Khôi Phục Đỉnh Chóp
Kim tự tháp của con người vẫn chưa hoàn chỉnh. Nó thiếu đi viên đá đỉnh. Trong thời cổ đại, viên đá đỉnh là tâm điểm chú ý của tất cả những ai đến gần một kim tự tháp. Thật vậy, Kim Tự Tháp Lớn ở Giza từng có một viên đá đỉnh bằng kim loại trên đỉnh của nó. Trận động đất lớn khiến một số dầm đá bên trong đền thờ bị nứt cũng làm viên đá đỉnh trượt xuống khỏi vị trí đỉnh cao và nó không bao giờ được khôi phục.
Con người, theo một nghĩa nào đó, cũng đã rơi khỏi vinh quang. Tính minh bạch của linh hồn và các cơ quan biểu hiện của nó đã bị mất từ hàng thiên niên kỷ trước. Những khiếm khuyết hiện tại của con người về cấu trúc tinh thần có thể được liệt kê như sau:
A. Thể trí của con người chưa hoàn chỉnh. Thể trí của con người có khả năng áp dụng một cách thông minh cho bất kỳ nhiệm vụ nào trong các hoàn cảnh thông thường. Nó đủ năng lực cho tư duy tuyến tính, đồng thời cũng thích ứng đáng kể và có khả năng xây dựng một trí tuệ rất tinh tế. Tuy nhiên, nó thiếu khả năng xử lý các năng lượng của Thượng Trí (Higher Manas), vốn biểu hiện trong con người tinh thần như là Tư Duy Trừu Tượng.
Con người phải học cách tư duy theo các phạm trù. Y cần rút năng lượng từ Thượng Trí xuống thể trí của mình một cách ngày càng dễ dàng hơn. Vấn đề lớn của y là trí óc của y không thể, theo ý muốn, ngừng sự phát triển không ngừng của các ý nghĩ. Các ý nghĩ của y bị thúc đẩy bởi các giác quan. Từ giây phút y thức dậy vào buổi sáng và nhận thức được mí mắt đang khép, tâm thức của y đã chịu sự tấn công của hàng loạt ý nghĩ, điều này đã diễn ra từ thời thơ ấu. Trong suốt ngày dài, rất ít khi người ta nghiêm túc cố gắng ngăn chặn quá trình suy nghĩ này.
Bản chất hạ trí là một thực thể được tạo nên từ chất liệu hành khí. Nó đã được khuyến khích hoạt động một cách độc lập với ý chí và chủ thể thực sự của thể trí. Chúng ta thường nói: “Thân tôi mệt mỏi. Trí tôi kiệt sức.” Nhưng lại quên đi ai là chủ nhân thực sự của trí óc và thân thể. Con người bị giam cầm trong các ý nghĩ của mình, y sống trong một nhà tù suốt cuộc đời. Hiếm khi nào Tam nguyên Tinh thần hay Chân ngã có thể phá vỡ vòng vây của các ý nghĩ để tiếp cận phàm ngã bị giam cầm.
Bà Blavatsky từng nói về thể trí rằng nó là “kẻ giết chết sự thật,” Bà muốn chỉ việc con người liên tục giết chết Chân ngã của mình, cũng như sư tử giết kỳ lân, bằng cách giữ sự chú ý ở cấp độ của hạ trí và trí năng hoạt động. Đây là lý do tại sao khoa học tham thiền vô cùng quan trọng, vì nó giải phóng con người khỏi sự ràng buộc của các ý nghĩ. Ngay cả khi chúng ta không thể tham thiền, chúng ta nên ít nhất học cách ngồi trong im lặng, vì trong sự im lặng, linh hồn được lan tỏa và vùng sáng trên viên đá đỉnh bắt đầu bừng sáng với ánh vàng rực rỡ, gợi nhớ về vinh quang đã mất.
B. Con người thiếu ba Trung tâm Đầu phối hợp. Những trung tâm này khởi đầu như những điểm lửa và dần mở rộng qua nhiều kiếp sống trên trần gian. Mỗi trải nghiệm tinh thần—về các phẩm tính của Atma (ý chí thiêng liêng kiên định), Buddhi (từ bi, trực giác, thấu hiểu điều vĩnh hằng, thực hành vô tổn hại và phân biện tinh thần), và Manas (tư duy trừu tượng như đã đề cập)—đều mang năng lượng đến ba Trung tâm Đầu này. Chúng bắt đầu như những điểm lửa, những than hồng âm ỉ chờ được khơi dậy. Chính tại ba điểm này (cùng nhau tạo thành viên ngọc trong hoa sen), linh hồn của con người (tam nguyên thượng) có thể tự neo đậu khi phàm ngã từng bước đặt tương lai của mình vào tay Chân ngã.
Việc khai mở ba Trung tâm Đầu này là một vấn đề tinh tế:
(i) Mỗi trung tâm phải được nuôi dưỡng từ các trung tâm tương ứng thấp hơn, nằm dưới mức hành tủy hoặc góc xương hàm. Trung tâm Tim phải nuôi dưỡng Trung tâm Trán. Trung tâm Gốc phải truyền năng lượng đến Trung tâm Đầu (Hoa sen ngàn cánh). Hoa sen mười sáu cánh ở cổ họng phải truyền năng lượng vào Trung tâm Alta Major—bánh xe có cánh, đặt trên một trục tưởng tượng giữa các góc xương hàm.
(ii) Nguyên tắc cơ bản “Năng lượng theo sau tư tưởng” là cơ chế để đạt được sự chuyển dịch năng lượng. Bằng cách khơi dậy các trung tâm thích hợp dưới cơ hoành và tập trung sự chú ý vào các trung tâm tương ứng trong vùng đầu, năng lượng sẽ theo sau ý nghĩ.
(iii) Prana được dẫn truyền qua nhịp thở có thể thúc đẩy mạnh mẽ các sự chuyển giao này. Đặc biệt, hơi thở bễ lò rất có lợi khi được phối hợp với bất kỳ hành động tập trung nào như đã mô tả (xem Tham Thiền, Lý Thuyết và Thực Hành của tác giả, các trang 126-127).
Trong tác phẩm này, tác giả đã chọn diễn đạt cơ chế khai mở tâm thức tinh thần thông qua chìa khóa của Yoga, nhưng ông cũng có thể sử dụng chìa khóa chiêm tinh, luyện kim thuật, hoặc hoàn toàn mang tính sinh lý học. Để hỗ trợ những người mới làm quen với Yoga, một bài luận xuất sắc về khoa học thiêng liêng này của Vishwanath Keskar được trình bày trong Chương 8.
(iv) Bản chất cảm xúc quá mức (tức là cảm xúc không được kiểm soát) tạo thành một rào cản đối với việc mở ba Trung tâm Đầu. Điều này không có nghĩa là cảm xúc cần bị phủ nhận, mà chúng phải được đưa vào kỷ luật. Những yếu tố trong môi trường như âm nhạc cổ điển, các bài hát Gregorian, việc quan sát các tác phẩm nghệ thuật, đọc thơ ca, chiêm ngưỡng các cấu trúc vĩnh cửu như chính các ngôi sao, v.v., giúp kỷ luật hóa cảm xúc.
(v) Trí tuệ, giống như cảm xúc, không nên bị loại bỏ, nhưng cũng không được can thiệp vào quá trình chuyển giao năng lượng. Cách an toàn để xử lý trí tuệ là trang bị cho tâm thức một vốn từ vựng gồm các biểu tượng và hình ảnh có thể biểu đạt cả thế giới bên ngoài lẫn bên trong. Tác giả đã phát triển một phương pháp xây dựng trong tâm thức của người nhập môn hàng trăm ngàn biểu tượng và hình ảnh mà họ có thể sử dụng để tiếp cận Chân ngã của mình. Những biểu tượng này liên quan đến lá số chiêm tinh cá nhân và các khía cạnh chiêm tinh học của nó, mỗi người là duy nhất. Lá số chiêm tinh chính là “dấu vân tay tinh thần” của bản chất tồn tại của một người; nó chỉ ra chất lượng của thời gian và không gian—môi trường mà y được sinh ra. Thông qua việc sử dụng một ngôn ngữ hình ảnh có thể được chấp nhận bởi cả linh hồn lẫn phàm ngã, một trục phàm ngã/Chân ngã được thiết lập, và cuộc đối thoại với Chân ngã trở nên khả thi. Trong những điều kiện như vậy, các chuyển giao năng lượng được tăng cường đáng kể. Phương pháp Claregate cung cấp một trục như vậy.
Như Aristotle từng nói: “Linh hồn không thể suy nghĩ nếu không có hình ảnh.” Nhiều người nhập môn mắc sai lầm khi đánh giá tình trạng cuộc sống của mình từ góc độ phàm ngã. Họ muốn linh hồn học ngôn ngữ hiện tại của phàm ngã … tiếng Anh trong kiếp này, tiếng Pháp trong kiếp trước, tiếng Polynesia trong kiếp trước đó, v.v. Trong những hoàn cảnh như vậy, linh hồn sẽ không làm gì khác ngoài việc học ngôn ngữ, có lẽ một ngôn ngữ cho mỗi trong số hơn 700 kiếp sống trên Trái Đất.
Ngược lại, linh hồn sử dụng một ngôn ngữ hầu như không thay đổi qua các đại kiếp … ngôn ngữ của biểu tượng. Lý do tại sao người phương Tây ít thành công trong việc thực hành các khoa học huyền môn là họ đã đánh mất kiến thức về ngôn ngữ biểu tượng. Trong ba khoa học lớn là Yoga, Luyện kim thuật, và Chiêm tinh học chân chính (nội môn), ngôn ngữ này có thể được học lại và sử dụng.
Trong phương pháp Claregate, được tác giả giảng dạy tại trường của ông ở Bắc London, học viên được hướng dẫn trang bị cho mình một ngôn ngữ biểu tượng để thiết lập cuộc đối thoại phàm ngã Chân ngã. Trong ngôn ngữ tượng trưng, họ tạo nên cây cầu antakarana của mình để tiếp cận vô thức. Trên cây cầu này mọc lên những quả của vô thức, các biểu tượng phong phú trong từ vựng hình ảnh nội tâm của họ. Những quả này được Chân ngã hái và hạt giống của chúng thúc đẩy sự phát triển nội tâm. Phương pháp này là tương hỗ, và kết quả là một phàm ngã được linh hồn thấm nhuần cùng với một cơ quan của tầm nhìn nội tâm.
C. Ba Trung tâm Đầu phải được kích hoạt đồng thời. Mỗi trung tâm tự nó tương đối dễ kích hoạt, ví dụ, ngồi một mình trong bóng tối trong thời gian dài sẽ kích hoạt ở một mức độ nhất định Sahasrara, Trung tâm Đầu hay Hoa Sen Ngàn Cánh. Tự đưa bản thân vào trạng thái thở gấp và hôn mê sẽ kích hoạt Trung tâm Alta Major một cách độc lập với hai Trung tâm Đầu còn lại. Việc lạm dụng rượu hoặc sử dụng một số loại thuốc gây ảo giác có thể kích hoạt Ajna, mà không liên quan đến hai trung tâm khác. Nhưng không một phương pháp nào trong số này, dù riêng lẻ hay kết hợp, đạt được hiệu quả mong muốn là kích hoạt ba Trung tâm Đầu một cách đồng thời, nhịp nhàng và an toàn.
Một cách ngắn gọn, thông qua các hành động phụng sự nhân loại, thở vì người khác và thở nhịp nhàng cùng với chính tự nhiên, Trung tâm Alta Major được kích hoạt một cách an toàn, cùng với việc thực hành các kỷ luật kích hoạt hai Trung tâm khác. Thông qua việc nghiên cứu các giáo lý cổ điển của Minh Triết Ngàn Đời, Trung tâm Trán được khởi đầu kích hoạt, và sau đó bằng cách tập trung vào các đối tượng được hình dung trong không gian giữa hai chân mày, trung tâm này được khai mở hoàn toàn. Thông qua khoa học tham thiền, Hoa Sen Ngàn Cánh được kích hoạt một cách an toàn, phối hợp với hai Trung tâm Đầu còn lại. Do đó, những ai mong muốn mở con mắt thứ ba cần phải:
○ Phụng sự nhân loại,
○ Nghiên cứu các giáo lý cổ điển của Minh Triết Ngàn Đời (Danh sách các giáo lý này được trình bày trong Phụ lục 3),
○ Tham thiền.
Khi ba kỷ luật này được thực hành đồng thời, ba Trung tâm Đầu sẽ được khai mở một cách dần dần và an toàn. Và cuối cùng:
○ Người nhập môn phải học cách sống một “đời sống tham thiền.”
Y không thể giới hạn các hoạt động tinh thần của mình vào một khoảng thời gian ngắn nửa giờ mỗi ngày hoặc một giờ mỗi tuần (khi y chỉ tham dự một buổi giảng ở đâu đó). Y đang phấn đấu để đạt đến sự hợp nhất tâm lý—tập hợp phàm ngã xoay quanh một điểm rung động cao hơn—và cần tạo mọi cơ hội để quá trình này diễn ra suôn sẻ. Có nhiều điều y có thể tích hợp vào lối sống của mình.
Giống như Prometheus xưa kia, người đã đánh cắp lửa từ các vị thần và trong một hành động phụng sự lớn lao cùng sự tận hiến đã mang nó đến cho nhân loại, và người đã phải chịu hình phạt khi bị một con đại bàng (những thử thách của dấu hiệu Hổ Cáp, các bài kiểm tra Điểm Đạo) cắn xé lá gan trong khi bị xiềng xích trên ngọn núi (của Điểm Đạo), người nhập môn cũng phải chuẩn bị tinh thần để đối mặt với những thử thách và kiểm tra lớn lao trên con đường đau khổ.
Trong ashram của tôi, chúng tôi sử dụng một công cụ ghi nhớ mang tên CHROME để mô tả các yêu cầu cơ bản của đời sống tham thiền, mỗi chữ cái đại diện cho một trong sáu kỷ luật chính:
C – Courage (Dũng cảm)
H – Harmlessness (Tính vô tổn hại)
R – Relevance (Tính liên quan)
O – Order (Trật tự)
M – Malleability (Tính dễ uốn nắn)
E – Endurance (Sự bền bỉ)
Người tân học nên luôn nhớ rằng Thánh đạo chính là mục tiêu, rằng bất kỳ bước tiến nào mà y thực hiện để hướng năng lượng vào khu vực đầu đều đã là mục tiêu. Y không nên nản lòng vì không đạt được đỉnh cao của điểm đạo ngay lập tức. Thực vậy, nhiều bậc hiền triết ở phương Đông chỉ hứa hẹn cho các đệ tử của mình những lợi ích trong các kiếp sống tương lai khi họ được giới thiệu vào những kỷ luật mới—một điều khó lòng được ưa chuộng ở phương Tây, nơi vẫn trung thành với khái niệm sai lầm rằng chúng ta nên đánh giá dựa trên kết quả, thay vì hành động theo động cơ chính đáng.
Duy trì một nhật ký tâm linh
D. Việc giữ một nhật ký tâm linh là một vấn đề quan trọng. Nó đóng vai trò như một ảnh hưởng ổn định trong đời sống của người đệ tử đang chịu áp lực lớn. Đó là nguồn an ủi, người thầy, ánh sáng dẫn đường của y. Cuối cùng, nó thậm chí trở thành “nhà máy tâm linh” nơi y xây dựng cấu trúc của cuộc sống phụng sự. Tầm quan trọng của việc này lớn đến mức tác giả đã viết một chuyên luận đặc biệt về chủ đề này trong tác phẩm Nhật Ký Tâm Linh (The Spiritual Diary).
Nhật ký tâm linh là một trong những công cụ quan trọng nhất mà người đệ tử có thể sử dụng. Điều tối quan trọng là y phải bắt đầu ghi lại các yếu tố của đời sống chủ quan, và nhật ký cung cấp phương tiện để thực hiện điều này. Việc thiết lập và duy trì nhật ký tâm linh mang lại một phương pháp hệ thống để ghi lại những điều liên quan đến linh hồn, ví dụ: giấc mơ, linh ảnh, ấn tượng, tiến trình tham thiền, công việc phụng sự, nghiên cứu huyền môn, thậm chí cả những thay đổi trong cơ thể vật lý. Nhật ký cuối cùng trở thành mối liên kết giữa đệ tử và Chân ngã, đóng vai trò như cơ chế mà qua đó y có thể tìm kiếm lời khuyên từ Chân ngã, và nếu được thiết lập đúng cách, nhật ký sẽ cung cấp một tài liệu vô giá về các phản hồi nội tâm trực tiếp.
Cách thiết lập nhật ký
Thường xuyên chép vào sổ những trích đoạn từ văn học huyền bí cổ điển, chẳng hạn Tiếng Nói của Im Lặng (The Voice Of The Silence) của Bà H. P. Blavatsky, Ánh Sáng Trên Đường Đạo (Light On The Path) của Mabel Collins, Dưới Chân Thầy (At The Feet Of The Master) của Krishnamurti, hoặc bất kỳ văn học cổ điển hay thơ ca nào khơi dậy sự phản hồi từ bên trong và điều chỉnh đệ tử với các phẩm chất của Chân ngã. Điều này giúp thiết lập tông màu trang trọng.
Như đã nêu trên, cần ghi chép một cách kiên trì về các giấc mơ, hình ảnh trong tham thiền, công việc phụng sự, sự mặc khải, v.v.
Mục đích của nhật ký
Nhật ký tâm linh là bản ghi lại nỗ lực, đấu tranh và thành tựu tâm linh của một người, liên quan đến những vấn đề hỗ trợ việc thực hiện mục đích của linh hồn. Nó đóng vai trò như một biên niên giá trị về tiến trình của một người trên con đường đệ tử. Nếu được duy trì một cách tận tâm, nhật ký sẽ cung cấp sự hướng dẫn thiết yếu trong những thời điểm căng thẳng hoặc khó khăn lớn, chứng minh cho cá nhân thấy rằng linh hồn luôn quan sát và dẫn dắt phàm ngã của y.
Nhật ký tâm linh là một cơ chế để đưa các yếu tố của tâm lý vào ý thức trọn vẹn. Nó thiết lập một kênh truyền dẫn lời khuyên và chỉ dẫn từ Chân ngã, có thể mang lại sự chuyển hóa phàm ngã, cũng như các sự gắn bó và hạn chế của nó. Nhật ký khơi gợi, một cách sâu sắc nhất, những lời tự thú chân thật của người nhập môn, từ đó đóng vai trò như một chất xúc tác để loại bỏ các rào cản cá nhân khiến Tiếng Nói của Im Lặng không thể trở thành người tư vấn rõ ràng và thân cận. Nhật ký thiết lập tông màu và nhịp độ cho sự biểu hiện của phàm ngã cho đến khi những điều này trở thành bản chất tự nhiên và không còn cần sự thúc đẩy. Cách sống triết học trở thành một thực tại—một lối sống không bị xáo trộn bởi những làn gió cạnh tranh và những xoáy nước của bất an và sợ hãi.
Một nhật ký tâm linh được duy trì hiệu quả sẽ dẫn người lữ khách mệt mỏi đến nguồn suối của Bản Thể, làm sạch phàm ngã theo các chỉ dẫn của chính linh hồn mình—tạo ra một sự chuyển hóa quay trở lại Con Đường mà đệ tử đã rời xa từ lúc chào đời. Bí mật ở đây là một sự tái định hướng đến Linh hồn thay vì phàm ngã. Các dòng suối nội tại được kích thích để giải phóng nội dung của những ký ức cao quý được tích lũy từ các kiếp sống trước. Một mối tương quan được thiết lập giữa các yếu tố của siêu thức tập thể, tâm lý và các nguyên tử trường tồn của Tam phân Phàm ngã, điều này ở một số người tạo nên nền tảng của thiên tài.
Những xung động này cùng nhau mang đến một động lực mới cho phàm ngã. Trong phân tâm học, cá nhân được giải phóng khỏi tâm lý thời thơ ấu. Trên con đường đệ tử, y phải được giải phóng khỏi Kẻ Chận Ngõ—tổng thể của tất cả các trầm tích từ những trải nghiệm phàm ngã trong kiếp này và các kiếp trước, bao gồm cả phần chia sẻ cá nhân của y trong vô thức tập thể của nhân loại. Nhật ký chuẩn bị đệ tử đối mặt với Kẻ Chận Ngõ, khơi gợi chỉ dẫn từ linh hồn về những yếu tố nào của Kẻ Chận Ngõ cần được đối mặt tiếp theo.
Nhật ký có nhiệm vụ làm nổi bật những khó khăn phát sinh từ các điều chỉnh mà đệ tử phải thực hiện trong thế giới bên ngoài nếu y muốn sống một đời sống triết học và tham thiền. Khi một câu hỏi được đặt ra trong nhật ký, Chân ngã có thể đưa ra gợi ý thông qua tham thiền và đời sống giấc mơ về cách thực hiện các điều chỉnh này.
Nhật ký tâm linh không nhằm giúp đệ tử trốn tránh đau khổ, mà là để chỉ ra rằng đau khổ liên quan đến tính chất vô thường của vật chất. Tất cả các mối quan hệ dựa trên cấu trúc hình tướng đều sẽ qua đi. Trải nghiệm huyền bí tự nó là một niềm vui, nhưng khi nó là phần thưởng cho những nỗ lực của một phàm ngã hướng về tinh thần, nó vượt trội hơn tất cả những trải nghiệm khác vì nó mang lại Ý NGHĨA cho cuộc sống. Nhiều đệ tử nói rằng họ có thể chịu đựng được đau khổ miễn là có ý nghĩa trong đó. Nhật ký phối hợp thế giới hành động với thế giới nguyên nhân, qua đó mang lại sự thấu hiểu về yếu tố nghiệp quả.
Nhật ký tâm linh luôn phải sẵn sàng để phân tích, đánh giá và thẩm định mọi động cơ. Việc tìm kiếm các dấu hiệu của sự phát triển tâm linh thực sự được thúc đẩy bởi người ghi nhật ký, người luôn phải chân thành với chính mình. Viết những điều không đúng sự thật trong nhật ký tâm linh chẳng khác gì tự lừa dối bản thân khi chơi trò patience.
Nhật ký tâm linh nên là một bản ghi chép lại những nỗ lực của bạn để sống một đời sống tham thiền, với các nguyên tắc được nêu trong chương tiếp theo, trích từ các giáo lý của một Yogi nổi tiếng.