằng cách sửa đổi các phát biểu để chúng nhất quán với sự thật, hay bằng cách loại bỏ các Phần này. Bà nói rằng bà hoàn toàn hành động dựa trên thẩm quyền của chính mình, và điều này sẽ hiển nhiên với bất kỳ độc giả nào được đào luyện rằng bà đã — có thể là cố ý — đưa ra nhiều phát biểu rất rối rắm đến mức chỉ là những lớp che dấu, và những phát biểu khác — có lẽ là vô tình — chỉ là những hiểu lầm ngoại môn về các chân lý nội môn. Ở đây cũng như ở mọi nơi khác, độc giả phải dùng đến sự phán đoán của chính mình, nhưng cảm thấy có trách nhiệm phải công bố các Phần này, tôi không thể để chúng đến với công chúng mà không có lời cảnh báo rằng có nhiều điểm trong đó chắc chắn là sai lầm.
Những tác giả Thông Thiên Học sau này dường như không ai nhắc đến những “Bí Ẩn của Đức Phật” mà Bà Blavatsky nêu ra, vì thật sự nó khó hiểu và “rối rắm”, có lẽ là dụng ý của người viết. Sau này, khi Chân sư DK giải thích thêm về “The Mysteries of the Buddha” (mà Ngài cũng gọi là The Mystery of the Bodhisattva), bức màn bí ẩn hé lộ phần nào. Nhưng như mọi khi, Ngài không viết tập trung vào chủ đề, mà chỉ nhắc đến rải rác đó đây trong các quyển sách Ngài một vài câu, mà khi ghép lại, giúp soi sáng phần nào bí ẩn đó.
Nhân dịp Lễ Wesak 2025, những Phật Tử và những người học đạo theo giáo lý của Chân sư DK lại thực hiện nghi Lễ Tưởng Niệm Đấng Cao Cả, chúng ta hãy cũng xem qua những gì mà Bà Blavatsky và Chân sư đã dạy về “The Mysteries of the Buddha”.
Trước tiên, Bà Blavatsky nói Bà được cung cấp dữ kiện, có lẽ các văn bản trong Hồ Sơ Nội môn của Thánh đoàn về cuộc đời Đức Phật, nhưng việc “xâu chuỗi các sự kiện” là hoàn toàn của Bà, do đó nếu có sai sót, đó là lỗi của bà. Bà viết thế nhưng Chân sư DK xác nhận những gì Bà viết là chính xác:
Bí Ẩn của các Bồ Tát (S. D., I. 82, 83.) đã được Bà H. P. B. đề cập đến, và cho đến khi các học viên tiếp thu và nghiên cứu những điều bà đã nói, thì không có gì thêm cần được bổ sung. Việc lĩnh hội chân lý luôn là yếu tố kêu gọi một sự mặc khải mới. CF753.
Vấn đề đầu tiên mà nhiều người học Phật, nhất là những người thuộc Phật Giáo Nam Tông hay nguyên thuỷ, thắc mắc là “có linh hồn hay không?” Đối với một số người con người là tập hợp của “ngũ uẩn”, khi chết ngũ uẩn tan rả, hoà vào đại dương chứa đựng nó. Nhưng những Phật tử vẫn tin vào “luân hồi”, “tái sinh” bằng chứng là câu chuyện Mục Kiều Liên và các tiền kiếp của Đức Phật. Về điều này, Bà Blavatsky nói như sau:
Trong khi xây dựng Triết Học Bí Truyền của mình (“Nhãn Pháp”) trên nền tảng của Chân Lý vĩnh cửu, Ngài đã không che giấu một vài tín điều nhất định, và vượt qua những ranh giới hợp pháp, đã khiến những tín điều đó bị hiểu lầm. Trong sự lo lắng của mình để loại bỏ những vị Thần giả mạo, Ngài đã tiết lộ trong “Bảy Con Đường đến Niết Bàn” một vài bí ẩn của Bảy Ánh Sáng của Thế Giới Arupa (vô hình tướng). Một chút sự thật thường tệ hơn là không có chút sự thật nào.
Trong đoạn trên, Bà Blavatsky nói rằng Đức Phật vì thương chúng sinh, đã tiết lộ quá giới hạn những gì được cho phép vào thời đó, và chân lý được tiết lộ nửa vời đã dẫn đến những hiểu lầm sau này. Cũng trong đoạn trên, Bà Blavatsky gọi Triết Học Bí Truyền (hay Giáo Lý Nội Môn, “Mật Giáo”) là “Nhãn Pháp” (Doctrine of the Eye), và có lẽ đó là một sự nhầm lẫn, như Bà Annie Besant nhận xét. Sau này, Chân sư DK đính chính lại như sau:
Đó là lý do tại sao tâm pháp bắt đầu thay thế nhãn pháp. [Trang 458] Tâm pháp chi phối sự phát triển huyền môn; nhãn pháp — tức là pháp của con mắt của tầm nhìn — chi phối trải nghiệm mang tính thần bí; tâm pháp được đặt nền tảng trên bản chất phổ quát của linh hồn, được điều kiện hoá bởi Chân Thần, bởi Đấng Duy Nhất, và liên quan đến thực tại; nhãn pháp được đặt nền tảng trên mối liên hệ nhị nguyên giữa linh hồn và phàm ngã. Nó liên quan đến các mối quan hệ tinh thần, nhưng thái độ nhị nguyên hay sự nhận biết các cặp đối nghịch là điều hàm ẩn trong đó. Đây là những điểm quan trọng cần ghi nhớ khi môn khoa học mới này ngày càng được biết đến rộng rãi. RI458
Phật Giáo, như bất kỳ tôn giáo chân chính nào khác, đều có giáo lý nội môn dành cho nhưng người được chọn, và giáo lý ngoại môn dành cho đám đông, nhưng không phải ai cũng công nhận điều này. Phật Giáo Nam Tông cho rằng chỉ kinh điển của họ là đúng lời Phật dạy, còn những kinh điển khác là “hư cấu”, “sáng tạo về sau”. Nhưng những người theo Phật Giáo Bắc Tông cũng có thể nói điều ngược lại với Phái Nam Tông, giáo lý của họ là “Đại Thừa”, Cổ Xe lớn, có thể độ nhiều người, trong khi Nam Tông là “Tiểu Thừa”, cổ xe nhỏ, chỉ có thể một số ít người, nhưng liệu ai chắc rằng hàng ngàn kinh điển đó chính xác là lời Đức Phật và được hiểu đúng?
Bà Blavatsky nói về điều này như sau:
Có một truyền thống truyền miệng giữa các Phật tử Trung Hoa, và một tuyên bố bằng văn bản trong các cuốn sách bí mật của các Lạt ma Tây Tạng, cũng như một truyền thống giữa các người Arya, rằng Đức Phật Gautama có hai giáo lý: một cho quần chúng và các đệ tử tại gia của Ngài, và một cho những người “được chọn” của Ngài, các A La Hán. Chính sách của Ngài, và sau Ngài là chính sách của các A La Hán của Ngài, dường như là không từ chối bất kỳ ai gia nhập hàng ngũ những người ứng cử cho A La Hán, nhưng không bao giờ tiết lộ những bí ẩn cuối cùng ngoại trừ cho những người đã chứng tỏ bản thân xứng đáng được Điểm đạo trong suốt những năm dài thử thách.
Giáo lý mới của Ngài, đại diện cho cái xác chết bên ngoài của Giáo Lý Bí Truyền mà không có Linh Hồn sinh động của nó, đã gây ra những hậu quả tai hại: nó không bao giờ được hiểu đúng, và chính giáo lý đó đã bị các Phật tử miền Nam bác bỏ.
Vậy thì, Bí Ẩn về Đức Phật là gì? Bà nói như sau:
Một câu chuyện kỳ lạ—đúng hơn là một truyền thuyết—vẫn được lưu truyền dai dẳng giữa các đệ tử của một vài vị Đại đạo sư Hy Mã Lạp Sơn, và ngay cả giữa những người tại gia, rằng Đức Phật Gautama, Thái tử của Thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), chưa bao giờ rời khỏi các vùng đất trần thế, mặc dù thân xác của Ngài đã chết và bị thiêu, và xá lợi của Ngài vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay. SDIII
Như vậy, hơn năm mươi năm sau khi qua đời, “Vị Đại Huấn Sư” đã từ chối Dharmakaya (Pháp Thân) và Niết Bàn trọn vẹn, đã bằng lòng, vì mục đích của Nghiệp quả và lòng vị tha, được tái sinh. Đối với Ngài, cái chết không phải là cái chết, mà như được thể hiện trong “Thuốc Trường Sinh”… SDIII
Giống như nhiều Chân Sư khác, Ngài đã rũ bỏ cái xác phàm trần và để nó bị thiêu, và tro tàn của nó được dùng làm xá lợi, và bắt đầu cuộc sống giữa các hành tinh, khoác lên mình thân xác vi tế của mình. Ngài được tái sinh thành Shankara, Huấn sư Vedanta vĩ đại nhất của Ấn Độ, người mà triết học—dựa trên toàn bộ các tiên đề cơ bản của Mặc Khải vĩnh cửu, Shruti, hoặc Tôn Giáo Minh Triết nguyên thủy…
Vậy thì, Shankaracharya có phải là Đức Phật Gautama, dưới một hình thức cá nhân mới? Có lẽ nó chỉ làm độc giả bối rối hơn nếu y được biết rằng có Gautama “cảm dục” bên trong Shankara bên ngoài, tuy nhiên nguyên lý cao hơn của Shankara đó, hoặc Atman,là nguyên mẫu thiêng liêng của chính Ngài—thực sự là “Con của Ánh Sáng”—con sinh ra từ trí tuệ trên trời của Aditi (“there was the “astral” Gautama inside the outward Shankara, whose higher principle, or Âtman, was, nevertheless, his own divine prototype—the “Son of Light,” indeed—the heavenly, mind-born son of Aditi”.
Đúng là những câu nói bí hiểm của Bà Blavatsky, chẳng trách những người Thông Thiên Học sau này đều tránh né nhắc đến “Bí Ẩn của Đức Phật”. Tôi trích tiếp đây những giải thích của Bà về bí ẩn này:
Sự thật này một lần nữa dựa trên sự chuyển dịch bí ẩn đó của cựu phàm ngã thiêng liêng, hợp nhất trong Tính Cách vô ngã—bây giờ trong hình thức tam phân đầy đủ của Chân Thần như Atma-Bồ đề-Trí tuệ—sang một thân xác mới, dù hữu hình hay chủ quan. Trong trường hợp thứ nhất, đó là một Manushya-Buddha [human Buddha—Vị Phật thế gian]; trong trường hợp thứ hai, đó là một Nirmanakaya [Ứng Thân]. Người ta nói rằng Đức Phật ở trong Niết Bàn, mặc dù phương tiện phàm trần—thân xác vi tế—của Gautama này vẫn hiện diện giữa các Chân Sư; nó cũng sẽ không rời khỏi vương quốc của Bản Thể có ý thức chừng nào nhân loại đau khổ còn cần sự giúp đỡ thiêng liêng của nó—ít nhất là không phải cho đến khi kết thúc Giống Dân Gốc này. Thỉnh thoảng, Ngài, Gautama “cảm dục”, kết hợp Chính Mình, theo một cách bí ẩn nhất—đối với chúng ta hoàn toàn khó hiểu—với các Avataras và các vị thánh vĩ đại, và hoạt động thông qua họ. Và một vài người như vậy được nêu tên.
This fact is again based on that mysterious transference of the divine ex-personality merged in the impersonal Individuality—now in its full trinitarian form of the Monad as Âtmâ-Buddhi-Manas—to a new body, whether visible or subjective. In the first case it is a Manushya-Buddha; in the second it is a Nirmânakaya. The Buddha is in Nirvâna, it is said, though this once mortal vehicle—the subtle body—of Gautama is still present among the Initiates; nor will it leave the realm of conscious Being so long as suffering mankind needs its divine help—not to the end of this Root Race, at any rate. From time to time He, the “astral” Gautama, associates Himself, in some most mysterious—to us quite incomprehensible—manner, with Avatâras and great saints, and works through them. And several such are named.
Sự giải thích của Bà, đối với chúng ta, cho đến giờ có lẽ vẫn còn bí hiểm. Bà thêm rằng Đức Phật Gautama “astral” [từ astral ở đây không hiểu theo nghĩa thông thường là thể cảm dục, mà là các thể tinh anh] đã tái sinh nhiều lần, thông qua sự kết hợp với các Đấng Avatara [Hoá Thân] và các vị Thánh như Shankaracharya:
Người ta nói rằng một vài thế kỷ sau đó [sau Shankaracharya], Đức Phật đã thử một lần hóa thân nữa, trong * * *, và một lần nữa, năm mươi năm sau khi Vị Đại Sư này qua đời, trong một người có tên là Tiani-Tsang [Đây là một tên phiên âm, có lẽ là một người Trung hoa]. Không có chi tiết, không có thêm thông tin hoặc giải thích nào được đưa ra. Người ta chỉ đơn giản nói rằng vị Phật cuối cùng phải giải quyết những tàn dư Nghiệp quả của mình, mà không vị Thần nào có thể thoát khỏi, buộc phải chôn vùi sâu hơn nữa những bí ẩn nhất định được Ngài tiết lộ một nửa—do đó bị hiểu sai.
A few centuries later Buddha tried one more incarnation, it is said, in * * *, and again, fifty years subsequent to the death of this Adept, in one whose name is given as Tiani-Tsang. No details, no further information or explanation is given. It is simply stated that the last Buddha had to work out the remains of his Karma, which none of the Gods themselves can escape, forced as he was to bury still deeper certain mysteries half revealed by him—hence misinterpreted.
Và Bà Blavatsky cũng thêm rằng Đức Tsongkhapa ở Tây Tạng cũng là một hoá thân của Đức Phật Gautama theo hình thức trên.
Trước khi đi vào phần giải thích ý nghĩa của những câu nói trên, tôi trích tiếp những câu nói của Bà:
Có một bí ẩn lớn trong những sự hóa thân [incarnations] như vậy và chúng nằm ngoài và vượt ra ngoài chu kỳ tái sinh chung. Sự tái sinh có thể được chia thành ba loại: các hóa thân thiêng liêng được gọi là Avataras; những hóa thân của các Chân Sư từ bỏ Niết Bàn vì lợi ích giúp đỡ nhân loại—các Nirmanakayas; và sự kế thừa tự nhiên của sự tái sinh cho tất cả—quy luật chung. Avatara là một sự xuất hiện, một cái có thể được gọi là một ảo tưởng đặc biệt trong ảo tưởng tự nhiên ngự trị trên các cõi dưới sự chi phối của quyền năng đó, Maya; Chân Sư được tái sinh một cách có ý thức, theo ý muốn và sở thích của Ngài; các đơn vị của đám đông bình thường vô thức tuân theo quy luật vĩ đại của sự tiến hóa kép.
There is a great mystery in such incarnations and they are outside and beyond the cycle of general re-births. Rebirths may be divided into three classes: the divine incarnations called Avatâras; those of Adepts who give up Nirvâna for the sake of helping on humanity—the Nirmânakayas; and the natural succession of rebirths for all—the common law. The Avatâra is an appearance, one which may be termed a special illusion within the natural illusion that reigns on the planes under the sway of that power, Mâyâ; the Adept is re-born consciously, at his will and pleasure;650 the units of the common herd unconsciously follow the great law of dual evolution.
Tiếp theo, có những trường hợp—hiếm, nhưng thường xuyên hơn người ta sẵn sàng mong đợi—là những sự tái sinh tự nguyện và có ý thức của các Đại Sư [Adept] đang trong thời gian thử thách. Mọi người đều có một Chân Ngã Bên Trong, một “Chân Ngã Cao Hơn”, và cả một Thể Cảm Xúc. Nhưng ít ai, bên ngoài các cấp độ cao hơn của Đại Sư, có thể hướng dẫn Thể Cảm Xúc, hoặc bất kỳ nguyên lý nào làm sinh động nó, khi cái chết đã kết thúc cuộc đời trần thế ngắn ngủi của họ. Tuy nhiên, sự hướng dẫn đó, hoặc sự chuyển giao của chúng từ người chết sang một thân xác sống, không chỉ có thể xảy ra, mà còn xảy ra thường xuyên, theo các giáo lý Huyền bí và Kabala. Các cấp độ của quyền năng đó tất nhiên rất khác nhau. Chỉ cần đề cập đến ba loại: cấp độ thấp nhất trong số này sẽ cho phép một Đại Sư, người đã bị cản trở rất nhiều trong cuộc đời trong việc học tập và sử dụng quyền năng của mình, chọn sau khi chết một thân xác khác trong đó Ngài có thể tiếp tục các nghiên cứu bị gián đoạn của mình, mặc dù thông thường Ngài sẽ mất mọi ký ức về hóa thân trước đây của mình. Cấp độ tiếp theo cho phép Ngài, ngoài điều này, chuyển ký ức về cuộc đời đã qua của mình sang thân xác mới của mình; trong khi cấp độ cao nhất hầu như không có giới hạn trong việc thực thi khả năng tuyệt vời đó.
Next, there are cases—rare, yet more frequent than one would be disposed to expect—which are the voluntary and conscious reincarnations of Adepts653 on their trial. Every man has an Inner, a “Higher Self,” and also an Astral Body. But few are those who, outside the higher degrees of Adeptship, can guide the latter, or any of the principles that animate it, when once death has closed their short terrestrial life. Yet such guidance, or their transference from the dead to a living body, is not only possible, but is of frequent occurrence, according to Occult and Kabalistic teachings. The degrees of such power of course vary greatly. To mention but three: the lowest of these degrees would allow an Adept, who has been greatly trammelled during life in his study and in the use of his powers, to choose after death another body in which he could go on with his interrupted studies, though ordinarily he would lose in it every remembrance of his previous incarnation. The next degree permits him, in addition to this, to transfer the memory of his past life to his new body; while the highest has hardly any limits in the exercise of that wonderful faculty.
Như một ví dụ về một Đại Sư được hưởng quyền năng được đề cập đầu tiên, một vài nhà Kabala thời trung cổ đã trích dẫn một nhân vật nổi tiếng của thế kỷ XV—Hồng y de Cusa; nhờ lòng sùng kính tuyệt vời của Ngài đối với nghiên cứu Huyền bí và Kabalah, Nghiệp quả đã dẫn dắt Đại Sư đau khổ tìm kiếm sự phục hồi trí tuệ và nghỉ ngơi khỏi sự chuyên chế của giáo hội trong thân xác của Copernicus. Se non e vero e ben Trovato (“Nếu đó không phải sự thật thì nó vẫn được tưởng tượng rất hay.”); và việc đọc kỹ cuộc đời của hai người có thể dễ dàng dẫn dắt một người tin vào những quyền năng như vậy sẵn sàng chấp nhận sự thật được cho là. Người đọc có trong tay các phương tiện để làm như vậy được yêu cầu xem cuốn sách khổ lớn đáng nể bằng tiếng Latinh của thế kỷ XV, có tên là De Docta Ignorantia, do Hồng y de Cusa viết, trong đó tất cả các lý thuyết và giả thuyết—tất cả các ý tưởng—của Copernicus được tìm thấy như là chìa khóa cho những khám phá của nhà thiên văn học vĩ đại. Hồng y học rộng phi thường này là ai? Con trai của một người lái thuyền nghèo, có được tất cả sự nghiệp của mình, chiếc mũ Hồng y của Ngài, và sự kính sợ hơn là tình bạn của các Giáo hoàng Eugenius IV, Nicholas V và Pius II, nhờ vào sự học vấn phi thường dường như bẩm sinh ở Ngài, vì Ngài chưa từng học ở đâu cho đến khi tương đối muộn trong đời. De Cusa qua đời năm 1473; hơn nữa, những tác phẩm hay nhất của Ngài được viết trước khi Ngài bị buộc phải vào tu viện—để trốn tránh sự ngược đãi. Và một Đạo đồ cũng không thoát khỏi nó.
As an instance of an Adept who enjoyed the first mentioned power some mediæval Kabalists cite a well-known personage of the fifteenth century—Cardinal de Cusa; Karma, due to his wonderful devotion to Esoteric study and the Kabalah, led the suffering Adept to seek intellectual recuperation and rest from ecclesiastical tyranny in the body of Copernicus. Se non e vero e ben trovato; and the perusal of the lives of the two men might easily lead a believer in such powers to a ready acceptance of the alleged fact. The reader having at his command the means to do so is asked to turn to the formidable folio in Latin of the fifteenth century, called De Docta Ignorantia, written by the Cardinal de Cusa, in which all the theories and hypotheses—all the ideas—of Copernicus are found as the key-notes to the discoveries of the great astronomer.654 Who was this extraordinarily learned Cardinal? The son of a poor boatman, owing all his career, his Cardinal’s hat, and the reverential awe rather than friendship of the Popes Eugenius IV., Nicholas V., and Pius II., to the extraordinary learning which seemed innate in him, since he had studied nowhere till comparatively late in life. De Cusa died in 1473; moreover, his best works were written before he was forced to enter orders—to escape persecution. Nor did the Adept escape it.
Trong đoạn văn dài trên, Bà giải thích những linh hồn tiến hoá cao có thể tái sinh sau khi chết mà không trải qua thời kỳ Devachan, vẫn giữ lại thể cảm dục và hạ trí của mình, và trong thể xác mới có thể lưu giữ tất cả ký ức về kiếp sống đã qua, hoặc không lưu giữ. Bà ví dụ Đức Hồng Y de Cusa đã tái sinh ngay sau chết trong thân xác của Copernicus. Nhưng với các Chân sư, các Nirmanakaya, không có giới hạn trong việc khoác lấy một thân xác mới và lưu giữ hoàn toàn ký ức của quá khứ.
Bây giờ, sau những trích dẫn dài dòng của Bà Blavatsky, chúng ta quay trở lại giải thích của Chân sư DK.
H. P. B. đã nói rằng sự tái sinh có thể được chia thành ba loại: (Xem Giáo Lý Bí Nhiệm, III, tr. 364, 365, 367.)
a. Sự tái sinh của các Hóa Thân (Avatar).
b. Sự tái sinh của các Chân Sư (Adept).
c. Sự tái sinh của các jiva đang tìm kiếm sự phát triển.
Đối với những ai đang cố gắng nắm bắt phần nào huyền nhiệm của sự tái sinh và các định luật cũng như mục đích của nó, và cảm thấy bối rối khi suy xét huyền nhiệm của Đức Phật, và mục đích bí mật của Thực Thể huyền nhiệm ấy—Đấng Trông Nom Thầm Lặng; đối với những ai cảm thấy khó có thể hiểu được vị trí của các Kumara và mối liên hệ của Các Ngài với Hành Tinh Thượng Đế, thì có lẽ khôn ngoan khi nói: hãy nghiên cứu và tham thiền về sự khác biệt giữa các nguyên lý thấp và ba nguyên lý cao hơn; hãy nghiên cứu và tham thiền về vị trí và vai trò của các nguyên lý thấp này trong cơ thể của Hành Tinh Thượng Đế, và suy ngẫm về sự tương ứng giữa: CF 745
Tuy nhiên, giải thích rõ ràng nhất là đoạn sau đây của Chân sư DK:
Ở phương Đông có một truyền thuyết cổ xưa, có ý nghĩa với thời đại ngày nay và mang đến manh mối về mối quan hệ giữa Đức Christ và Đức Phật; nó kể về một sự phụng sự mà, theo truyền thuyết, Đức Phật sẽ thực hiện cho Đức Christ. Dưới dạng tượng trưng, truyền thuyết kể rằng khi Đức Phật đạt đến giác ngộ và trải nghiệm trên Trái Đất không thể dạy Ngài điều gì nữa, Ngài đã nhìn về tương lai đến thời điểm khi Huynh đệ của Ngài, Đức Christ, sẽ hoạt động trong Đại Phụng Sự—như được gọi vậy. Do đó, để hỗ trợ Đức Christ, Ngài đã để lại phía sau (cho Đức Christ sử dụng) những gì được gọi một cách huyền bí là “y phục của Ngài.” Ngài đã để lại và lưu giữ ở một nơi an toàn tổng thể bản chất cảm xúc-trực giác của mình, mà một số người gọi là thể cảm xúc, và tổng thể kiến thức cùng suy nghĩ của mình, gọi là thể trí của Ngài. Theo truyền thuyết, những điều này sẽ được Đấng Đang Đến tiếp nhận và trở thành hữu dụng, bổ sung cho chính khí cụ cảm xúc và trí tuệ của Đức Christ, đồng thời cung cấp cho Ngài những gì Ngài cần với tư cách là một vị Thầy của cả phương Đông lẫn phương Tây. Khi ấy, Ngài có thể với sức mạnh và thành công mà chiêm ngưỡng công việc tương lai của mình và lựa chọn những cộng sự. (ROC 100-101)
In the East there is an ancient legend which has an application today and which holds the clue to the relation of the Christ and of the Buddha; it concerns a service which, the legend says, the Buddha will render Christ. In symbolic form, the legend runs that when the Buddha reached enlightenment, and experience on Earth could teach Him no more, He looked ahead to the time when His Brother, the Christ, would be active in the Great Service—as it is called. In order, therefore, to aid the Christ, He left behind Him (for His use) what are mysteriously called “His vestures.” He bequeathed and left [Page 101] in some safe place the sum total of His emotional-intuitive nature, called by some the astral body and the sum total of His knowledge and His thought, called His mind or mental body. These, the legend says, will be assumed by the Coming One and prove of service, supplementing Christ’s Own emotional and mental equipment and providing Him with what He needs as the Teacher of the East as well as of the West. He can then with strength and success contemplate His future work and choose His workers.
Khi đã đạt đến quả vị như Đức Phật đã đạt đến, các thể của phàm ngã của Ngài là phản ảnh thuần khiết của Tam nguyên tinh thần và Chân Thần, và khi Ngài qua đời, Thể Cảm dục và Thể Trí của Ngài không bị tan rả như người thường, mà tồn tại qua thời gian, và cũng “cao cả” và “thiêng liêng” như nguyên mẫu của chúng trên các cõi cao hơn, Tam nguyên tinh thần và Chân Thần. Từ “vestures” ở trên chính là “tam thân” của Đức Phật.
Bà Blavasky cũng nói về điều này như sau:
Trong các trường hợp Đạo Sư cao cấp hơn, khi thân xác hoàn toàn theo lệnh của Đấng Cư Ngụ Bên Trong, khi Chân Ngã Tinh Thần hoàn toàn hợp nhất với nguyên lý thứ bảy [Atma] của nó ngay cả trong thời gian tồn tại của phàm ngã, và Con Người Cảm dục [Astral Man] hoặc cái ngã cá nhân đã trở nên thuần khiết đến mức y đã dần dần đồng hóa tất cả các phẩm chất và thuộc tính của bản chất giữa (Bồ đề và Trí Tuệ trong khía cạnh trần thế của chúng) thì có thể nói, phàm ngã cá nhân tự thay thế cho Chân Ngã Cao Cả tinh thần, và từ đó có khả năng sống một cuộc sống độc lập trên trái đất; khi cái chết thể xác xảy ra, sự kiện bí ẩn sau đây thường xảy ra. Là một Dharmakaya, một Nirvani “không có di tích”, hoàn toàn thoát khỏi trần thế, Chân Ngã Tinh Thần không thể trở lại tái sinh trên trái đất. Nhưng trong những trường hợp như vậy, người ta khẳng định, cái ngã cá nhân[ phàm ngã] của ngay cả một Dharmakaya cũng có thể ở lại trong phạm vi của chúng ta như một tổng thể, và trở lại hóa thân trên trái đất nếu cần thiết. Vì bây giờ nó không còn có thể bị, giống như những di tích cảm dục của bất kỳ người phàm trần nào, phân hủy dần trong Kama Loka (limbus hoặc luyện ngục của người Công giáo La Mã, và “Vùng Đất Mùa Hè” của người theo thuyết duy linh); nó không thể chết lần thứ hai, như sự tan rã đó được Proclus gọi. Nó đã trở nên quá linh thiêng và thuần khiết, không phải bởi ánh sáng và tinh thần phản chiếu, mà là bởi ánh sáng và tinh thần của chính nó, để ngủ trong giấc ngủ vô thức của một trạng thái Nirvana thấp hơn, hoặc bị tan rã như bất kỳ vỏ cảm dục thông thường nào và biến mất hoàn toàn
In the cases of higher Adeptship, when the body is entirely at the command of the Inner Man, when the Spiritual Ego is completely reunited with its seventh principle even during the life-time of the personality, and the Astral Man or personal Ego has become so purified that he has gradually assimilated all the qualities and attributes of the middle nature (Buddhi and Manas in their terrestrial aspect) that personal Ego substitutes itself, so to say, for the spiritual Higher Self, and is thenceforth capable of living an independent life on earth; when corporeal death takes place the following mysterious event often happens. As a Dharmakaya, a Nirvânî “without remains” entirely free from terrestrial admixture, the Spiritual Ego cannot return to reincarnate on earth. But in such cases, it is affirmed, the personal Ego of even a Dharmakaya can remain in our sphere as a whole, and return to incarnation on earth if need be. For now it can no longer be subject, like the astral remains of any ordinary man, to gradual dissolution in the Kâma Loka (the limbus or purgatory of the Roman Catholic, and the “Summer-land” of the Spiritualist); it cannot die a second death, as such disintegration is called by Proclus.659 It has become too holy and pure, no longer by reflected but its own natural light and spirituality, either to sleep in the unconscious slumber of a lower Nirvânic state, or to be dissolved like any ordinary astral shell and disappear in its entirety.
Cách hành văn của Bà Blavatsky rất khó hiểu, không rõ ràng như Chân sư DK, nhưng ý của Bà trong đoạn văn trên thì rõ ràng, phàm ngã của một đấng như Đức Phật vô cùng thuần khiết, là phản ảnh thật sự của Bồ đề và Manas (đối với Bà Blavatsky thì Atma, nguyên khí thứ bảy là Chân thần), do đó nó không phải chịu tan rả sau khi chết như người thường, mà có thể hoạt động độc lập
Quay trở lại đoạn văn của Đức DK, Ngài cho biết Đức Phật đã để lại “những y phục” của Ngài, bao gồm bản chất cảm xúc-Bồ đề, và thể trí cho Đức Christ sử dụng sau này. Ở một đoạn khác, Ngài cho biết, Thể Bồ đề của Đức Christ giống y như thể Bồ đề của Đức Phật:
Tôi khuyên tất cả các đệ tử đang tìm cách hợp tác với các hoạt động sắp tới của Thánh đoàn hãy cẩn thận nghiên cứu chương thứ mười bảy của Phúc Âm Thánh Gioan; chương này được viết bởi vị đệ tử của tình thương, dưới sự ảnh hưởng của năng lượng phát ra từ thể bồ đề của Đức Christ, vốn cũng giống hệt như thể bồ đề của Đức Phật—như các bạn đã được biết. EOH 687
Như vậy, những “y phục” mà Đức Phật để lại cho các Đấng Hoá Thân sau này sự dụng bao gồm các thể của phàm ngã, và ít nhất là thể Bồ đề. Trong Phật Giáo Bí Truyền, Chân thần được gọi là Thiền Ni Phật (Dhyani Buddha), “y phục” được để lại được gọi là “Bồ Tát” (Bodhisattva), như giải thích của Bà Blavatsky:
Một “Vị Bồ Tát” là gì? Theo giáo lý của hệ thống huyền bí Đại thừa, mỗi vị Phật đều tự biểu hiện (theo bản thể học hoặc cách khác) đồng thời trong ba thế giới của Hiện Hữu, tức là: trong thế giới của Kâma (dục vọng — vũ trụ cảm giác hoặc trái đất của chúng ta) dưới hình dạng một con người; trong thế giới của Rûpa (hình tướng, nhưng siêu cảm giác) như là một vị Bồ Tát (Bodhisattva); và trong thế giới Tinh thần cao nhất (thế giới của các hiện hữu hoàn toàn phi xác thân) như là một vị Dhyâni-Phật. Vị Dhyâni-Phật này luôn hiện diện trong không gian và thời gian, tức là từ một Mahâ-Kalpa [Đại Kiếp] đến một Mahâ-Kalpa khác—và sự hợp nhất tổng thể của ba phương diện này chính là Âdi-Buddha, Nguyên Lý Minh Triết, vốn là Tuyệt Đối, do đó vượt khỏi không gian và thời gian. Mối tương quan giữa ba phương diện này như sau: Khi thế gian cần đến một vị Phật nhân gian, vị Dhyâni-Phật sẽ “tạo ra” — thông qua quyền năng của Dhyâna (sự tham thiền, sự tận hiến toàn năng) — một người con sinh ra từ tâm thức, tức là một vị Bodhisattva. Sứ mệnh của vị này là sau khi vị Phật nhân gian (Manushya-Buddha) viên tịch, sẽ tiếp tục công việc của Ngài trên trái đất cho đến khi một vị Phật kế tiếp xuất hiện. Ý nghĩa Nội môn của giáo lý này rất rõ ràng. Đối với một phàm nhân, các nguyên khí trong y chỉ là những phản chiếu — nhiều hay ít — của bảy Nguyên Khí vũ trụ và bảy Nguyên Khí thiên giới, tức là Huyền Giai các Đấng Cao Siêu siêu cảm giác. Còn trong trường hợp của một vị Phật, các nguyên khí ấy hầu như chính là các nguyên khí trong thực tại. Trong trường hợp này, vị Bồ Tát thay thế thể Kârana Sharira, tức nguyên khí Chân ngã (Ego), và các phần còn lại tương ứng theo đó; và chính theo cách này mà Triết lý Nội môn lý giải câu nói rằng: “bằng quyền năng của Dhyâna [hoặc sự tham thiền trừu tượng], vị Dhyâni-Phật [Tinh thần hay Chân Thần của vị Phật] tạo ra một Bodhisattva,” tức là Chân ngã được bao bọc bằng cảm dục bên trong vị Manushya-Buddha. Vì vậy, khi vị Phật hợp nhất trở lại vào Niết-bàn, nơi mà Ngài đã xuất sinh, thì vị Bodhisattva vẫn ở lại để tiếp tục công việc của vị Phật trên trái đất. Chính vị Bodhisattva này có thể đã cung cấp các nguyên khí thấp hơn cho thể hiện thân của Shankaracharya, vị Avatâra.
And now what is meant by a “Bodhisattva”? Buddhists of the Mahâyâna mystic system teach that each Buddha manifests Himself (hypostatically or otherwise) simultaneously in three worlds of Being, namely, in the world of Kâma (concupiscence or desire—the sensuous universe or our earth) in the shape of a man; in the world of Rûpa (form, yet supersensuous) as a Bodhisattva; and in the highest Spiritual World (that of purely incorporeal existences) as a Dhyâni-Buddha. The latter prevails eternally in space and time, i.e., from one Mahâ-Kalpa to the other—the synthetic culmination of the three being Âdi-Buddha, the Wisdom-Principle, which is Absolute, and therefore out of space and time. Their inter-relation is the following: The Dhyâni-Buddha, when the world needs a human Buddha, “creates” through the power of Dhyâna (meditation, omnipotent devotion), a mind-born son—a Bodhisattva—whose mission it is after the physical death of his human, or Manushya-Buddha, to continue his work on earth till the appearance of the subsequent Buddha. The Esoteric meaning of this teaching is clear. In the case of a simple mortal, the principles in him are only the more or less bright reflections of the seven cosmic, and the seven celestial Principles, the Hierarchy of supersensual Beings. In the case of a Buddha, they are almost the principles in esse themselves. The Bodhisattva replaces in him the Kârana Sharira, the Ego principle, and the rest correspondingly; and it is in this way that Esoteric Philosophy explains the meaning of the sentence that “by virtue of Dhyâna [or abstract meditation] the Dhyâni-Buddha [the Buddha’s Spirit or Monad] creates a Bodhisattva,” or the astrally clothed Ego within the Manushya-Buddha. Thus, while the Buddha merges back into Nirvâna whence it proceeded, the Bodhisattva remains behind to continue the Buddha’s work upon earth. It is then this Bodhisattva that may have afforded the lower principles in the apparitional body of Shankaracharya, the Avatâra.
Tức là, theo Phật Giáp Đại Thừa Bí truyền, có lẽ ở Tây Tạng, một Vị Phật trên Thế Gian có ba biểu hiện đồng thời: Thiền Ni Phật (Chân thần), Bồ Tát (hay Thiền Ni Bồ Tát) trên cõi giới siêu hình, và vị Phật ngoài Thế Gian. Nhưng có lẽ chúng ta đọc lời giải thích của Chân sư DK sẽ rõ ràng hơn:
Chân Thần ấy có thể — ở một giai đoạn rất cao trong tiến hóa, vượt xa cả bậc Chân Sư — có sự hiện lộ tam phân đồng thời, và hiển lộ như một Chân sư trong ba cõi giới, như một vị Bồ Tát trên cõi riêng của Ngài, và như một Dhyani Buddha đã được giải thoát; tuy nhiên, ba vị này sẽ chỉ là Một, là kết quả của một rung động tinh thần vĩ đại, và sẽ thực hiện công việc tam phân mà (từ quan điểm của ba cõi giới) có thể xuất hiện như công việc của ba Đấng vĩ đại riêng biệt. Các Ngài là những hình tướng của ba “y phục” chân thần, được khoác bởi cùng Một Chân Thần, cũng như con người khoác ba thể cùng lúc và hoạt động riêng biệt trong chúng.
Một trong ba vị này có thể, nếu Ngài muốn, đảm nhận một thân thể trên cõi hồng trần mà không đơn thuần là một mayavirupa được tạo ra. Điều này được thực hiện theo một trong hai cách: hoặc bằng cách đảm nhận một thân xác đã được chủ nhân cũ tự nguyện từ bỏ, như trong trường hợp Đức Christ nhập vào thân xác của Jesus, hoặc bằng sự phủ bóng thiêng liêng lên một đệ tử, như đã từng xảy ra và sẽ còn tiếp diễn. Phẩm tính của hình tướng được đảm nhận hay sử dụng, và bản chất công việc của nó, phụ thuộc vào nguyên khí cao cả nào trong ba nguyên khí của xung lực khởi đầu đang được biểu lộ. Rất hiếm khi xảy ra một hiện tượng huyền bí hơn: vị Phật phủ bóng, vị Bồ Tát, hoặc vị Chân Sư đều cùng lúc “hiện thân” trên trái đất, từ đó biểu lộ ba khía cạnh của minh triết, tình thương và ý chí – tất cả đều nhập thể.
Điều này có vẻ như là một sự phức tạp to lớn, nhưng thật ra nó cũng không lạ lùng hơn hiện tượng Chân Thần (trong không gian và thời gian, và trong suốt quá trình tiến hóa) biểu lộ như Tam nguyên, Chân ngã và Phàm ngã. Dạng hóa thân tam phân này chỉ xuất hiện dưới một chu kỳ đặc biệt, liên quan đến một nhóm Chân Thần vốn là những vị tiến hóa nhất vào thời điểm mở đầu của mahamanvantara. Cho đến nay, chưa có nhiều vị tiến hóa đủ để thực hiện công việc tam phân này; Đức Phật và chín vị khác là những Đấng duy nhất hiện vẫn còn liên hệ với hành tinh đặc thù của chúng ta theo cách đặc biệt này. Một vài vị khác, giống như Đức Christ, có khả năng biểu lộ nhị phân. Dạng Chân Thần này chỉ được tìm thấy trên các cung hai, bốn, sáu.
Như vậy, câu nói bí ẩn của Bà Blavatsky đã được giải đáp: Shankaracharya là một Đấng Cao Cả (có người cho là một Vị Hoạt Động Phật) đã sử dụng Phàm ngã hay “Bồ Tát” mà Đức phật để lại để lâm phàm, nên chân thần của Shankaracharya vẫn là của Đức Hoạt Động Phật đó, còn các thể cảm dục và thể trí là của Đức Phật, một Gautama cảm dục (astral) bên trong Shankaracharya bên ngoài. Và Chân sư DK cũng thêm rằng, khi Đức Christ lâm phàm lần nữa, Ngài cũng sẽ sử dụng phương pháp đó.
Hi vọng rằng những trích dẫn trên đây của Chân sư DK đã làm sáng tỏ phần nào Bí Ẩn về Đức Phật, và để kết thúc, tôi trích lại Đoạn kinh cuối cùng mà Đức Phật thuyết cho đệ tử trước khi Ngài nhập Niết Bàn. Có nhiều phiên bản khác nhau của bài kinh này, nhưng tôi chọn đoạn kinh mà các Thầy Cô Trường Morya Federation xướng tụng trong Lễ Wesak hàng năm. Đây là bản dịch từ bản tiếng Anh của Sister Vajira & Francis Story, từ Kinh Maha-parinibbana Sutta [Đại Niết Bàn, tiếng Pali] Maha-parinibbana Sutta: Last Days of the Buddha
“Này Ananda, giờ đây ta đã yếu, đã già, tuổi cao, tuổi đời đã qua lâu rồi. Đây là năm thứ tám mươi của ta, và đời sống của ta đã cạn kiệt.
Này Ananda, giống như một chiếc xe cũ kỹ được giữ cho chạy bằng muôn vàn khó nhọc, thân thể của Như Lai cũng chỉ được duy trì nhờ những nâng đỡ. Chỉ khi nào Như Lai từ bỏ các đối tượng bên ngoài, với sự chấm dứt của một số cảm thọ nhất định, nhập vào và an trú trong Định Không Tướng của tâm thức, thì khi ấy thân thể Ngài mới cảm thấy dễ chịu hơn.
“Vì vậy, này Ananda, các ngươi hãy là hòn đảo cho chính mình, hãy là nơi nương tựa cho chính mình, đừng tìm nơi nương tựa bên ngoài; hãy lấy Giáo pháp làm hòn đảo, lấy Giáo pháp làm nơi nương tựa, đừng tìm nơi nương tựa nào khác.
“Này Ananda, thế nào một Tỳ kheo là hòn đảo cho chính mình, là nơi nương tựa cho chính mình, không tìm nơi nương tựa bên ngoài; lấy Giáo pháp làm hòn đảo, lấy Giáo pháp làm nơi nương tựa, không tìm nơi nương tựa nào khác?
“Khi vị ấy sống quán chiếu thân trong thân một cách nhiệt tâm, với sự thấu hiểu rõ ràng và chánh niệm, sau khi đã vượt qua tham ái và sầu muộn đối với thế gian; khi vị ấy sống quán chiếu cảm thọ trong cảm thọ, tâm trong tâm, và các pháp trong các pháp, một cách nhiệt tâm, với sự thấu hiểu rõ ràng và chánh niệm, sau khi đã vượt qua tham ái và sầu muộn đối với thế gian, thì khi ấy, quả thật, vị ấy là hòn đảo cho chính mình, là nơi nương tựa cho chính mình, không tìm nơi nương tựa bên ngoài; có Giáo pháp là hòn đảo, Giáo pháp là nơi nương tựa, không tìm nơi nương tựa nào khác.
“Này Ananda, những Tỳ kheo của ta, dù là bây giờ hay sau khi ta đã diệt độ, nếu họ sống như hòn đảo cho chính mình, như nơi nương tựa cho chính mình, không tìm nơi nương tựa nào khác; lấy Giáo pháp làm hòn đảo và nơi nương tựa, không tìm nơi nương tựa nào khác: chính họ là những người sẽ trở thành cao thượng nhất, nếu họ có lòng ham học hỏi.”
OM MANI PADME HUM