CHƯƠNG II: Thông Thiên Học và Ki Tô Giáo (SOME GLIMPSES OF OCCULTISM)

CHAPTER II – THÔNG THIÊN HỌC VÀ KI TÔ GIÁO

Giới thiệu: Đây là chương trong quyển Some Glimpses on Occultism mà Ông C.W. Leadbeater viết riêng cho các độc giả Tây Phương, những Ki Tô hữu, để giải thích những chân lý quan trọng như Tái sinh và định luật Nhân Quả vốn không được chấp nhận trong Ki Tô giáo chính thống. Đối với các độc giả Phương Đông, quá quen thuộc với Thuyết Luân Hồi và Luật Nhân Quả, những biện luận này không quan trọng. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn dịch chương này để hoàn chỉnh những gì Ông đã viết.

Trong biện luận, Ông có giải thích một số câu nói ẩn dụ trong Tân Ước, như câu chuyện chàng thanh niên giàu có đến gặp Đức Christ, và lời của Đức Christ nói với chàng thanh niên:

“Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy đi, bán hết gia tài mình mà phân phát cho người nghèo, thì ngươi sẽ được một kho tàng trên trời; rồi hãy đến mà theo Ta.” (Matthew, 19:21)”.

Câu này được Chân sư DK giải thích cách khác:

“Chàng thanh niên giàu có là biểu tượng của điểm đạo đồ bậc ba, nhân thể đã phát triển qua nhiều kiếp sống và phải chuẩn bị cho sự từ bỏ cuối cùng ở lần điểm đạo thứ 4, khi nhân thể bị phá huỷ. Chàng thanh niên vẫn bám chấp vào thành tựu của quá khứ, chưa sẵn sàng cho sự từ bỏ vĩ đại đó.

“Việc sử dụng thuật ngữ nội môn này bởi Đức Christ trong câu chuyện của Tân Ước cho chúng ta một gợi ý về bản chất của tâm thức cao cả mà Ngài đã biểu hiện. Khi đối mặt với người thanh niên giàu có, người sở hữu rất nhiều, Đức Christ đã chỉ ra rằng y cần phải chuẩn bị cho một sự phủ định lớn và một bước tiến về phía trước. Ý nghĩa thực sự của điều này chưa bao giờ được thấu hiểu và nằm ở thực tế rằng cụm từ “người thanh niên giàu có” thực ra là một thuật ngữ kỹ thuật, thường được áp dụng cho một điểm đạo đồ bậc ba, giống như từ “những người nhỏ bé” hay “đứa trẻ nhỏ” áp dụng cho điểm đạo đồ bậc một hoặc bậc hai. Người thanh niên giàu có này giàu có trong phạm vi nhận thức, giàu có trong phẩm chất phàm ngã, giàu có trong khát vọng và sự nhận biết; y giàu có nhờ vào kinh nghiệm trường kỳ và sự phát triển tiến hóa. Đức Christ đã bảo y rằng y cần phải chuẩn bị cho điều được gọi trong Quy Luật V là “Tam nguyên tỏa sáng”; y cần phải chuẩn bị cho sự khai mở của tâm thức chân thần và cho lần điểm đạo thứ tư. Trong lần điểm đạo đó, thể nguyên nhân, thể trong đó linh hồn trải nghiệm và thu hoạch quả của kinh nghiệm, phải và sẽ bị hủy diệt. Điều này phải diễn ra trước khi điểm đạo đồ có thể bước vào Hội Đồng của Đấng Tối Cao và biểu hiện ý chí thiện lành và ý chí của Thượng đế nhằm thực hiện các mục đích của Thượng đế. Ý chí của “người thanh niên giàu có” này, dù y là một điểm đạo đồ, vẫn chưa đủ để đáp ứng các yêu cầu, nên y buồn bã ra đi; y cần phải chuẩn bị cho lần điểm đạo thứ tư, Đại Sự Từ Bỏ, Sự Đóng Đinh, và nhờ đó thích hợp để vượt qua “lỗ kim”.

Bạn có thể đọc và load file song ngữ ở đây

*********

Nhiều người cảm thấy bị thu hút bởi Thông Thiên Học, sự quan tâm của họ được khơi dậy bởi tính hợp lý của nó và bởi cách nó giải thích nhiều điều mà nếu không thì dường như không thể giải thích được, nhưng vẫn do dự trong việc nghiên cứu sâu hơn, lo ngại rằng họ có thể phát hiện ra nó mâu thuẫn với đức tin mà họ đã được nuôi dưỡng—lo sợ, như họ thường nói, rằng nó có thể lấy đi tôn giáo của họ. Làm thế nào mà nếu một tôn giáo là chân lý, việc nghiên cứu một chân lý khác có thể lấy đi nó, điều này không rõ ràng; nhưng dù nỗi sợ có phi lý đến đâu, thì chắc chắn rằng nó tồn tại. Tuy nhiên, nỗi sợ này không có cơ sở, vì Thông Thiên Học không tấn công cũng không phản đối bất kỳ hình thức tôn giáo nào; ngược lại, nó giải thích và hòa hợp tất cả. Nó cho rằng tất cả các tôn giáo đều là những nỗ lực nhằm trình bày cùng một chân lý vĩ đại cơ bản—khác nhau về hình thức bên ngoài và thuật ngữ, vì chúng được truyền đạt bởi những giáo chủ khác nhau, vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sử thế giới, và cho những chủng tộc khác nhau của nhân loại; nhưng luôn đồng ý ở các nguyên lý nền tảng và đưa ra những chỉ dẫn giống nhau về mọi chủ đề thực sự quan trọng. Chúng tôi trong Thông Thiên Học cho rằng chân lý này, nằm phía sau tất cả những đức tin, tự nó nằm trong tầm tay của con người, và thực tế đó chính là chân lý mà chúng tôi gọi là Thông Thiên Học hay Minh Triết Thiêng Liêng, và đó là điều mà chúng tôi đang cố gắng nghiên cứu.

Đây là thái độ của Thông Thiên Học đối với tất cả các tôn giáo; nó không mâu thuẫn với chúng mà giải thích chúng. Bất kỳ điều gì trong bất kỳ tôn giáo nào là phi lý hoặc rõ ràng là không đúng, nó bác bỏ vì cho rằng điều đó không xứng đáng với Thượng đế và làm giảm giá trị của Ngài; bất kỳ điều gì hợp lý trong từng tôn giáo và tất cả các tôn giáo, nó tiếp nhận và nhấn mạnh, và do đó kết hợp tất cả lại thành một toàn thể hài hòa. Không ai cần phải lo sợ rằng chúng tôi sẽ tấn công tôn giáo của họ, nhưng chúng tôi có thể giúp họ hiểu rõ hơn về tôn giáo của mình so với trước đây. Không có gì trong Thông Thiên Học trái ngược với Cơ Đốc giáo nguyên thủy chân chính, mặc dù đôi khi có thể không dễ đồng ý với cách giải thích mà thần học giáo điều hiện đại đưa ra về chân lý đó, một vấn đề hoàn toàn khác.

Hầu hết mọi người không bao giờ áp dụng lý trí của họ vào niềm tin tôn giáo của mình; họ mơ hồ hy vọng rằng mọi thứ đều ổn theo một cách nào đó; thực tế, nhiều tâm hồn trung thành còn coi việc suy nghĩ một cách phê phán về bất kỳ điểm nào của đức tin là sai trái, vì họ cho rằng những điều này vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Khi mọi người bắt đầu suy nghĩ, họ luôn bắt đầu nghi ngờ, bởi vì thần học hiện đại không trình bày các giáo lý của nó một cách hợp lý, và do đó họ nhanh chóng phát hiện ra rằng nhiều điểm là phi lý và khó hiểu. Quá thường xuyên, họ cảm thấy rằng toàn bộ cơ sở đức tin của họ bị lung lay, và họ tiến tới nghi ngờ mọi thứ. Đối với tất cả những linh hồn như vậy đang đấu tranh để tìm kiếm ánh sáng, tôi khuyến nghị họ nghiên cứu Thông Thiên Học, vì tôi tin chắc rằng nó sẽ cứu họ khỏi những vực thẳm đen tối của chủ nghĩa duy vật bằng cách trình bày chân lý cho họ theo một ánh sáng mới, và trao lại cho họ tất cả những gì đẹp nhất trong đức tin của họ, nhưng trên một nền tảng mới và vững chắc hơn của lý trí và lương tri.

Để làm rõ rằng không có sự mâu thuẫn thực sự nào giữa Cơ Đốc giáo và Thông Thiên Học, hãy để tôi trình bày cho các bạn những nguyên lý cơ bản của Thông Thiên Học; để các bạn không nghĩ rằng tôi đang khoác lên chúng một diện mạo quá đỗi Cơ Đốc giáo cho mục đích của buổi giảng này, tôi sẽ trích dẫn chúng từ một cuốn sách nhỏ mà tôi vừa viết dành cho những người mới bắt đầu nghiên cứu này. Nó có tên là “Phác thảo về Thông Thiên Học”, và trong đó tôi nêu ba chân lý cơ bản lớn, những hệ quả chắc chắn đi kèm với chúng, và những kết quả lần lượt xuất phát từ niềm tin Thông Thiên Học.

The Three Great Truths—Ba Chân Lý Vĩ Đại

Ba chân lý vĩ đại là:

1. Thượng Đế hiện hữu, và Ngài là thiện lành.

2. Con người là bất tử, và tương lai của y là một tương lai với vinh quang và huy hoàng vô hạn.

3. Một định luật thiêng liêng của công lý tuyệt đối điều khiển thế giới, sao cho mỗi người thực sự là quan tòa của chính mình, người ban phát vinh quang hoặc u sầu cho bản thân, là người quyết định cuộc sống, phần thưởng, và hình phạt của mình.

Gắn liền với mỗi chân lý vĩ đại này là những chân lý phụ kèm theo để giải thích. Từ chân lý đầu tiên, chúng ta có thể suy ra:

1. Rằng, bất chấp mọi bề ngoài, mọi sự vật đều đang vận động một cách thông minh và chắc chắn về phía điều thiện lành; rằng mọi hoàn cảnh, dù có vẻ bất lợi đến đâu, thực ra chính xác là những gì cần thiết; rằng mọi thứ xung quanh chúng ta đều có xu hướng không cản trở mà giúp đỡ chúng ta, nếu nó chỉ được hiểu đúng.

2. Rằng, vì toàn bộ hệ thống này có xu hướng đem lại lợi ích cho con người, rõ ràng con người có nghĩa vụ học cách hiểu nó.

3. Rằng khi con người hiểu được nó, y cũng có nghĩa vụ hợp tác thông minh trong hệ thống này.

Từ chân lý vĩ đại thứ hai, chúng ta suy ra:

1. Rằng con người đích thực là một linh hồn, và thể xác này chỉ là một phần phụ thuộc.

2. Rằng vì vậy y phải xem xét mọi thứ từ quan điểm của linh hồn, và trong mọi trường hợp khi có cuộc đấu tranh nội tâm, y phải nhận ra sự đồng nhất của mình với phần cao hơn chứ không phải phần thấp hơn.

3. Rằng cái mà chúng ta thường gọi là cuộc sống của y chỉ là một ngày trong cuộc sống thật sự và lớn hơn của y.

4. Rằng cái chết ít quan trọng hơn nhiều so với những gì thường được cho là, bởi vì nó không phải là kết thúc của cuộc sống, mà chỉ là sự chuyển tiếp từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của nó.

5. Rằng con người có một sự tiến hóa vô cùng lớn lao phía sau, việc nghiên cứu điều này thật hấp dẫn, thú vị và đầy tính giáo dục.

6. Rằng y cũng có một sự tiến hóa huy hoàng phía trước, việc nghiên cứu điều này sẽ còn hấp dẫn và đầy tính giáo dục hơn nữa.

7. Rằng có sự chắc chắn tuyệt đối về việc đạt đến đích cuối cùng cho mọi linh hồn nhân loại, dù y có vẻ như đã đi lạc xa khỏi con đường tiến hóa đến đâu.

Từ chân lý vĩ đại thứ ba, chúng ta có thể suy ra:

1. Rằng mọi tư tưởng, lời nói hoặc hành động đều tạo ra kết quả xác định—không phải là phần thưởng hay hình phạt áp đặt từ bên ngoài, mà là kết quả vốn có trong chính hành động đó, được kết nối chặt chẽ với nó trong mối quan hệ nhân quả, thực sự chỉ là hai phần không thể tách rời của một tổng thể.

2. Rằng đó vừa là nghĩa vụ vừa là lợi ích của con người khi nghiên cứu kỹ định luật thiêng liêng, để y có thể thích ứng với nó và sử dụng nó, như chúng ta sử dụng các định luật tự nhiên khác.

3. Rằng con người cần đạt được sự kiểm soát hoàn hảo đối với chính mình, để y có thể hướng dẫn cuộc sống của mình một cách thông minh phù hợp với định luật đó.

Đây không phải là một tín điều Thông Thiên Học mà tôi đang hình thành, vì những nguyên lý này không được đưa ra như những điều phải tin, mà được trình bày như những sự kiện xác định, được biết đến như vậy thông qua sự điều tra cá nhân của nhiều người trong chúng tôi, và có thể được kiểm chứng bởi tất cả những ai sẵn sàng bỏ công để đủ điều kiện cho việc nghiên cứu. Chúng tôi không yêu cầu các bạn chấp nhận điều gì nhiều hơn những gì chúng tôi tự biết là đúng. Ở đây và đó, đúng là chúng tôi đề cập đến những vấn đề quá cao để có thể có kiến thức trực tiếp mà những người môn sinh như chúng tôi hiện có; trong những trường hợp như vậy, bất kỳ phát biểu nào mà chúng tôi đưa ra đều dựa trên thẩm quyền của những môn sinh khác lớn tuổi hơn, những người biết nhiều hơn chúng tôi; nhưng khi điều đó xảy ra, chúng tôi luôn nói rõ ràng, giữ sự phân biệt rõ ràng giữa những gì chúng tôi tự biết và những gì chúng tôi chỉ tin tưởng, ngay cả khi chúng tôi tin nó trên cơ sở thẩm quyền tốt nhất có thể. Chúng tôi chỉ đơn giản trình bày hệ thống này để các bạn xem xét; nếu nó có vẻ hợp lý với các bạn, hãy đón nhận và kiểm tra nó kỹ lưỡng, nghiên cứu nó và sống cuộc sống mà nó đề xuất. Vì cuộc sống đó là một cuộc sống cao quý, sẽ không có điều gì gây hại cho các bạn nếu thử nghiệm một cách sống như vậy.

Is There any Contradiction—Liệu Có Sự Mâu Thuẩn không?

Vậy đây là những nguyên lý của Thông Thiên Học; chúng có mâu thuẫn với các nguyên lý của Cơ Đốc giáo hay không? Tôi dám khẳng định rằng không có gì trong chúng mâu thuẫn với Cơ Đốc giáo nguyên thủy chân chính khi nó được hiểu đúng cách, mặc dù có thể có những phát biểu không thể hòa giải được với một số sai lầm của thần học phổ thông hiện đại. Để tôi thử giải thích cho các bạn rõ hơn về điều này. Những điểm chính trong hệ thống của chúng tôi mà thần học chính thống hiện đại có thể phản đối là các giáo lý về luân hồi và nghiệp quả—nghiệp quả, ở đây, có nghĩa là định luật thiêng liêng về công lý vĩnh cửu, theo đó mỗi người phải chịu trách nhiệm không tránh khỏi về những việc làm sai trái của mình, và không ai khác có thể, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, giải thoát y khỏi trách nhiệm đó.

Thần học hiện đại đặc biệt coi trọng các văn bản Kinh Thánh; thực tế, theo quan điểm của tôi, dường như nó chủ yếu dựa trên một hoặc hai văn bản. Họ lấy các văn bản này và đưa ra một cách diễn giải cụ thể, thường trực tiếp mâu thuẫn với ý nghĩa rõ ràng của các văn bản khác từ cùng một cuốn Kinh Thánh. Dĩ nhiên, có những mâu thuẫn trong Kinh Thánh, cũng như chắc chắn phải có trong bất kỳ cuốn sách nào có quy mô như vậy, bởi các sách khác nhau được viết trong những thời kỳ khác nhau của lịch sử thế giới và bởi những người có trình độ hiểu biết và nền văn minh khác nhau. Không thể nào mà tất cả những tuyên bố này đều đúng theo nghĩa đen, nhưng chúng ta có thể quay ngược lại để cố gắng tìm hiểu điều mà vị giáo chủ ban đầu thực sự truyền dạy cho các môn đệ của mình. Vì có nhiều mâu thuẫn và nhiều cách diễn giải khác nhau, rõ ràng là trách nhiệm của một người Cơ Đốc biết suy nghĩ là phải cân nhắc cẩn thận những phiên bản khác nhau của đức tin mà hiện nay tồn tại trên thế giới, và quyết định dựa trên lý trí và lẽ thường của chính mình. Mỗi người Cơ Đốc hiện nay, trên thực tế, đều tự mình quyết định; y chọn trở thành một người Công giáo La Mã, hoặc một thành viên của Giáo hội Anh, hoặc một tín đồ Giám lý, hoặc một tín đồ Cứu rỗi, mặc dù mỗi giáo phái này đều tự xưng là có phiên bản Cơ Đốc giáo chân chính duy nhất, và biện minh cho tuyên bố của mình bằng cách trích dẫn các văn bản Kinh Thánh. Vậy thì người giáo dân bình thường quyết định giữa các tuyên bố đối nghịch của họ như thế nào? Hoặc y chấp nhận mù quáng đức tin mà cha y nắm giữ, và không hề xem xét, hoặc y có xem xét, và sau đó y quyết định bằng cách sử dụng phán đoán của chính mình. Nếu y đã làm như vậy, thì sẽ thật phi lý và không nhất quán khi y từ chối xem xét tất cả các văn bản, thay vì chỉ dựa vào một hoặc hai văn bản để xây dựng niềm tin của mình. Nếu y xem xét một cách vô tư tất cả các văn bản, y chắc chắn sẽ tìm thấy nhiều văn bản ủng hộ các chân lý Thông Thiên Học.

How Divergence Arises——Các Dị Biệt Phát Sinh Như Thế Nào

Đừng nghĩ rằng bạn bất trung với Đấng Sáng Lập Cơ Đốc giáo nếu bạn thừa nhận sự tồn tại của những cách diễn giải khác nhau và khả năng sai sót trong tất cả những diễn giải đó. Sự khác biệt luôn xảy ra tất yếu trong sự phát triển của mọi tôn giáo. Nếu bạn suy nghĩ một cách công bằng, bạn sẽ thấy rằng điều này là không thể tránh khỏi. Trong mọi tôn giáo, luôn có vị Thầy đầu tiên, Người đưa ra cách trình bày chân lý của mình với tất cả sức mạnh của tri thức cá nhân trực tiếp, được bao quanh bởi các đệ tử, những người có lòng nhiệt thành được khơi dậy nhờ sự tiếp xúc với Ngài, khiến họ cảm thấy một sự chắc chắn không kém phần mạnh mẽ như chính Ngài. Có lẽ một số trong số họ, dưới ảnh hưởng của từ tính của Ngài, phát triển khả năng tự mình thấy được nhiều chân lý trực tiếp. Theo thời gian, vị Thầy rời bỏ họ, và thế hệ đệ tử của Ngài qua đời. Tôn giáo được tiếp tục bởi những người theo sau họ, và những người này thường không có sự tiếp cận cá nhân trực tiếp với chân lý, mà chỉ hình thành đức tin của mình dựa trên giáo lý được truyền lại bởi những người đi trước. Rồi dần dần giáo lý này được ghi chép lại, để tránh việc nó bị lãng quên hoặc xuyên tạc, và do đó, một bộ kinh điển xuất hiện. Việc viết lách một cách hoàn hảo để không thể bị hiểu lầm là điều không dễ dàng, và thế là các cách diễn giải khác nhau xuất hiện. Tự nhiên, những người thầy khác nhau giải thích theo những cách khác nhau, và như vậy, các giáo phái hình thành, và sự cay đắng giữa họ nảy sinh. Một giáo hội lớn lên—một nhóm người cho rằng chỉ có họ nắm giữ chân lý mới này, và quyền lợi trực tiếp của họ là duy trì một cách diễn giải nhất định về nó. Dần dần, giáo hội này có tài sản, và do đó, lợi ích được thiết lập, và những cân nhắc hoàn toàn xa lạ với tinh thần tôn giáo chân chính (và thường hoàn toàn đối nghịch với nó) không thể tránh khỏi được đưa vào. Sau đó, sự kết tinh diễn ra, và từ đó chúng ta có sự hẹp hòi, cố chấp, thế tục và sự suy thoái hệ quả; và tất cả những điều này không phải do bất kỳ thói xấu hoặc sự cẩu thả đặc biệt nào của bất kỳ ai liên quan, mà là kết quả tự nhiên của quá trình lịch sử.

Chúng ta có thể thấy điều này đã xảy ra như thế nào với Ấn Độ giáo và Phật giáo; nếu chúng ta có thể nhìn với con mắt công bằng, chúng ta cũng sẽ thấy điều đó đã xảy ra với Cơ Đốc giáo như thế nào, mặc dù tôi biết rằng nhiều người chính thống tốt lành sẽ coi đó là tà ác và vô thần khi nói như vậy; nhưng chắc chắn không thể là tà ác khi nói ra sự thật như đã được thể hiện trong các trang sử. Vì điều này rõ ràng là sự thật, nếu chúng ta muốn khám phá và nghiên cứu Cơ Đốc giáo chân chính, chúng ta phải quay lại các giáo lý ban đầu và xem các giáo lý đã được diễn giải như thế nào vào những thời kỳ trước. Nếu chúng ta làm điều này, chúng ta sẽ thấy rằng đức tin được giảng dạy lúc đó hoàn toàn không phải là thần học cứng nhắc của ngày nay, mà là một tôn giáo mang tính tinh thần và triết lý hơn nhiều, tương ứng ở nhiều điểm với chân lý nằm phía sau mọi tôn giáo, mà chúng ta hiện nay đang nghiên cứu dưới tên gọi Thông Thiên Học.

Reincarnation—Tái Sinh—Reincarnation—Tái Sinh

Như tôi đã nói, những điểm chính trong bản phác thảo về Thông Thiên Học mà các nhà thần học chính thống có thể phản đối là các giáo lý về luân hồi và hành động không thể tránh khỏi và tự động của công lý thiêng liêng. Cả hai giáo lý này đều không được giáo hội ngày nay nắm giữ, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm thấy một số bằng chứng cho thấy rằng chúng không phải là điều xa lạ trong các thời kỳ đầu. Ít có những tài liệu trực tiếp về giáo lý luân hồi trong các kinh sách như chúng ta có hiện nay, nhưng có một hoặc hai đoạn không thể nhầm lẫn. Có một tuyên bố rõ ràng và dứt khoát của chính Đức Jesus, điều mà dĩ nhiên phải kết thúc câu hỏi này một lần và mãi mãi đối với bất kỳ ai tin vào lịch sử Phúc âm và vào cảm hứng của Kinh Thánh. Khi Ngài nói về John the Baptist và hỏi về các quan điểm chung xung quanh Ông, Ngài kết thúc cuộc trò chuyện bằng cách khẳng định mạnh mẽ: “Nếu các ngươi tin nhận, thì đây chính là Ê-li đã phải đến.” (Matthew XI 14).

Tôi biết rằng các nhà thần học chính thống nghĩ rằng Jesus không có ý nói điều Ngài đã nói trong trường hợp này, và họ muốn chúng ta tin rằng Ngài đã cố gắng giải thích rằng Ê-li là một hình mẫu của John the Baptist. Nhưng để đáp lại lý lẽ không thành thật như vậy, chỉ cần đặt câu hỏi rằng người ta sẽ nghĩ gì về bất kỳ ai trong đời sống bình thường cố gắng giải thích một tuyên bố theo cách vụng về như vậy. Đức Christ biết quan niệm phổ biến về những vấn đề như thế; Ngài biết rằng bản thân Ngài được dân gian cho là hiện thân luân hồi của Ê-li, đôi khi là Giê-rê-mi, và đôi khi là một trong các tiên tri khác (Mathew XVI, 14); và Ngài biết rằng sự trở lại của Ê-li đã được tiên tri, và tất cả dân chúng thường xuyên mong đợi sự xuất hiện của Ông. Do đó, khi đưa ra một tuyên bố trực tiếp như thế này, Ngài không thể không biết rằng tất cả những người nghe sẽ hiểu chính xác Ngài nói gì. “Nếu các ngươi tin nhận”—tức là, nếu các ngươi có thể tin điều đó—“người này chính là Ê-li mà các ngươi đang mong đợi.” Đó là một tuyên bố rõ ràng, và việc cho rằng khi Đức Christ nói điều đó Ngài không có ý như vậy, mà thay vào đó muốn diễn đạt điều gì đó mơ hồ và tượng trưng, chính là cáo buộc Ngài cố tình làm dân chúng hiểu lầm bằng cách đưa ra cho họ một tuyên bố trực tiếp mà Ngài chắc chắn phải biết rằng họ chỉ có thể hiểu theo một cách duy nhất. Hoặc Đức Christ đã nói điều này, hoặc Ngài không nói nó; nếu Ngài không nói, thì cảm hứng của Phúc âm sẽ ra sao? Nếu Ngài đã nói, thì luân hồi là một sự thật.

Một đoạn khác đề cập đến giáo lý này xuất hiện trong câu chuyện về người mù từ khi sinh ra, và được đưa đến Đức Jesus để được chữa lành. Các môn đồ hỏi: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, người này hay cha mẹ của người, mà người sinh ra đã bị mù?” (John IX. 2). Câu hỏi này ngụ ý niềm tin vào một phần lớn giáo lý của Thông Thiên Học trong tâm trí những người đã hỏi nó. Bạn sẽ thấy rằng họ rõ ràng giữ ý tưởng về nhân quả và công lý thiêng liêng. Đây là trường hợp của một người sinh ra đã bị mù—một tai họa khủng khiếp, tất nhiên, đối với cả đứa trẻ và cha mẹ của nó. Các môn đồ nhận ra rằng điều này phải là kết quả của một số tội lỗi hoặc sự ngu muội; và câu hỏi của họ là tội lỗi của ai đã gây ra kết quả đáng buồn này. Có phải người cha đã quá tội lỗi đến mức Ông ta đáng phải chịu nỗi đau có một người con mù; hay có phải trong một trạng thái tồn tại trước đó, người đàn ông này đã phạm tội, và do đó tự đưa mình đến số phận đáng thương này? Rõ ràng, nếu khả năng thứ hai là giải pháp đúng, thì những tội lỗi đáng bị trừng phạt này phải đã được thực hiện trước khi người này sinh ra—tức là trong một cuộc sống trước; vậy thực tế cả hai trụ cột lớn của giáo lý Thông Thiên Học mà chúng tôi đã đề cập đều được ngụ ý rõ ràng trong câu hỏi này.

Câu trả lời của Đức Jesus đáng được chú ý. Chúng ta biết rằng trong những dịp khác, Ngài không bao giờ chậm trễ trong việc bình luận mạnh mẽ về các giáo lý hoặc thực hành không chính xác; Ngài đã nói rất mạnh mẽ vào nhiều dịp với những thầy thông giáo, người Pha-ri-si và những người khác. Do đó, nếu luân hồi và ý tưởng về công lý thiêng liêng là những niềm tin sai lầm và ngu ngốc, chúng ta chắc chắn sẽ mong đợi thấy Ngài nhân cơ hội này để quở trách các môn đồ vì đã nắm giữ chúng; nhưng chúng ta nhận thấy rằng Ngài không làm điều đó. Ngài chấp nhận những gợi ý của họ như một điều hiển nhiên; Ngài không quở trách họ dưới bất kỳ hình thức nào, mà giải thích rằng không phải giả thuyết nào trong số họ nêu ra là nguyên nhân thực sự của sự khốn khó trong trường hợp cụ thể này; “Người này không phạm tội, cha mẹ người cũng vậy, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ ra nơi người ấy.

Nhiều năm trước, một giáo sĩ Anh đã viết một cuốn sách đáng chú ý có tên Từ Cái Chết đến Ngày Phán Xét, trong đó Ông chỉ ra rằng luân hồi là giáo lý bí mật vĩ đại của tôn giáo Cơ Đốc, giáo lý này giải quyết tất cả những khó khăn của nó và biến nó thành một hệ thống nhất quán và hợp lý. Gần đây, một mục sư Giám lý ở Mỹ đã xuất bản một cuốn sách có tên Sự Sinh Ra—Cơ Hội Mới, trong đó Ông cũng tranh luận về vấn đề tương tự, mặc dù theo một hướng khác. Lý thuyết về tái sinh của Ông chỉ một phần đồng ý với quan điểm của chúng tôi, vì Ông phủ nhận rằng linh hồn hiện nay có bất kỳ sự tồn tại có ý thức nào ngoài các thể xác liên tiếp của nó; nhưng điều thú vị là dọc theo các hướng suy nghĩ khác nhau như vậy, những người với quan điểm khác nhau đang bắt đầu nhìn thấy sự cần thiết của giáo lý cơ bản này.

Một đoạn trích từ cuốn sách đầu tiên đáng được trích dẫn ở đây, nhằm chỉ ra cách mà ý tưởng về luân hồi gây ấn tượng với một người Cơ Đốc chính thống suy nghĩ sâu sắc và không thành kiến: “Kinh Thánh rõ ràng tuyên bố rằng chúng ta sẽ bị phán xét và được thưởng hoặc bị kết án tùy theo những hành động chúng ta đã thực hiện trên trái đất này… do đó, chúng ta không thể giả định rằng những điều kiện sau này sẽ tốt hơn những điều kiện mà chúng ta hiện đang tồn tại, vì điều đó sẽ yêu cầu sự thăng tiến của những người bị kết án đến một cuộc sống vinh quang hơn, từ đó họ cuối cùng sẽ bị giáng xuống sự sỉ nhục vĩnh cửu; cũng không thể giả định rằng những điều kiện này tệ hơn những gì chúng ta hiện đang hưởng thụ, vì điều đó sẽ làm giảm giá trị những người đức hạnh; cũng không thể giả định rằng sẽ có những trạng thái riêng biệt—một trạng thái tiến bộ cho người đức hạnh, và một trạng thái thụt lùi cho kẻ xấu, vì điều đó sẽ tạo ra một địa ngục chứa đầy những sinh vật ác độc bị kết án theo đuổi điều ác trước khi phán xét cuối cùng; tất cả những giả định này đều đi trước phán xét cuối cùng; không có quyền uy nào trong Kinh Thánh để hỗ trợ cho bất kỳ điều nào trong số chúng. Do đó, rõ ràng là nếu có bất kỳ sự tồn tại tích cực nào cho linh hồn sau cái chết, thì các điều kiện mà nó phải tồn tại không thể khác biệt với những điều kiện mà nó hiện đang tồn tại trên trái đất. Vì những điều kiện này không thể khác với tình trạng hiện tại của chúng ta, nên chúng ta bị cuốn vào kết luận tất yếu rằng chúng phải giống nhau; rằng nếu có sự tồn tại cho linh hồn sau khi chết, thì nó phải ở trong một thể xác con người trên trái đất này. Kết luận đạt được là sau khi chết, linh hồn lại đi qua quá trình sinh ra, và xuất hiện trên trái đất trong thân thể của một đứa trẻ sơ sinh; rằng thời gian giữa cái chết và ngày phán xét sẽ được trải qua trong các kiếp sống liên tiếp trên trái đất. Tác giả sau đó tiếp tục chỉ ra “không chỉ rằng kết luận này được kinh thánh chấp thuận, mà còn rằng tất cả các giáo lý của đức tin Cơ Đốc đều dựa trên nó; rằng đó là nền tảng chính của giáo huấn của Đức Christ, lý do của sự tồn tại của chúng ta trên trái đất, và là cách duy nhất mà qua đó chúng ta có thể cuối cùng đạt được sự cứu rỗi.” Ông còn thêm rằng: “Nếu lý thuyết này được chấp nhận, thì niềm tin của những người theo thuyết Toàn Phúc (rằng tất cả sẽ được cứu rỗi cuối cùng) trở nên khả thi.” (Từ Cái Chết đến Ngày Phán Xét, của Gerald D’Arcy, trang 13).

Hơn nữa, điều này giải quyết nhiều khó khăn lớn lao cho chúng ta. Hãy nghĩ về sự bất bình đẳng khủng khiếp trên thế giới. Nếu chúng ta nhìn quanh bất kỳ thành phố lớn nào, chúng ta sẽ thấy một số người sống trong xa hoa và những người khác đang chết đói, một số người có mọi lợi thế trong việc được giáo dục cao hơn, về nghệ thuật, âm nhạc và triết học để phát triển khía cạnh đạo đức của bản tính họ, và những người khác sống giữa tội phạm, những người gần như không có cơ hội nào cho sự tiến bộ đạo đức trong kiếp sống này. Hãy lấy trường hợp của một đứa trẻ sinh ra trong một khu ổ chuột của một thành phố lớn, sinh ra trong một bầu không khí tội phạm, có cha là kẻ nghiện rượu và mẹ là kẻ trộm cắp. Đứa trẻ đó từ ngày sinh ra chưa từng thấy điều gì ngoài tội lỗi và tội ác; nó chưa bao giờ thấy được mặt tươi sáng của cuộc đời, và hoàn toàn không biết gì về bất kỳ tôn giáo nào. Cơ hội để nó tiến bộ có tương xứng với cơ hội mà chúng ta đã có không? Lợi ích của nó từ âm nhạc, nghệ thuật, văn học và triết học của chúng ta là gì? Nếu bạn có thể đột ngột kéo nó ra khỏi môi trường đó và đặt nó vào giữa chúng ta, nó sẽ không hiểu chút nào về cuộc sống của chúng ta, bởi vì nó chưa được nuôi dưỡng để hiểu những điều này. Cơ hội của nó rõ ràng không hề bằng cơ hội của chúng ta. Nếu bạn ra ngoài phạm vi của nền văn minh, bạn sẽ vẫn thấy những bộ tộc hoang dã tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới; vậy cơ hội của họ là gì? Không thể tưởng tượng rằng những người đó có thể phát triển đầy đủ như chúng ta. Làm sao để giải thích được điều này?

The Three Hypotheses—Ba Giả Thuyết

Có ba giả thuyết khả thi—ba lý thuyết về cuộc sống có thể xảy ra. Thứ nhất là giả thuyết duy vật, cho rằng không có kế hoạch gì về cuộc sống cả, rằng chúng ta chỉ bị chi phối bởi sự may rủi mù quáng; chúng ta sinh ra ngẫu nhiên và chết ngẫu nhiên, và khi chúng ta chết, đó là sự kết thúc của chúng ta. Đây không phải là một lý thuyết đặc biệt thỏa mãn, không phải là điều chúng ta muốn chấp nhận trừ khi chúng ta bị ép buộc phải tin. Nhưng liệu chúng ta có thực sự bị ép buộc như vậy không? Tôi nghĩ là không; thực tế, tất cả các bằng chứng rõ ràng chỉ ra theo hướng ngược lại. Mục đích của tất cả sự tiến bộ mà chúng ta thấy đang diễn ra xung quanh chúng ta là gì nếu nó không hướng tới một mục đích rõ ràng?

Giả thuyết thứ hai là giả thuyết về sự tùy ý của Thượng Đế, lý thuyết cho rằng Thượng Đế đặt một người ở đây và một người khác ở đó vì Ngài chọn làm như vậy, và mặc dù cơ hội để tiến bộ của họ hoàn toàn không cân bằng, nhưng số phận vĩnh cửu của họ vẫn phụ thuộc vào khả năng đạt đến một mức độ đạo đức cao. Lý thuyết này không cố gắng giải thích sự bất bình đẳng trong cuộc sống trần gian, và trao cùng một phần thưởng thiên đàng cho tất cả số ít người được cho là đạt được nó, bất kể mức độ đau khổ mà họ đã chịu đựng ở đây. Hiện tại, có một số sửa đổi của lý thuyết này được đề xuất bởi hầu hết các hình thức tôn giáo phương Tây, mặc dù nó không phải là giáo lý chân chính và nguyên thủy của Cơ Đốc giáo.

Chắc chắn đối với một người biết suy nghĩ, một Thượng Đế đã đặt chúng ta vào một hoàn cảnh xung quanh tử tế, trong đó chúng ta khó có thể đi lạc xa, và đồng thời đặt một người khác vào hoàn cảnh mà chúng ta đã mô tả, nơi gần như không thể để làm điều đúng, thì khó mà là một vị thần công chính. Thực tế, một số người rất sùng đạo đã cảm thấy buồn bã khi buộc phải thừa nhận rằng hoặc là Thượng Đế không toàn năng và không thể giúp được nỗi khổ và tội lỗi mà chúng ta thấy trên thế giới, hoặc là Ngài không toàn thiện và không quan tâm đến sự đau khổ của các sinh linh của Ngài. Trong Thông Thiên Học, chúng tôi kiên quyết cho rằng Ngài vừa toàn yêu thương vừa toàn năng, và chúng tôi hòa giải niềm tin này với thực tế cuộc sống xung quanh bằng cách sử dụng giáo lý luân hồi. Tôi không biết bất kỳ lý thuyết nào khác có thể mang lại sự hòa giải như vậy; và chắc chắn rằng giả thuyết duy nhất cho phép chúng ta hợp lý tin tưởng, mà không nhắm mắt trước những sự thật hiển nhiên, rằng Thượng Đế là một Đấng Cha toàn năng và đầy tình yêu thương, thì ít nhất cũng đáng được xem xét cẩn thận trước khi chúng ta khinh thường bác bỏ nó để tuyên bố rằng Ngài không có những phẩm chất đó. Hãy lưu ý rằng không có lựa chọn nào khác; hoặc luân hồi là sự thật, hoặc ý tưởng về công lý thiêng liêng chỉ là một giấc mơ.

Chính thống giáo đối phó với vấn đề quan trọng này như thế nào? Thông thường nó hầu như không cố gắng giải quyết vấn đề này, mà chỉ hài lòng với lời nhận xét mơ hồ rằng công lý của Thượng Đế không giống như công lý của con người. Điều đó có lẽ đúng; nhưng ít nhất công lý thiêng liêng phải lớn hơn công lý của chúng ta, chứ không phải nhỏ hơn; nó phải là một sự mở rộng của công lý của chúng ta, bao gồm những cân nhắc vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta—không phải là điều gì đó thiếu hụt đến mức bao gồm những hành vi tàn bạo mà ngay cả chúng ta, chỉ là con người, cũng không bao giờ nghĩ đến việc phạm phải.

Nhưng giả thuyết thứ ba của chúng ta là gì? Lý thuyết về luân hồi gợi ý cho chúng ta điều gì? Rằng cuộc đời của con người dài hơn rất nhiều so với những gì chúng ta đã nghĩ; rằng con người là một linh hồn và có một thể xác, và cuộc sống mà chúng ta gọi là cuộc đời của y chỉ là một ngày trong cuộc sống thật sự và lớn lao hơn của linh hồn ấy. Con người thức dậy vào buổi sáng, học bài học của một ngày, và khi mệt mỏi, y nằm xuống nghỉ ngơi; và ngày hôm sau, y lại quay trở lại như một đứa trẻ đến trường, để học một bài học khác. Thể xác chỉ là chiếc áo mà y mặc khi y chuẩn bị ra ngoài làm việc trong ngày ở trường, và bỏ đi khi ngày làm việc kết thúc để tận hưởng sự tự do lớn hơn trong thời gian nghỉ ngơi ở nhà. Mỗi ngày y có một thể xác mới, và hết lần này đến lần khác y trở lại trái đất để học thêm những bài học mới, để phát triển những phẩm chất mới và cao hơn, và cứ thế quá trình tiến hóa tiếp diễn.

Như vậy, chúng ta nhận ra rằng những linh hồn chưa tiến hóa chỉ là những đứa trẻ trong lớp thấp hơn, và chúng ta không nên coi chúng là xấu xa hay thoái hóa, mà chỉ là những người anh em nhỏ hơn. Hãy nghĩ đến một đứa trẻ trong nhà trẻ; nó thực tế chỉ chơi suốt thời gian. Người ta không đặt nó vào công việc học tập cao hơn ngay lập tức, vì ở giai đoạn đó, nó không thể hiểu được, và việc dạy dỗ như vậy sẽ vô ích và có hại cho nó. Điều tương tự cũng đúng đối với một linh hồn; nó không thể nhận được những giáo lý cao hơn ngay từ đầu. Nó phải bắt đầu với những tác động mạnh mẽ và thô sơ hơn từ bên ngoài, những điều tác động đến nó trong cuộc sống hoang dã; nó phải bị khuấy động bởi những tác động mạnh mẽ và dứt khoát đó trước khi nó có thể học cách đáp ứng với những rung động tinh tế hơn ở các cấp độ cao hơn, nơi nền văn minh tiên tiến sẽ mang lại cho nó những cơ hội phát triển nhanh chóng. Qua những giai đoạn chậm rãi và qua nhiều kiếp sống, linh hồn đó sẽ đạt đến mức độ của chúng ta; nhưng nó không dừng lại ở đó. Trên thế giới đã có nhiều người nổi bật hơn hẳn đồng loại của họ; họ cho chúng ta thấy chúng ta sẽ trở thành gì, và họ tự thân là một bằng chứng cho luân hồi, vì không có cuộc sống đơn lẻ nào có thể tiến hóa từ một kẻ man rợ thành một Emerson, một Plato hay một Shakespeare. Nếu chúng ta chấp nhận luân hồi, chúng ta có thể giải thích một cách hợp lý sự tồn tại bên cạnh nhau của kẻ tội phạm và nhà triết học trên thế giới—nhưng không có giả thuyết nào khác có thể giải thích điều này.

Để hiểu đầy đủ điều đó, chúng ta phải đồng thời nắm lấy giáo lý lớn khác của Thông Thiên Học về Nghiệp quả, định luật nhân quả, và nhận ra rằng nếu một người làm xáo trộn sự cân bằng của tự nhiên, tự nhiên sẽ phản hồi lại y với chính sức mạnh mà y đã sử dụng. Theo định luật này, y được tái sinh; nếu y thấy mình ở trong những hoàn cảnh nhất định, thì đó là vì y đã hành động như vậy trong một kiếp trước để đưa mình vào những điều kiện này. Y đã tạo ra vị trí của mình và đang nhận được không chỉ những gì y xứng đáng, mà còn chính xác sự rèn luyện phù hợp nhất cho sự tiến hóa của y.

Đây là một phần thiết yếu lớn của giáo lý Thông Thiên Học mà chúng ta không bao giờ được quên. Mặc dù con người không mang theo trí nhớ chi tiết về cuộc sống trước đây của mình, linh hồn của y mang trong nó những phẩm chất đã được phát triển trong cuộc đời đó, để y chính xác là những gì y đã tự làm nên, và không nỗ lực nào là vô ích. Như vậy, toàn bộ thế giới là một khóa học tiến hóa vĩ đại theo cấp độ. Khi một người man rợ đã có nhiều kiếp sống và trải nghiệm như chúng ta, y có thể sẽ đứng ở vị trí của chúng ta; vì hàng ngàn năm trước, chúng ta đã đứng ở đúng vị trí mà y đang đứng bây giờ. Y chỉ đơn giản là trẻ hơn, và chúng ta không nên trách cứ y vì điều đó, cũng như không thể trách một đứa trẻ năm tuổi vì nó chưa đạt được mười tuổi.

Hãy lưu ý thêm rằng sự an ủi tuyệt vời là nhận ra rằng chúng ta có cả sự vĩnh cửu phía trước để phát triển. Đức Christ đã ra lệnh cho các môn đệ của Ngài: “Hãy nên hoàn thiện như Cha các ngươi ở trên trời là Đấng hoàn thiện,” nhưng nếu chúng ta đối mặt với thực tế, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta không thể trở nên hoàn thiện chỉ trong một đời. Chỉ có trong giáo lý về nhiều kiếp sống này, lệnh này mới có khả năng được tuân thủ. Nhưng với cơ hội vô hạn mà luân hồi mang lại, chắc chắn rằng chúng ta cũng sẽ tiếp tục tiến lên, cho đến khi đạt đến mức độ của các thánh, các hiền triết, các triết gia và các vị cứu tinh của nhân loại. Nhưng chỉ khi có kiến thức về cuộc sống rộng lớn hơn, chúng ta mới thấy điều này là khả thi—không chỉ có thể mà còn chắc chắn.

Trong số các giáo phụ của giáo hội thời kỳ đầu, chúng ta sẽ thấy rằng giáo lý này ít nhất cũng đã được hiểu phần nào. Những đề cập trực tiếp đến nó thì ít, nhưng có thể điều đó là vì nó được coi là một trong những giáo lý bí mật, hơn là điều gì đó được nói công khai hay công khai. Tôi sẽ có một vài lời về giáo lý bí mật này sau đây; nhưng trước tiên hãy để tôi nói về giáo lý lớn khác của công lý thiêng liêng.

The Law of Cause and Effect—ĐỊNH LUẬT NHÂN QUẢ—

Vì những lời này thường được thốt ra bởi những người thầy của tôn giáo, ban đầu có thể nghĩ rằng chúng ta không cần phải minh oan cho họ về việc chúng ta giảng dạy định luật công lý này. Tuy nhiên, chắc chắn rằng rất nhiều giáo lý tôn giáo ngày nay rõ ràng bao gồm một lý thuyết rằng chúng ta có thể trốn tránh hậu quả của những hành động của mình; thực tế, thần học hiện đại chủ yếu liên quan đến một kế hoạch né tránh công lý thiêng liêng, mà họ gọi là “sự cứu rỗi”; và kế hoạch này hoàn toàn phụ thuộc vào những gì một người tin, hay đúng hơn là những gì người đó nói rằng mình tin. Toàn bộ lý thuyết về “sự cứu rỗi” và thậm chí ý tưởng rằng có điều gì đó cần được “cứu rỗi” dường như dựa trên sự hiểu lầm về một số đoạn văn trong Kinh Thánh. Trong Thông Thiên Học, chúng tôi không tin vào ý tưởng về cái gọi là cơn thịnh nộ của Thượng Đế; chúng tôi cho rằng gán cho Thượng Đế những thói xấu của chúng ta như cơn giận và sự tàn nhẫn là một sự báng bổ khủng khiếp. Nhiều khi một người nổi cơn thịnh nộ, nhưng khi suy ngẫm lại, y nhận ra rằng y đã sai khi làm như vậy; và chúng tôi thấy rằng việc tin rằng Đấng Cha vĩnh cửu và đầy tình yêu thương lại phạm phải những hành động mà ngay cả chúng ta cũng nhận ra là không phù hợp là một sự hạ thấp khủng khiếp lý tưởng thiêng liêng vĩ đại. Điều đó dường như là tàn tích của thời kỳ man rợ nguyên thủy và sự thờ cúng tà thần—với ý tưởng rằng các quyền lực chính trong tự nhiên là những con quỷ ác cần được xoa dịu. Trong Thông Thiên Học, lòng tôn kính của chúng tôi đối với Thượng Đế quá lớn để chấp nhận bất cứ điều gì hạ thấp phẩm giá của Ngài như vậy. Thay vì mê tín dị đoan thấp kém này, chúng tôi có sự chắc chắn rằng Thượng Đế là một Đấng Cha toàn năng và đầy tình yêu thương, và ý chí của Ngài không nhằm vào việc kết án chúng ta, mà là hướng tới sự tiến hóa của chúng ta. Chúng tôi tin vào lý thuyết về sự phát triển liên tục và sự hoàn thành cuối cùng cho tất cả mọi người; và chúng tôi cho rằng sự tiến bộ của con người phụ thuộc, không phải vào những gì y tin, mà vào những gì y làm.

Chắc chắn có rất nhiều điều trong Kinh Thánh Cơ Đốc ủng hộ ý tưởng này. Bạn có thể nhớ lại lời cảnh báo nghiêm túc và chân thành mà Thánh Phaolô đã đưa ra cho người Galati trong chương sáu của Thư tín gửi họ—một lời cảnh báo dường như được viết đặc biệt cho các nhà thần học hiện đại, những người đề xuất sự bất công đáng kinh ngạc của sự chuộc tội thay: “Đừng lừa dối mình; Thượng Đế không bị lừa gạt; điều gì con người gieo, người ấy sẽ gặt.” Một lần nữa, khi viết cho người La Mã, Ông nói về “sự phán xét công bằng của Thượng Đế, Đấng sẽ báo trả cho mỗi người theo công việc của họ.” Không chỉ vị sứ đồ nói như vậy, mà Thầy của Ông cũng dạy cùng giáo lý đó. Bạn sẽ nhớ cách trong chương năm của Phúc âm theo Thánh Gioan, Ngài nói rằng “những người làm điều thiện sẽ bước vào sự sống lại của sự sống”—chứ không phải những người tin vào một giáo lý cụ thể nào đó.

Một điểm nổi bật khác được tìm thấy trong mô tả mà Đức Christ đưa ra về ngày phán xét cuối cùng trong chương hai mươi lăm của Phúc âm theo Thánh Matthew. Vì theo giáo lý thần học, chính Ngài là người sẽ phán xét trong dịp này, chắc chắn rằng sự miêu tả của Ngài về quá trình này phải là chính xác, và lời giải thích của Ngài về cơ sở mà trên đó các quyết định sẽ được đưa ra phải là đúng và dứt khoát. Ngài mô tả cách tất cả các dân tộc sẽ được đưa ra trước Vua, và cách họ sẽ được chia thành hai nhóm lớn, một số ở bên phải và một số ở bên trái, và các lý do cho sự phân loại này được đưa ra rõ ràng và dứt khoát. Từ việc nghiên cứu thần học hiện đại, chúng ta có thể mong đợi rằng câu hỏi quan trọng duy nhất mà tất cả mọi người sẽ phải trả lời chắc chắn là: “Bạn có tin vào Đức Christ, hay vào một số giáo lý nhất định không? Hay “Bạn có chấp nhận những giáo lý của giáo hội không?”

Người tín đồ chính thống phải ngạc nhiên khi nhận thấy rằng không có câu hỏi nào trong số này dường như được đưa ra trong vấn đề này; Đức Christ không hỏi một lời nào về những gì những người này đã tin, hoặc liệu họ có tin vào bất kỳ điều gì hay không. Quyết định dựa trên hành động chứ không phải niềm tin—không phải vào những giáo lý mà họ đã giữ, mà vào những gì họ đã làm. Câu hỏi duy nhất được đưa ra là liệu họ có nuôi dưỡng kẻ đói, có mặc cho người trần truồng, có giúp đỡ khách lạ và những người ốm yếu, khó khăn hay không—tức là, liệu họ có thực hiện bổn phận của mình đối với những người lân cận trong tinh thần từ bi và nhân ái hay không. Rõ ràng rằng theo mô tả này về Ngày Phán Xét—hãy nhớ rằng, đây là một mô tả được chính vị quan tòa đưa ra—một Phật tử, một tín đồ Ấn Độ giáo, một tín đồ Hồi giáo, hoặc một người bị coi là ngoại đạo của bất kỳ hình thức nào cũng có cơ hội đạt được sự sống vĩnh cửu của thiên đường như bất kỳ người Cơ Đốc giáo cuồng tín nào. Dường như các nhà thần học hiện đại không đọc Kinh Thánh của mình chút nào; hoặc đúng hơn, có vẻ như họ đã quá tập trung vào một số đoạn văn nhất định và những suy luận mà họ và những người đi trước đã rút ra từ đó, đến mức họ hoàn toàn mù quáng trước ý nghĩa đơn giản và rõ ràng của nhiều đoạn văn quan trọng khác.

The Inner Teaching—Giáo Lý Nội Môn

Tuy nhiên, có thể nói rằng, ít nhất trong thời đại ngày nay, các giáo lý về luân hồi và công lý hoàn hảo không được giảng dạy trong bất kỳ nhà thờ nào; vậy điều này có thể được giải thích như thế nào? Chúng tôi trả lời rằng, điều này là do Cơ Đốc giáo đã quên đi nhiều phần trong chính giáo lý ban đầu của mình—vì bây giờ Cơ Đốc giáo hài lòng với chỉ một phần, và đó là một phần rất nhỏ, của những gì nó từng biết. Có thể lập luận rằng ít nhất Giáo hội vẫn sở hữu các kinh thánh ban đầu, và giáo lý bắt nguồn từ những văn bản này lẽ ra không nên thay đổi. Như đã được chỉ ra, giáo lý hiện đại dường như chỉ dựa độc quyền trên một số đoạn văn bị trích ra khỏi bối cảnh, và bị diễn giải theo cách mâu thuẫn với nhiều đoạn khác. Từ một số ít đoạn văn bị sử dụng sai lầm này, một tòa nhà giáo lý vô lý và không vững chắc được xây dựng, và phần lớn giáo lý ban đầu của Giáo hội thời kỳ đầu bị lãng quên.

Chính những kinh thánh này thường xuyên nói với chúng ta về một điều gì đó nhiều hơn những gì đã được viết ra trong chúng—một điều gì đó chưa bao giờ được công khai cho quần chúng. Ngày nay, người ta thường phủ nhận rằng Cơ Đốc giáo từng có bất kỳ giáo lý huyền bí nào; thực tế, những giáo sư tôn giáo hiện tại còn tự hào về ý tưởng rằng tôn giáo này không chứa bất kỳ điều gì mà trí tuệ tầm thường nhất không thể hiểu được, và rằng mọi thứ đều được bày tỏ hoàn toàn cho cả những người không có học thức. Nếu lời tự hào này dựa trên sự thật, thì đó sẽ là một sự chỉ trích nghiêm trọng đối với Cơ Đốc giáo; bởi vì điều đó sẽ có nghĩa rằng tôn giáo này không có gì để cung cấp cho những người biết suy nghĩ. Mỗi tôn giáo lớn đều luôn thừa nhận rằng nó phải đối mặt với nhiều tầng lớp người khác nhau, và rằng nó cần phải có khả năng đáp ứng họ ở các cấp độ khác nhau.

Một tôn giáo phải cung cấp cho số lượng lớn những người đơn giản và không có học vấn, những người không có khả năng hiểu một hệ thống triết học hay siêu hình cao siêu; do đó, nó cần phải có một kế hoạch đạo đức rõ ràng và trực tiếp, hướng dẫn những người này cách sống, và nhấn mạnh rõ ràng rằng hạnh phúc hay đau khổ của họ sau này sẽ phụ thuộc vào bản chất cuộc sống của họ ở đây và bây giờ. Nhưng sẽ có nhiều người mà điều này không đủ thỏa mãn—những người có tâm trí sẽ tìm kiếm một kế hoạch lớn hơn trong Vũ trụ, những người sẽ đặt câu hỏi tại sao con người lại trở thành những gì mà y là, và tương lai của y sẽ ra sao. Câu trả lời cho tất cả những câu hỏi này chắc chắn sẽ bao hàm nhiều điều hoàn toàn không thể hiểu được đối với đức tin đơn giản của những người không có học vấn; thực tế, có thể là nhiều giáo lý cao hơn này chỉ làm rối loạn và gây hiểu lầm cho những người chưa sẵn sàng cho chúng.

Hơn nữa, kiến thức luôn luôn là sức mạnh; và do đó, sự hiểu biết toàn diện về những sự thật cao hơn này trao vào tay người môn sinh khả năng làm được nhiều hơn người không hiểu biết, cho dù là cho mục đích xấu hay tốt. Từ điều này, một kết luận tất yếu là cần phải thận trọng khi truyền đạt đầy đủ những giáo lý cao hơn này; và các giáo viên có thể đòi hỏi những đảm bảo nhất định rằng những người nhận được chúng sẽ chỉ sử dụng chúng vì lợi ích của nhân loại. Trong mọi tôn giáo trên thế giới, luôn có những giáo lý cao hơn và, ở một mức độ nào đó, mang tính bí mật; liệu có nên cho rằng Cơ Đốc giáo là ngoại lệ duy nhất đối với quy luật này? Nếu điều đó là đúng, Cơ Đốc giáo sẽ tự kết tội mình là một tôn giáo không hoàn hảo; nhưng sự thật là không phải vậy, bởi vì Cơ Đốc giáo cũng đã có những Bí Nhiệm và những giáo lý nội môn của mình, và đương nhiên, những giáo lý nội môn này giống hệt với những giáo lý của tất cả các tôn giáo khác trên thế giới, vì tất cả chúng đều là những nỗ lực để trình bày từ các quan điểm khác nhau về Chân Lý vĩ đại nằm sau tất cả chúng.

References to it.—Các tham chiếu về nó.

Đúng là giáo lý bí mật này dường như đã bị thất lạc, ít nhất là đối với các giáo phái Tin Lành ngày nay. Tuy nhiên, chúng ta không thể không thấy ngay cả trong những bản kinh thánh còn sót lại nhiều gợi ý về sự tồn tại của tri thức cao hơn này. Ví dụ, ý nghĩa của những lời mà Đức Christ thường xuyên nhắc đến về “Các Bí Nhiệm của Vương quốc Thiên Chúa” là gì, cùng với những lời Ngài nói với các môn đồ rằng chỉ có họ mới có thể nhận được sự giải thích đầy đủ và chân thực, trong khi với những người khác, Ngài phải nói bằng dụ ngôn? Một lần nữa, Ngài sử dụng các thuật ngữ chuyên môn liên quan đến giáo lý Bí Nhiệm nổi tiếng của thời cổ đại; và chỉ khi hiểu được giáo lý đó, chúng ta mới có thể tìm thấy ý nghĩa hợp lý cho nhiều phát ngôn của Ngài.

Câu hỏi về sự tồn tại của một mặt huyền bí trong Cơ Đốc giáo không phải là một vấn đề tình cảm, mà là một vấn đề thực tế; và sẽ vô ích khi những người không muốn tin điều đó cứ phản bác lại ý nghĩa rõ ràng và hiển nhiên của các tài liệu lịch sử. Cách tiếp cận tốt nhất cho chủ đề này là trước tiên hãy xem Đức Christ đã nói gì liên quan đến nó, sau đó lấy bằng chứng từ các tác phẩm của các môn đồ trực tiếp của Ngài, và sau đó xem liệu ý tưởng này có xuất hiện trong các Giáo phụ (Church Fathers) theo sau các sứ đồ hay không. Tôi nghĩ rằng trong tất cả những trường hợp này, một cuộc kiểm tra không thành kiến sẽ thuyết phục được người học rằng giáo lý bí mật đã tồn tại và được tất cả họ biết rõ. Ban đầu, có rất nhiều phúc âm hơn bốn cuốn mà chúng ta có hiện nay, và thậm chí bốn cuốn này có lẽ đã trải qua nhiều bàn tay chỉnh sửa trước khi đạt đến hình thức hiện tại; tuy nhiên, ngay cả trong những cuốn này, vẫn còn những dấu vết mà ngay cả những người cuồng tín nhất cũng khó có thể phủ nhận.

Chính Đức Jesus đã nói rõ ràng trong một số dịp. Ví dụ, trong chương bốn của Phúc âm theo Thánh Mark, bạn sẽ tìm thấy lời tuyên bố: “Khi Ngài ở một mình, những người ở gần Ngài cùng với mười hai sứ đồ hỏi về dụ ngôn. Ngài nói với họ, ‘Đối với các ngươi, đã được ban cho biết các Bí Nhiệm của Vương quốc Thiên Chúa; nhưng với những người bên ngoài, mọi điều này được giảng dạy qua dụ ngôn.'” Và vài câu sau đó, bạn sẽ thấy câu tuyên bố: “Nhưng Ngài không bao giờ nói với họ mà không dùng dụ ngôn; và khi họ ở một mình, Ngài giải thích mọi điều cho các môn đồ của mình.” Những lời này sau đó được Origen trích dẫn như ám chỉ giáo lý bí mật được lưu giữ trong giáo hội; bởi vì các Giáo phụ luôn cho rằng những tuyên bố như vậy có ba ý nghĩa—trước hết là ý nghĩa rõ ràng trên bề mặt, thường được trình bày dưới dạng một câu chuyện nào đó để dễ dàng ghi nhớ hơn; thứ hai là cách giải thích mang tính trí tuệ, như được đưa ra cho dụ ngôn về người gieo giống trong chương mà tôi đã trích dẫn; và thứ ba là ý nghĩa huyền bí và tâm linh sâu sắc, không bao giờ được viết ra dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, mà được giải thích trực tiếp bằng lời nói bởi người thầy dưới lời hứa giữ bí mật.

Một lần nữa, bạn sẽ nhận thấy trong chương mười sáu của Phúc âm theo Thánh John, Đức Christ nói với các môn đồ của Ngài: “Ta còn nhiều điều để nói với các con, nhưng các con bây giờ không thể chịu nổi.” Hãy nhớ rằng, theo câu chuyện, điều này được nói vào đêm trước khi Ngài qua đời. Vậy khi nào Ngài nói với các môn đồ về những điều vẫn cần phải được tiết lộ cho họ? Rõ ràng là điều đó phải xảy ra sau khi Ngài phục sinh, trong khoảng thời gian mà chúng ta được biết rằng Ngài ở lại với các môn đồ của mình “nói với họ về những điều liên quan đến Vương quốc Thiên Chúa.” Không có bất kỳ tài liệu nào trong Kinh Thánh ghi lại những giáo lý này; tuy nhiên, không thể nào tin rằng chúng đã bị lãng quên. Chắc chắn chúng phải được truyền lại như một trong những truyền thống quý giá nhất, không phải bằng văn bản mà là truyền miệng, giống như cách mà các giáo lý bí mật trong mọi tôn giáo đều được truyền lại. Trong một trong những phúc âm lớn của phái Ngộ đạo, Pistis Sophia, chúng ta được biết rằng Ngài đã xuất hiện giữa các môn đồ của mình, không phải chỉ trong bốn mươi ngày, mà trong mười một năm sau khi Ngài phục sinh; và có một vài gợi ý về bản chất của những giáo lý mà Ngài đã truyền lại, mặc dù nhiều phần của chúng quá phức tạp và huyền bí đến mức khó hiểu nếu không có chìa khóa của tri thức mà chỉ được khai mở qua sự khải ngộ.

The Kingdom of Heaven—Vương Quốc của Thiên Đàng (Nước Trời)

Chính tên gọi “Vương quốc Thiên Chúa” hay “Vương quốc Thiên Đàng” được sử dụng trong đoạn văn vừa được trích dẫn là một thuật ngữ chuyên môn thuộc về các Bí Nhiệm, ám chỉ nhóm những người đã được điểm đạo vào các giáo lý này. Bạn sẽ tìm thấy nhiều bằng chứng về điều này nếu nhìn nhận các đoạn mà chính Đức Jesus đề cập đến điều đó với một cái nhìn không thành kiến. Ví dụ, trong chương mười ba của Phúc âm theo Thánh Luca, chúng ta đọc thấy rằng câu hỏi được đặt ra cho Đức Christ: “Có phải chỉ ít người được cứu không?” Và Ngài nói với họ: “Hãy cố gắng vào qua cổng hẹp; vì nhiều người, Ta nói với các ngươi, sẽ cố gắng vào nhưng sẽ không thể.” Người Tin Lành thông thường, thiếu học vấn, thực sự dám áp dụng tuyên bố này vào cánh cổng thiên đàng và muốn chúng ta tin rằng một Đấng Cứu Thế vĩ đại sẽ dạy dân chúng rằng đối với nhiều người chân thành tìm cách được cứu khỏi sự phát minh khủng khiếp của sự đày đọa đời đời, sẽ không có con đường nào để an toàn. Nếu điều này có thể coi là sự thật, thì tuyên bố đó sẽ gây sốc đến mức không thể diễn tả bằng lời, vì nó sẽ cho thấy hoặc Thượng Đế không có khả năng quản lý vũ trụ của Ngài, hoặc toàn bộ kế hoạch nằm trong tay của một con quỷ chế nhạo và tàn nhẫn. Không có sự tàn ác nào như vậy được Đức Christ khẳng định, và cũng không thể được Ngài đưa ra.

Từ “được cứu”—hay đúng hơn, như nó nên được viết, “an toàn”—có một ý nghĩa chuyên môn, và khi nó được hiểu, đoạn văn này sẽ trở nên rõ ràng và sáng tỏ. Đối với sinh viên Thông Thiên Học, sẽ không có khó khăn nào trong việc hiểu rõ hoàn toàn điều này; y biết rằng trong quá trình tiến hóa của nhân loại, sẽ đến lúc một phần lớn nhân loại sẽ tạm thời rời khỏi kế hoạch hiện tại của chúng ta, đơn giản là vì họ chưa phát triển đủ để có thể tận dụng những cơ hội sẽ mở ra trước nhân loại vào thời điểm đó—bởi vì dưới những điều kiện lúc đó, sẽ không có sự nhập thể nào của những linh hồn còn chưa tiến hóa đủ để phù hợp với họ. Những người tạm thời rơi ra khỏi dòng chảy của sự tiến bộ này sẽ tiếp tục công việc của mình cùng với một cuộc tiến hóa khác của nhân loại, và do đó, họ sẽ có cơ hội để một lần nữa trải qua các giai đoạn phát triển mà họ chưa hoàn toàn tận dụng được trong lần này. Đây thực sự là một sự sắp đặt đầy lòng từ bi của tự nhiên nhằm giúp đỡ những người vì nhiều lý do mà bị tụt hậu trong trường đời; và mặc dù họ mất vị trí trong cuộc tiến hóa cụ thể này, đó chỉ là vì cuộc tiến hóa đã vượt qua họ, và nếu họ tiếp tục ở lại thì cũng chỉ là lãng phí thời gian.

Người rơi vào tình trạng này giống như một đứa trẻ ở trường học bị tụt hậu quá xa so với các bạn cùng lớp. Tiếp tục học cùng họ sẽ chỉ mang lại sự căng thẳng, mệt mỏi và lãng phí thời gian cho y; trong khi việc rời khỏi lớp đó và học cùng lớp dưới sẽ không chỉ dễ dàng hơn cho y, mà còn cho phép y thông qua việc thực hành thêm để học kỹ những bài học mà đến nay y chưa thể nắm vững.

Người bình thường chưa hẳn đã vượt qua được mức độ mà tại đó y có thể phải tạm thời rời khỏi dòng tiến hóa; nhưng môn sinh đã trải qua cuộc điểm đạo lớn đầu tiên—”người đã bước vào dòng chảy”, như cách nói ở phương Đông—sẽ an toàn trước bất kỳ sự trì hoãn nào như vậy; và do đó y thường được gọi là “người được cứu” hoặc “người được chọn”. Chính theo nghĩa này, và chỉ theo nghĩa này, chúng ta mới hiểu cách sử dụng từ “được cứu,” cho dù là ở đây hay trong các đoạn khác của kinh thánh và trong các tín điều; và khi chúng ta hiểu điều này, chúng ta sẽ ngay lập tức thấy được sức mạnh và chân lý trong lời nhận xét của Đức Christ rằng cánh cổng điểm đạo hẹp và khó bước vào, và rằng sẽ có nhiều người cố gắng trong một thời gian dài trước khi họ có thể đạt được nó.

The Road that leads to Life.—Con đường dẫn đến Sự Sống

Một đoạn khác xác nhận điều này được tìm thấy trong chương bảy của Phúc Âm theo Thánh Matthew, trong đó Đức Christ một lần nữa khuyên các môn đồ của Ngài: “Hãy vào qua cửa hẹp; vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến sự diệt vong, và có nhiều người đi vào; nhưng cửa hẹp và đường chật hẹp dẫn đến sự sống, và có ít người tìm được.” Ở đây một lần nữa, người môn sinh huyền bí không gặp khó khăn gì trong việc nhận ra hình ảnh quen thuộc. Y biết rõ rằng con đường dẫn đến “sự sống đời đời”—nghĩa là tránh được sự cần thiết của sinh và tử, tức là sự xuống thế nhập thể—thật hẹp và khó khăn. Y cũng biết rằng con đường tiến bộ chậm chạp mà người bình thường chọn, dẫn y đến sinh và tử hàng ngàn lần trước khi đưa y đến chỗ cư ngụ vĩnh viễn ở các cấp độ cao hơn, là rộng rãi và tương đối dễ dàng hơn. Thật sự đúng là “nhiều người đi” trên con đường dài hơn nhưng mượt mà hơn này; và hiện nay chỉ có ít người trong nhân loại tìm thấy con đường ngắn hơn nhưng dốc đứng hơn của sự điểm đạo. Đọc theo nghĩa rõ ràng này, tuyên bố là chân thực và dễ hiểu; nhưng nếu chúng ta hiểu nó theo nghĩa rằng “cửa hẹp” dẫn đến thiên đàng, và chỉ có ít người có thể vào đó, thì không chỉ là một sự xuyên tạc man rợ về sự thật, mà nó còn hoàn toàn mâu thuẫn với các đoạn khác trong đó “thế giới thiên đàng” được ám chỉ rõ ràng.

Khi người viết Kinh Thánh thực sự cố gắng miêu tả thế giới thiên đàng, chúng ta thấy rằng y nói về “một đám đông lớn mà không ai có thể đếm được, thuộc mọi dân tộc, dòng họ, dân cư và ngôn ngữ, đứng trước ngai và trước Chiên Con, mặc áo trắng và cầm cành lá thiên đàng trên tay.” Các nhà văn đã được điểm đạo luôn biết chân lý vĩ đại rằng không có khả năng nào cho sự hủy diệt cuối cùng, mà là sự chắc chắn về thành công cuối cùng cho tất cả mọi người, vì đó là ý muốn của Thượng Đế dành cho họ. Theo nghĩa này, khi ám chỉ đến số phận cuối cùng của họ, không có hy vọng yếu ớt rằng chỉ một số ít có thể được cứu, mà là sự chắc chắn tuyệt vời rằng không ai có thể bị mất đi.

Thật khó hiểu khi thần học chính thống hiện đại có thể nói rằng Đức Christ là Đấng Cứu Thế của thế gian, nhưng đồng thời lại tuyên bố rằng Ngài không cứu thế gian, rằng Ngài không thành công trong việc cứu một phần mười nghìn dân cư của nó, và phải để mặc tất cả những người khác cho quỷ dữ! Tỷ lệ như vậy có được coi là thành công không nếu chúng ta đang nói về bất kỳ nỗ lực nào của con người? Một giáo lý như vậy thực sự là sự báng bổ, và mỗi người Cơ Đốc chân chính cần ngay lập tức loại bỏ nó khỏi kho tàng ý tưởng tôn giáo của mình. Chúng ta mang đến một tin lành lớn lao hơn, và chúng ta giảng dạy một tín điều cao quý hơn thế.

Thật vậy, Đức Christ là Đấng Cứu Thế của thế gian, vì mỗi con người được cứu bởi Đức Christ bên trong chính mình—Đức Christ ở trong chúng ta, mà thật sự là hy vọng của sự vinh quang, như Kinh Thánh đã nói, vì nếu không có tia lửa thiêng liêng bên trong chúng ta, làm sao chúng ta có thể tái hợp với Thiêng Liêng? Do đó, chúng ta biết rằng mỗi người sẽ một ngày nào đó nhận ra thiên tính của chính mình, và sẽ vươn lên đến “kho tàng của chiều cao và sự viên mãn của Đức Christ”; chúng ta biết rằng sự tiến hóa này sẽ thành công và không thất bại—rằng nó sẽ là một thành công vĩ đại và huy hoàng, và rằng mọi linh hồn trong đó cuối cùng sẽ đạt được mục tiêu của mình.

The Difficulties of the Rich—Các Khó Khăn của Người Giàu

Một ví dụ khác trong đó chỉ có cách giải thích này mới làm cho câu chuyện Kinh Thánh trở nên hợp lý được tìm thấy trong chương mười chín của Phúc Âm theo Thánh Matthew. Chúng ta nhớ rằng trong một dịp nào đó, một thanh niên đến gặp Đức Christ và hỏi Ngài làm thế nào để có thể đạt được sự sống đời đời—ý nói, như tôi đã đề cập trước đó, là sự giải thoát khỏi sự cần thiết của việc tái sinh và chết đi nhiều lần. Đức Christ trả lời y bằng câu trả lời quen thuộc, mà bất kỳ vị thầy lớn nào cũng sẽ đưa ra: “Hãy giữ các điều răn.” Nhưng người thanh niên giải thích rằng y đã giữ tất cả những điều răn ngoại đạo này suốt đời mình và muốn biết thêm những gì y có thể làm để đẩy nhanh tiến trình của mình. Trong câu trả lời của Ngài, Đức Christ sử dụng một trong những thuật ngữ kỹ thuật nổi tiếng của cộng đồng Essene mà chính Ngài đã được huấn luyện, vì Ngài nói với y: “Nếu ngươi muốn hoàn thiện, hãy bán hết những gì ngươi có và cho người nghèo, rồi đến theo Ta.” Trở nên “hoàn thiện” có nghĩa là đạt được một mức độ điểm đạo nhất định, thuộc về một giai tầng cụ thể trong Vương quốc Thiên Đàng; và nhận xét của Đức Christ chỉ lặp lại giáo lý phổ quát của các hiền triết phương Đông, rằng sự nghèo khó và vâng lời là cần thiết cho những ai muốn gia nhập hàng ngũ của các bậc điểm đạo cao hơn.

Người thanh niên gặp khó khăn ở đây, vì chưa sẵn sàng từ bỏ của cải thế gian của mình, và sau đó Đức Christ tiếp tục nói về khó khăn mà người giàu phải đối mặt khi cố gắng bước vào các giai đoạn cao hơn của con đường này. Ngài thậm chí còn sử dụng một phép so sánh cực kỳ mạnh mẽ: “Dễ cho lạc đà chui qua lỗ kim hơn là cho người giàu vào Vương quốc Thiên Chúa.”[1] Nếu câu nói này được hiểu theo cách thần học thường giải thích, thì đó thực sự là một tuyên bố lố bịch, vì nó dường như ám chỉ rằng không ai giàu có có thể tốt hoặc có thể đạt được một vị trí trên thiên đàng. Những người theo đạo chính thống giả vờ hiểu câu nói này theo nghĩa đó, nhưng dường như ngay cả họ cũng phải thấy sự phi lý của giả định này; vì chúng ta không thấy rằng phần lớn trong số họ vội vàng từ bỏ của cải và trở nên nghèo để đủ điều kiện vào thiên đàng. Nhưng khi chúng ta hiểu rằng Vương quốc Thiên Đàng có nghĩa là huynh đệ đoàn của những người đã được điểm đạo, chúng ta lập tức hiểu rằng sự bận tâm và khó khăn không thể tránh khỏi trong việc quản lý tài sản lớn là một trở ngại nghiêm trọng đối với ứng viên cho con đường ngắn hơn và dốc đứng hơn, và chúng ta hoàn toàn nhận ra sự khôn ngoan trong lời khuyên của vị thầy vĩ đại: “Hãy bán hết những gì ngươi có và cho người nghèo, rồi đến theo Ta.”

Một đoạn khác cho thấy kiến thức của Đức Christ về các thuật ngữ kỹ thuật xuất hiện trong chương bảy của Phúc Âm theo Thánh Matthew, nơi Ngài thốt ra câu đáng chú ý: “Đừng trao những gì thánh thiện cho chó; cũng đừng ném ngọc trai của các ngươi trước lợn.” Ngày nay, chúng ta sẽ coi những từ ngữ này khi áp dụng cho con người là thô lỗ và không thích hợp; nhưng cần phải nhớ rằng đây chỉ là những thuật ngữ kỹ thuật ám chỉ những người đứng ngoài hoặc dưới một mức độ nào đó. Nhà thần học thông thường chắc chắn sẽ gặp khó khăn lớn trong việc giải thích cho bản thân sự sử dụng ngôn ngữ như vậy bởi Đức Christ; nhưng khi chúng ta hiểu bản chất thực sự của những thuật ngữ này, những lời nói đó lập tức trở nên có thể giải thích được.

St. Paul the Initiate.—Thánh Paul, Vị Điểm đạo đồ.

Khi chúng ta chuyển từ những lời của chính Đức Jesus sang lời của Thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy rằng các tác phẩm của Ông cũng thấm nhuần với các giáo lý huyền bí, với các tham chiếu đến các Bí Nhiệm nằm sau những giáo lý bên ngoài, và với các thuật ngữ chuyên môn quen thuộc liên quan đến chúng. Bất kỳ ai dành thời gian đọc các chương hai và ba của Thư Thứ Nhất gửi tín hữu Cô-rinh-tô sẽ thấy rõ điều này khi một lần sự chú ý của họ đã được hướng tới cách giải thích thực sự của các lời này. Một lần nữa, Ông đề cập đến cấp độ hoàn hảo, và việc chỉ có thể truyền dạy cho những người đã đạt đến cấp độ đó; Ông nói: “Chúng tôi giảng minh triết giữa những người trọn lành.” Và thêm nữa, “Chúng tôi giảng sự minh triết của Đức Chúa Trời trong một sự huyền bí, sự khôn ngoan ẩn giấu mà Đức Chúa Trời đã định trước khi thế giới bắt đầu, mà không một vị vua chúa nào của thế gian này biết đến.” Chính tuyên bố cuối cùng này đủ để chứng minh cho bất kỳ học giả công bằng nào về sự tồn tại của giáo lý bên trong của Giáo hội, bởi vì điều đó sẽ rõ ràng và quá hiển nhiên là sai nếu nó áp dụng cho bất kỳ giáo lý Kitô giáo thông thường nào xuất hiện trong kinh thánh; bởi vì điều đó chắc chắn nằm trong tầm tay của các vua chúa thế gian lúc bấy giờ cũng như hiện nay. Đôi khi, người ta đã cố gắng cho rằng những nhận xét này về Bí Nhiệm ám chỉ đến Lễ Thánh Thể, vốn chỉ được cử hành trước sự hiện diện của những người là thành viên của giáo hội. Tuy nhiên, rõ ràng rằng đó không thể là ý nghĩa trong trường hợp này, vì việc nghiên cứu thêm cùng bức thư này sẽ cho thấy rằng những tín hữu Cô-rinh-tô mà Thánh Phaolô đang viết đã là thành viên đầy đủ của giáo hội và thường xuyên cử hành Thánh Thể. Dù vậy, Ông vẫn gọi họ là những trẻ sơ sinh trong Đấng Christ, và nói rằng Ông chỉ có thể cho họ uống sữa của giáo lý ban đầu. Vì vậy, rõ ràng, Bí Nhiệm này mà không ai biết đến không phải là Lễ Thánh Thể. Thật ra, nhiều ngôn ngữ mà chính vị tông đồ này sử dụng khó có thể áp dụng theo nghĩa đó, bởi vì Ông lặp đi lặp lại về “Những điều sâu nhiệm của Đức Chúa Trời, mà Thánh Linh dạy; sự khôn ngoan ẩn giấu, và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời trong một sự huyền bí.” Ông còn sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên môn khác, ví dụ khi Ông nói về chính mình như một “thợ xây bậc thầy” và một “người quản lý các Bí Nhiệm của Đức Chúa Trời.”

Một đoạn khác thể hiện điều này được tìm thấy trong chương ba của bức thư gửi tín hữu Phi-líp, trong đó Ông mô tả mình là “nỗ lực hết sức để có thể đạt đến sự phục sinh từ cõi chết.” Sự phục sinh nào có thể là điều mà Ông, vị tông đồ vĩ đại, cần phải nỗ lực để đạt được? Rõ ràng điều này không thể là điều thường được hiểu theo thuật ngữ đó, vì sự phục sinh từ cõi chết vào ngày cuối cùng sẽ xảy ra với tất cả mọi người, cả người tốt lẫn kẻ xấu; không cần phải nỗ lực nào để đạt được điều đó. Điều mà Ông đang cố gắng đạt đến chắc chắn là sự điểm đạo mà chúng ta đã đề cập—sự điểm đạo giải phóng con người khỏi cả sự sống và sự chết, đưa Ông vượt lên trên sự cần thiết của việc tái sinh trên trái đất. Chúng ta sẽ nhận thấy rằng chỉ vài câu sau đó Ông khuyên “những ai đã hoàn hảo” hãy cố gắng như Ông đang cố gắng; Ông không đưa ra lời khuyên này cho thành viên thông thường của giáo hội, bởi vì Ông biết rằng điều đó đối với họ vẫn chưa thể thực hiện được. [45]

Nhiều trích dẫn khác có thể được đưa ra từ các tác phẩm của Thánh Phaolô với cách giải thích tương tự; nhưng bây giờ chúng ta hãy chuyển sang những người được gọi là các Giáo Phụ của Giáo hội—những nhà văn theo ngay sau thời kỳ tông đồ. Chúng ta sẽ thấy rằng họ biết rõ Thánh Phaolô muốn nói gì khi Ông thường xuyên đề cập đến các Bí Nhiệm, vì chính họ cũng thường sử dụng chính xác các thuật ngữ tương tự khi nói về chúng. Ví dụ, một trong những người sớm nhất và vĩ đại nhất trong số họ, Thánh Clement của Alexandria, đã trích dẫn nguyên văn từ một tài liệu của Tân Pythagoras một câu trọn vẹn rằng “Không được phép tiết lộ các Bí Nhiệm của Ngôi Lời cho những người phàm tục.” Thuật ngữ cuối cùng này là bản dịch của từ Hy Lạp “Logos,” và trong câu này Ông đã chèn từ đó vào thay cho các nữ thần Eleusinian được đề cập trong tài liệu gốc.

The Three Stages of the Church—Ba Giai đoạn của Giáo Hội

Ngày nay, Giáo hội xem việc sản sinh ra các thánh nhân là niềm vinh quang cao nhất của mình, và Giáo hội chỉ vào danh sách các vị thánh của mình như một bằng chứng cho sự thật và kết quả của giáo lý của Giáo hội. Tuy nhiên, vào những ngày đầu tiên, điều mà ngày nay dường như là mục tiêu cuối cùng của nỗ lực của Giáo hội chỉ là một bước khởi đầu. Khi đó, Giáo hội có ba cấp bậc lớn hoặc ba giai đoạn mà các tín đồ phải trải qua; và chúng lần lượt được gọi là Thanh Tẩy, Soi Sáng, và Hoàn Thiện. Ngày nay, Giáo hội chỉ tập trung vào việc tạo ra những con người tốt, và Giáo hội xem việc tạo nên các vị thánh là niềm tự hào và thành tựu cao nhất của mình; nhưng vào những ngày xưa, khi Giáo hội đã giúp một người trở thành thánh nhân, công việc của Giáo hội với người đó chỉ mới bắt đầu, vì chỉ lúc đó người ấy mới phù hợp cho sự huấn luyện và giáo lý mà Giáo hội có thể trao truyền lúc bấy giờ, nhưng hiện nay không thể, [46] bởi vì Giáo hội đã quên đi tri thức cổ xưa của mình. Sự Thanh Tẩy của Giáo hội đã dẫn người đó đến việc trở thành thánh nhân; sự Soi Sáng của Giáo hội sau đó ban cho người ấy tri thức đã được giảng dạy trong các Bí Nhiệm, và điều này đã dẫn dắt người đó đến trạng thái Hoàn Thiện và hợp nhất với Thiêng Liêng. Ngày nay, Giáo hội chỉ dừng lại ở bước Thanh Tẩy sơ khởi, và không còn sự Soi Sáng để ban trao.

St. Clement of Alexandria—Thánh Clement Thành Alexandria

Hãy đọc những gì Thánh Clement nói về chủ đề này, được trích dẫn trong cuốn Những Nhà Tân-Platô của Alexandria bởi Tiến sĩ C. Bigg, trang 62. “Sự thuần khiết chỉ là một trạng thái tiêu cực, chủ yếu có giá trị như là điều kiện cho sự thấu hiểu. Người đã được thanh tẩy trong phép báp têm và sau đó được điểm đạo vào các Tiểu Bí Nhiệm (tức là đã rèn luyện được thói quen tự kiểm soát và suy ngẫm), trở nên chín muồi cho các Đại Bí Nhiệm, cho Epopteia hoặc Gnosis, tri thức khoa học về Thượng Đế.” Tuyên bố này quả là gây ngạc nhiên khi nhìn từ quan điểm chính thống hiện đại; tôi hình dung rằng ít có nhà giảng đạo nào ngày nay sẽ tuyên bố rằng họ có tri thức khoa học về Thượng Đế, hoặc thậm chí hiểu chút ít ý nghĩa của cụm từ này. Thế nhưng, điều đó vẫn tồn tại trong các tác phẩm của một trong những Giáo Phụ đầu tiên và vĩ đại nhất của Giáo hội. Chúng ta chỉ cần nghiên cứu giáo lý Thông Thiên Học để thấy chính xác điều Ông muốn nói, để hiểu (trong chừng mực trí tuệ của con người có thể hiểu được hiện nay) ý nghĩa của giáo lý về Ba Ngôi, về sự nhập thể của Đấng Christ, và việc Ngài cư ngụ trong trái tim của con người. Tri thức khoa học về Thượng Đế vẫn trong tầm tay của những học giả thành tâm và tôn kính; đó không chỉ là những lời rỗng tuếch, mà là một thực tế rõ ràng và rực rỡ.

Thánh Clement đã đánh giá cao tri thức siêu việt này đến mức nào có thể thấy qua một trích dẫn khác từ tác phẩm của Ông, được đưa ra trong cuốn Thần Bí Học Kitô Giáo của W. R. Inge, [47] trang 86. Thánh Clement nói: “Tri thức vượt trội hơn đức tin, Đức tin là tri thức tóm lược về những chân lý cấp bách, thích hợp cho những người đang vội vã; nhưng tri thức là đức tin mang tính khoa học. Nếu người Gnostist (Kitô hữu triết học) phải chọn giữa tri thức về Thượng Đế và sự cứu rỗi vĩnh cửu, và nếu có thể tách biệt hai điều này vốn không thể tách rời, người ấy sẽ không chút do dự chọn tri thức về Thượng Đế.” Điều đó chắc chắn là một tuyên bố rõ ràng. Rõ ràng, Thánh Clement nghĩ rằng đức tin chỉ dành cho những người không có thời gian để đi sâu vào nghiên cứu khoa học xác định; họ phải hài lòng với việc chấp nhận những chân lý vĩ đại đó bằng đức tin, giống như cách chúng ta chấp nhận bất kỳ môn khoa học vật lý nào ngày nay. Nếu mỗi người đều có một cuộc sống nhàn rỗi, chắc chắn họ có thể học hóa học hoặc thiên văn học và tự mình nghiên cứu chúng từ đầu; nếu họ không có thời gian để làm điều đó, họ chấp nhận một cách biết ơn những kết luận của những người đã nghiên cứu. Khi chúng ta đến với môn khoa học lớn lao về sự sống, được gọi là tôn giáo, sự chấp nhận kết quả nghiên cứu của người khác được gọi là đức tin; nhưng chắc chắn, như Thánh Clement nói, tri thức trực tiếp tốt hơn vô hạn.

Ý tưởng rằng con người có khả năng đạt được sự hoàn thiện này, hay thường được gọi là sự thần hóa trong các tác phẩm của các Giáo Phụ, có lẽ sẽ bị coi là báng bổ bởi nhiều nhà văn thần học hiện đại của chúng ta, nhưng điều đó rõ ràng đã được các Giáo Phụ đầu tiên chấp nhận, và họ biết rằng việc đạt được điều đó là một khả năng. Giáo sư Harnack nhận xét rằng “sự thần hóa là ý tưởng về sự cứu rỗi được giảng dạy trong các Bí Nhiệm”; và một lần nữa, “sau Theophilus, Irenaeus, Hippolytus, và Origen, ý tưởng về sự thần hóa xuất hiện trong tất cả các Giáo Phụ của giáo hội cổ đại, và giữ một vị trí quan trọng. Chúng ta thấy điều đó trong Athanasius, các nhà Cappadocia, Apollinarius, Ephraem Syrus, Epiphanius, và những người khác, cũng như trong Cyril, Sophronius, và các nhà thần học Hy Lạp và Nga sau này.” [48]

What Origen Says—Origen Đã Nói Gì?

Môn sinh nổi tiếng nhất của Thánh Clement là Origen lừng danh—có lẽ là người tài giỏi và uyên bác nhất trong số các Giáo Phụ của Giáo hội. Ông cũng khẳng định sự tồn tại của giáo lý bí truyền của Giáo hội, bởi trong cuộc tranh luận nổi tiếng của Ông với Celsus, Ông tuyên bố rõ ràng rằng hệ thống giáo lý ngoại môn và nội môn, vốn phổ biến trong triết học, cũng đã được áp dụng trong Kitô giáo. Ông cũng nói rõ về sự khác biệt giữa đức tin vô tri của đám đông chưa phát triển và đức tin cao hơn, hợp lý hơn, dựa trên tri thức xác định. Ông phân biệt giữa “đức tin phi lý của quần chúng” dẫn đến điều Ông gọi là “Kitô giáo thể xác” (tức là hình thức tôn giáo chỉ mang tính vật chất) và “Kitô giáo tinh thần” được mang lại bởi Gnosis hay Minh Triết. Ông làm rõ ràng rằng “Kitô giáo thể xác” nghĩa là đức tin dựa trên câu chuyện Phúc Âm. Về một giáo lý dựa trên câu chuyện lịch sử này, Ông nói: “có phương pháp nào tốt hơn để giúp đỡ quần chúng?” Trong cuốn sách của Ông Inge đã đề cập trước đó (trang 89), Origen được trích dẫn rằng “Người Gnostic hay hiền triết không còn cần đến Đức Christ bị đóng đinh nữa. Phúc Âm vĩnh cửu hay tinh thần mà người ấy sở hữu cho thấy rõ ràng mọi điều liên quan đến chính Con Thiên Chúa, cả những Bí Nhiệm được thể hiện qua lời Ngài và những điều mà hành động của Ngài là biểu tượng.” Điều này không có nghĩa là Origen phủ nhận hay nghi ngờ tính xác thực của câu chuyện Phúc Âm, nhưng Ông cảm thấy rằng các sự kiện chỉ xảy ra một lần không có tầm quan trọng, và coi cuộc sống, cái chết, và sự phục sinh của Đức Jesus [49] chỉ là một biểu hiện của một định luật phổ quát, vốn thực sự diễn ra, không phải trong thế giới bóng tối tạm thời này, mà trong những kế hoạch vĩnh cửu của Đấng Tối Cao. Ông cho rằng những ai đã hoàn toàn thuyết phục về các chân lý phổ quát được bày tỏ qua sự nhập thể và sự chuộc tội thì không cần phải bận tâm nữa về những biểu hiện cụ thể của chúng trong thời gian.”

Như vậy, ở đây chúng ta thấy những tham chiếu rõ ràng và lặp đi lặp lại đến giáo lý ẩn giấu, vượt xa bất kỳ điều gì mà Giáo hội ngày nay biết đến, và đưa những người nghiên cứu nó lên một cấp độ cao hơn nhiều so với những gì mà các môn đồ của chính thống đạt được hiện nay. Di sản vĩ đại này của Kitô giáo đã biến đi đâu? Tại sao sự minh triết tuyệt vời này bị mất đi, và làm thế nào để nó có thể được khôi phục? May mắn thay, nó chưa bị mất. Các nhà bác học Gnostist vĩ đại, những người đã giảng dạy nó một cách đầy chất thơ, đã bị loại khỏi Giáo hội với danh nghĩa là dị giáo bởi sự bỏ phiếu của đa số thiếu hiểu biết, những người không muốn đưa vào tôn giáo của họ bất cứ điều gì vượt quá tầm hiểu biết của họ, bất cứ điều gì cần nhiều năm học tập và nghiên cứu để hiểu được. Tuy nhiên, một phần của giáo lý Gnostic đã được lưu giữ; những người chính thống đã cố gắng phá hủy tất cả dấu vết của nó với sự cuồng tín tôn giáo, nhưng ở đây và ở đó, một cuốn sách đã được phát hiện—có lẽ được giữ gìn cho đến ngày nay bởi những người thường được gọi là “man di”, nhưng thực tế lại ít man rợ hơn những người chính thống bảo vệ đức tin.

Theo cách đó, chúng ta đang dần hiểu thêm về những giáo lý tuyệt vời đó, và chúng ta thấy chúng, như học giả huyền bí có thể mong đợi, chính xác là những chân lý mà Thông Thiên Học hiện nay đang một lần nữa đặt ra trước thế giới phương Tây. Những ai quan tâm đến việc nghiên cứu khía cạnh đặc biệt này của giáo lý tôn giáo minh triết không thể bắt đầu tốt hơn qua các tác phẩm của Ông G.R.S. Mead ở London, một trong những tác giả Thông Thiên Học uyên bác nhất của chúng ta. Ông đã dành nhiều năm nghiên cứu kỹ lưỡng về sự pha trộn kỳ lạ của các đức tin và quan điểm xung quanh cái nôi của Kitô giáo, và các tác phẩm của Ông cho chúng ta thấy rõ ràng cách mà tôn giáo Kitô giáo này đã nảy sinh một cách hoàn toàn tự nhiên và logic từ các đức tin của thời kỳ ngay trước khi nó ra đời. Ông đã làm rõ ràng rằng đây không phải là một sự mặc khải từ trên cao, không phải là một tuyên bố mới về sự thật bổ sung, mà đơn giản chỉ là một kết quả hoàn toàn tự nhiên của những gì đã có trước đó. Bất kỳ ai muốn hiểu Kitô giáo thực sự là gì, giáo lý của nó thực sự có nghĩa gì, và vai trò của nó trong cuộc sống vĩ đại của thế giới là gì, không thể làm tốt hơn ngoài việc bắt đầu bằng một nghiên cứu sâu sắc về các tác phẩm của Ông Mead.

Theosophy Explains—Thông Thiên Học Giải Thích

Trong lúc chờ đợi, không cần đến quá nhiều nghiên cứu như yêu cầu trong cuộc tìm hiểu đó để thuyết phục bất kỳ người cởi mở nào rằng Thông Thiên Học nắm giữ giải pháp cho tất cả các vấn đề liên quan đến giáo lý Cơ Đốc. Lấy ví dụ, giáo điều vĩ đại về Ba Ngôi, vốn ban đầu dường như khó hiểu và vô nghĩa. Hãy nhờ đến sự trợ giúp của một sơ đồ Thông Thiên Học, chẳng hạn như sơ đồ được đưa ra trong ấn bản cuối cùng của cuốn sách nhỏ của tôi về Tín điều Cơ Đốc, và ngay lập tức sự mờ mịt sẽ được thắp sáng như dưới ánh mặt trời, và người ta sẽ thấy rằng những tuyên bố kỳ lạ và dường như khó hiểu này lại mang một ý nghĩa rõ ràng, đầy thú vị và sống động. Hãy đọc, chẳng hạn, Tín điều Athanasian; dưới ánh sáng của các sơ đồ Thông Thiên Học, các câu văn trước đây ít được hiểu sẽ trở nên sáng sủa và trong suốt như pha lê; nhờ đó, công thức mà nhiều người đã bỏ qua vì không thể hiểu nổi giờ đây xuất hiện như có thể là tuyên bố mạnh mẽ và vĩ đại nhất về bản chất và quyền năng của Thượng Đế mà từng được diễn đạt bằng ngôn từ. Những đoạn văn bị gọi là lời nguyền rủa, mà đã bị phản đối rất nhiều, sẽ tự tìm được vị trí của chúng và ngay lập tức được nhận thấy là không có điều gì gây phản đối khi ý nghĩa thực sự của chúng được hiểu rõ.

Không có cách nào khác để làm cho phần lớn các giáo lý cổ xưa này trở nên dễ hiểu; trừ khi chúng ta sẵn sàng chấp nhận cách giải thích Thông Thiên Học về chúng, chúng ta sẽ phải từ bỏ mọi hy vọng về việc tìm ra bất kỳ ý nghĩa hợp lý nào đằng sau những biểu tượng vĩ đại của một trong các tôn giáo lớn trên thế giới. Nhưng giáo lý Thông Thiên Học mang lại trật tự cho sự hỗn loạn; nó ngay lập tức giúp chúng ta lọc ra những giáo điều là biểu hiện của chân lý phổ quát từ những sự tích lũy mà thần học không hiểu biết của các tu sĩ đã bao bọc quanh chúng. Điều này cũng đúng với nhiều giáo điều khác của giáo hội; không chỉ giáo lý vĩ đại về Ba Ngôi được làm sáng tỏ, mà cả sự cứu rỗi, hoán cải, tái sinh và thánh hóa—tất cả những điều này đều được giải thích, và từ quan điểm Thông Thiên Học, chúng không còn chỉ là những cái tên với một làn sương mờ của sự không chắc chắn bao quanh, mà trở thành những sự thật rõ ràng và thực tế, tất cả đều là một phần của một hệ thống nhất quán. Để hiểu những điều này, người học nên đọc cuốn sách vĩ đại Cơ Đốc Giáo Nội Môn của bà Besant, cuốn sách sẽ chiếu rọi một ánh sáng rực rỡ lên nhiều điều mà trước đây vẫn còn tối tăm. Quan trọng nhất, nó sẽ chỉ cho họ thấy rằng Cơ Đốc giáo không hề mâu thuẫn với các tôn giáo lớn khác trên thế giới—rằng tất cả chúng đều là những nỗ lực để trình bày cùng một chân lý vĩ đại, chân lý nằm sau tất cả chúng—chính Minh Triết Thiêng Liêng mà ngày nay chúng ta gọi là Thông Thiên Học.

Đối với người Cơ Đốc chân thành, người vì lý do nào đó đã bắt đầu suy nghĩ về các giáo lý của Giáo hội, và do đó tự nhiên bị dẫn đến việc nghi ngờ chúng trong hình thức mà chúng thường được trình bày, chúng tôi mạnh mẽ khuyên họ nên nghiên cứu các giáo lý của Thông Thiên Học. Nhiều người bắt đầu nghi ngờ sẽ thấy mình không còn có nền tảng rõ ràng cho bất kỳ niềm tin nào và không biết phải quay về đâu để tìm sự an ủi và giác ngộ. Đối với những người như vậy, lời khuyên của chúng tôi là: “Đừng vứt bỏ tôn giáo của bạn, mà hãy cố gắng học xem nó thực sự là gì. Khi đó, bạn sẽ nhận lại tất cả những gì tươi sáng, đẹp đẽ và chân thật trong đức tin thời thơ ấu của bạn, nhưng nó sẽ được trả lại cho bạn trên một nền tảng khác. Nó sẽ không còn được xây dựng trên quyền lực, dù đó là quyền lực của một cuốn sách hay của một Giáo hội; bởi vì niềm tin như vậy luôn có khả năng bị lật đổ nếu bạn phát hiện ra rằng cuốn sách hoặc Giáo hội không đáng tin cậy về mặt lịch sử như bạn đã từng nghĩ. Bạn sẽ nhận lại đức tin của mình, nhưng lần này nó sẽ được xây dựng trên nền tảng vững chắc của lý trí và sự hiểu biết thông thường, để càng kiểm tra kỹ lưỡng, bạn sẽ càng tin chắc về sự thật của nó và càng hiểu rõ hơn về vinh quang của nó.

The Gospel of Theosophy—Phúc Âm của Thông Thiên Học

Khi nói điều này, chúng tôi không nói từ lý thuyết mà từ kinh nghiệm. Đối với chúng tôi, những người đã nghiên cứu Thông Thiên Học, nó đã mang lại tất cả điều này và còn nhiều hơn thế nữa. Nó đã là một tin mừng thực sự từ trên cao, soi sáng cho chúng tôi nơi trước đây chỉ có bóng tối, giúp cuộc sống trở nên dễ chịu hơn và cái chết dễ đối mặt hơn; nó không chỉ mang lại cho chúng tôi hy vọng mà còn là sự chắc chắn vinh quang về tiến trình tương lai. Đó là lý do tại sao chúng tôi giới thiệu nó với bạn, và đó là lý do tại sao chúng tôi khuyến khích bạn khám phá nó. Chúng tôi không có mong muốn chuyển đổi bạn theo nghĩa thông thường của từ này. Chúng tôi không bị thôi thúc, như những nhà truyền giáo thiếu hiểu biết tội nghiệp, bởi bất kỳ lý thuyết nào cho rằng nếu chúng tôi không thuyết phục được người nghe hoặc người đọc tin như chúng tôi, thì họ sẽ không có cách nào thoát khỏi những nỗi kinh hoàng của sự đau khổ đời đời. Chúng tôi biết rằng mọi người đều sẽ đạt đến mục tiêu cuối cùng của nhân loại, cho dù họ có tin những gì chúng tôi nói với họ hay không. Chúng tôi biết rằng sự tiến bộ của mỗi người là chắc chắn; nhưng họ có thể làm cho con đường của mình dễ dàng hoặc họ có thể làm cho nó khó khăn. Nếu họ tiếp tục trong sự thiếu hiểu biết, họ có thể thấy nó khó khăn và đau đớn; nếu họ học được sự thật về sự sống và cái chết, về Thượng Đế và con người, và mối quan hệ giữa họ, họ sẽ hiểu cách đi con đường đó sao cho dễ dàng hơn với chính họ và (quan trọng hơn nhiều) có thể đưa tay giúp đỡ những người bạn đồng hành ít hiểu biết hơn. Đây là điều mà tất cả các bạn có thể làm, và là điều chúng tôi hy vọng các bạn sẽ làm.

Chúng tôi, những người theo Thông Thiên Học, không yêu cầu bạn có niềm tin mù quáng; chúng tôi chỉ đơn giản giới thiệu triết lý này cho bạn, và yêu cầu bạn nghiên cứu nó, và chúng tôi tin rằng nếu bạn làm như vậy, bạn sẽ tìm thấy những gì chúng tôi đã tìm thấy—sự an lạc, bình yên, và khả năng trở nên hữu ích trong thế giới này. Trên hết, chúng tôi muốn nói với bạn rằng, không chỉ nghiên cứu sự thật Thông Thiên Học, mà hãy cố gắng sống theo cuộc sống mà Thông Thiên Học khuyến nghị bạn. Giờ đây cũng như thời xưa, điều đó vẫn đúng rằng những ai làm theo ý muốn của Cha trên trời, họ sẽ biết được giáo lý có đúng hay không; và vì thế, với những ai nghi ngờ giáo lý của chúng tôi, chúng tôi sẽ nói rằng hãy tạm thời chấp nhận nó, hãy coi nó như một giả thuyết, nhưng hãy sống theo cuộc sống mà nó chỉ dẫn, rồi bạn sẽ tự thấy liệu mình có tốt hơn hay tệ hơn vì nó.

Hãy cố gắng nhận ra sự hợp nhất của huynh đệ đoàn mà nó giảng dạy, và thể hiện sự vị tha mà nó yêu cầu; và sau đó tự mình xem liệu đây có phải là sự cải thiện so với các lối sống khác hay không. Hãy thử sống không vị kỷ và luôn cảnh giác giúp đỡ, và xem liệu không có một cánh cửa mở ra những cánh đồng mới của hạnh phúc và hữu ích hay không.

Chúng tôi, những người đang nghiên cứu điều này, biết rằng chúng tôi chỉ mới ở điểm bắt đầu của nó; tuy nhiên, chúng tôi nói với bạn bằng sự tự tin tuyệt đối: “Hãy đến và tham gia cùng chúng tôi trong việc học tập, và rồi bạn cũng sẽ có được sự bình an và sự tự tin mà chúng tôi đã có, để thông qua kiến thức của bạn về Thông Thiên Học, cuộc sống của bạn sẽ trở nên trong sáng hơn, tươi sáng hơn, và trên hết là hữu ích hơn và hỗ trợ nhiều hơn cho đồng loại của mình.”

  1. Chân sư DK, trong Rays and Initiations, trang 115, giải thích câu chuyện này theo cách khác. Chàng thanh niên giàu có là biểu tượng của điểm đạo đồ bậc ba, nhân thể đã phát triển qua nhiều kiếp sống và phải chuẩn bị cho sự từ bỏ cuối cùng ở lần điểm đạo thứ 4, khi nhân thể bị phá huỷ. Chàng thanh niên vẫn bám chấp vào thành tựu của quá khứ, chưa sẵn sàng ch sự từ bỏ vĩ đại đó.

    “Việc sử dụng thuật ngữ nội môn này bởi Đức Christ trong câu chuyện của Tân Ước cho chúng ta một gợi ý về bản chất của tâm thức cao cả mà Ngài đã biểu hiện. Khi đối mặt với người thanh niên giàu có, người sở hữu rất nhiều, Đức Christ đã chỉ ra rằng y cần phải chuẩn bị cho một sự phủ định lớn và một bước tiến về phía trước. Ý nghĩa thực sự của điều này chưa bao giờ được thấu hiểu và nằm ở thực tế rằng cụm từ “người thanh niên giàu có” thực ra là một thuật ngữ kỹ thuật, thường được áp dụng cho một điểm đạo đồ bậc ba, giống như từ “những người nhỏ bé” hay “đứa trẻ nhỏ” áp dụng cho điểm đạo đồ bậc một hoặc bậc hai. Người thanh niên giàu có này giàu có trong phạm vi nhận thức, giàu có trong phẩm chất phàm ngã, giàu có trong khát vọng và sự nhận biết; y giàu có nhờ vào kinh nghiệm trường kỳ và sự phát triển tiến hóa. Đức Christ đã bảo y rằng y cần phải chuẩn bị cho điều được gọi trong Quy Luật V là “Tam nguyên tỏa sáng”; y cần phải chuẩn bị cho sự khai mở của tâm thức chân thần và cho lần điểm đạo thứ tư. Trong lần điểm đạo đó, thể nguyên nhân, thể trong đó linh hồn trải nghiệm và thu hoạch quả của kinh nghiệm, phải và sẽ bị hủy diệt. Điều này phải diễn ra trước khi điểm đạo đồ có thể bước vào Hội Đồng của Đấng Tối Cao và biểu hiện ý chí thiện lành và ý chí của Thượng đế nhằm thực hiện các mục đích của Thượng đế. Ý chí của “người thanh niên giàu có” này, dù y là một điểm đạo đồ, vẫn chưa đủ để đáp ứng các yêu cầu, nên y buồn bã ra đi; y cần phải chuẩn bị cho lần điểm đạo thứ tư, Đại Sự Từ Bỏ, Sự Đóng Đinh, và nhờ đó thích hợp để vượt qua “lỗ kim”.

Leave Comment