The Third Eye – Chương 9

Giới thiệu: Chúng tôi bỏ qua không dịch chương 8 của quyển sách, một bài viết về Yoga của một yogi Ấn độ, vì cách trình bày yoga theo các thuật ngữ đặc trưng của một trường phái hơi khác với cách Chân sư DK trình bày. Các bạn có thể đọc nguyên tác tiếng Anh. Chương 9 là bài viết của của Douglas Baker về yoga, dưới “con mắt của một bác sĩ y khoa Tây Phương”. Tuy nhiên, Chân sư DK đã nhiều lần nhấn mạnh rằng chức năng cụả thể xác đã trở nên tự động, nằm dưới ngưỡng tâm thức, và không nên “kéo” nó lên bề mặt tâm thức. Yoga của thời hiện đại là Raja Yoga, yoga của tâm trí chứ không phải hatha yoga, yaga hướng đến kiểm soát thể xác.

File WORD song ngữ

File Pdf song ngữ

Loạt bài về con mắt thứ ba

CHƯƠNG 9

Yoga nhìn qua Con Mắt Phương Tây

Tài liệu này được xuất bản lần đầu tiên dưới dạng bài báo của tác giả vào năm 1960 trong Potential, tạp chí của Hội Sinh Lý học tại Đại học London. Nó tiến xa trong việc trình bày hợp lý khoa học huyền bí về Yoga bằng một ngôn ngữ dễ hiểu cho những trí tuệ đòi hỏi khắt khe của các nhà khoa học trẻ phương Tây.

Trong những năm qua, nhiều nhóm khoa học đã đến Ấn Độ để điều tra hiện tượng Yoga. Mục tiêu của họ là ghi nhận, bằng bất kỳ phương tiện nào có thể, các hoạt động của cơ thể con người trong và sau sự thay đổi được cho là xảy ra khi một Yogi bước vào trạng thái xuất thần (trance state). Trong trạng thái này, các Yogi thường chứng minh khả năng kiểm soát nhịp tim, thậm chí có thể ngừng nhịp tim hoàn toàn trong vài phút.

Khả năng chặn các xung cảm giác khi đối mặt với các thử thách thể chất, chẳng hạn như đi chân trần trên than nóng trắng, cũng gây bất ngờ không kém cho tâm trí phương Tây, đặc biệt khi cơ thể không hề bị tổn thương mô. Những hiện tượng khác, không thể giải thích rõ ràng, bao gồm việc làm chậm quá trình trao đổi chất, khiến cơ thể gần như đạt trạng thái ngủ đông của động vật và có thể tồn tại hàng tuần mà không cần thức ăn. Ngoài ra, khả năng ngoại cảm (extra-sensory perception) đôi khi đi kèm với trạng thái xuất thần của Samadhi.

Tuy nhiên, do phần lớn các Yogi từ chối hợp tác, các chuyến thám hiểm khoa học đến phương Đông phần lớn không thành công. Mãi đến khi Swami Rama, một nhà Yogi lỗi lạc, dám bước ra phương Tây, tấm màn bí mật mới được vén lên, và các nghiên cứu lâm sàng được tiến hành để giải thích hiện tượng Yoga.

Yoga đạt được thông qua việc xử lý tâm trí sao cho kiểm soát tối đa các cơ quan cơ thể. Nhiều Yogi được cho là có khả năng kiểm soát tuyệt vời các nội tạng bụng. Có nhiều kỷ luật được yêu cầu ở khía cạnh thể chất của Yoga, trong đó một kỹ thuật liên quan đến tâm trí là tập trung.

Bước đầu tiên là giữ tâm trí ổn định vào một điểm nhất định và ngăn nó lang thang theo các tín hiệu do giác quan khơi dậy. Điều này không hề dễ dàng (hãy thử và xem!). Nhà yogi được dạy để bỏ qua sự xâm nhập của các xung cảm giác vào ý thức. Họ loại bỏ mọi ấn tượng bên ngoài—một kỳ công không nhỏ—và sau đó hướng tâm trí của mình một cách có ý thức theo dòng chảy của một tư tưởng cụ thể, hoặc đúng hơn là leo lên “bậc thang tư tưởng” đến các cõi trải nghiệm tâm trí khác với ý thức thông thường như tình yêu khác với hận thù trên bình diện cảm xúc, hoặc như chất khí khác với chất rắn trên bình diện vật lý.

Nhà yogi tin rằng khi các giác quan hoàn toàn bị loại trừ khỏi tâm thức, y có thể nhận thức được các hoạt động của những phần khác trong cơ quan cảm giác của mình, những phần mà bản chất và phẩm chất của chúng bị che khuất bởi các hoạt động của các giác quan bên ngoài (giác quan đặc biệt). Y tin rằng trong não trước, tuyến tùng và các phần khác nhau của não bộ, có những khu vực đặc biệt nhạy cảm với các xung động thường nằm ngoài phạm vi cảm nhận của cơ quan giác quan thông thường của con người. Y nói về những màu sắc rung động vượt ra ngoài phổ nhìn thấy được mà y “nhìn thấy” trong trạng thái Samadhi, và về những hình tướng phát ra ánh sáng ở các bước sóng thấp hơn tia cực tím, chỉ có thể được ghi nhận bởi một tâm trí yên tĩnh hoặc tập trung.

Những bổ sung này vào ý thức được họ coi là thực hơn thế giới vật chất khí-lỏng-rắn mà chúng ta biết. Vì vậy, họ gọi hạ trí là “nô lệ của giác quan” và “kẻ giết chết cái thực”. Yogi khẳng định rằng khi chúng ta chỉ dựa vào ấn tượng do các giác quan bình thường truyền đạt, chúng ta chỉ tỉnh thức khoảng một phần ba. Tuy nhiên, họ nhấn mạnh rằng chỉ thông qua các kỹ thuật đã được kiểm chứng kỹ lưỡng (không bao gồm các phương pháp như sử dụng mescalin), thì mới an toàn và có thể xử lý các ấn tượng ngoại cảm và đạt tới Samadhi.

Thí nghiệm khoa học theo hướng loại bỏ các giác quan bên ngoài khỏi ý thức đã được thực hiện bởi nhà tâm lý học Canada, Dr. Hebb. Mục tiêu là tìm hiểu tác động của sự cô lập lên con người, sau các báo cáo về những người bị giam trong máy bay, không nhận được các kích thích giác quan thông thường, và biểu hiện dấu hiệu suy sụp thần kinh. Những người này được cho là mất cảm giác thực tại, gặp khó khăn trong việc định hướng và có ảo giác.

Thí nghiệm của Dr. Hebb được thực hiện trên các sinh viên đại học, những người được chọn vì họ được coi là bình thường và ổn định. Họ bị giam trong một buồng nhỏ, được cung cấp thức ăn và sử dụng nhà vệ sinh khi yêu cầu, nhưng ngoài ra không làm gì khác. Họ đeo kính mờ ngăn cản khả năng nhìn nhận hình mẫu. Tai được che bằng gối cao su có gắn loa nhỏ để nhận thông điệp. Một microphone treo gần đó để họ trả lời. Họ đeo găng tay và các ống bìa quanh cánh tay để loại bỏ cảm giác xúc giác. Kết quả thật kịch tính.

Các đối tượng cho thấy sự mất dần và rộng rãi khả năng giải quyết các vấn đề đơn giản (một khả năng của hạ trí theo Yoga). Họ phàn nàn rằng họ không thể tập trung (chính là khả năng mà Yoga nhấn mạnh như một kỷ luật đồng hành khi các giác quan được xử lý để đạt sự tĩnh lặng). Những suy giảm này ở các sinh viên vẫn còn tồn tại trong vài giờ sau khi họ rời khỏi buồng giam giữ. Một số báo cáo đã trải qua các ảo giác sống động, thường là thị giác nhưng đôi khi là thính giác.

Sự nhấn mạnh của Yoga vào việc tham thiền ngăn chặn sự mất kiểm soát trong các giai đoạn cô lập, và có vẻ rõ ràng rằng mục tiêu của ẩn sĩ và tu sĩ là đạt được các điều kiện sống cô lập để tạo cơ hội tham thiền.

Nhiều người đã cố gắng liên kết trạng thái Samadhi với tình trạng hạ đường huyết, sự nhạy cảm cao với insulin, động kinh, sự mất cân bằng hấp thụ canxi, v.v., dựa trên giả định rằng chế độ ăn của yogi có liên quan đến vấn đề này. Các yogi là những người ăn chay nghiêm ngặt và thường nhịn ăn trong thời gian dài. Mặc dù Yoga nhấn mạnh tầm quan trọng toàn diện của các tuyến nội tiết (và truy nguyên mọi bệnh tật đến một trong các rối loạn chức năng của chúng), nhà yogi khẳng định rằng nếu có gì liên quan, thì Samadhi là kết quả của sự phối hợp và cân bằng hoàn hảo của các tuyến này, chứ không phải từ các rối loạn của não bộ và cơ thể do các cơn động kinh, chẳng hạn.

Hơn nữa, nhà yogi cho rằng phương Tây hầu như không biết gì về tầm quan trọng của việc sử dụng đúng cách thiết bị hô hấp của chúng ta. Trong mỗi bước quan trọng của Yoga hướng đến sự tự kiểm soát, làm tĩnh lặng tâm trí, sức khỏe hoàn hảo và cuối cùng là Samadhi, nhà yogi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc biết khi nào và làm thế nào để thở. Y không xem dung tích phổi là 11 pint chỉ đơn thuần là một cơ chế thoát khí. Yogi thừa nhận rằng oxy không được lưu trữ trong cơ thể, nhưng có một yếu tố điện sống động hơn trong khí quyển, và điều này có thể và được lưu trữ bởi cơ thể hô hấp đúng cách. Dựa trên giả thuyết này của Yoga, sự tồn tại của một năng lượng sống động mà khoa học hiện đại chưa biết đến là cơ sở cho lý luận, triết lý và hiện tượng của Yoga.

Yoga có một lời giải thích rất rõ ràng về động lực của các hiện tượng và trạng thái tâm thức của mình. Tuy nhiên, điều không may là nó được viết cho phương Đông và bất kỳ nỗ lực nào tái tạo các lý thuyết này theo cách diễn đạt phương Tây đều mang đến sự giới hạn trong việc hiểu các điểm tinh tế liên quan. Yoga đưa ra giả thuyết rằng không có thứ gọi là chân không. Mọi không gian, bên trong và bên ngoài giới hạn của hành tinh và hệ mặt trời của chúng ta, đều chứa đầy một thứ gì đó. Thứ ‘gì đó’ này rất thực đối với nhà yogi.

Thực tế, đó là vật chất của một trật tự ‘vi tế’, tinh tế và không thể chạm vào được so với khí, như khí là so với chất rắn. Vật chất vi tế này, chủ yếu mang điện tích trung tính, thẩm thấu và lấp đầy mọi không gian, thậm chí chảy qua các khoảng trống rộng trong nguyên tử. Đây là chất căn bản, vật liệu hoặc môi trường từ đó mọi nguyên tố được hình thành và qua đó các lực vật lý như nhiệt và ánh sáng có thể hoạt động.

Ở phương Tây, cũng có những giả thuyết tương tự từ một số nhà khoa học, trong đó đáng kể là Sir Oliver Lodge (và cuốn sách của ông Ether and Reality). Chúng ta hãy gọi môi trường ‘vi tế’ hoặc vật chất căn bản của họ là ether. Nhà Yogi đề xuất rằng trong khu vực trái đất (và đối với các hành tinh khác cũng vậy), có một sự tập trung mạnh hơn của aether và rằng có nhiều giai đoạn kết hợp của aether để hình thành ‘hạt’ (mà yogi thích gọi là xoáy lốc), nằm trong khoảng giữa electron và nguyên tử hydro. Không chỉ aether tập trung nhiều hơn ở khu vực của các hành tinh, thẩm thấu vào các chất rắn, lỏng và khí của chúng với các tổ hợp khác nhau, mà trong vật chất của thực vật, động vật và con người, còn có sự tập trung aether mạnh hơn.

Có một mạng lưới toàn bộ các hạt ether ở trạng thái cân bằng động, nằm bên dưới các mô của cơ thể con người. Tuy nhiên, rất khó tiếp cận mạng lưới ether này vì nó chủ yếu phụ thuộc lẫn nhau (trong các tổ hợp lớn nhất của nó) với mô sống và sẽ nhanh chóng phân rã nếu bị đuổi theo bằng dao mổ của bác sĩ phẫu thuật. Tuy nhiên, Yoga nói rằng nó tồn tại, và mạng lưới này như một tổng thể hoạt động như một trung gian để tiếp nhận năng lượng từ mặt trời và khí quyển (đặc biệt là khi khí quyển mang ion âm).

Mạng lưới này được gọi là một tấm bản thu và phát sinh lực sống, hoàn toàn khác biệt với thứ mà chúng ta ở phương Tây gọi là năng lượng cháy nổ. Chất nền ether bên dưới này truyền sinh lực (thứ cấu thành sự khác biệt giữa sống và vừa mới chết) đến các mô cơ thể như chúng ta biết. Nó hoạt động như một tổng thể thống nhất, một cơ thể thẩm thấu lẫn nhau. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành phôi và sự phát triển của nó, trong việc tái tạo các chi ở động vật không xương sống thô sơ và mô thần kinh (và các mô khác) bị tổn thương ở con người.

Mạng lưới hoặc thể ether được bao bọc trong một vầng ánh sáng cực tím và hoạt động theo các định luật nhất định mà các nhà yogi được cho là biết rõ. Những thay đổi trong trạng thái cân bằng của nó lập tức được phản ánh lên cơ thể khí-lỏng-rắn bên trên. Các ion là trạng thái thô thiển nhất (đậm đặc nhất) của vật chất ether. Các yogi nói rằng chính phần ether của cơ thể mới thực sự cảm nhận được đau đớn và cảm giác trong các trạng thái khí-lỏng-rắn, và họ khẳng định rằng có thể làm cho phần ether mất chỉnh hợp với phần đậm đặc hơn (cơ thể vật lý) thông qua việc sử dụng thuốc, chất gây mê, cũng như trong giấc ngủ và trạng thái Samadhi.

Các kỹ thuật Yoga nhằm đạt được sự tách rời tâm thức bằng cách làm cho thể ether mất chỉnh hợp được biết đến rộng rãi, và thôi miên cũng đạt được kết quả tương tự bằng các kỹ thuật khác nhau. Tuy nhiên, thông qua Yoga, không có sự hy sinh cá nhân cho một người khác, không có mất ý thức, mà chỉ đơn thuần là tách rời thể ether khỏi bản sao vật chất hơn của nó. Chúng ta phải dừng lại ở đây về các giáo lý rộng lớn của Yoga và xem xét những bằng chứng nhỏ nhưng ngày càng tăng để hỗ trợ giả thuyết về một thể ether.

Công trình của Tiến sĩ Kilner trong cuốn sách The Human Atmosphere hiện lên trong tâm trí. Ông đã thực nghiệm với các hiệu ứng làm nhạy cảm võng mạc của mắt với ánh sáng cực tím. Ông là trưởng kỹ sư điện tại Bệnh viện St. Thomas’, London, khi một ngày nọ ông nhận thấy trong ánh sáng mờ một loại bức xạ hoặc khí quyển bao quanh hay ‘bao phủ’ các bệnh nhân của mình. Ông đã tiến hành kiểm tra để xem liệu hiện tượng này có phải là ảo giác hay không, nhưng sau khi cố gắng không thành công trong việc loại bỏ khí quyển hoặc hào quang này bằng nhiệt, từ tính, v.v., ông nhận thấy rằng hiện tượng này không chỉ tồn tại bên ngoài da của các bệnh nhân, mà còn thẩm thấu vào cơ thể họ.

Chất giống như đám mây dường như phản chiếu các bước sóng ánh sáng ở phía đầu tím của quang phổ. Bằng cách làm các màn kính nhuộm bằng thuốc nhuộm dicyanin, Tiến sĩ Kilner đã có thể làm nhạy cảm võng mạc với ánh sáng tím. Điều này, kết hợp với một phông nền đủ tối, đã mang lại sự tham gia của nhiều thanh võng mạc ngoại vi hơn. Kết quả ban đầu rất đáng khích lệ. Khoảng 380 trên 400 người thử nghiệm với các màn kính đã có thể quan sát hiện tượng này.

Chất thẩm thấu vào cơ thể này có các mẫu và hình thái nhất định, tương ứng với sức khỏe sôi động và thay đổi khi bệnh tật xuất hiện. Chỉ từ việc nghiên cứu các mẫu hình này, Kilner đã có thể phát hiện các bệnh cụ thể và các khối u ác tính. Có vẻ ông không biết về các giáo lý phương Đông của Yoga về hào quang và thể etheric của con người. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm gián đoạn các cuộc nghiên cứu của ông, và với việc không thể tiếp cận thuốc nhuộm từ Đức, không nhiều tiến bộ đã được đạt được trước khi ông qua đời.

Sau đó, công trình của George de la Warr ở Oxford đã chứng minh rằng các khía cạnh tương tự và rộng hơn của lĩnh vực điều tra này có thể được đưa vào lĩnh vực nhiếp ảnh (New Worlds Beyond The Atom của George de la Warr). Đến đầu những năm 1970, Swami Rama đã hành trình đến Bắc Mỹ, nơi ông cung cấp bằng chứng lâm sàng gây kinh ngạc về một loạt hiện tượng Yoga.

Vào đầu những năm 1970, người bạn thân thiết của tôi, Swami Rama, có lẽ là Yogi nổi tiếng nhất thế giới hiện nay, đã ở lại nhà tôi. Ông đang trên đường đến Bắc Mỹ và cho tôi xem một danh sách các kỳ công sinh lý mà ông dự định thực hiện tại Menninger Medical Foundation ở Topeka, Kansas, Hoa Kỳ. Danh sách đó thật đáng kinh ngạc. Ông đề xuất sử dụng bản thân làm ‘chuột bạch’ để điều tra dưới các điều kiện thử nghiệm khoa học các kỳ công kiểm soát cơ thể, một số trong đó tôi đã chứng kiến trước đó.

Chuyến đi của ông đến Bắc Mỹ giờ đây đã trở thành một phần của lịch sử y khoa. Những kỳ công mà ông biểu diễn tại Menninger Foundation đã dẫn đến sự xuất hiện của một ngành y học hoàn toàn mới, được gọi là phản hồi sinh học (biofeedback). Ngày nay, những người trẻ theo học trường y sẽ nghiên cứu các sách giáo khoa trong đó ghi lại các kỳ công đáng kinh ngạc của Rama.

Dưới đây là một số điều mà ông đã có thể biểu diễn trong các điều kiện thử nghiệm, đôi khi trước các nhóm bác sĩ:

Ông đã có thể nâng nhiệt độ của một phần cơ thể lên cao hơn nhiều so với các phần khác, trong khi chúng ta đều biết rằng con người là sinh vật máu nóng và giữ nhiệt độ ổn định ở mức 98.4°F. Chính tác giả đã nhớ lại Swami Rama biểu diễn một lần khả năng làm cho một chân lạnh và băng giá như một xác chết, trong khi chân kia đỏ rực và nóng với máu chảy dồn dập.

Swami Rama có khả năng tự ý tăng hoặc giảm huyết áp, và từ những thực hành này, các kỹ thuật tâm lý được giám sát bằng thiết bị đã được phát triển, cho phép những người mắc bệnh cao huyết áp quan sát các mẫu hành vi nào của họ chịu trách nhiệm làm tăng hoặc giảm huyết áp. Thông qua can thiệp sau đó, sử dụng phương pháp phản hồi sinh học này, các cá nhân có thể điều chỉnh mức huyết áp của mình tương ứng. Lợi ích của loại y học mới này là không cần sử dụng thuốc điều trị cao huyết áp.

Hiện tượng kiểm soát nhịp tim luôn làm mê hoặc con người, và Swami Rama đã biểu diễn khả năng dừng dòng máu tim, được cho là bằng cách gây ra rung tim. Bằng các hành động duy trì sức mạnh ý chí kết hợp với kiểm soát hơi thở, tất cả được giám sát bởi điện tâm đồ, vị yogi phi thường này đã thay đổi lưu lượng máu từ tim, qua đó ngăn não nhận oxy trong một khoảng thời gian kéo dài (khoảng sáu phút hoặc hơn). Điều ông thực hiện gần như là một trạng thái chết lâm sàng theo yêu cầu!

Các trợ lý phòng thí nghiệm giám sát sóng tim của ông từ phòng liền kề ấn tượng đến mức họ đã lao vào, mang theo thiết bị hồi sức để đưa Swami trở lại ý thức và ngăn chặn cái chết lâm sàng. Tuy nhiên, họ thấy ông hoàn toàn tỉnh táo và bình thản trò chuyện với các giáo sư nghiên cứu thần kinh sinh lý học. Theo ý muốn, ông có thể khôi phục chức năng tim.

Trong các điều kiện khác, ông có thể tự đưa mình vào trạng thái hôn mê sâu nhưng vẫn có thể nhớ các câu hỏi được đặt ra trong trạng thái này, điều mà đối với người bình thường đồng nghĩa với việc hoàn toàn mất ý thức.

Khi các nhà tổ chức các thí nghiệm này hỏi ông về những đường dẫn giải phẫu mà ông đã tác động để tạo ra các hiện tượng được mô tả—tức là, những đường dẫn thần kinh, mạch máu và dây thần kinh nào đã tham gia và có thể chịu ảnh hưởng của tâm trí—Swami điềm nhiên nói với họ rằng các phần ông kiểm soát trong các hiện tượng này chưa được mô tả trong các tài liệu giải phẫu phương Tây. Tất nhiên, ông đang đề cập đến các luân xa, nadis và các đường dẫn của Ida, Pingala và Shushumna tồn tại trong phần etheric của bản chất vật lý con người.

Mặc dù bằng chứng về sự tồn tại của các cấu trúc này xuất hiện chậm, nhưng các năng lực chức năng của chúng được biết đến rõ ràng từ các kỳ công Yoga, giờ đây đã trở nên phổ biến ở phương Tây.

Các hiện tượng được mô tả ở trên được các yogi coi là khía cạnh ít quan trọng nhất của Yoga. Họ trải qua những kỷ luật thể chất, trí tuệ và cảm xúc khắc nghiệt để đạt đến trạng thái Samadhi. Giống như các thánh nhân của Thiên Chúa giáo trong trạng thái “ân sủng,” hoặc các tín đồ thần bí của Zoroaster, Đức Phật, Mohammet và nhiều vị thầy khác từ Polynesia đến Stonehenge, họ mô tả Samadhi như một trạng thái xuất thần phi thường, trong đó họ cảm nhận sự hòa nhập hoặc từ bỏ ý thức về thế giới ba chiều tầm thường của chúng ta để hướng tới một tâm thức toàn diện.

Chính trong các trạng thái ý thức tinh thần đỉnh cao dạng kim tự tháp như vậy mà đỉnh cao của Con Người bừng sáng với con mắt tâm linh đã được thức tỉnh.

00003.jpeg

Leave Comment