header image
Like us on Facebook Follow us on Twitter RSS feeds

 

THƯ VỀ THAM THIỀN HUYỀN MÔN

SÁCH CỦA TÁC GIẢ ALICE A. BAILEY

(* là bản dịch tiếng Việt; các quyển khác còn bản tiếng Anh)

Điểm Đạo trong Nhân loại và Thái Dương Hệ

Tham Thiền Huyền Môn *

Tâm Thức của Hạt Nguyên Tử

Luận về Lửa Vũ Trụ

Ánh Sáng của Linh Hồn

Linh Hồn và Các Thể

Từ Trí Tuệ đến Trực Giác

* Luận về Chánh Thuật

Từ Bethlehem đến Calvary

Đường Đạo trong Kỷ Nguyên Mới – Tập I

 Đường Đạo trong Kỷ Nguyên Mới – Tập II

Những Vấn Đề Khó Khăn của Nhân Loại

Sự Tái Lâm của Đức Chưởng Giáo

Vận Mệnh của Các Quốc Gia

Ảo Cảm: Một Vấn Đề Khó Khăn của Thế Giới

Thần Giao Cách Cảm và Thể Dĩ Thái

Tự Truyện Chưa Hoàn Tất *

Nền Giáo Dục trong Kỷ Nguyên Mới

Sự Hiển Lộ của Đại Đoàn Chưởng Giáo Luận về Bảy Cung:

Tập I – Tâm Lý Học Nội Môn

Tập II – Tâm Lý Học Nội Môn

Tập III – Chiêm Tinh Học Nội Môn

Tập IV – Khoa Trị Liệu Nội Môn

Tập V – Các Cung và Các Cuộc Điểm Đạo

Thư Về Tham Thiền Huyền Môn

(Sách tham khảo)

Biên soạn

ALICE A. BAILEY

Bản dịch

TRÂN CHÂU

NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG

Bản dịch Tiếng Việt 2012

BẢN QUYỀN © NĂM 1950 CỦA LUCIS TRUST

BẢN QUYỀN © GIA HẠN NĂM 1978 CỦA LUCIS TRUST

In lần thứ nhất, 2012

Bản tiếng Anh của sách này được xuất bản với sự tài trợ từ Quỹ Xuất bản Sách của Chân sư Tây Tạng, là ngân quỹ được lập ra để tiếp tục các giáo huấn của Chân sư Tây Tạng và Bà Alice A. Bailey.

Ngân quỹ này được điều hành bởi Lucis Trust, một công ty thuộc về giáo dục, tôn giáo, được miễn thuế.

Công ty Xuất bản Lucis là một tổ chức phi lợi nhuận do Lucis Trust sở hữu. Bản tiếng Việt do người dịch đài thọ và cũng được xuất bản trên tinh thần phi lợi nhuận. Không phải trả tác quyền cho sách này.

Sách này cũng có ấn bản bìa vải, tiếng Anh.

Sách này hiện được xuất bản bằng tiếng Hà Lan, Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Ý, Hy Lạp, Iceland, Bồ Đào Nha, Nhật, và tiếng Việt. Đang tiến hành dịch sang các ngôn ngữ khác.

Mục lục

Mục lục

LỜI NÓI ĐẦU

TRÍCH PHÁT BIỂU CỦA CHÂN SƯ TÂY TẠNG

BỨC THƯ I SỰ CHỈNH HỢP CỦA CHÂN NHÂN VÀ PHÀM NHÂN.

BỨC THƯ II SỰ QUAN TRỌNG CỦA THAM THIỀN

BỨC THƯ III

BỨC THƯ IV SỬ DỤNG THÁNH NGỮ KHI THAM THIỀN.

BỨC THƯ V

NHỮNG NGUY HIỂM CẦN TRÁNH TRONG THAM THIỀN.

BỨC THƯ VI SỬ DỤNG HÌNH THỨC TRONG THAM THIỀN.

BỨC THƯ VII

SỬ DỤNG MÀU SẮC VÀ ÂM THANH

BỨC THƯ VII

SỬ DỤNG MÀU SẮC VÀ ÂM THANH.

BỨC THƯ VIII

TIẾN ĐẾN CHÂN SƯ NHỜ THAM THIỀN.

BỨC THƯ VIII

TIẾN ĐẾN CHÂN SƯ NHỜ THAM THIỀN.

BỨC THƯ IX

CÁC TRƯỜNG THAM THIỀN TRONG TƯƠNG LAI.

BỨC THƯ IX

CÁC TRƯỜNG THAM THIỀN TRONG TƯƠ NG LAI.

BỨC THƯ X

SỰ TINH LUYỆN CÁC HẠ THỂ.

BỨC THƯ X

SỰ TINH LUYỆN CÁC HẠ THỂ.

BỨC THƯ XI CUỘC SỐNG PHỤNG SỰ HIỆU QUA.

BỨC THƯ XI

CUỘC SỐNG PHỤNG SỰ HIỆU QUẢ.

 

Kính Tặng

CHÂN SƯ TÂY TẠNG

NGƯỜI ĐÃ VIẾT

VÀ CHO XUẤT BẢN

CÁC BỨC THƯ NÀY

LỜI NÓI ĐẦU

Chúng tôi nhận những bức thư sau đây trong thời gian từ 16-5-1920 đến 20-10-1920, chỉ trừ hai bức nhận trong năm 1919. Tác giả các bức thư đã đồng ý cho kết tập và xuất bản.

Các bức thư được xuất bản y như đã nhận, chỉ trừ những phần hoàn toàn áp dụng cho cá nhân, những phần đề cập đến trường bí giáo và những phần có tính nội môn hay tiên đoán mà hiện nay chưa có thể truyền đạt được.

Hy vọng rằng độc giả các bức thư này sẽ cố gắng làm hai điều:

1.     Luôn luôn đọc với trí tuệ cởi mở. Xin nhớ rằng chânlý là viên kim cương nhiều mặt, và khi những vị Hướng đạo Nhân loại thấy cần đáp ứng một nhu cầu nào đó thì các phương diện khác nhau của chân lý sẽ xuất lộ vào những thời điểm khác nhau. Có nhiều sách thiền đã được viết ra, một số thì quá sâu xa, một số lại quá hời hợt, nên khó làm hài lòng người có học vấn trung bình. Rõ ràng tác giả các bức thư đã cố gắng đáp ứng nhu cầu khi trình bày một cách vắn tắt nhưng khoa học các yếu lý của thiền, nhấn mạnh đến mục tiêu trước mắt và những giai đoạn trung gian.

2.     Đánh giá các bức thư theo lợi ích của chúng, và đừngdựa vào những lời tuyên bố về người viết. Vì thế mà Người đã ẩn danh và yêu cầu người nhận thư hãy xuất bản chúng dưới cái tên khác.

Nếu chủ đề các bức thư này quả có giá trị, thì nó sẽ gợi được sự đáp ứng của độc giả và giúp một số người tiếp tục tiến đến mục tiêu, cùng chứng tỏ cho nhiều người thấy sự giúp đỡ và nguồn cảm hứng mà nó đã đem lại cho một số ít người.

ALICE A. BAILEY.

New York, 1922.

TRÍCH PHÁT BIỂU CỦA CHÂN SƯ TÂY TẠNG

Tháng Tám 1934

Nói rằng tôi là một đệ tử người Tây Tạng đến một trình độ nào đó thì cũng đúng. Tuy nhiên, nói như thế thì các bạn cũng chẳng hiểu được bao nhiêu, bởi vì tất cả đều là đệ tử, từ người tìm đạo khiêm tốn nhất trở lên, cho đến chính Đức Christ và các Đấng cao cả hơn Ngài. Tôi có thể xác như mọi người, và sống trên vùng biên giới Tây Tạng. Nói theo quan điểm ngoại môn thì thỉnh thoảng tôi có dìu dắt một nhóm nhiều vị lạt-ma Tây Tạng khi các bổn phận khác của tôi rảnh rang. Chính vì thế mà người ta cho rằng tôi là vị trụ trì của tu viện Lạt-ma giáo ấy. Tất cả những người đệ tử chân chính đều kết hợp trong công tác của Đại đoàn Chưởng giáo. Những người kết hợp với tôi trong công tác này đều biết tôi theo một danh xưng và chức vụ khác. A.A.B. biết tôi là ai và biết hai danh xưng của tôi.

Tôi là huynh trưởng của các bạn, là người đã đi hơi xa trên Đường Đạo hơn người môn sinh trung bình và do đó phải gánh vác trách nhiệm nhiều hơn. Tôi là kẻ đã chiến đấu và phấn đấu để vươn lên một mức độ giác ngộ cao hơn tầm mức của người tìm đạo đang đọc tác phẩm này. Do đó, tôi phải làm người truyền đạt ánh sáng, với bất cứ giá nào. Tôi không phải là người luống tuổi như số tuổi người ta cho là phải có trong các huấn sư, tuy nhiên tôi không non nớt hay thiếu kinh nghiệm. Công tác của tôi là giảng dạy và truyền bá những hiểu biết về Minh triết Ngàn đời ở bất cứ nơi nào có sự đáp ứng, và tôi làm việc này trong nhiều năm qua. Khi nào có dịp, tôi cũng tìm cách giúp Chân sư M. và Chân sư K.H., vì từ lâu tôi đã thân cận với các Ngài và liên kết với công việc của các Ngài. Nói tất cả những điều trên đây là tôi đã nói nhiều với các bạn rồi. Dù vậy tôi không có ý gì khiến bạn phải tuân theo tôi một cách mù quáng và có sự tôn sùng dại dột mà kẻ tìm đạo nhiều xúc cảm bày tỏ với vị Đạo sư và Chân sư mà y chưa có thể tiếp xúc được. Ngày nào y chưa biến đổi được sự tôn sùng bằng tình cảm, thành việc phụng sự vô kỷ cho nhân loại – chứ không phải cho Chân sư – thì ngày đó, y chưa có được sự giao tiếp tốt đẹp nói trên.

Các sách tôi đã viết và đưa ra nhưng không đòi hỏi phải được mọi người chấp nhận. Bởi vì chúng có thể đúng hay không đúng, thực hay không thực và hữu ích hay vô ích. Tôi để cho các bạn xác nhận chân lý của chúng bằng cách thực hành đúng đắn và bằng cách sử dụng trực giác. Cả tôi và A.A.B. đều không hề quan tâm xem chúng là tác phẩm được truyền cảm hứng, hoặc lời ai đó cho rằng đây là tác phẩm của một vị Chân sư. Nếu các sách này trình bày chân lý đúng trình tự, kế tiếp theo những chân lý đã được đưa ra trong việc giáo huấn thế gian; nếu những điều trong đó có thể nâng cao đạo tâm và ý-chí-phụng-sự từ cõi tình cảm đến cõi trí (nơi chúng ta có thể tìm thấy các Chân sư) thì loạt sách này đã đạt được mục đích. Nếu giáo huấn trao truyền có thể tạo được sự đáp ứng nơi trí tuệ đã khai ngộ của người phụng sự ở thế gian và giúp cho trực giác y bừng sáng, thì bấy giờ mới nên chấp nhận giáo huấn đó. Bằng không thì đừng nên. Nếu các phát biểu này vẫn đúng khi được chứng minh đến mức rốt ráo, hay tỏ ra là đúng qua trắc nghiệm bằng Luật Tương ứng, thì bấy giờ chúng mới quả là tốt đẹp. Nếu không được như thế, người môn sinh đừng nên chấp nhận những điều đã nói.

img3

 

Sự cấu tạo của con người, xét trong những trang sau đây, cơ bản gồm có ba phần, như sau:–

I. Chân thần, hay Tinh thần thuần khiết, là Cha ở trên Trời.

Trạng thái này phản ánh ba trạng thái của Thượng Đế:–

 

1. Ý chí hay Quyền lực

Đức Chúa Cha

2. Bác ái-Minh triết

Đức Chúa Con

3. Thông tuệ Linh hoạt

Chúa Thánh thần

 

và chỉ có thể tiếp xúc với trạng thái này vào những lần điểm đạo cuối cùng, khi hành giả gần đến mức cuối cuộc hành trình và trở nên hoàn thiện.

 

Chân thần lại tự phản ánh trong

II. Chân nhân, Chân ngã, hay là Cái Ta cao siêu.

Trạng thái này có tiềm năng là:–

 

1. Ý chí tinh thần

Atma.

2. Trực giác

Bồ-đề, Bác ái-Minh triết, nguyên khí Christ.

3. Trí tuệ cao siêu hay trừu tượng

Thượng trí.

Trong những người tiến hóa cao, Chân nhân bắt đầu phát lộ quyền lực của mình, và ngày càng tăng trên Đường Dự bị cho đến lần điểm đạo thứ ba thì Chân ngã hoàn toàn chế ngự phàm ngã, và trạng thái cao nhất bắt đầu phát lộ năng lượng. Chân nhân tự phản ánh trong

III. Phàm nhân hay phàm ngã, con người hồng trần.

Trạng thái này cũng tam phân:–

 

Thể trí

hạ trí.

Thể tình cảm

thể cảm dục.

Thể hồng trần

thể xác và thể dĩ thái.

 

Do đó, mục đích của tham thiền là giúp hành giả ý thức được Chân nhân để Chân nhân chế ngự phàm tính. Đây là mục tiêu ngay trước mắt của người sơ cơ.

BỨC THƯ I
SỰ CHỈNH HỢP CỦA CHÂN NHÂN VÀ PHÀM NHÂN.

1.    Sự Chỉnh hợp của ba hạ thể.

2.    Sự Chỉnh hợp với Thể nguyên nhân.

3.    Phương pháp Chỉnh hợp.

4.    Chỉnh hợp của Đại vũ trụ và Tiểu vũ trụ.

 

 

[1]

Chủ nhật, 16-5-1920.

Công việc thực sự của Chân nhân hay Chân ngã trong một kiếp sống là làm chỉnh hợp ba thể, thể xác, thể tình cảm và hạ trí trong phạm vi của thể nguyên nhân, và trụ vững ba thể ở đó bằng nỗ lực của ý chí. Những nhà tư tưởng lớn của Nhân loại, những người tiêu biểu thực sự cho hạ trí, đều cơ bản là những người đã có ba thể này chỉnh hợp, tức là những người có thể trí đã kềm giữ được hai thể kia trong sự chỉnh hợp thận trọng. Lúc đó, thể trí thông đạt trực tiếp với não bộ trong thân xác mà không có gì xen vào, ngăn trở.

Khi sự chỉnh hợp này đủ bốn, tức là khi ba thể nói trên điều hợp được với thể của Chân ngã, của Chân nhân hay thể nguyên nhân và trụ vững trong đó, thì ta có điều kiện làm việc của những vị lãnh tụ lớn của Nhân loại, những người có ảnh hưởng tình cảm và trí tuệ lan rộng khắp năm châu. Bấy giờ các văn sĩ có thiên hứng và các nhà viễn tưởng mới có thể mang lại nguồn cảm hứng và những ước mơ của họ cho đời. Bấy giờ các nhà tư tưởng tổng hợp và trừu tượng mới có [2] thể chuyển những quan niệm của họ đến thế giới của hình thể. Đây chính là vấn đề làm sao có được đường dẫn truyền lưu thông. Vì thế, các bạn hãy nghiên cứu vấn đề này, và khi có thời gian hãy nghiên cứu sự điều hợp của thể xác, có thêm sự ổn định tình cảm, lúc đó hai thể sẽ tác động như một. Khi sự điều hợp bao gồm thể trí thì phàm nhân tam phân đã đạt đến tột đỉnh của nó, khiến có biết bao thay đổi trong cõi sắc tướng.

Về sau sẽ đến sự điều hợp hoàn toàn với Chân ngã, đường dẫn truyền thông suốt đến ý thức não bộ trong thân xác như (có thể nói là) đi qua một cái phễu trơn láng vậy. Trước khi có tình trạng này, sự trực tiếp chỉ rất hiếm hoi. Bốn trung tâm nhỏ của bộ não hoạt động với sức rung động cao ở người đã có phàm nhân điều hợp cao độ. Khi Chân nhân gần chỉnh hợp với các hạ thể, thì tuyến tùng và tuyến yên dần dần khai mở. Khi hai tuyến này hoạt động kết hợp (vào thời gian điểm đạo lần thứ ba) thì trung tâm thứ ba là trung tâm hành tủy sẽ rung động mạnh hơn trước. Khi hành giả được điểm đạo lần thứ năm, sự tương tác của ba trung tâm này đã hoàn hảo và sự chỉnh hợp của các thể đã theo đúng các dạng hình học. Bấy giờ ta có một siêu nhân vẹn toàn, với năm trạng thái.

Đối với người thường, sự chỉnh hợp này chỉ xảy ra trong một đôi khi – như trong những lúc khẩn thiết, trong những giờ phút cần có nỗ lực nhân đạo, hay trong những lần ước nguyện chí thành. Ít nhiều gì hành giả cũng phải đi vào cấp trừu tượng trước khi Chân nhân liên tục chú ý đến phàm nhân hay phàm ngã. Khi sự trừu tượng hóa này bao gồm các tình cảm, đặt căn bản trên trí năng và tiếp xúc với não bộ của xác thân thì lúc đó mới bắt đầu có chỉnh hợp.

[3] Bởi vậy phải thực hành tham thiền, vì thiền có khuynh hướng nâng lên cấp trừu tượng và khơi dậy ý thức trừu tượng cả trong tình cảm và trí tuệ.

Chỉnh hợp và sự Rung động.

Cũng đừng nên quên rằng đây phần lớn là vấn đề vật chất và rung động. Các cấp trừu tượng của cõi trí gồm có ba cõi phụ cao, và cấp chúng ta tiếp xúc đầu tiên được gọi là cõi phụ thứ ba. Như trước đây tôi đã giải thích, mỗi cõi phụ đều có những phần liên quan trên các cảnh giới chính. Vì vậy, khi chúng ta đã dùng vật chất cõi phụ thứ ba của các cảnh giới liên hệ để kiến tạo các thể xác, thể tình cảm và thể trí thì bấy giờ Chân ngã mới bắt đầu tác động một cách hữu thức và ngày càng liên tục, thông qua Phàm nhân đang chỉnh hợp. Có thể phát biểu ý tưởng trên theo lối ngược lại rằng chỉ khi nào vật chất của cõi phụ thứ ba đạt đến số phần trăm nhất định trong các thể (con số này là một bí mật Điểm đạo) thì Phàm nhân với tư cách một toàn thể hữu thức mới nhận ra được Chân ngã và vâng lời. Sau khi đạt được số phần trăm đó, lại cần phải dùng vật chất của hai cõi phụ cao hơn của cõi trần và cõi tình cảm để kiến tạo (thể xác và thể tình cảm). Vì thế, người chí nguyện phải phấn đấu để giữ giới luật và tinh luyện thể xác, chế ngự thể tình cảm. Tinh luyện và chế ngự là việc phải làm ở hai cảnh giới nói trên. Công tác này cũng gồm việc sử dụng hạ trí, nhờ thế ba hạ thể trở nên chỉnh hợp.

Chừng ấy, chúng ta mới có thể bắt đầu cảm được những rung động ở các cấp trừu tượng. Các bạn cần nên nhớ rằng những rung động này đến thông qua thể nguyên nhân, là vận cụ của Chân ngã, và thể này loại trung bình thì ở trên cõi phụ thứ ba của cõi trí. Đây là điểm mà các bạn chưa nhận thức được đầy đủ. Hãy suy ngẫm kỹ. Tư tưởng thực sự trừu tượng khả dĩ có chỉ khi nào (bằng rung động hỗ tương với rung động [4] của Chân nhân) Phàm nhân đã tự chỉnh hợp đúng mức, đủ để tạo thành đường dẫn truyền khá lưu thông. Bấy giờ những ý tưởng trừu tượng mới bắt đầu từ từ tuôn xuống (tuy thưa thớt lúc đầu, nhưng về sau càng thường xuyên hơn), mang lại đúng lúc những tia chớp khai ngộ hoặc trực giác từ Tam nguyên Tinh thần hay chính là Chân nhân với ba trạng thái.

Hòa âm của Chân ngã.

Khi tôi dùng từ “rung động hỗ tương”, ý tôi muốn nói gì?

Tôi muốn nói đến sự thích ứng của Phàm nhân hay Phàm ngã đối với Chân nhân hay Chân ngã, nói đến sự chế ngự của cung Chân ngã trên Cung Phàm ngã và sự kết hợp hai âm điệu. Tôi muốn nói đến sự pha trộn màu sắc chính yếu của Chân ngã với màu sắc thứ yếu của Phàm ngã cho đến khi đạt được mỹ lệ. Lúc đầu, chỉ có sự chói tai và bất hòa, chỉ có sự tương khắc giữa các màu sắc và cuộc chiến đấu giữa Chân ngã và Phàm ngã. Nhưng rồi theo thời gian, cùng sự giúp đỡ về sau của Chân sư, sự hòa hợp giữa các màu sắc và các âm điệu phát sinh (hai sự hòa hợp này đồng nghĩa), cho đến cuối cùng chúng ta mới có được nốt căn bản của sự hoà hợp. Đó là nốt chính thứ ba của phàm nhân đã chỉnh hợp, là nốt nổi bật thứ năm của Chân nhân, tiếp theo là hòa âm đầy đủ của Chân thần hay Tinh thần.

Trên đường trở thành Chân sư, chúng ta tìm kiếm nốt nổi bật của Chân nhân, còn trước đó thì ta tìm nốt hoàn hảo thứ ba của Phàm nhân. Trong nhiều kiếp khác nhau, chúng ta làm ngân lên và thay đổi tất cả những âm điệu trong khoảng đó, dù đôi khi có kiếp sống chính yếu, có kiếp thứ yếu, nhưng các kiếp sống đều mãi tiến đến sự linh hoạt và mỹ lệ lớn lao hơn. Đến đúng thời điểm, mỗi nốt sẽ phù hợp với hòa âm của nó là hòa âm của Chân thần. Mỗi hòa âm là thành phần của một câu nhạc, tức là một đoạn có nhiều hòa âm. Mỗi câu hoàn thành một phần bảy của toàn bản nhạc. Bấy giờ cả bảy câu hoàn thành nhạc khúc của thái dương hệ này – là một phần trong tuyệt tác (tam phân) của Thượng Đế, Đấng Đại Nhạc sư của chúng ta.

                                                 [5] Ngày 2-6-1920.

Sự Chỉnh hợp của Đại vũ trụ và Tiểu vũ trụ.

Sáng hôm nay, tôi lại đề cập đến vấn đề chỉnh hợp với

Chân nhân, để chỉ cho các bạn thấy sự áp dụng phổ quát theo Luật Tương ứng. Điều này căn cứ vào khoa hình học, hay các hình và các con số.

Mục đích tiến hóa của con người trong ba cõi – hồng trần, tình cảm và trí tuệ – là sự chỉnh hợp của Phàm ngã tam phân với thể chân nhân cho đến khi thật chỉnh hợp và con người trở thành Duy nhất.

Vào cuối mỗi kiếp sống, Phàm nhân được tượng trưng bằng một dạng hình học, sử dụng các đường nét của khối vuông và minh họa chúng thành một loại hình thể nào đó. Trong những kiếp đầu, dạng phác họa hay mô hình có vẻ rắc rối, thô sơ, không rõ ràng. Khi hành giả đạt mức tiến hóa trung bình thì hình phác họa đã rõ rệt và xác định. Nhưng khi tiến lên Con đường Đệ tử thì mục tiêu của y là liên kết các đường nét này thành một và lần hồi mục tiêu này sẽ đạt được trọn vẹn. Chân sư là người đã hòa hợp được tất cả các đường nét phát triển (gồm năm phương diện) của Ngài, trước thành ba, rồi sau đó thành một. Ngôi sao sáu cánh trở thành ngôi sao năm cánh, khối vuông thành hình tam giác, và hình tam giác trở thành một. Đến cuối đại chu kỳ, cái duy nhất này sẽ thành một điểm trong vòng tròn biểu hiện.

Vì thế, mọi cố gắng đều nhằm dạy cho người chí nguyện tính đơn giản, dựa trên ba phương diện của các chân lý nền tảng, và sự ghi khắc, chú tâm vào mục đích duy nhất.

Mỗi kiếp sống đều hướng đến sự ổn định hơn, nhưng ít [6] khi Phàm nhân tam phân chỉnh hợp được với ý thức Chân ngã. Điều này có thể tạm thời xảy ra trong những khi đạo tâm dâng cao nhất, hay trong những mục đích cố gắng bất vị kỷ, lúc đó Chân ngã và Phàm ngã hình thành một đường liên giao trực tiếp. Lắm khi, thể tình cảm vì những tình cảm và rung động dữ dội hay do sự bất an thất thường mà liên tục bị lệch, không chỉnh hợp. Khi thể tình cảm tạm thời chỉnh hợp, thì thể trí lại gây chướng ngại, ngăn cản sự xuyên thấu từ trên xuống dưới để đến não bộ của xác thân. Phải cần nhiều kiếp cố gắng nhọc nhằn, thể tình cảm mới trở nên yên tĩnh và thể trí mới tác động như một bộ lọc chứ không còn trở ngại. Ngay cả khi đã phần nào đạt được điều này, thể tình cảm đã ổn định và là tấm gương phản chiếu trong trẻo, thể trí đã đạt mục đích làm tác nhân nhạy bén và phân biện, làm kẻ diễn giải thông suốt những chân lý cao siêu được truyền đạt, – có thể nói là trong điều kiện này cũng còn phải tuân thủ nhiều giới luật và trải qua nhiều kiếp cố gắng mới chỉnh hợp được cả hai thể cùng một lúc. Khi điều này được thực hiện, cũng còn phải kiểm soát não bộ của thân xác và tạo được sự chỉnh hợp cuối cùng với nó. Bấy giờ não bộ mới có thể giữ vai trò trực tiếp thu và phát ra giáo huấn được truyền đạt, và có thể phản ánh tâm thức cao siêu một cách chính xác.

Vậy thì đâu là sự tương ứng trong đại vũ trụ? Đâu là sự tương đồng trong Thái dương hệ? Tôi xin nêu rõ ra đây. Trong cuộc tiến hóa của Thái dương hệ, sự chỉnh hợp trực tiếp của một số hành tinh với nhau và với Mặt trời cũng đưa đến sự chỉnh hợp thiêng liêng hay là sự chỉnh hợp của Đức Thái Dương Thượng Đế. Hãy suy ngẫm kỹ điều này, nhưng tôi xin có lời khuyến cáo. Đừng tìm cách đặt giả thuyết về sự chỉnh hợp dựa vào những hành tinh vật chất. Chân lý không phải ở đó. Chỉ có ba hành tinh vật chất hồng trần (ba hành tinh này bằng chất dĩ thái) là được chỉnh hợp sau cùng, đánh dấu [7] việc đạt được tâm thức chân ngã vũ trụ của Đức Thượng Đế, là mục tiêu thành đạt của Ngài. Địa cầu không thuộc ba hành tinh này, mà Kim tinh lại giữ vị trí tương ứng với nguyên tử trường tồn thể tình cảm.

Sự chỉnh hợp hãy còn có thể tiến xa hơn nữa:– mục tiêu đó là sự chỉnh hợp của toàn thái dương hệ chúng ta với hệ Sirius. Thời điểm này còn rất xa xăm, nhưng lại ẩn tàng bí mật của đại chu kỳ. [8]



BỨC THƯ II
SỰ QUAN TRỌNG CỦA THAM THIỀN

1.     Tham thiền tạo sự giao tiếp với Chân nhân và chỉnh hợp.

2.     Tham thiền mang lại trạng thái quân bình.

3.     Tham thiền ổn định các rung động.

4.     Tham thiền giúp chuyển sự phân cực.

[9]

Ngày 3-6-1920.

Sáng nay, tôi xin trao thêm cho các bạn vài tư tưởng về tham thiền. Những tư tưởng này cũng dính dáng ít nhiều đến vấn đề bàn hôm qua và trong bức thư ngày 16 tháng trước.

Mục đích căn bản của tham thiền là giúp sự chỉnh hợp, để phàm ngã giao tiếp với Chân ngã, và do thế mà ngày càng quen thuộc với Chân nhân. Để sáng tỏ hơn, tôi sẽ bàn đề tài này dưới các mục sau:

·        Sự Quan trọng của Tham thiền.

·        Những điểm cần cứu xét khi dạy Tham thiền.

·        Việc dùng Thánh ngữ trong Tham thiền.

·        Những nguy hiểm cần tránh trong Tham thiền.

·        Việc dùng hình thức trong Tham thiền.

·        Việc dùng màu sắc và âm thanh trong Tham thiền.

·        Tiến đến Chân sư nhờ Tham thiền.

·        Các trường Tham thiền trong Tương lai.

·        Sự Tinh luyện các Thể.

·        Cuộc Sống Phụng sự Ngoại môn.

Hôm nay, chúng ta hãy xem xét điểm đầu tiên:– Điều gì khiến Tham thiền trở nên quan trọng?

Đương nhiên, người môn sinh sẽ chú ý đến tầm quan trọng của tham thiền khi nhận thức được sự tuyệt đối cần thiết là Chân nhân phải thống ngự Phàm nhân.

Con người trong thời đại này đang theo đuổi nhiều mục đích và vì sự bó buộc của hoàn cảnh nên y hoàn toàn trụ vào Phàm ngã, và sự phân cực ấy hoặc là ở trong thể tình cảm hay thể trí. Một điều thú vị là:– nếu sự phân cực chỉ [10] thuần xảy ra ở thể xác hay thể tình cảm thì người ta không cảm thấy sự cần thiết của tham thiền. Ngay cả khi thể trí đã năng động, người ta cũng không thấy nhu cầu bức thiết này. Mãi đến khi con người chịu nhiều thăng trầm, biến đổi, đã nếm cạn chén rượu lạc thú và khổ đau qua nhiều kiếp luân hồi, đã xuống tận những vực sâu của cuộc sống toàn cho phàm ngã mà thấy lòng không thỏa mãn, thì bấy giờ nhu cầu này mới nổi lên. Y bắt đầu nghĩ đến những điều khác, ước vọng những gì chưa biết được, ý thức và cảm thấy các cặp đối cực trong y, và nơi tâm y chạm đến những khả năng, những lý tưởng mà từ trước đến nay y chưa hề mơ tưởng. Y đã đến mức sự thành công, mến chuộng và nhiều món quà khác nhau được mang đến cho y, vậy mà sau khi sử dụng chúng y vẫn không hài lòng. Trong tâm luôn có điều gì thôi thúc mãi, cho đến khi sự ray rứt đau khổ này trở nên quá trầm trọng, đến đỗi các ước muốn vươn ra ngoài và hướng lên trên, muốn xác định có điều gì hay có Đấng nào ở ngoài tầm hiểu biết chăng, đã giúp y vượt qua tất cả chướng ngại. Lúc đó, con người mới bắt đầu quay vào nội tâm và tìm cội nguồn của mình. Bấy giờ y mới bắt đầu tham thiền, suy ngẫm, tăng cường sự rung động, cho đến khi theo thời gian y gặt hái được các thành quả của tham thiền.

Tham thiền thực hiện được bốn việc:

1.  Tham thiền giúp hành giả có thể giao tiếp với Chân nhân và chỉnh hợp ba hạ thể.

2.  Tham thiền đưa hành giả vào trạng thái quân bình, không hoàn toàn thụ cảm và tiêu cực, cũng không hoàn toàn tích cực mà ở điểm thăng bằng. Điều này tạo cơ hội cho Chân nhân (về sau là Chân sư) khuấy động thế quân bình và nâng sự rung động trầm lặng này lên một âm điệu cao hơn trước, khiến tâm thức rung động theo nhịp điệu thanh cao hơn, mới mẻ hơn và (xin tạm gọi là) xoay chuyển y vào phạm vi Tinh thần tam phân. Nhờ hành thiền liên tục, trọn cả điểm quân bình này được từ từ nâng lên ngày càng cao, [11] cho đến khi điểm hấp dẫn thấp nhất trong sự dao động và điều chỉnh không ở thể xác, không chạm đến thể tình cảm và thể trí (ngay cả thể nguyên nhân cũng thế), mà kể từ đó hành giả phân cực trong tâm thức Tinh thần.

Đây là mức Điểm đạo lần thứ tư. Sau cuộc Điểm đạo này, vị Chân sư tự tạo lấy một thể để biểu hiện – hoàn toàn tự do theo ý Ngài. Trong Ngài không có gì khiến phải dùng một thể trong tam giới (cõi trần, cõi tình cảm, cõi trí) và phát triển theo Luật Nhân quả.

3.  Tham thiền làm ổn định các rung động thấp trên các cõi phụ của cõi tình cảm và cõi trí. Thiền bắt đầu giúp phàm ngã hòa hợp với sự rung động của cõi phụ thứ ba trên mỗi cõi trong tam giới, cho đến khi chế ngự được cõi phụ này. Sau đó là rung động đồng bộ với cõi phụ thứ hai.

Trong chu kỳ này, người nào có khả năng rung động và di chuyển hữu thức trên cõi phụ thứ tư (của tam giới) là đã đạt mức thành tựu của phàm nhân. Có thể gọi các cõi phụ thứ tư này (khi được chế ngự, chỉnh hợp và hoạt động đồng thời trong cùng một kiếp sống) là cõi của phàm nhân hoàn hảo, nếu hiểu theo nghĩa cụ thể của từ này và nhìn theo quan điểm thấp. Một kiếp sống như vậy là kiếp mà con người biểu lộ phàm ngã đầy đủ nhất – thể xác hoàn hảo, thể tình cảm sinh động, và thể trí uyên bác. Kế đó là bắt đầu việc chuyển lên một sự rung động cao hơn cho đến mức rung động của Chân ngã, và Phàm nhân (hay là nốt chánh thứ ba) điều hợp với nốt nổi bật thứ năm của Chân nhân.

4.  Tham thiền giúp chuyển hóa sự phân cực từ một nguyên tử trường tồn của Phàm nhân lên nguyên tử tương ứng với nó trong Tam nguyên tinh thần. Tôi sẽ giải rõ vấn đề này sau. [12]

Như thế, các bạn mới dễ dàng thấy được tính chất thiết yếu của Tham thiền và việc hành thiền một cách khôn ngoan, chuyên cần và nghiêm túc.

Trong những bước đầu kinh nghiệm, sau khi đạt thành quả cao nhất của phàm tính, con người bắt đầu hành thiền. Lúc đầu, công phu chưa thứ tự được, và có khi trong nhiều kiếp Chân ngã chỉ làm công việc buộc phàm nhân suy nghĩ và tham thiền một cách nghiêm cẩn, thỉnh thoảng trong những thời khoảng hiếm hoi. Hành giả ngày càng thường rút lui vào nội tâm, đến mức nhiều kiếp sống được dùng cho tham thiền và nguyện vọng thần bí. Thường thì cố gắng này đạt tột đỉnh trong một kiếp dành hoàn toàn cho nó, đánh dấu mức nguyện vọng cao nhất của tình cảm, khác hẳn việc áp dụng định luật một cách khoa học, qua thể trí. Những định luật này chi phối khoa tham thiền huyền môn đích thực.

Trong mỗi cá nhân các bạn, những người đang làm việc dưới ảnh hưởng rõ rệt của một vị Chân sư, đều có hai cuộc sống cần thành đạt:– cuộc sống vẻ vang ở cõi trần và cuộc sống chuyên tâm thiền định theo lối thần bí hay là con đường từ tình cảm đến trực giác. Cuộc sống thiền này đã diễn ra trong các tu viện nam hoặc nữ ở Trung Âu với những người có liên hệ với Chân sư Jesus và các đệ tử Ngài, hoặc ở Ấn Độ, Tây Tạng hay Trung Quốc với những môn đệ của Chân sư M. hay Chân sư K.H.

Nay đã đến lúc các bạn bắt đầu một loạt kiếp sống mới, quan trọng nhất, mà so ra các cao điểm trước đây đã đạt được chỉ là những bước đầu. Trong những kiếp tới đây, các đạo sinh sẽ đạt được mức thành tựu cuối cùng nhờ vận dụng tham thiền huyền môn đúng trình tự, dựa vào định luật. Một số người có thể thành đạt ngay trong kiếp này hoặc kiếp tới. Một số người khác thì phải vài ba kiếp nữa. Một số ít cần phải thành tựu phương pháp thiền thần bí để đặt căn bản cho phương pháp thiền huyền môn (dùng trí) về sau.

 

[13]

BỨC THƯ III

NHỮNG ĐIỂM CẦN XEM XÉT KHI ẤN ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP THIỀN.

1.          Cung Chân nhân hay Chân ngã.

2.          Cung Phàm nhân hay Phàm ngã.

3.          Điều kiện nghiệp quả của phàm nhân.

4.          Điều kiện của Thể nguyên nhân.

5.          Nhu cầu của thời đại và khả năng hữu dụng của hành giả.

6.          Nhóm nội môn và ngoại môn của hành giả.

 

[14]

Ngày 4-6-1920.

Chúng ta đã bàn về tầm quan trọng của tham thiền, và tôi đã đề nghị các bạn xem xét bốn lý do (trong rất nhiều lý do) tại sao chúng ta phải hành thiền. Trong giai đoạn này, khi đa số các bạn đang hành thiền mà không có sự hướng dẫn của một vị huấn sư đích thân giao tiếp với các bạn ở cõi trần, thì không thể làm gì hơn là phác họa ra một kế hoạch tham thiền chỉ gồm những yếu tố an toàn và phổ quát thôi.

Khi đã có vị huấn sư rồi, việc hành thiền sẽ khác nhau tùy theo tính khí của môn sinh và sẽ có những đặc điểm khiến cho lối tham thiền này là con đường ít trở ngại nhất, từ bộ não thể chất của phàm ngã đến thể nguyên nhân.

Để ấn định phương pháp tham thiền, phải xem xét một số yếu tố mà tôi sẽ kể ra đây. Tôi không có ý trao cho bạn những bản phác thảo và phương pháp thực hành. Tôi chỉ nêu các nguyên tắc cơ bản để vị huấn sư theo đó mà chọn phương pháp thích hợp cho người học viên. Về sau, khi được vị huấn sư chỉ cách áp dụng phương pháp thiền một cách khoa học cho từng cá nhân, bấy giờ bạn sẽ thấy rằng những qui luật ấn định ở đây có căn bản hay không. Tôi chỉ tìm cách đưa ra các nguyên tắc và những điều cơ bản. Còn phương pháp và chi tiết thực hành thì bạn phải tự tìm ra bằng cách dùng trí phân biện, kinh nghiệm, can đảm, và bền chí.

Nếu chỉ kể những phần chính thì có sáu yếu tố mà vị huấn sư phải xem xét khi ấn định phương pháp thiền. Đó là: [15]

 

1.     Cung Chân nhân hay Chân ngã của môn sinh.

2.     Cung Phàm nhân hay Phàm ngã của môn sinh.

3.     Điều kiện Nghiệp quả trong ba hạ thể của y.

4.     Điều kiện Thể nguyên nhân của y.

5.     Nhu cầu cấp thiết của thời đại và khả năng hữu   dụng của y.

6.     Những nhóm (nội môn hay ngoại môn) mà môn sinh đang gia nhập.

Giờ đây, chúng ta xem xét tuần tự từng yếu tố.

1.     Cung của Chân ngã.

Cung của thể nguyên nhân (tức là cung của Chân ngã) sẽ qui định lối tham thiền của môn sinh. Mỗi cung đều cần một phương pháp riêng để tiến hành, vì mục đích của mọi lối thiền đều là hợp nhất với Bản tính thiêng liêng. Trong giai đoạn này, đó là sự hợp nhất với Tam nguyên tinh thần, có phản ảnh thấp nhất trên cõi trí. Tôi xin minh giải vắn tắt:

Khi cung Chân nhân là Cung Quyền lực thì phương pháp hành thiền phải là áp dụng ý chí vào các hạ thể một cách mạnh mẽ. Đó chính yếu là sự thành tựu cần tập trung cao độ, cực kỳ chuyên nhất, ngăn ngừa được mọi trở ngại và thực sự là dùng cường lực mở ra một đường dẫn để tự tiến lên tận Tam nguyên.

Khi cung Chân ngã là Cung hai hay Cung Bác ái-Minh triết, thì con đường ít trở ngại nhất là sự mở rộng ra để từ từ bao gồm mọi người, mọi vật. Đó không phải là sự thôi thúc tiến tới, mà là mở rộng dần dần từ nội tâm, bao gồm những người thân tín, bao gồm cuộc sống chung quanh, những linh [16] hồn cộng sự, và những nhóm đệ tử Chân sư, cho đến khi tất cả đều được bao gồm trong tâm thức (của hành giả). Đến mức thành tựu ở cuộc Điểm đạo thứ tư, sự mở mang tâm thức này gây nên sự tan rã chung cuộc của thể nguyên nhân. Trong trường hợp đầu – sự thành đạt qua Cung Quyền lực – việc thúc đẩy tới trước và lên trên cũng có kết quả tương tự. Đường dẫn mở rộng đã để cho dòng thần lực hay lửa từ Tinh thần tuôn xuống và thể nguyên nhân cũng bị tiêu hủy đúng lúc.

Khi cung Chân nhân là Cung ba hay Cung Hoạt động Thích nghi, thì phương pháp có hơi khác. Không có sự thúc đẩy tới trước hay mở rộng dần dần, mà là sự áp dụng có hệ thống mọi kiến thức và mọi phương tiện vào mục tiêu hành giả nhắm đến. Đó thực sự là đem nhiều điều để dùng cho mục đích duy nhất. Nói đúng hơn là sự thu góp những chất liệu và phẩm tính cần thiết để giúp đỡ thế gian, và sự tích lũy kiến thức qua bác ái và phân biện rốt cuộc cũng làm tan vỡ thể nguyên nhân. Trong “các Cung Trạng thái” này, tạm gọi là các Cung biểu lộ thiêng liêng, việc làm tan vỡ thể nguyên nhân là sự mở rộng đường dẫn truyền do quyền năng thúc đẩy của ý chí ở trường hợp Cung một. Hoặc bởi sự mở rộng noãn hào quang thấp (tức là thể nguyên nhân) do tính chất bao gồm của Cung hai, Cung tổng hợp Bác ái và Minh triết. Hoặc cũng làm nứt vỡ ngoại biên của thể nguyên nhân, do sự tích lũy tài năng và hấp thu có hệ thống của Cung ba là Cung Thích nghi.

Cả ba phương pháp khác biệt này đều mang lại cùng một kết quả, và cơ bản đều là những hình thức của phương pháp chính đại duy nhất được sử dụng trong cuộc tiến hoá của bác ái và minh triết, là mục tiêu cố gắng của chúng ta trong thái dương hệ hiện nay.

Chúng ta thấy ý chí thôi thúc hành giả tiến đến sự hoàn thiện qua nhận thức về Chân ngã và kết quả là phụng sự bằng quyền lực thông qua hoạt động bác ái. [17]

Trạng thái minh triết hay bác ái đưa hành giả đến sự hoàn thiện nhờ nhận thức rằng mình là một với cả chúng sinh, kết quả là phụng sự bằng tình thương qua hoạt động bác ái.

Trạng thái hoạt động đưa hành giả đến sự hoàn thiện bằng cách sử dụng tất cả để phụng sự con người. Trước hết là sử dụng tất cả cho cá nhân hành giả. Những bước tuần tự là cho gia đình y, sau đó cho những người mà y thương mến, rồi đến những người liên hệ ở chung quanh. Cứ thế mà tiếp tục mở rộng, nâng cao cho đến khi tất cả được dùng để phụng sự nhân loại.

Nếu cung Chân nhân là một cung phụ, như Cung Điều hòa (cung bốn) thì phương pháp được dùng sẽ là sự nhận thức ở nội tâm về mỹ lệ và điều hòa. Sự hiểu biết về Âm thanh và Màu sắc và hiệu quả phá hủy của Âm thanh khiến cho thể nguyên nhân bị tan vỡ. Đó là tiến trình đưa đến sự nhận thức được các nốt và âm điệu của Thái dương hệ, nốt và âm điệu của từng cá nhân và cố gắng hòa hợp nốt Chân ngã của mình với nốt của các Chân ngã khác. Khi nốt Chân ngã của môn sinh vang lên hòa điệu với các Chân ngã khác thì kết quả sẽ làm tan vỡ thể nguyên nhân, tách rời khỏi các hạ thể và đạt được sự hoàn thiện. Những người tiêu biểu cho cung này phát triển theo con đường của âm nhạc, tiết điệu và hội họa. Họ thu vào trong để hiểu sự sống ẩn trong hình thể. Việc phát biểu của sự sống này trên thế giới phải thông qua những gì được gọi là nghệ thuật. Những họa sĩ tài danh và nhạc sĩ thượng thặng phần nhiều đã đạt được mục đích theo con đường này.

Khi hành giả có cung Chân ngã là cung năm, Cung Khoa học hay Kiến thức Cụ thể, thì phương pháp của y rất thú vị. Đó là hình thức tích cực áp dụng hạ trí (trí cụ thể) vào một vấn đề đã chọn để phụng sự nhân loại. Đó là cố gắng tập trung [18] mọi tính năng của trí tuệ và kiểm soát phàm tính, sao cho nỗ lực rốt ráo chuyên nhất xuyên thủng được lớp màn che án tri thức cao siêu từ trên tuôn xuống. Nó cũng bao gồm yếu tố ý chí (khả dĩ có) và kết quả là hoạch đắc những thông tin cần thiết từ nguồn cội của mọi tri thức.

Nếu cứ tiếp tục như thế thì chu vi của thể nguyên nhân quá thường bị xuyên thủng, rốt cuộc nó bị tan rã và hành giả được giải thoát. Đây là trí năng thúc đẩy y tiếp tục đi đến mức hoàn thiện và buộc y phải sử dụng mọi hiểu biết để phụng sự nhân loại trong tình thương.

Cung Sùng tín là cung nổi bật nhất về sự hy sinh. Phương pháp thiền của cung này là áp dụng sự nhất tâm sùng kính qua tình thương đối với một cá nhân hay lý tưởng nào đó. Hành giả học cách bao gồm đối tượng hay lý tưởng của mình bằng tình thương. Y dùng hết mọi khả năng và nỗ lực để chiêm nghiệm những gì cần phải làm. Khi hy sinh cho vị hoặc lý tưởng kể trên, y cũng đi đến mức đặt ngay thể nguyên nhân của mình trong ngọn lửa hy sinh. Đó là phương pháp cuồng tín thiêng liêng, thà mất tất cả để được đối tượng, và cuối cùng hoan hỉ hy sinh trọn cả phàm nhân. Thể nguyên nhân sẽ bị đốt tan trong lửa, và sự sống được giải thoát (của hành giả) dâng lên đến Chân thần trong niềm chí phúc thiêng liêng.

Khi cung Chân ngã là cung bảy, Cung Định luật Nghi lễ hay Huyền thuật, thì phương pháp là tôn vinh và thấu hiểu các nghi thức trên đường tiến tới mục đích. Như trước đã có đề cập, mục tiêu của mọi lối hành thiền đều là sự tiến gần đến Bản thể thiêng liêng trong ta, để nhờ đó mà đến gần Thượng Đế.

Thế nên, phương pháp này đưa mọi hành vi trong cuộc sống của ba hạ thể về với định luật, trật tự và qui củ, và tạo thành bên trong thể nguyên nhân một hình thức cứ nở lớn [19] mãi cho đến mức làm nó vỡ tan. Đó là việc xây dựng Thánh điện nội tâm, dựa theo một số qui luật nhất định, để cho Bản thể Thiêng liêng (Shekinah) trú ngụ, và khi ngọn lửa tinh thần bừng cháy thì Ngôi Đền Solomon (là thể nguyên nhân) rung rinh, quay cuồng và tan vỡ. Đây là vấn đề nghiên cứu định luật, để hành giả hiểu được tại sao và bằng cách nào vận dụng định luật. Kế đến là áp dụng định luật ấy một cách chính xác vào thể của các nguyên nhân cho đến mức nó không còn cần thiết nữa và vì thế phải tan vỡ. Kết quả là sự giải thoát, và hành giả không còn bị ràng buộc trong tam giới. Hiện nay có nhiều huyền bí gia thuộc cung này đang nhập thế để tiếp tục tiến trình giải thoát. Đó là phương pháp giúp con người giải thoát nhờ sự thấu hiểu và áp dụng định luật một cách khôn ngoan vào cuộc sống chính mình và cải thiện tình trạng sinh sống của nhân loại. Làm thế, hành giả tự trở thành kẻ phụng sự nòi giống mình.

Hôm nay, chúng ta bàn bấy nhiêu là đủ.

Ngày 5-6-1920.

2.     Cung Phàm nhân.

Chúng ta đã đề cập ít nhiều đến yếu tố thứ nhất là cung của Chân nhân để xác định phương pháp thiền cho hành giả. Hôm nay, chúng ta có thể bàn đến vai trò của cung phàm ngã trong việc ấn định phương pháp này. Như chúng ta biết, cung phàm nhân bao giờ cũng là một cung phụ của cung tinh thần và thường thay đổi hơn cung của Chân nhân rất nhiều. Với những Chân nhân đã tiến hóa, như những người mà chúng ta có thể thấy trong số các nhà tư tưởng của nhân loại và những người phụng sự giỏi giang trong đủ mọi ngành hoạt động trên thế giới, thì cung phàm ngã của họ có thể thay đổi hết kiếp này sang kiếp khác. Mỗi kiếp sống mang một âm điệu khác nhau và biểu lộ một màu sắc khác nhau. Theo cách này thể nguyên nhân càng mau phong phú. Khi con người đang luân hồi đã đạt trình độ có thể hữu ý chọn lựa cách biểu lộ của mình, thì trước nhất y ôn [20] lại các kiếp trước, và nhờ sự hiểu biết này y chọn (phương cách cho) kiếp tới. Trước khi đầu thai, y sẽ gióng lên âm điệu của Chân ngã để thấy còn sự khiếm khuyết và bất hòa nào trong âm điệu đó hay không. Bấy giờ y mới quyết định đặt rung động căn bản của phàm ngã sắp tới của mình vào nốt nào.

Vì thế, trọn kiếp sống có thể được dùng vào việc gióng lên một âm điệu đặc biệt và ổn cố một rung động. Trong nhiều trường hợp khác nhau, nốt này phải được gióng lên và sự rung động này phải được giữ vững. Vì thế, cuộc đời của người đệ tử cần phải thường thay đổi, và đó là lý do tại sao những kiếp sống này lại có tính biến thiên rõ rệt và thường thấy xáo trộn luôn.

Khi sự sai điệu đã được điều chỉnh, khi sự rung động đã được vững bền, không còn bị các đổi thay chi phối nữa, bấy giờ việc cần làm đã xong. Chân nhân có thể thu lại các mãnh lực, trước khi tiếp tục công việc làm hoàn hảo thể nguyên nhân và làm cho hòa điệu cần có được chính xác, rõ ràng. Vì thế, chúng ta thấy sự cần thiết phải chọn phương pháp thiền thích hợp với nhu cầu của phàm nhân, và đồng thời hòa nhịp với yếu tố thứ nhất, là cung của Chân nhân.

Một Ví dụ thực tế.

Để sáng tỏ hơn, tôi cho một ví dụ vì cần phải hiểu cho chính xác.

Giả sử A có Chân ngã thuộc Cung Bác ái hay Minh triết, trong khi cung phàm ngã của y là Cung năm, Tri thức Cụ thể. Trong các tiền kiếp, A đã tỏ ra có lòng bác ái và đã tiến bộ thực sự theo phương pháp của cung tổng hợp này, là sự mở rộng. A có nhiều tình thương và dễ dàng mở rộng tâm thức của mình để bao gồm một phần nào cuộc sống chung quanh. [21] Nhưng vì chỉ có trí thông minh trung bình, y thiếu sự rung động vững vàng để gắn bó với cung năm. Y không có sự chú tâm nhất định để đạt được kết quả, và y cần nền tảng cơ bản về sự kiện (kiến thức khoa học) nhờ đó y có thể tiến tới một cách khôn ngoan và an toàn hơn. Vị huấn sư minh triết thấy rõ nhu cầu này sẽ dùng phương pháp mở rộng sẵn có trong cung Chân ngã của môn sinh để mở mang thể trí của y. Bằng một phương pháp đúng đắn, khôn ngoan, y sẽ áp dụng khả năng mở rộng (mà từ trước đến giờ y chỉ dùng để bao gồm những người khác qua tình thương) vào nỗ lực chuyên nhất tương tự để mở mang, nhằm đạt sự hiểu biết thấu đáo. Khi thực hiện điều này thì mọi nỗ lực của cuộc sống cá nhân (trong một kiếp nhất định) có thể dường như được dùng để đạt một địa vị trong khoa học và để mở mang trí tuệ. Với cái nhìn bàng quan thiếu kinh nghiệm thì chừng như sự tiến bộ trí tuệ là tối quan trọng. Tuy nhiên, rốt cuộc công việc cũng tiến triển như ý muốn nhờ sự hướng dẫn của Chân ngã nội tâm, và chỉ những kiếp sống kế tiếp mới chứng tỏ rằng sự lựa chọn ấy của Chân nhân là khôn ngoan.

Sự mở mang trí tuệ bằng cách phối hợp các phương pháp của cung hai và ứng dụng của cung năm sẽ thành tựu. Tôi có giúp bạn hiểu rõ được vấn đề chăng? Tôi phải làm sáng tỏ, vì vấn đề tham thiền thật rất quan trọng cho nhiều người.

Thế nên nếu đọc và suy ngẫm cặn kẽ bạn sẽ thấy rõ rằng kẻ càng hiểu nhiều càng ít xét đoán người khác. Một người có thể khá phát triển về mặt bác ái, vậy mà trong một kiếp nào đó phương diện này lại có thể bị trì trệ và đường hướng phát triển hầu như chỉ thuần trí tuệ mà thôi. Hãy dè dặt trong ý kiến của mình, đó là thái độ của kẻ bàng quan khôn ngoan nhất, khi y chưa có được nội nhãn thông để thấy được màu sắc và nội nhĩ thông để nghe được âm điệu của muôn loài.

[22] Ngày 7-6-1920.

3.     Điều kiện Nghiệp quả của Môn sinh.

Hôm nay, trong cuộc thảo luận về “Các Phương pháp Thiền,” chúng ta xét đến điều kiện nghiệp quả và vị trí của phàm nhân tam phân trên thang tiến hóa. Đây là điểm thứ ba cần xem xét và thật quan trọng khi quyết định một cách khôn ngoan để chọn phương pháp thích hợp cho mỗi cá nhân. Cho đến nay, chúng ta đã xem xét điểm đầu tiên là sự quan trọng của tham thiền. Sau đó chúng ta đề cập vắn tắt đến vai trò của cung Chân ngã trong sự chọn lựa phương pháp thiền. Từ đó đưa ra một điểm chưa hề được chú trọng nhiều là tham thiền có mục đích thực sự làm thể của Chân nhân dần dần nứt vỡ và tan rã. Chúng ta đã thấy mỗi cung đều cần một tiến trình riêng. Sau đó, chúng ta cũng bàn đến chức năng của cung phàm nhân khi phối hợp với cung Chân nhân, và thấy bằng cách nào khi sáng suốt xem xét cả hai yếu tố này, chúng ta có thể đưa ra một phương pháp thiền khôn ngoan.

Giờ đây, chúng ta hãy xem xét yếu tố thời gian một cách cụ thể hơn. Nghiệp quả và thời gian là hai từ có nhiều đồng nghĩa hơn chúng ta thường hiểu. Việc hành thiền huyền môn và dứt khoát giải phóng Chân nhân ra khỏi ngoại vi của thể nguyên nhân chỉ có thể bắt đầu ở một mức tiến hóa nhất định. Đó là lúc (nhờ sự tích lũy lâu dài) thể nguyên nhân đã đạt được trọng lượng riêng nhất định và khi chu vi thể nguyên nhân đã hội đủ một số điều kiện cần thiết. Toàn bộ tiến trình này tùy theo Định luật, chứ không phải chỉ toàn do đạo tâm và ước vọng cao thượng (như người ta thường nghĩ). Hãy xét kỹ câu tôi vừa viết về điều kiện nghiệp quả của phàm nhân tam phân và vị trí của y trên thang tiến hóa. Tôi đã đề cập đến những điều gì? Đó là ba yếu tố các bạn nên xem xét: [23]

a.     Trình độ tiến hóa của môn sinh.

b.     Trọng lượng riêng của thể nguyên nhân.

c.      Kích thước và chu vi của thể nguyên nhân.

Sau này, tôi sẽ nêu rõ vấn đề cõi trí và ba cõi phụ cao của nó, là cõi của Chân nhân. Chúng ta sẽ đề cập đến vị trí của thể nguyên nhân trên những cõi phụ này và sự liên hệ của thể nguyên nhân với các thể khác trên cùng một cõi. Trong thư này, tôi chỉ đề cập đến ba điểm vừa kể. Vì thế, tôi đề cập đến thể nguyên nhân, với tâm thức Chân ngã và sự liên quan của tâm thức ấy với phàm ngã. Về sau tôi sẽ bàn đến cũng chính tâm thức đó trên cõi của nó, mối liên hệ của nó với những Chân nhân khác, và với Đại đoàn Chưởng giáo (Đ.Đ.C.G.). Hãy nhớ kỹ điều này:– ở đây, chủ đề chính của tôi là sự phát triển của tâm thức Chân ngã trong Phàm nhân. Đừng lẫn lộn hai điều này. Có thể nói cách khác:– Tôi sẽ bàn đến mối liên hệ của Chân nhân và Phàm nhân (có ba thể), và việc dùng tham thiền để dần dần tăng cường mối liên hệ này. Sự tăng cường này trùng hợp với ba yếu tố kể trên. Vậy chúng ta hãy xem xét theo thứ tự.

Trình độ Tiến hóa của Môn sinh.

Cuộc sống của phàm nhân đang tiến hóa có thể được chia làm năm phần. Xét cho cùng, chúng ta đang ở trong cuộc tiến hóa có năm giai đoạn, và cuộc sống của con người (trong nhân loại trước khi được điểm đạo lần thứ năm) có thể được xem là một loạt năm bậc tiến hóa từ thấp lên cao. Mỗi bậc được đo lường bằng tình trạng của Ngọn lửa Tinh thần ẩn bên trong. Như tôi đã nói cùng các bạn, theo quan điểm của Đ.Đ.C.G. địa cầu thì chúng ta được đo lường bằng ánh sáng của chính mình.

Giai đoạn tiến hóa đầu tiên có thể kể từ lúc con người vừa thoát kiếp thú trở thành một sinh linh biết suy nghĩ, [24] tức là trở thành một con người, cho đến khi tâm thức hoạt động được trong thể tình cảm, hay là mức mà những tình cảm hầu như thống ngự. Nó tương ứng với thời kỳ của người Lemuria và thời gian đầu của dân Atlantis. Trong giai đoạn này, con người phân cực trong thân xác và học cách chế ngự thể xác bằng thể dục vọng, tức là thể tình cảm hay xúc cảm. Con người lúc đó không có chí nguyện gì cả, mà chỉ đi tìm lạc thú cho xác thân. Y chỉ sống cho thú tính của thân xác, chứ không nghĩ đến điều gì cao hơn. Giai đoạn này tương đương với thời kỳ của đứa trẻ từ một đến bảy tuổi. Ở giai đoạn này, các Huấn sư trông nom nhân loại thấy trong tâm y Ngọn lửa nhỏ như đầu mũi kim, và nguyên tử trường tồn hồng trần giữ công việc phân cực. Các Huấn sư không chú ý đến giai đoạn này bao nhiêu, vì sức mạnh bản năng sẵn có nơi Chân ngã y đảm trách công việc, và sức mạnh tiến hóa luôn luôn thôi thúc tất cả tiếp tục tiến lên hướng về sự hoàn thiện.

Giai đoạn phát triển thứ hai kể từ mức phần lớn sự phân cực nằm trong thể tình cảm, và dục vọng của hạ trí đang phát triển. Trình độ này tương đồng với giai đoạn sau của thời kỳ Atlantis. Các ham muốn không hoàn toàn cho thể xác nữa, vì trí năng bắt đầu xen vào, như chất men gây ra sự chuyển động làm cho bột nổi. Con người bắt đầu nhận thức được những sự ham muốn mơ hồ không liên hệ gì đến thể xác. Y có thể thương yêu sâu đậm các vị thầy, hay những người hướng dẫn khôn ngoan hơn mình. Hoặc y có sự mến thích vội vàng, thiếu suy xét đối với những người cộng sự và thân hữu ở chung quanh. Đồng thời y cũng có sự oán ghét vô lý và không cân nhắc. Bởi vì trong tâm tính của y còn thiếu sự quân bình (là thành quả của trí năng) và sự thăng bằng (là hậu quả của tác động trí tuệ). Y dễ có thái độ cực đoan.

Nay sự phân cực ở trong nguyên tử trường tồn thể tình cảm, nhưng (khi đạt mức phát triển này) có một đường ánh [25] sáng nối liền hai nguyên tử đã phân cực của thể xác và thể tình cảm. Điều tôi muốn nêu ra trong giai đoạn này là nguyên tử trường tồn hạ trí chưa biết đến sức mạnh phân cực. Nguyên tử trường tồn thể tình cảm đang còn giữ sức mạnh ấy với hậu quả gây nên sự khác biệt hoàn toàn bên trong chu vi của nó. Trong nguyên tử này, những kết hợp điện tử nào đã được phân cực thì hợp thành dạng hình học khác với những điện tử chưa được phân cực. Đây là hiệu quả của sự sống Chân nhân tác động vào vật chất của nguyên tử gây nên nhiều sự đồng hóa và biệt hóa không thấy có trong một nguyên tử chưa phân cực. Vấn đề này thật phức tạp và khó hiểu.

Giai đoạn này tương đương với khoảng đời của đứa trẻ từ bảy đến mười bốn tuổi, hay là thời gian đi qua tuổi thiếu niên và đứa trẻ đang trưởng thành. Sự trưởng thành này là kết quả sự phân cực của thể xác và thể tình cảm trong chỉnh hợp. Giờ đây hai thể này rất dễ chỉnh hợp với nhau. Vấn đề là làm sao đem cả hai thể này chỉnh hợp với thể trí, rồi sau đó chỉnh hợp với thể Chân nhân.

Các Đấng hướng dẫn trông nom nhân loại có thể thấy Ngọn Lửa trong tâm con người hơi nở lớn hơn, nhưng hãy còn quá nhỏ nên chưa đáng kể. Tuy nhiên, có thể nói ở giai đoạn đầu nguyên tử trường tồn hồng trần được chiếu sáng, và bây giờ ở giai đoạn hai nguyên tử tình cảm cũng được chiếu sáng tương tự. Đây là dấu hiệu cho các Huấn sư thấy rằng sự tiến hóa của y đang tiếp diễn. Những phát triển vừa kể xảy ra trong một thời gian dài, vì sự tiến bộ trong giai đoạn này chậm chạp không thể tả. Lời ám chỉ của tôi về các giống dân Atlantis và Lemuria chỉ để nói lên sự tương đồng trong mục tiêu chứ không phải tương đồng về thời gian.

Nay đến giai đoạn thứ ba, là mức phát triển quan trọng nhất của con người, là giai đoạn thể trí phát triển và sức [26] sống phân cực chuyển vào nguyên tử trường tồn hạ trí. Xét trong phạm vi thái dương hệ và nhìn nhân loại như một đơn vị thì những nguyên tử trường tồn của nhân loại hợp thành các phần tử trong một nguyên tử tương ứng cấp vũ trụ, việc phân cực đã tiến triển từ xác thân đến thể tình cảm và vẫn còn ở đó. Chỉ đến chu kỳ thứ bảy của đại chu kỳ, khi toàn thái dương hệ không còn biểu hiện nữa mà đi vào trạng thái tiềm sinh, thì nguyên tử trường tồn thể trí vũ trụ của Đức Thượng Đế mới được phân cực. Đó đây, cũng có những cá nhân với tư cách các đơn vị đã hoàn tất được công trình và do đó mà mang lại niềm hy vọng cho tất cả.

Giai đoạn này tương ứng với khoảng từ mười bốn đến hai mươi tám tuổi. Giai đoạn này dài hơn vì có nhiều việc phải làm. Hai nguyên tử đã được phân cực và một đang dịch chuyển. Đây là mức giữa. Vào lúc này, ánh sáng nối liền ba nguyên tử (hình thành tam giác của phàm nhân). Nhưng tiêu điểm đang dần dần chuyển vào nguyên tử trường tồn hạ trí, thể nguyên nhân ngày càng tròn đầy và cân đối.

Con người đã chế ngự được thể xác và mỗi kiếp y lại tạo một thể xác tốt hơn. Y có thể tình cảm ngày càng đạt yêu cầu tinh luyện nhiều hơn (hãy chú ý đến nghĩa huyền bí của từ này). Y nhận thức được những niềm vui trí tuệ và luôn cố gắng để có một thể trí kiện toàn hơn. Sự ham muốn của y hướng lên cao chứ không xuống thấp, và dần dần được chuyển hóa thành chí nguyện. Lúc đầu chí nguyện ấy hướng về những vấn đề của trí tuệ, và về sau hướng đến những gì trừu tượng và tổng hợp hơn. Ngọn Lửa hay Ánh sáng của Chân ngã nội tâm giờ đây chiếu từ trung tâm đến ngoại vi, thắp sáng thể nguyên nhân và có dấu hiệu bừng cháy. Đối với Đ.Đ.C.G. đang trông nom thì rõ ràng là ngọn lửa thiêng đang xuyên khắp, sưởi ấm và làm [27] chói rạng trọn cả thể nguyên nhân. Chân nhân ngày càng tỉnh thức trên cảnh giới của mình và ngày càng quan tâm đến cuộc sống của Phàm nhân – qua các nguyên tử trường tồn. Bộ não hồng trần của Phàm nhân vẫn chưa phân biệt được khả năng trí tuệ sẵn có và các ấn tượng đến từ Chân nhân bên trong, nhưng đã đến lúc có một sự thay đổi nào đó, và cuộc tiến hóa ngày càng nhanh hơn. Sắp đến giai đoạn thứ tư và tôi cũng xin khuyến cáo đôi lời. Tất cả những điều vừa kể không tiến hành theo những phần có thứ tự (xin tạm gọi như thế) mà tiến hành giống như hệ thống vĩ đại hơn (là thái dương hệ). Trong đó luôn luôn có những sự trùng hợp, những diễn tiến song hành, do cung cố hữu của Chân thần (hay Tinh thần), do những thay đổi định kỳ, do những tác động khác nhau của mãnh lực các thiên thể và thường là tác động từ những trung tâm vũ trụ (chưa được biết) vào nhịp sống trong các nguyên tử. . .

Giai đoạn thứ tư là khoảng thời gian Phàm nhân đã hoàn toàn điều hợp, lúc mà con người trực nhận chính mình (như đứa con đi hoang ở chốn tha phương) và nói rằng: “Tôi sẽ vươn lên và về với Cha tôi.” Đây là hậu quả của lần tham thiền thứ nhất. Cả ba nguyên tử trường tồn đều hoạt động và con người giờ đây là một sinh linh có tình cảm, biết suy nghĩ và chủ động. Y đạt mức sung mãn trong đời sống Phàm nhân, và đang hữu thức chuyển sự phân cực từ cuộc sống Phàm ngã sang Chân ngã. Y đang ở trên Con đường Đệ tử hay Con đường Dự bị, hoặc tiến gần đến mức đó. Y bắt đầu làm công việc siêu hóa. Một cách khó nhọc, đau khổ và thận trọng, y buộc tâm thức mình dâng cao hơn và mở rộng như ý muốn. Bằng mọi giá y quyết ngự trị và hoạt động hoàn toàn tự do trong tam giới. Y biết rằng Chân nhân phải biểu lộ hoàn toàn trên các cõi hồng trần, tình cảm, và trí tuệ, và do đó mà phải trả giá rất đắt để kiến tạo đường dẫn truyền cần thiết. Y thu hút sự chú ý của các Huấn sư. Bằng cách nào? Ánh sáng nội [28] tâm bắt đầu chói rạng ra ngoài thể nguyên nhân. Nó được cấu tạo tinh anh đến mức trở thành một thể trong suốt, và ở điểm Chân nhân tiếp xúc với Tam nguyên hiện ra một Ngọn Lửa. …Ánh sáng không còn bị che án mà bỗng nhiên bừng lên thành ngọn lửa, ở trong tầm nhìn của Chân sư đang thiết tha tìm kiếm.

Đây là giai đoạn từ hai mươi tám đến ba mươi lăm tuổi trong cuộc sống của người trưởng thành. Đây là giai đoạn mà mỗi người tìm thấy chính mình, tìm ra được lối hoạt động cho mình, biết được những gì y có thể thành tựu, và từ quan điểm của trần thế y trở về với con người thật của y.

Trong giai đoạn thứ năm Ngọn Lửa từ từ xuyên qua ngoại vi của thể nguyên nhân, và “con đường của người công chính cứ mãi chói rạng hơn cho đến ngày toàn hảo.” Trong giai đoạn thứ tư tham thiền đã bắt đầu. Và chính tham thiền thần bí đã đưa hành giả đến tham thiền huyền môn trong giai đoạn thứ năm, mang lại những kết quả đúng định luật và theo đúng đường hướng cung của mình. Nhờ tham thiền mà con người (là Phàm nhân) cảm được sự rung động của Chân nhân, tìm cách đạt đến Chân nhân để đưa tâm thức Chân nhân xuống ngày càng nhiều, cho đến mức tâm thức đó bao gồm cả cõi trần một cách ý thức. Chính nhờ tham thiền hay là quay vào nội tâm mà hành giả học được thực nghĩa của Lửa và áp dụng lửa này vào tất cả các thể, cho đến khi tất cả đều bị thiêu hủy, chỉ còn ngọn lửa mà thôi. Chính nhờ tham thiền, hay là từ cụ thể đạt đến trừu tượng, mà hành giả nhập vào tâm thức của Chân ngã, và trong giai đoạn cuối này trở thành Chân ngã chứ không còn là Phàm nhân nữa.

Trong giai đoạn thứ năm (giai đoạn Con đường Điểm đạo) sự phân cực hoàn toàn chuyển từ Phàm nhân đến Chân nhân.

Đến cuối giai đoạn này hành giả được hoàn toàn tự do và giải [29] thoát. Ngay đến thể nguyên nhân cũng bị xem là một sự hạn chế và việc giải phóng đã xong. Bấy giờ sự phân cực lại chuyển lên cao hơn, nhập vào Tam nguyên – sự dịch chuyển này bắt đầu vào kỳ Điểm đạo thứ ba. Nguyên tử trường tồn hồng trần bị bỏ đi, và sự phân cực trở thành của thượng trí. Nguyên tử trường tồn thể tình cảm bị bỏ đi và sự phân cực lên đến thể bồ-đề (trực giác). Nguyên tử trường tồn hạ trí bị bỏ đi và sự phân cực lên đến atma (thể tinh thần). Bấy giờ, con người trở thành một Chân sư Minh triết, được tượng trưng ở tuổi bốn mươi hai, mức trưởng thành hoàn hảo trong Thái dương hệ.

Hãy còn một giai đoạn sau nữa, tương ứng với độ tuổi từ bốn mươi hai đến bốn mươi chín là giai đoạn mà hành giả có thể được điểm đạo lần thứ sáu và thứ bảy, nhưng giai đoạn đó chưa liên quan đến các độc giả của những bức thư này. . . .

Ngày 9-6-1920.

Trọng lượng riêng và Dung tích của Thể nguyên nhân.

Vấn đề thể nguyên nhân bao gồm nhiều điều để các nhà tư tưởng suy ngẫm. Không thể nêu rõ hình dạng và kích thước của nó được, vì đó la một bí mật điểm đạo, nhưng tôi có thể gợi lên vài ý tưởng để cho những ai quan tâm có thể xem xét.

Vậy thể nguyên nhân là gì? Đừng nói ngay rằng đó là thể của những nguyên nhân, vì nói như thế có vẻ mơ hồ, không rõ ràng. Giờ đây, chúng ta hãy xem xét thể này và tìm ra những thành phần cấu tạo nó.

Trên con đường tiến hóa giáng hạ chúng ta có cái gọi là Hồn khóm, thường được mô tả (theo ngôn từ thế gian) là một tập hợp các tam nguyên ở trong một bọc có ba lớp làm bằng chất tinh hoa của Chân thần. Trên con đường tiến hóa thăng thượng, có những nhóm thể nguyên nhân tương ứng cũng được cấu tạo tương tự, với ba yếu tố xen vào. [30]

Thể nguyên nhân là tập hợp của ba hạt nguyên tử trường tồn, ở trong một bọc làm bằng tinh chất của cõi trí….Điều gì xảy ra khi người thú trở thành một con người thực sự, một sinh linh biết suy nghĩ? Đó là cái ngã tiến đến gần cái phingã nhờ phương tiện trí tuệ, vì con người là “sinh linh mà trong đó tinh thần cao nhất và vật chất thấp nhất được liên kết bằng trí thông tuệ.” Câu này có ý nghĩa gì? Tức là: khi người thú tiến đến trình độ thích hợp, khi xác thân y đã điều hợp đúng mức, khi tình cảm hay dục tính đã đủ mạnh để tạo cơ bản cho sự sinh tồn và hướng dẫn cuộc sống bản năng, và khi mầm trí năng đã ăn sâu đến mức giúp y có được ký ức của bản năng và sự liên hợp các ý tưởng, là điều có thể thấy ở một con thú nhà mức trung bình, thì bấy giờ Tinh thần đang giáng thế (đã thu nạp một nguyên tử trên cõi trí) xét rằng đã đến lúc chiếm hữu các hạ thể. Các Hỏa Chân quân được vời đến, các Ngài giúp chuyển sự phân cực từ nguyên tử thấp nhất của Tam nguyên đến nguyên tử thấp nhất của Phàm nhân. Ngay cả lúc này, Ngọn Lửa nội tại cũng không thể xuống thấp hơn cõi phụ thứ ba của cõi trí. Ở đó hai bên gặp nhau, nhập một và tạo thành thể nguyên nhân. Trong thiên nhiên tất cả đều tùy thuộc lẫn nhau, và Chủ thể tư tưởng ở nội tâm không thể chế ngự được tam giới nếu không có sự giúp đỡ của phàm ngã. Sự sống của Thượng Đế Ngôi một phải hòa hợp với sự sống của Ngôi hai và phải dựa vào hoạt động của Ngôi ba.

Vì thế, vào thời điểm biệt lập ngã tính (từ dùng để diễn tả giờ phút tiếp xúc này) ở cõi phụ thứ ba của cõi trí chúng ta thấy một điểm sáng bao bọc ba hạt nguyên tử và tất cả đều [31] được bọc trong một lớp vật chất cõi trí. Sau đó, những việc phải làm gồm có:

1.     Khiến cho điểm sáng ấy bùng lên thành ngọn lửa bằng cách quạt đều và cho thêm chất đốt.

2.     Làm cho thể nguyên nhân tăng trưởng và mở rộng từ một khối bầu dục không màu (giữ Chân nhân trong đó như lòng đỏ ở trong vỏ trứng) thành một khối đẹp đẽ hiếm có, gồm trong đó tất cả những màu sắc của cầu vồng. Đây là một sự kiện huyền môn. Đến đúng lúc thể nguyên nhân sẽ rung chuyển với sự chói sáng bên trong và ngọn lửa nội tại đang tỏa sáng sẽ dần dần chiếu từ trung tâm ra ngoại vi. Sau đó, ngọn lửa sẽ xuyên thủng chu vi, dùng thể này (là sản phẩm của vô số kiếp đau khổ và cố gắng) làm mồi cho nó. Nó đốt tan tất cả, và cháy leo lên tận Tam nguyên. Khi đã hợp nhất với Tam nguyên, nó sẽ được tái hấp thu vào tâm thức tinh thần, mang về cho Chân thần (hãy dùng sức nóng làm biểu tượng) một nhiệt lượng cường liệt, hay phẩm tính của màu sắc hoặc rung động mà trước đó còn thiếu.

Vì chúng ta phải nhìn mọi việc theo quan điểm của Phàm ngã cho đến khi đạt được tầm nhìn của Chân ngã, nên công việc của Phàm nhân trước hết là tô điểm, xây dựng và mở rộng thể nguyên nhân. Kế đến là thu sự sống của phàm ngã vào trong đó, rút hết những gì tốt đẹp của cuộc sống phàm ngã đem chứa vào thể của Chân nhân. Chúng ta có thể gọi việc thu hút sự sống này là Ma cà rồng Thiêng liêng, vì luôn luôn ác là mặt trái của thiện. Khi đã hoàn tất việc này rồi, ngọn lửa bèn đốt ngay thể nguyên nhân, lặng nhìn một cách hoan hỉ trong khi việc thiêu hủy tiếp diễn. Rồi Ngọn Lửa – là con người đang sống ở nội tâm, là tinh thần của sự sống thiêng liêng – được cháy tự do và leo lên đến tận nguồn của nó.

Trọng lượng riêng của thể nguyên nhân ấn định thời điểm giải thoát và đánh dấu mức hoàn tất công việc xây dựng và tô [32] điểm, khi Ngôi đền Solomon đã xây xong và trọng lượng (hiểu theo nghĩa huyền bí) của thể nguyên nhân đã đạt được tiêu chuẩn mà Đ.Đ.C.G. mong muốn. Bấy giờ việc tiêu hủy xảy ra và sự giải thoát gần kề. Khi mùa xuân đã qua, cuối mùa hạ cây cối đã xanh tốt rườm rà, thì giờ đây phải cảm được sức tan rã của mùa thu, – chỉ có điều lần này sức mạnh ấy được cảm thấy và áp dụng ở các cấp trí tuệ chứ không ở cấp hồng trần. Lưỡi rìu đã đặt vào gốc cây (sắp đốn nó), nhưng tinh hoa của sự sống đã được chứa vào kho thiêng liêng.

Dung tích của thể nguyên nhân là sự tích lũy những gì tốt đẹp của mỗi kiếp sống qua tiến trình tuần tự và chậm chạp. Việc xây dựng lúc đầu tiến hành rất chậm, nhưng gần cuối cuộc luân hồi, – trên Con đường Dự bị và trên Con đường Điểm đạo – thì diễn tiến nhanh hơn. Công trình đã được dựng lên và mỗi viên đá đều được thu góp từ cuộc sống cá nhân. Trong mỗi giai đoạn này trên Đường Đạo, việc tô điểm và hoàn thành Ngôi Đền được tiến hành nhanh chóng hơn nữa…

Nói chung, chu vi của thể nguyên nhân thay đổi tùy theo loại và tùy theo cung. Một vài thể Chân nhân có hình dáng tròn hơn các thể khác. Một số thể giống hình bầu dục, còn những thể khác lại dài hơn. Nhưng dung tích và khả năng thích ứng mới là vấn đề quan trọng, và quan trọng nhất là khả năng thẩm thấu huyền bí của noãn hào quang thấp khiến nó có thể tiếp xúc được với các Chân nhân khác mà đặc tính vẫn giữ nguyên; có thể hòa hợp với các thể nguyên nhân khác mà vẫn giữ được cá tính; và có thể hấp thu những gì cần thiết mà vẫn giữ được nguyên hình.

Ngày 16-6-1920.

4.     Điều kiện của Thể nguyên nhân.

Hôm nay chúng ta đề cập đến yếu tố thứ tư trong việc [33] chọn lựa phương pháp thiền, tức là điều kiện của thể nguyên nhân.

Chúng ta đã bàn đến sự liên hệ của thể nguyên nhân với Phàm nhân hay phàm ngã, cho thấy sự tương tác và tùy thuộc lẫn nhau của cả hai. Nhờ hành thiền huyền môn một cách đều đặn, liên tục, nhờ dần dần định tĩnh hạ trí bằng cách tập trung và khôn ngoan theo lối thiền của cung Chân ngã, cũng như tham thiền theo cung của phàm ngã để lập thế thăng bằng, mối liên hệ kết hợp thể nguyên nhân và phàm ngã ngày càng trở nên trong sáng và đầy đủ hơn. Sự liên hệ đó rốt cuộc đã chuyển sự phân cực từ phàm ngã đến Chân ngã và về sau sự phân cực còn cao hơn cả hai để tập trung vào tâm thức của Chân thần. Chúng ta đã bàn về vấn đề này theo quan điểm thấp, nhìn từ lập trường của một người trong tam giới.

Hôm nay chúng ta bàn đến vấn đề theo quan điểm của Chân ngã, ở tầm mức của Chân nhân, và xem xét sự liên hệ của Chân nhân với Đ.Đ.C.G., với các Chân nhân ở chung quanh, và với Chân thần. Thật khó làm gì hơn là đưa ra vài nét khái quát, vì tôi có thể nói nhiều nhưng các bạn chỉ hiểu được chút ít, và nhiều điều còn quá huyền bí, chưa thích hợp để phổ biến cho đại chúng.

Tôi có thể truyền đạt ba điều, nếu lấy đó mà tham thiền một cách chín chắn, khôn ngoan bạn có thể được soi sáng:

Chân nhân ở trên cảnh giới của mình hữu thức nhận ra được sự liên hệ với Chân sư, và tìm cách chuyển tâm thức đó cho Phàm nhân.

Chân nhân ở trên cõi của mình, không vướng bận với không gian và thời gian và (vì biết cả tương lai cũng như quá khứ) nên tìm cách làm cho cứu cánh mong muốn ấy mau chóng trở thành hiện thực.

[34] Chân nhân ở trên cõi của mình liên hệ trực tiếp với các Chân nhân khác có cùng một cung, cùng một cung cụ thể hay cung trừu tượng tương ứng. Vì các Chân nhân đều biết rằng sự tiến bộ càng nhanh khi cùng hoạt động trong nhóm, nên tìm cách trợ giúp nhau trên cảnh giới đó. Những sự kiện này, các môn sinh đã hiểu được phân nửa. Tôi sẽ trình bày thêm vài điều để làm sáng tỏ hơn.

Sự liên hệ của Chân nhân với Đ.Đ.C.G.

Sự liên hệ của Chân nhân với một vị Chân sư được hữu thức nhận ra trong giai đoạn này, tuy nhiên đây chính là sự phát triển trên đường tiến hóa. Như chúng ta đã biết, có sáu mươi tỷ đơn vị tâm thức (hay tinh thần) trong các đẳng cấp tiến hóa của nhân loại. Họ đang ở cấp Chân nhân, dù hiện nay con số này hơi ít đi vì thỉnh thoảng lại có những người đạt mức điểm đạo thứ tư. Các Chân nhân này ở trong những giai đoạn phát triển khác nhau, đều liên kết với Chân thần (Tinh thần hay là Cha ở trên Trời) của mình, theo cách cũng giống như Chân nhân liên kết với Phàm nhân (chỉ khác là trong vật chất tinh vi hơn).

Như các bạn biết, mọi Chân thần đều ở dưới sự kiểm soát của một trong những Đức Hành Tinh Thượng Đế, hay đúng ra là một thành phần của tâm thức Ngài. Trên cảnh giới của mình, các Chân nhân cũng ở trong tình trạng tương tự. Một Đấng Cao cả thuộc cung của các Chân nhân này giám sát sự tiến hóa tổng quát của họ, trông nom họ theo từng nhóm. Những nhóm này được hình thành theo ba điều kiện:

a.     Tùy theo cung phụ của cung Chân nhân.

b.     Tùy theo giai đoạn biệt lập ngã tính hay là lúc nhập vào hàng nhân loại.

c.      Tùy theo trình độ tiến hóa.

Đấng Cao cả nói trên sẽ giám sát tổng quát, nhưng dưới Ngài còn có nhiều vị Chân sư, mỗi vị có cung riêng và nhóm riêng, gồm những người liên kết với các Ngài theo từng giai [35] đoạn, do nghiệp quả và do mức độ rung động. Dưới các Chân sư là những đệ tử đã có tâm thức Chân ngã, nhờ đó họ có thể làm việc trên cõi của Chân nhân và trợ giúp những Chân nhân có thể nguyên nhân kém phát triển hơn họ.

Tất cả đều theo đúng định luật một cách tốt đẹp. Vì việc phát triển thể nguyên nhân tùy thuộc vào sự tiến bộ đạt được ở ba thể phàm nhân, do đó Chân nhân được hai vị đệ tử trợ giúp ở cấp thấp hơn. Một vị làm việc trên các cấp tình cảm và báo cáo cho vị trợ giúp thể trí. Vị này mới báo cáo cho vị trợ giúp thể nguyên nhân để vị ấy trình lại cho Chân sư biết. Toàn bộ công việc này được thực hiện có sự cộng tác của tâm thức Chân ngã ở trong thể nguyên nhân. Như vậy chúng ta thấy rằng có năm yếu tố liên quan đến việc trợ giúp sự phát triển của Chân nhân trên đường tiến hóa:

1.     Đấng Cao cả chăm sóc cung Chân nhân.

2.     Vị Chân sư của nhóm y.

3.     Một vị đệ tử trợ giúp tâm thức thể nguyên nhân.

4.     Một vị đệ tử giúp thể trí.

5.     Một vị phù trợ ở cõi tình cảm.

Qua một thời gian lâu dài gồm nhiều kiếp sống, Chân nhân vẫn chưa thực sự ý thức được Phàm nhân. Sự liên kết từ lực vẫn hiện hữu, nhưng chỉ bắt đầu phát triển khi cuộc sống Phàm nhân đạt mức có điều gì để thêm vào dung tích của thể nguyên nhân – lúc đầu là một thể bé nhỏ, không màu sắc và không đáng kể. Tuy nhiên, đã đến lúc những viên đá hoàn hảo lần đầu tiên được mang từ cuộc sống Phàm nhân đến thể nguyên nhân. Con người là kẻ xây dựng, là nhà nghệ sĩ, tô điểm lên thể này các màu sắc đầu tiên. Bấy giờ Chân nhân mới bắt đầu chú ý đến Phàm ngã. Ban đầu rất ít khi, nhưng ngày một nhiều hơn, cho đến những kiếp mà Chân nhân cố [36] gắng rõ rệt để chế ngự Phàm ngã, mở rộng đường liên thông và chuyển đến cho ý thức não bộ hồng trần biết sự hiện hữu và mục đích của cuộc sống Chân nhân. Khi việc này đã hoàn tất, ngọn lửa nội tại đã lưu thông tự do hơn, thì một số kiếp được dùng để củng cố ấn tượng đó, làm cho tâm thức nội tại của Chân nhân trở thành một phần của cuộc sống tỉnh thức trong thân xác. Ngọn lửa ngày càng chiếu xuống cho đến khi các thể dần dần chỉnh hợp và hành giả bước lên Con đường Dự bị. Y vẫn chưa biết được đoạn đường phía trước mà chỉ ý thức được chí nguyện tuy thô sơ nhưng nồng nhiệt và niềm khao khát thiêng liêng bẩm sinh. Y hăng hái làm lành, khao khát muốn hiểu biết và luôn luôn mơ tưởng đến một người nào hay một điều gì cao cả hơn y. Tất cả đều dựa vào niềm tin sâu sắc rằng trong cố gắng phụng sự nhân loại y sẽ đạt được mục tiêu mơ ước, viễn ảnh sẽ thành sự thực, niềm khao khát sẽ được hài mãn và chí nguyện sẽ hoàn thành.

Đ.Đ.C.G. bắt đầu hành động và y được giáo huấn như đã nói trước đây. . . . Từ trước đến giờ, các Huấn sư chỉ trông nom và hướng dẫn, chứ không trực tiếp làm việc với chính phàm nhân. Mọi sự đều để cho Chân nhân và sự sống thiêng liêng (bên trong) thực hiện kế hoạch. Sự chú ý của Chân sư chỉ được hướng đến Chân nhân trên cõi thượng thiên. Chân nhân dồn mọi nỗ lực để tăng cường nhịp rung động, buộc các hạ thể ngoan ngạnh phải đáp ứng và tuân phục sức mạnh chế ngự ngày càng tăng. Đây phần lớn là việc gia tăng sức nóng hay là lửa, và do đó mà tăng cường khả năng rung động. Ngọn lửa của Chân nhân ngày càng chói rạng cho đến khi việc tăng cường đã hoàn tất, và lửa tinh luyện trở thành Ánh sáng Khai ngộ. Hãy suy ngẫm kỹ câu này. Ở trên sao, ở dưới vậy. Trên mỗi nấc thang tiến hóa, quá trình này vẫn tái diễn. Vào cuộc [37] Điểm đạo thứ ba, Chân thần bắt đầu biết đến Chân nhân. Công việc càng tiến hành nhanh chóng vì chất liệu tinh vi hơn và cũng vì sự cản trở chỉ có trong tam giới (ba hạ thể) chứ không ở đâu khác.

Giờ đây, sự đau khổ chấm dứt đối với vị Chân sư. Đó là sự đau khổ mà chúng ta biết trên địa cầu, phần lớn là sự đau khổ trong vật chất. Còn sự đau khổ trong nhận thức (chứ không do chống kháng) thì chỉ những cấp tiến hóa cao nhất mới cảm được, vâng, nó lên tận Đức Thượng Đế. Nhưng tôi đã nói ngoài đề rồi và các bạn là những người còn bị vật chất chi phối, hầu như không thể hiểu.

Chân Nhân trong việc tự phát triển.

Chân nhân cố gắng đạt mục tiêu mong muốn bằng ba cách:–

1.        Bằng cố gắng rõ rệt trên các cấp độ trừu tượng. Chân nhân muốn tiếp xúc và bao bọc hạt nguyên tử trường tồn thượng trí, là bước đầu nó tiến đến Tam nguyên.

2.        Bằng cách dùng màu sắc và âm thanh phù hợp để kích thích và làm sinh động. Vì thế phải làm việc từng nhóm, dưới sự hướng dẫn của Chân sư.

3.        Bằng cố gắng thường xuyên để hoàn toàn chế ngự phàm ngã là điều mà Chân nhân không mấy thích. Bởi vì Chân nhân có khuynh hướng hài lòng với tâm thức và chí nguyện trên cảnh giới của mình. Nên nhớ rằng chính Chân nhân cũng có một vài điểm cần phải phấn đấu để tự chế ngự. Sự từ chối luân hồi không những có ở cấp Chân thần mà còn có cả ở trên cõi của Chân ngã. Chân nhân cũng nhắm đến một số phát triển phụ thuộc vào các yếu tố thời gian và không gian (hiểu theo ý nghĩa trong tam giới), như mở rộng chu vi thể nguyên nhân bằng cách nghiên cứu khoa thần giao cách cảm thiêng liêng, khoa tâm lý thái dương hệ và kiến thức về các định luật của lửa. [38]

Liên hệ giữa các Chân nhân.

Trong mối liên hệ này có mấy điều cần nhớ:–

Yếu tố giai đoạn. Những Chân nhân đang luân hồi và các Chân nhân ở ngoài vòng luân hồi thì khác biệt nhau và có thể làm những công việc khác nhau. Chân nhân nào có phản ảnh (các hạ thể) đang trong vòng luân hồi thì bị giới hạn nhiều hơn các Chân nhân không có. Hầu như Chân ngã hướng xuống dưới, hoặc tự ý giới hạn mình trong cuộc hiện tồn chỉ có ba chiều. Trong khi những Chân nhân ở ngoài vòng luân hồi thì không bị giới hạn đó, và làm việc theo hướng khác hay bề đo khác. Sự khác biệt ở chỗ tập trung chú ý, trong thời gian sống ở cõi trần. Vấn đề hơi khó cho các bạn nắm vững, phải không? Tôi cũng thấy khó diễn tả sự khác biệt này thế nào cho rõ rệt hơn. Có lẽ dường như các Chân nhân đang luân hồi thì tích cực hơn, còn Chân nhân không luân hồi thì tiêu cực hơn.

Yếu tố hoạt động. Đây phần lớn là vấn đề các cung và ảnh hưởng rất chặt chẽ đến mối quan hệ giữa các Chân nhân. Những Chân nhân có cùng một cung thì sẵn sàng liên hợp và hòa nhịp với nhau hơn là những Chân nhân khác cung. Và chỉ khi nào trạng thái thứ hai hay trạng thái minh triết phát triển thì sự tổng hợp mới có được.

Ở cõi phụ thứ ba của cõi trí, các Chân nhân được phân thành nhiều nhóm – không có sự phân chia từng cá nhân mà chỉ có sự phân nhóm tùy theo cung và trình độ tiến hóa.

Ở cõi phụ thứ hai, các nhóm hòa hợp lẫn nhau và từ 49 nhóm trở thành 42 nhóm (bằng cách sáp nhập). Tiến trình tổng hợp có thể tóm lược như sau:

Tôi đã đưa ra đây vài nét khái quát. Tuy quá ít so với những gì biết được sau này khi các học viên đã mở mang tâm thức nhiều hơn, nhưng đó là tất cả những điều hiện nay có thể truyền đạt. Mục đích là nhằm nêu rõ rằng có biết bao nhiêu điều cần phải xem xét, khi Chân sư ấn định những thể thức tham thiền thích hợp cho môn sinh. Ngài phải thận trọng cứu xét cung của Chân nhân và tình trạng của thể nguyên nhân trong liên hệ với Phàm ngã và với Đ.Đ.C.G… Ngài cần biết tình trạng và dung tích của thể nguyên nhân. Mối liên hệ với các Chân nhân khác cũng phải được xem xét đúng đắn, vì tất cả các Chân nhân đều sinh hoạt trong nhóm. Vì thế, phương pháp thiền phải được đưa ra phù hợp với nhóm mà Chân nhân đang liên hệ. Bởi vì, khi một người tham thiền, không những y giao tiếp với Chân ngã của y, mà còn tiếp xúc với nhóm Chân nhân của y. Qua nhóm đó, tất nhiên y sẽ tiếp xúc với vị Chân sư của nhóm, dù hiệu quả của tham thiền tùy việc thực hành theo phương pháp huyền môn và đúng định luật. Ý nghĩa tập thể của tham thiền chưa được hiểu bao nhiêu, nhưng những tư tưởng trên đáng cho các bạn nghiên cứu kỹ.

Ngày 17-6-1920.

5.     Nhu cầu cấp thiết của Thời đại và Khả năng Hữu dụng của Môn sinh.

Hôm nay, chúng ta xét đến yếu tố thứ năm trong việc ấn định phương pháp thiền, bàn về nhu cầu của giai đoạn hiện tại và khả năng thích ứng của hành giả đáp lại nhu cầu đó.

Trước hết, chúng ta hãy tóm lược lại, vì việc nhắc đi nhắc lại có giá trị rất sâu xa. Chúng ta đã vắn tắt đề cập đến yếu tố [40] của cung Chân nhân, như vị huấn sư phải cứu xét khi hướng dẫn hành thiền. Chúng ta đã thấy bằng cách nào mỗi cung đi theo một con đường riêng, mà lại cùng nhắm đến mục tiêu giống nhau, và mỗi cung cần một lối thiền riêng. Chúng ta đã đề cập đến việc sửa đổi phương pháp hành thiền khi cứu xét cung phàm ngã. Rồi đề cập đến yếu tố thời gian biểu lộ trong thể nguyên nhân, mức phát triển và liên hệ của thể này với ba hạ thể. Chúng ta đã kết thúc câu chuyện hôm qua bằng vài nét khái quát về thể nguyên nhân ở trên cõi của nó và phạm vi nó ý thức được. Tất cả những điều này cho thấy rằng vị huấn sư phải sáng suốt đến mức nào để hướng dẫn phương pháp thiền cho môn sinh. Ở đây còn một điểm cần thêm vào:– Một vị huấn sư chưa mở tâm thức thể nguyên nhân và chưa tiếp xúc được với Chân ngã thì không thể nào dạy được phương pháp thiền huyền môn thực sự thích hợp. Chỉ đến khi biết được âm điệu, nhịp rung động và màu sắc, vị huấn sư mới có thể hướng dẫn một cách sáng suốt. Nếu không, chỉ nên dạy tổng quát, và một lối thiền tổng quát như thế cũng gần đáp ứng được nhu cầu và cũng an toàn.

Cũng cần xét một yếu tố khác nữa, – yếu tố này thay đổi phần nào tùy theo nhu cầu của thời đại. Không phải mọi chu kỳ đều có tầm quan trọng cơ bản như nhau. Những giai đoạn thực sự quan trọng trong một chu kỳ là các giai đoạn cuối và những giai đoạn có sự trùng hợp và hòa lẫn các biến cố xảy ra. Những lúc như thế, ở cõi trần nổi lên nhiều cuộc cách mạng vĩ đại, những biến cố lớn lao, những thay đổi cơ bản trong ba Ngành của Đ.Đ.C.G. – Ngành của Đức Chưởng giáo Thế gian, Ngành của Đức Bàn cổ (vị Nguyên thủ của một căn chủng) và Ngành của Đức Văn minh Đại đế (vị Chúa của văn minh và thiên lực). Vào những lúc giao thời trong một chu kỳ, có nhiều trào lưu xung đột và toàn thể hệ thống (địa cầu) chừng như ở [41] trong tình trạng xáo trộn. Ở giai đoạn giữa chu kỳ, khi nguồn rung động mới đã được ổn cố và cái cũ đã qua rồi, thì đó là thời kỳ yên tĩnh và có sự quân bình.

Không thời kỳ nào trong lịch sử nhân loại chứng tỏ điều đó rõ hơn khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ 20 này. Cung sáu là Cung Sùng tín ra đi và Cung bảy là Cung Định luật Nghi thức mới đến. Theo đó là sự nổi bật các nét đặc trưng và những khả năng của ngành mãnh lực và hoạt động, đừng quên rằng ngành này là tổng hợp của bốn cung phụ. Vì thế, các bạn đã thấy sự tranh đấu cho các lý tưởng, sự hiến mình cho một chủ nghĩa, như đã xảy ra dưới ảnh hưởng cung của Chân sư Jesus.

Cho nên có nhiều xung đột trong mọi phạm vi hoạt động của các lý tưởng gia (dù đúng hay sai), họ chiến đấu với nhau thật là gay gắt. Thế chiến là gì nếu không phải là cao điểm của hai lý tưởng đối nghịch, đưa đến sự tương tranh ở cõi trần? Đó là một ví dụ điển hình cho mãnh lực của cung sáu. Giờ đây, khi cung sáu đã ra đi, sự xung đột sẽ giảm dần và sự tổ chức, luật lệ và trật tự từ từ chi phối cuộc sống, dưới ảnh hưởng mãnh lực của cung mới đến, cung của Chân sư R–. Từ trong cuộc xáo trộn hiện thời sẽ phát sinh thể thức sinh hoạt có tổ chức và trật tự của thế giới mới. Nhịp điệu mới sẽ từ từ phổ vào các cộng đồng thiếu tổ chức của nhân loại. Thay vì các xáo trộn như hiện nay, chúng ta sẽ có luật lệ và trật tự xã hội. Thay vì có sự bất đồng giữa các tôn giáo và nhiều phe phái bị phân hóa của cái gọi là tôn giáo, chúng ta sẽ thấy tôn giáo tự biểu lộ điều hòa trong hình thức và trật tự theo pháp luật. Thay vì có khủng hoảng, khó khăn về kinh tế, và chính trị, chúng ta sẽ thấy hệ thống vận hành hài hòa theo một số thể thức cơ bản. Tất cả đều được nghi thức chế ngự với những kết quả bên trong mà Đ.Đ.C.G. nhắm đến để từ từ làm cho thành tựu. Đừng quên rằng, trong sự thượng tôn luật pháp và trật tự, cùng các hình thức và giới hạn mà vốn là hệ quả của chúng, khi đến mức kết thúc (tôi [42] thận trọng chọn dùng những từ này) có ẩn sẵn một giai đoạn xáo trộn mới. Và sự sống bị giam nhốt ngay cả trong các giới hạn đó, sẽ thoát ly ra ngoài, mang theo cái khả năng và tinh hoa của sự phát triển được trao truyền mà Đấng Chủ tể của cung bảy đang nhắm tới.

Đó là tình huống thỉnh thoảng xảy ra, qua các thời đại. Mỗi cung khi nắm quyền, sẽ mang theo các Chân thần của cung mình xuống cõi trần, vì đó là giai đoạn mà các vị ấy thấy tương đối ít trở ngại nhất. Họ tiếp xúc với sáu loại mãnh lực kia trên các cảnh giới và sáu nhóm Chân thần khác cần được mãnh lực mới này ảnh hưởng, để đưa nhau tiến tới mục đích tiến hoá đại đồng. Đây cũng là tình huống đặc biệt của giai đoạn chúng ta đang sống. Trong giai đoạn này Đấng Chủ tể cung bảy (Cung Định luật Nghi thức và Trật tự) đang tìm cách chỉnh đốn những sự xáo trộn nhất thời, với mục đích đưa sự sống đang thoát ly ra khỏi các hình thể cũ kỹ và hư mòn đi vào trật tự ổn định. Giờ đây, nhân loại đang cần những hình thức sinh hoạt mới, và những hình thức này sẽ đầy đủ, thích hợp. Chỉ đến sau khoảng giữa chu kỳ mới, người ta mới lại cảm thấy bị giới hạn, và bắt đầu một số cố gắng mới để vượt qua.

Vì thế mà hiện nay vị huấn sư sáng suốt sẽ xem xét tình hình và cân nhắc ảnh hưởng của cung mới đến với các Chân thần đang đầu thai. Cho nên, ở đây khi hướng dẫn hành thiền, chúng ta phải xét đến một cung thứ ba và ảnh hưởng nó mang lại. Các bạn có cảm thấy sự phức tạp của công việc đó chưa? May mắn là Phòng Minh triết đã đào tạo được các nhân viên thành thạo, đủ khả năng đảm trách công việc.

Trong thời kỳ đặc biệt này, phương diện Hình thức của tham thiền (dù chính yếu là dựa vào cung Chân ngã hay cung Phàm ngã) sẽ được phát triển nhiều. Các bạn có thể nhìn quanh và thấy nhiều hình thức thiền rất rõ rệt được tạo ra và đem dạy cho cá nhân lẫn cho nhóm, kết quả là tăng cường chánh thuật và do đó mang lại hiệu quả của luật lệ và trật tự cho thế gian. Thời kỳ tái thiết sắp đến, tiến hành theo đường lối của cung hiện hữu (cung bảy) mà sự thành công và thành [43] quả tối hậu gần như khả dĩ đạt được, có lẽ khá hơn mức mong đợi. Đức Chưởng Giáo sẽ đến đúng theo định luật, và không điều gì có thể ngăn được bước cận tiến của Ngài.

Ngay trước mắt, nhu cầu lớn lao của thời đại là cần có những người hiểu biết định luật và có thể làm việc đúng luật. Đây là một dịp tốt để phát triển nguyên tắc làm việc đó và để rèn luyện những người phụng sự thế gian.

Những Cung phụ là Cung Điều hòa (cung bốn) và Cung Khoa học (cung năm) sẽ đáp ứng nhanh chóng với ảnh hưởng của Cung bảy. Nói thế có nghĩa là các Chân thần thuộc hai cung này dễ chịu ảnh hưởng theo chiều hướng mới. Các Chân thần của Cung sáu (Sùng tín) thấy khó thích nghi hơn với hướng này, cho đến mức tổng hợp mới thôi. Các Chân thần Cung một và hai thì thấy đó là môi trường để phát biểu. Các Chân thần của Cung một có liên hệ trực tiếp với Cung bảy và dùng quyền lực để vận dụng định luật. Trong khi đó các Chân thần của Cung hai là cung tổng hợp nên hướng dẫn và chế ngự bằng tình thương.

Hôm nay, tôi đã trao cho các bạn nhiều điều đủ để suy ngẫm về yếu tố thứ năm này. Đó là cố gắng của tôi. Còn ánh sáng hướng dẫn của trực giác là phần các bạn phải cố gắng. Vì những gì mà ánh sáng nội tâm tiết lộ thật có giá trị cho mỗi người hơn bất cứ điều gì được trao truyền từ bên ngoài. Bởi vậy, các bạn hãy suy ngẫm và xem xét kỹ.

Ngày 18-6-1920.

Vài lời Khích lệ.

. . . . . . Chỉ khi người đệ tử sẵn sàng từ bỏ tất cả để dấn thân vào công việc phụng sự các Đấng Cao cả và không giữ lại điều gì cho riêng mình thì mới đạt được sự giải thoát, và thể dục vọng (thể tình cảm) mới được chuyển hóa lên thể trực giác cao siêu (thể bồ-đề). Chính việc phụng sự hoàn hảo mỗi ngày – phụng sự mà không nghĩ đến hay tính toán gì về tương lai – mới đưa hành giả đến vị thế của Người phụng sự toàn bích. Và, tôi có thể gợi ý một điều chứ? Tất cả những sự phiền muộn, âu lo đều chính yếu là do động cơ vị kỷ. Bạn sợ phải đau khổ nhiều hơn. Bạn co rút lại vì ngại phải trải thêm những kinh [44] nghiệm đau buồn. Không phải đạt mục tiêu bằng cách đó đâu. Mục tiêu chỉ đạt được bằng con đường từ bỏ. Có lẽ, từ bỏ có nghĩa là từ bỏ niềm hoan hỉ, từ bỏ thanh danh, từ bỏ bằng hữu, hay từ bỏ mọi thứ mà lòng ta bám chặt vào. Tôi chỉ nói có lẽ thôi, chứ tôi không khẳng định là phải vậy. Tôi chỉ muốn nêu rõ cho bạn thấy rằng nếu đó là con đường mà bạn cần phải đi để tiến đến mục đích, thì đó chính là con đường hoàn hảo cho bạn. Điều gì giúp bạn mau đến trước các Đấng Cao cả, đến với Bước chân Sen vàng của các Ngài, thì bạn nên mong muốn và hoan nghênh hết lòng.

Vì thế, hằng ngày hãy vun trồng ước muốn cao thượng đó, là chỉ tìm sự tán thưởng của Đấng Hướng dẫn và Huấn sư ở nội giới, và sự đáp ứng của Chân nhân đối với những điều hay, được thực hiện một cách bình thản và vô tư.

Nếu trên đường đi, bạn có bị thiệt thòi, mất mát, hãy mỉm cười với tất cả. Rốt cuộc sẽ có phần thưởng phong phú và sự đền bù mọi thứ đã mất. Nếu số phận các bạn bị chê bai và khinh bỉ, hãy vẫn cứ mỉm cười, vì chỉ có cái nhìn tán thưởng của Chân sư là đáng tìm kiếm. Nếu bạn bị những lời dối trá bịa đặt, chớ sợ hãi mà hãy thẳng đường đi tới. Mỗi lời dối gạt đều là chuyện của thế gian, chỉ nên bỏ lại ở phía sau như một việc quá tầm thường, không buồn đụng đến. Mắt cứ nhìn thẳng một đường, chỉ mong muốn chăm chăm một việc, mục đích là hiến dâng, tai không còn lắng nghe những náo động của trần thế – đó là mục tiêu của người đệ tử. Tôi chỉ nói bấy nhiêu. Tôi chỉ muốn các bạn đừng hao tốn năng lực không cần thiết vào những tưởng tượng vô ích, vào những suy nghĩ nóng nảy, bôn ba, hay những mong chờ phiền phức.

6.     Những Nhóm, Nội và Ngoại môn, mà người Môn sinh đang Liên hệ.

Điểm cứu xét hôm nay thật là thú vị, nó đề cập đến các nhóm mà người môn sinh đang liên hệ. Chúng ta đã xem xét [45] ít nhiều về sự liên hệ của người môn sinh với Chân sư và vì thế tôi sẽ bàn tiếp về các liên hệ trong nhóm.

Hôm qua, tôi đã nói về sự quan trọng của tham thiền đối với nhóm mà người đệ tử đang liên hệ, trên cảnh giới Chân nhân. Hôm nay, tôi nói đến nhóm mà y liên hệ trong cõi trần này. Đây không hẳn là phản ảnh của nhóm ở cảnh giới Chân nhân, như bạn có thể dự kiến, vì chỉ có một số Chân nhân của nhóm là có thể đầu thai trong cùng một thời gian. Chúng ta sẽ đề cập đến Luật Nhân quả, biểu lộ trong những nhóm của người môn sinh, thuộc quốc gia, tôn giáo hay gia đình.

Bốn nhóm liên hệ với người môn sinh.

Trong mỗi kiếp giáng trần, một người có liên hệ với bốn nhóm:–

1.     Nhóm lớn là quốc gia của y, là dây nhân quả (qua cộng nghiệp) bền chắc cho đến đỗi y không thể bứt rời được, dù y mong muốn. Y có sẵn những đặc trưng chủng tộc, những khuynh hướng trong tính tình, vì chúng tiềm ẩn trong thể xác của chủng tộc y và suốt kiếp sống ở cõi trần y phải mang sự cấu tạo đó cùng những khuynh hướng cố hữu trong loại thể xác riêng biệt này. Thể xác này cho y bài học cần thiết, hoặc là (trong giai đoạn tiến hóa hiện tại) nó là thể xác tốt nhất cho loại công việc mà y phải hoàn thành. Loại thể xác Đông phương có một số tính năng riêng, và loại thể xác Tây phương lại có những tính năng khác. Có thể nói rằng tất cả những tính năng đó đều tốt như nhau. Tôi muốn nói rõ điểm này, bởi vì khuynh hướng của người tìm đạo Tây phương là bắt chước y như những người phương Đông, và cố gắng ép những rung động của y theo cùng âm điệu với người phương Đông. Đôi khi, điều này gây quan ngại cho các Huấn sư nội môn, và cũng đưa đến những khó khăn trong các hạ thể của người môn sinh.

[46] Đã có nhiều khuynh hướng tin tưởng rằng được làm một người Đông phương là mục tiêu của mọi người tìm đạo. Đừng quên rằng ngay đến các Đấng Cao cả cũng không phải toàn là người phương Đông, và các Chân sư có thể xác người Âu đều thành tựu ngang với các Chân sư nổi tiếng ở phương Đông. Hãy suy ngẫm kỹ điều này. Cần phải xem xét vấn đề một cách sáng suốt hơn, vì thế, tôi mới nhấn mạnh đến sự kiện này. Khi những đường hướng nói trên được thấu hiểu nhiều hơn và khi các trường tham thiền được các Huấn sư đắc truyền thành lập và điều hành theo các đường lối huyền môn thực sự, thì những phương thức hành thiền sẽ được trù liệu sao cho phù hợp với từng dân tộc và những tính khí dị biệt trong nhiều nước. Mỗi quốc gia đều có những ưu điểm và những khuyết điểm. Vì thế, công việc của vị Huấn sư giám đốc là áp dụng những phương cách hành thiền thế nào để tăng cường các tính tốt và sửa đổi các tật xấu. Tầm khai triển các ý tưởng này quá rộng đến đỗi tôi không thể bàn đến ở đây. Về sau, các chuyên gia sẽ nghiên cứu vấn đề này, và sẽ đến lúc người phương Đông và phương Tây đều có trường riêng cho họ, cùng tuân thủ những qui luật căn bản như nhau và cùng ở dưới sự giám sát của những vị Huấn sư nội môn như nhau. Thế nhưng (với sự sáng suốt của các Ngài) các trường ấy có một số điểm khác nhau, và (dù nhắm đến cùng mục đích) họ sẽ theo nhiều con đường khác biệt. Sau này, các bạn sẽ thấy những trường như vậy được thành lập ở mỗi quốc gia. Được nhập học không phải là việc dễ dàng, và mỗi ứng viên đều phải qua một kỳ thi tuyển gắt gao. Các bạn sẽ thấy mỗi trường đều khác nhau đôi chút, không phải ở những điều cơ bản, mà khác trong các phương pháp hành thiền, nhờ sự phân biện khôn ngoan của vị Hiệu trưởng. Vị này có cùng quốc tịch với các môn sinh và có các khả năng của thể nguyên nhân hoàn toàn phát triển. Chính vị này sẽ áp dụng phương pháp cho từng nhu cầu trực tiếp.

Ở phần sau tôi sẽ bàn rộng thêm về tương lai của các trường tham thiền này, nhưng hôm nay tôi chỉ nói tổng quát thôi. [47]

2.     Nhóm thứ hai rất quan trọng trong đời của người môn sinh là nhóm gia đình, gồm cả những đặc tính di truyền và những đặc trưng của dòng họ. Mỗi người khi đến mức tiến hóa thích hợp với việc hành thiền huyền môn, thì sẽ thận trọng chọn sống trong một gia đình nào đó:–

a.     Để trả nghiệp quả càng nhanh càng tốt.

b.     Vì thể xác mà gia đình ấy cung cấp, cần cho y.

Thế là bạn sẽ dễ dàng thấy rằng khi hướng dẫn hành thiền huyền môn ở cõi trần, trong thể xác, vị Huấn sư phải biết ít nhiều về gia hệ và các đặc tính bẩm sinh của người môn đệ, để tìm con đường ít trở ngại nhất cho y và để chỉ ra những gì cần khắc phục. (Có vài bạn khi tham thiền, thường quá chú ý mở tâm thức trực giác mà bỏ quên thể rất cần thiết là xác thân). Bộ não của thể xác và sự tuân phục của não bộ rất quan trọng trong tiến trình tham thiền, và trong tương lai chúng ta không được xem thường nó như hiện tại. Tất nhiên là có tình trạng này, vì hiện nay các huấn sư lão luyện trong việc tập rèn thân xác hãy còn quá ít, không đủ đáp ứng nhu cầu.

Do đó, gia đình là nhóm thứ hai cần phải cứu xét, vấn đề này có lẽ còn quan trọng hơn chúng ta tưởng.

Trong những trường tham thiền tương lai, sẽ có giữ hồ sơ về dòng dõi của môn sinh, về lai lịch gia đình, về sự tiến bộ lúc trẻ tuổi và trong cuộc sống, cùng là hồ sơ bệnh án của y. Các hồ sơ này sẽ thật chính xác từng chi tiết nhỏ, nhờ đó mà nhà trường biết người môn sinh rất rõ. Việc điều chỉnh cuộc sống của người môn sinh và sự tinh luyện thể xác một cách [48] khoa học là một trong những cố gắng đầu tiên. Khi nói về các trường loại này, tự nhiên tôi muốn các bạn đừng nghĩ đến một vài địa điểm xa vắng nào đó để làm vị trí của trường. Điều lý tưởng là sống ở thế gian nhưng không thuộc về thế gian, cho nên chỉ có người đệ tử ở mức tiến hóa cao hay ngay trước khi được Điểm đạo mới được phép ẩn dật trong một thời gian. Chỉ có sự từ bỏ ở nội tâm là đáng kể, và thái độ vô kỷ đối với hoàn cảnh mới quan trọng, chứ không phải việc ẩn thân ở một nơi riêng biệt nào.

3.     Nhóm thứ ba cần xét đến là đoàn thể phụng sự mà có thể người môn sinh đang gia nhập. Người nào sẵn sàng để hành thiền huyền môn thì trước hết phải chứng tỏ rằng nhiều kiếp qua y đã tha thiết muốn phụng sự và làm việc hòa đồng với những người khác. Phụng sự vô kỷ là lớp đá cứng nền tảng, nằm sâu trong đời sống của huyền bí gia. Nếu không có nền tảng ấy, mối nguy hiểm sẽ ẩn núp vào chỗ bỏ trống, và việc hành thiền huyền môn sẽ trở thành một mối đe dọa. Vì thế, y phải là một phụng sự viên tích cực trong một lĩnh vực nào đó của thế gian và ở những cõi giới nội tại y cũng phải thi hành phận sự của mình. Bây giờ vị Huấn sư lại phải xét đến:

a.     Công tác tập thể mà người môn sinh đang thi hành, y đang có khả năng phụng sự như thế nào để được hữu hiệu hơn trong nhóm.

b.     Loại công việc mà người môn sinh đang làm và mối liên hệ của y với các cộng sự viên khác – đây là một yếu tố huyền môn rất quan trọng – tất cả đều được cân nhắc cẩn thận trước khi hướng dẫn phương pháp thiền. Có thể người môn sinh phải ngưng tập một vài lối thiền (dù y đang ưa thích cũng vậy) vì không thích hợp với công việc y đang làm, và vì chúng có khuynh hướng phát triển vài đặc tính có thể gây trở ngại cho công tác phụng sự của y. Bao giờ người ta cũng nhắm [49] tới những loại thiền nào làm tăng khả năng phụng sự của môn sinh. Mục đích lớn ấy rốt cuộc sẽ bao gồm những mục đích nhỏ hơn.

4.     Nhóm thứ tư mà vị Huấn sư cần cứu xét là nhóm ở nội giới mà người môn sinh liên kết, là nhóm những người cứu trợ mà y được xếp vào; hoặc nếu y là một đệ tử thì đó là nhóm đệ tử mà y tham dự. Công việc đặc biệt của nhóm sẽ được xem xét, khả năng tiến tới của môn sinh cùng các bạn đồng môn sẽ được khuyến khích, và y sẽ được tăng cường khả năng làm tròn nhiệm vụ được giao.

Trong những lần truyền đạt vừa qua, tôi chỉ nói sơ lược về nhiều yếu tố phải cứu xét khi ấn định một phương pháp thiền. Nào là bạn phải xét ba cung, xét mức tiến hóa của thể nguyên nhân và sự tương liên của Chân nhân trên cảnh giới của nó với nhóm Chân nhân của nó, với Đ.Đ.C.G., và với phàm ngã là phản ảnh của Chân nhân. Bạn cũng phải xét yếu tố nghiệp quả, xét nhu cầu của thời đại và của người môn sinh, cùng sự liên hệ của y với bốn nhóm khác nhau.

Tất cả những điểm này đều có thể xét đến, và trong tương lai sẽ được thừa nhận, nhưng thời kỳ đặt nền móng vẫn chưa xong, và hãy còn lâu đối với các bạn. Mục tiêu hiện tại của tham thiền là sự kiểm soát thể trí, và luôn luôn phải là bước khởi đầu.

 

[50]

BỨC THƯ IV
SỬ DỤNG THÁNH NGỮ KHI THAM THIỀN.

1.          Những định đề cơ bản.

2.          Hiệu quả sáng tạo của Thánh ngữ.

3.          Hiệu quả hủy hoại của Thánh ngữ.

4.          Cách phát âm và sử dụng Thánh ngữ.

5.          Hiệu quả của Thánh ngữ đối với các luân xa và mỗi hạ thể.

[51]

Ngày 19-6-1920.

Đề tài cần bàn hôm nay thật là sâu xa và quan trọng đến đỗi nếu khiến các bạn e ngại không muốn xem xét thêm nữa thì đó cũng là lẽ tự nhiên. Dù cho có nói bao nhiêu về vấn đề này chúng ta cũng chỉ chạm đến vòng ngoài của nó mà thôi. Những điều không được nói đến thật quá đỗi sâu rộng, đến mức những dữ kiện sau đây chỉ được xem là một phần rất nhỏ.

Những Định đề Cơ bản.

Trước hết, tôi tìm cách xác lập vài định đề cơ bản. Những định đề này, dù đã được biết như những khái niệm tri thức, vẫn còn quá sâu xa, khó có thể thấu đáo dễ dàng.

Có năm định đề loại này – trong rất nhiều định đề mà các bạn chưa có thể hiểu được. Chính những định đề này lại dựa trên những sự kiện cơ bản (tất cả có bảy) mà các sự kiện này vẫn chưa được hiểu biết. H.P.B. đã kể đến ba sự kiện khi bà phát biểu những điều cơ bản trong Giáo lý Bí nhiệm. Bốn sự kiện vẫn còn được giữ kín dù rằng sự kiện thứ tư đang bày tỏ phần nào trong việc nghiên cứu khoa tâm lý học và khoa học tâm thần. Ba sự kiện cơ bản còn lại sẽ được biểu lộ trong ba cuộc tuần hoàn sau. Trong cuộc tuần hoàn này chúng ta sẽ hiểu được điều cơ bản thứ tư.

Những định đề đó như sau:

1.     Tất cả những gì hiện hữu đều dựa vào âm thanh hay dựa vào Thánh ngữ.

2.     Sự phân hóa là do kết quả của âm thanh.

3.     Trên mỗi cảnh giới, Thánh ngữ có một hiệu quả khác nhau. [52]

Tùy theo âm điệu của Thánh ngữ, hay sự rung động của âm thanh, mà việc kiến tạo hay phân hủy được thực hiện.

4.     Thánh ngữ tam phân có bảy âm khóa, bảy âm khóa này đều có các âm phụ riêng.

Thấu hiểu những sự kiện căn bản vừa kể, chúng ta sẽ được soi sáng rất nhiều khi dùng Thánh ngữ trong tham thiền.

Từ khởi thủy, lúc mới xướng lên Thánh ngữ (ba Hơi thở nguyên thủy, với bảy âm thanh của chúng, – mỗi Hơi thở cho một trong ba thái dương hệ) âm điệu đã khác nhau, và các âm thanh cũng đã được ngân lên theo một âm khóa khác rồi.

Trong thái dương hệ một, sự hoàn thành Hơi thở thứ nhất là sự ngân lên tột độ huy hoàng của nốt FA, – là nốt căn bản của thái dương hệ hiện nay, là âm điệu của thiên nhiên biểu hiện. Nốt đó đã có sẵn, và phải được bổ túc bằng nốt thứ hai của thái dương hệ thứ nhì hiện nay. Tuy nhiên, nốt này vẫn chưa được xướng lên đầy đủ hay viên mãn, và mãi đến cuối đại chu kỳ nó cũng không hoàn tất. Hiện nay Đức Thái Dương Thượng Đế đang xướng nó lên, và nếu Ngài ngừng Hơi thở đó, thì toàn hệ thống thái dương sẽ hoàn toàn tan biến vào tăm tối. Đó là dấu hiệu chấm dứt cuộc biểu hiện.

Trong thái dương hệ hai, là hệ thống hiện tại, âm khóa không thể được tiết lộ. Đó là một trong những bí mật của cuộc Điểm đạo lần thứ sáu, và không được phép tỏ bày.

Trong thái dương hệ ba, nốt thứ ba cuối cùng sẽ được thêm vào những nốt căn bản của các hệ thống một và hai, và lúc đó sẽ có những gì? Sẽ có nốt chánh thứ ba của Phàm ngã Đức Thượng Đế được thành tựu viên mãn, tương ứng với nốt chánh thứ ba của tiểu vũ trụ (Phàm ngã con người), – mỗi nốt cho một cảnh giới. Chúng ta được biết rằng Đức Thái Dương Thượng Đế, trên những cảnh giới vũ trụ, đang giải quyết vấn đề khó khăn của thể trí vũ trụ. Ngài đang hoạt động trong thể xác (là thái dương hệ). Ngài được phân cực trong thể cảm [53] dục vũ trụ, và đang phát triển thể trí vũ trụ của Ngài. Tiểu vũ trụ (con người) trên các cảnh giới của thái dương hệ này cũng vậy. Khi nhận thức được sự tương ứng này và áp dụng một cách khôn ngoan, chúng ta sẽ được soi sáng khi dùng Thánh ngữ trong tham thiền.

Thái dương hệ I . . . . . . .  . . . . . . tương ứng với thể xác.

Thái dương hệ II . . . . . . . . . tương ứng với thể tình cảm.

Thái dương hệ III . . . . . . . . . . . . . tương ứng với thể trí.

Việc nghiên cứu Thánh ngữ hay Âm thanh trong sự hình thành ba thái dương hệ này sẽ giúp chúng ta sử dụng Thánh ngữ trong việc tạo lập thể trực giác (bồ-đề) và tinh luyện phàm ngã.

Giờ đây chúng ta hãy chia vấn đề sắp bàn thành bốn mục, và sẽ nói riêng từng mục:

1.     Hiệu quả sáng tạo của Thánh ngữ.

2.     Hiệu quả hủy hoại của Thánh ngữ.

3.     Cách phát âm và sử dụng Thánh ngữ:–

a.     Trong tham thiền cá nhân.

b.     Trong công tác tập thể và giáo đoàn.

c.      Cho một số mục tiêu đặc biệt.

4.     Hiệu quả của Thánh ngữ đối với các thể và các luân   xa, và hiệu năng của nó trong việc tạo chỉnh hợp   với Chân nhân.

Ngày 20-6-1920.

Hai mặt hiệu quả của Thánh ngữ, Kiến tạo và Hủy hoại.

Hôm nay chúng ta bàn tiếp vấn đề hôm qua. Chúng ta đã chia chủ đề thành bốn phần và sẽ đề cập đến hai phần đầu, hiệu quả sáng tạo và hủy hoại của Thánh ngữ. Tôi chỉ có thể đưa ra vài điều khái quát để đặt căn bản cho việc áp dụng định luật một cách thông minh.

Đầu tiên, chúng ta hãy nhắc lại sự thực rằng các cảnh giới đều là hậu quả của âm thanh. Trước hết là sự sống, rồi [54] đến vật chất. Sau đó sự sống thu hút vật chất để biểu hiện và phát biểu, sắp xếp vật chất theo trật tự thành các hình thể cần thiết. Âm thanh vốn là yếu tố liên kết, là sức thôi thúc và là trung gian hấp dẫn. Theo một ý nghĩa sâu xa về mặt huyền môn và siêu hình, âm thanh tượng trưng cho điều chúng ta gọi là “sự liên lạc giữa”, là trung gian sáng tạo, là yếu tố liên kết thứ ba trong tiến trình biểu hiện. Đó là tiên thiên khí. Trên những cõi cao, âm thanh là tác nhân của Thực thể vĩ đại, Ngài vận dụng âm thanh theo luật vạn vật hấp dẫn cho thái dương hệ chúng ta. Trong khi ở những cảnh giới thấp, âm thanh biểu hiện thành ánh sáng cảm dục, là tác nhân phản chiếu vĩ đại, ghi nhận và lưu trữ trong tâm rung động của nó những gì thuộc quá khứ, hiện tại và tương lai, tức là cái mà ta gọi là Thời gian. Trong quan hệ trực tiếp với các hạ thể, nó biểu hiện thành điện lực, nguyên khí của Sự Sống (prana), và lưu chất từ tính. Có thể giản dị hóa ý tưởng này bằng cách thừa nhận rằng âm thanh là tác nhân của lực hấp dẫn và đối kháng.

Bảy Hơi thở vĩ đại.

Khi xướng lên Thánh ngữ trong sự hoàn thành thất phân cho thái dương hệ này, Đức Thái Dương Thượng Đế hít vào để thu thập vật chất cần cho cuộc biểu hiện, và cho vật chất đó khởi sự tiến hóa trong Hơi thở vĩ đại thứ nhất.

Hơi thở lớn thứ hai tạo sự phân hóa và thấm nhuần trạng thái thứ hai của Thượng Đế vào vật chất.

Hơi thở lớn thứ ba làm biểu lộ trạng thái hoạt động, truyền khả năng này vào vật chất, và cuộc tiến hóa năm giai đoạn có thể tiến hành.

Hơi thở thứ tư được sự đáp ứng của một số Huyền giai (các Đẳng cấp Thiêng liêng) và các Đấng Đại kiến tạo thấy được Thiên cơ rõ hơn. Có sự liên kết rõ rệt giữa Hơi thở thứ [55] tư này với Huyền giai Sáng tạo thứ tư, tức là các Chân thần của nhân loại. Nốt thứ tư này của Thượng Đế có ý nghĩa đặc biệt cho Chân thần con người, có hiệu quả độc nhất trên địa cầu chúng ta và trong chu kỳ thứ tư này. Thật khó cho các bạn nhận thức được hiệu quả tương đối này. Nó chỉ biểu lộ khi các bạn hiểu được nó trong hòa âm của cảnh giới thứ tư (cõi bồ-đề) và cung bốn. Mãi từ khi có căn chủng thứ tư cho đến nay, nốt này vẫn luôn luôn thấm nhuần các dân tộc trên thế giới. Nó tự biểu lộ trong phấn đấu của nhân loại để hiểu được lý tưởng hòa hợp và hòa bình, và trong chí nguyện của toàn thế giới theo chiều hướng đó.

Hơi thở thứ tư này được đặc biệt áp dụng vào cuộc tiến hóa nhân loại.

Vì thế chúng ta có:

Âm phụ thứ nhất của Thánh ngữ tam phân phát ra nốt rung động đầu tiên và khởi động các bầu trong thái dương hệ hoặc nguyên tử. Nó thể hiện Ý chí.

Âm phụ thứ hai của Thánh ngữ tam phân truyền đạt trạng thái thứ hai và đã khiến cho vị chủ tể vũ trụ của cung tổng hợp biểu hiện. Nó tiêu biểu cho tính nhị nguyên hay tình thương phản xạ.

Âm phụ thứ ba của Thánh ngữ tam phân khiến cuộc tiến hóa năm giai đoạn của chúng ta có thể thực hiện. Đó là nốt căn bản của năm cõi thấp, đánh dấu trạng thái hoạt động hay thích nghi.

Âm phụ thứ tư của Thánh ngữ tam phân là âm thanh của các Đẳng cấp Nhân loại, và toàn bộ âm thanh ấy có thể được gọi là “tiếng kêu la của con Người.”

Mỗi âm thanh trực tiếp khiến cho một cung biểu hiện với tất cả những gì đến cùng với cung đó. Mỗi âm thanh đặc biệt biểu lộ trên một cảnh giới và là thống âm của cảnh giới đó.

Hơi thở lớn thứ năm tự nó có hiệu quả riêng biệt, vì khi vang dội nó giữ chìa khóa của tất cả, – đó là Hơi thở của lửa.

Nó tạo ra sự rung động tương tự như rung động của cõi trí vũ [56] trụ và liên kết chặt chẽ với Hơi thở thứ nhất. Đó là thống âm (nói theo thuật ngữ âm nhạc) của thái dương hệ, cũng như Hơi thở thứ ba tương ứng với nốt chánh thứ ba. Đó là nốt của Thái Dương Thượng Đế. Mỗi hơi thở hấp dẫn về với Ngài một thực thể cấp vũ trụ, để giúp những mục đích biểu hiện. Chúng ta có thể thấy phản ánh của phương pháp này trong tiểu vũ trụ, khi Chân nhân gióng lên âm điệu của nó trong tam giới và chuẩn bị biểu hiện hay giáng trần. Nốt này hấp dẫn chung quanh các nguyên tử trường tồn (hay các hạt nhân) số vật chất đủ cho mục tiêu biểu hiện, nhờ một thực thể làm cho linh hoạt. Tương tự, các Hỏa đức Tinh quân vũ trụ, các Đấng phú linh vĩ đại của thái dương hệ của chúng ta ứng đáp khi âm phụ thứ năm này (của thái dương hệ) được xướng lên. Đến lượt các Hỏa tinh quân của thái dương hệ cũng đáp ứng khi tiểu vũ trụ (con người) xướng lên được âm phụ thứ năm của nốt Chân thần, và các Ngài trợ giúp cuộc tiến hóa của nhân loại.

Hơi thở lớn thứ sáu qui tụ những vị Chúa của Ngôi sao năm cánh huyền bí, những tinh chất thăng hoa của cõi cảm dục, khả năng dục vọng khoác lớp áo vật chất, trạng thái lưu chuyển (như nước) của sự sống Thượng Đế.

Khi âm phụ thứ bảy được xướng lên thì sự kết tinh xảy ra và có sự tuyệt đối tuân thủ định luật cận tiến. Nó giúp Sự Sống biểu hiện trong trạng thái dày đặc của vật chất, đạt mức kinh nghiệm sâu nhất. Do đó, các bạn sẽ thấy sự liên hệ của nó với Cung Định luật Nghi thức, một trong những cung kiến tạo vĩ đại, – cung này điều chỉnh vật chất theo những thể thức định sẵn, thành các hình thể như ý muốn.

Đến đây các bạn có thể hỏi: Tại sao tôi có vẻ nói ra ngoài đề như thế? Dường như tôi đi quá xa và lạc ngoài vấn đề? Hãy để tôi nói rõ hơn. Tiểu vũ trụ chẳng qua chỉ phải lặp lại công việc của đại vũ trụ. Tinh thần hay Chân thần ở trên cảnh giới của mình xướng lên nốt (của đẳng cấp Chân thần) và giáng xuống để đầu thai. Đó vừa là nốt của sự hấp dẫn vừa là của hơi [57] thở ra. Phàm nhân (là phản ảnh của Chân thần ấy ở mức tiến hóa trong vật chất dày đặc nhất) được liên kết với Chân thần bằng lực hấp dẫn của Thánh ngữ khi Chân thần xướng lên, trên nốt của phàm nhân và âm phụ của nó.

Nhưng công việc của hơi thở ra đã xong rồi. Đó là con đường giáng hạ tiến hóa. Còn công việc của sự hít vào hay tái hấp thu về nguồn cội thì đang diễn tiến. Khi trải qua nhiều kiếp tìm kiếm khó nhọc, phàm ngã tìm được nốt tinh thần của nó với âm khóa và âm phụ đúng đắn, thì điều gì xảy ra? Nó sẽ hòa điệu với nốt của Chân thần, sẽ rung động cùng nhịp, và chớp lên cùng màu sắc. Cuối cùng, con đường ít trở ngại nhất sẽ được tìm thấy, sự sống trong con người được giải thoát và trở về cảnh giới của mình. Nhưng khám phá này rất đỗi chậm chạp và hành giả phải vô cùng đau khổ và thận trọng mới chọn được hòa âm. Đầu tiên, y tìm được nốt chánh thứ ba của phàm ngã và xướng nó lên, kết quả là đời sống điều hòa, trật tự trong ba cõi thấp. Sau đó, y tìm thấy thống âm thứ năm của Chân ngã, là nốt khóa của hòa âm, xướng lên phối hợp với nốt phàm nhân. Có thể nói kết quả là một khoảng chân không. Hành giả đã giải thoát cùng linh hồn phú linh cho y – tức là tinh thần tam phân cùng với trí tuệ và kinh nghiệm – Tam nguyên được bổ túc bằng Tứ hạ thể và Nguyên khí thứ năm, đồng vượt lên đến Chân thần. Đó là luật hấp dẫn biểu lộ qua âm thanh. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, sức hấp dẫn có được nhờ sự hòa hợp âm thanh, màu sắc và nhịp điệu.

Điều này đưa đến yếu tố thứ hai mà chúng ta sắp xem xét: phương diện hủy diệt của Thánh ngữ. Có giải phóng mới bẻ gãy được xiềng xích. Có giải thoát mới loại bỏ được những hình thức cũ kỹ. Có chế ngự được vật chất mới khai phóng được tinh thần. Vì vậy, việc xướng lên Thánh ngữ trong bảy cấp độ ý nghĩa giúp sự sống thoát ra khỏi các hình thể bị phá [58] vỡ. Trước hết là xướng lên khi thở ra để thu hút vật chất, sau đó là xướng lên khi hít vào để dần dần phá vỡ các hình thể vật chất và thải bỏ chúng.

Tham thiền và Thánh ngữ.

Tôi đã mô tả vấn đề này cho các bạn trên qui mô thái dương hệ. Giờ đây, tôi ứng dụng điều đó vào tham thiền và xem xét tác động của nó thế nào. Khi tham thiền, hành giả nhằm hai mục đích:–

Tạo nên các tư tưởng, đem những ý tưởng trừu   tượng và trực giác xuống đến các cấp cụ thể của cõi   trí. Đây có thể gọi là tham thiền hữu chủng.

Chỉnh hợp với Chân ngã và tạo khoảng chân không giữa Chân nhân và bộ óc hồng trần, hậu quả là sự tuôn tràn thần lực thiêng liêng làm tan vỡ các hình thể, đưa đến giải thoát. Đây gọi là tham thiền vô chủng.

Ở một giai đoạn nào đó trong cuộc tiến hóa, hai lối thiền kể trên sẽ hợp nhất, hạt giống (điểm trụ cho tư tưởng) bị bỏ rơi và khoảng chân không sẽ được tạo thành, không còn ở giữa các thể cao và các thể thấp, mà ở giữa chúng và cõi bồđề, cảnh giới của sự hòa hợp.

Vì thế, khi xướng lên Thánh ngữ trong tham thiền, hành giả (nếu xướng đúng) nên cố gắng làm được cả hai công việc sáng tạo và hủy hoại như Đức Thượng Đế làm. Diễn trình của đại vũ trụ (thái dương hệ) có phản ánh trong tiểu vũ trụ (con người). Hành giả sẽ thu hút vào các thể của y loại vật chất thanh bai hơn và thải bỏ loại vật chất thô kệch. Y sẽ tạo nên những hình tư tưởng để thu nạp vào đó loại chất liệu tinh anh hơn và thải bỏ vật chất có rung động thấp độ. Y nên xướng lên Thánh ngữ như thế nào để [59] tự động có được chỉnh hợp, và vùng chân không cần thiết được tạo nên cho dòng thần lực từ trên tuôn xuống. Tất cả những hiệu quả này có thể xảy ra khi Thánh ngữ được phát âm đúng đắn. Mỗi lần tham thiền hành giả sẽ được chỉnh hợp hơn, sẽ giải tán được đôi phần vật chất rung động thấp độ trong một vài thể, sẽ triển khai đường truyền rộng rãi hơn, do thế mà tạo điều kiện thích hợp cho ánh sáng khai ngộ từ trên chiếu xuống.

Nếu chưa có sự phát âm đúng đắn này thì hiệu quả thu được khi dùng Thánh ngữ rất ít ỏi. Đó cũng là cái may cho hành giả. Khi nghiên cứu bảy Hơi thở lớn và hiệu quả của chúng trên mỗi cảnh giới, hành giả có thể tìm thấy nhiều điều cần xảy ra trên các cõi phụ khác nhau của mỗi cảnh giới, nhất là liên quan đến sự phát triển của chính y. Khi nghiên cứu nốt căn bản của thái dương hệ này (vốn đã ổn định trong thái dương hệ I), chúng ta có thể tìm thấy nhiều điều về cách sử dụng Thánh ngữ ở cõi trần. Ở đây có một ngụ ý cần xem xét. Khi cố gắng tìm ra nốt của thái dương hệ này, là nốt của bác ái và minh triết, người môn sinh sẽ tạo con đường thông thương cần thiết giữa cõi tình cảm (dục vọng) và cõi trực giác, và tìm ra được bí mật của cõi tình cảm. Khi nghiên cứu Thánh ngữ ở cấp độ trí tuệ và hiệu quả của nó trong việc kiến tạo hình thể, chúng ta có thể khám phá ra chìa khóa của việc xây dựng Đền Solomon. Người môn sinh sẽ phát triển những khả năng của thể nguyên nhân và cuối cùng thoát ra khỏi tam giới.

Tuy nhiên, người môn sinh phải nhớ rằng, lúc đầu y phải tìm ra nốt của phàm ngã, kế đến là tìm cho được nốt của Chân ngã, trước khi y có thể tiếp xúc với hòa âm của Chân thần. Khi đã làm thế, tức là tự xướng lên Thánh ngữ (có ba âm điệu) của chính mình, bấy giờ y là người sáng tạo thông minh với động lực bác ái. Mục tiêu đã đạt. [60]

 Ngày 21-6-1920.

Vài nét Khái quát để Thực hành.

Chiều nay, tôi muốn nêu rõ là tôi không thể, cũng như không khôn ngoan và thích hợp chút nào nếu tôi truyền cho các bạn những âm khóa khác nhau để xướng lên Thánh ngữ. Tôi chỉ có thể nêu những nguyên tắc tổng quát thôi. Mỗi con người, mỗi đơn vị tâm thức đều khác nhau đến đỗi nhu cầu của cá nhân người môn sinh chỉ được đáp ứng khi vị huấn sư đã hoàn toàn khai mở tâm thức Chân ngã nơi mình, và khi người môn sinh đã tự đạt mức muốn biết, dám làm và giữ im lặng. Những nguy hiểm khi dùng sai Thánh ngữ thật to lớn đến đỗi tôi không dám làm gì hơn là chỉ ra những ý tưởng chính yếu và những nguyên tắc cơ bản. Rồi sau đó để cho người chí nguyện tự tìm ra những điều cần thiết cho sự phát triển của y và tự thực hiện những thí nghiệm cần thiết, cho đến khi chính y tìm được những gì y cần. Chỉ có kết quả của sự tự cố gắng, của phấn đấu cam go và kinh nghiệm đắng cay mới có giá trị vĩnh viễn trường tồn. Chỉ khi nào người đệ tử tự điều chỉnh với trạng thái nội tâm – qua sự thất bại, qua sự thành công, qua những chiến thắng nhọc nhằn và những giờ phút cay đắng sau khi thất bại – chừng đó y mới thấy việc sử dụng Thánh ngữ có giá trị khoa học và thực nghiệm. Sự thiếu ý chí trong nhiều trường hợp cũng bảo vệ y khỏi (những nguy hiểm của việc) sử dụng sai Thánh ngữ, trong khi cố gắng ban rải tình thương rốt cuộc hướng dẫn y đến cách phát âm đúng đắn. Chỉ có những gì chính chúng ta thực biết mới trở thành khả năng cố hữu. Những lời dạy bảo của vị huấn sư (dù ngài có minh triết và uyên thâm đến đâu) cũng chỉ là những khái niệm tri thức, nếu chưa được người môn sinh chứng nghiệm để trở nên một thành phần của cuộc sống y. Vì vậy, tôi chỉ có thể vạch con đường. Tôi chỉ có thể đưa ra những gợi ý tổng quát. Phần còn lại người môn sinh phải tự gặt hái qua tham thiền. [61]

Phát âm và Sử dụng Thánh ngữ trong Tham thiền Cá nhân.

Giờ đây tôi nói đến việc thực hành. Tôi nói cho người đang trên Đường Dự bị, là người chỉ hiểu được bằng trí những gì phải thành tựu. Y cần nhận thức được gần đúng vị trí của mình trên đường tiến hóa và những việc cần phải làm nếu y muốn một ngày nào đó bước qua được cửa Điểm đạo. Như thế, những gì tôi sắp nói sẽ hướng dẫn được hầu hết những người nghiên cứu các bức thư này……….Người hành thiền phải cố gắng tuân thủ các qui luật cần thiết. Sau đây là vài điểm sơ khởi:–

Hằng ngày, người chí nguyện nên tìm một chỗ yên tĩnh, nơi y khỏi bị quấy rầy, phiền rộn. Nên luôn luôn dùng cùng một nơi, vì ở đó y sẽ tạo nên một cái vỏ bao quanh, vừa để bảo vệ, vừa khiến cho sự giao tiếp cần có với cấp cao được dễ dàng hơn. Vật chất ở nơi ấy, vật chất của cái mà bạn gọi là môi trường chung quanh, sau đó sẽ trở nên hòa điệu với một mức rung động nhất định (là mức rung động cao nhất của chính hành giả, đạt được trong những buổi thiền liên tiếp) khiến cho mỗi lần nhập thiền y dễ bắt ngay vào điểm cao nhất, khỏi mất công làm lại từ đầu.

Hành giả nên ở trong vị thế sao cho có thể không còn ý thức về xác thân. Ở đây không thể đặt những qui luật cứng nhắc, vì chính xác thân phải được xem xét, – nó có thể bị vài trở ngại, như tê cứng hay thương tật. Mục tiêu nhắm tới là tư thế thoải mái với sự chú tâm và linh mẫn. Sự uể oải và buông thả không đưa hành giả đến đâu cả. Tư thế thích hợp nhất cho một người bình thường là ngồi xếp bằng tréo chân trên mặt phẳng, lưng dựa vào một vật gì để cho cột sống được thẳng. Trong giai đoạn thiền thâm sâu hay khi hành giả đã thành thạo và các luân xa đang được khai mở mau lẹ (có lẽ ngay cả luồng nội hỏa cũng đang rung động nhịp nhàng ở chót xương [62] sống) thì lưng phải được giữ thẳng đứng mà không dựa vào đâu cả. Đầu đừng ngửa ra sau để tránh căng thẳng, mà phải giữ cân bằng tức là cằm hơi hạ xuống một chút. Khi đã thực hiện các điều này, sự căng thẳng mà nhiều người bị mắc phải sẽ hết, và thể này sẽ được thoải mái. Nên nhắm mắt, hai bàn tay chắp lại trong lòng.

Sau đó, hành giả xem hơi thở của mình đã điều hòa, đều đặn và nhịp nhàng hay chưa. Nếu đã được, thì giữ cho toàn thân thoải mái, trí tuệ tích cực và xác thân mềm dịu, dễ ứng đáp.

Sau đó, hành giả hình dung ba hạ thể. Khi đã quyết định sẽ tham thiền ở luân xa đầu hay luân xa tim (tôi sẽ nói đến điểm này sau), y rút tâm thức ra khỏi ba thể và chú tâm vào một trong hai luân xa vừa kể. Khi thực hành điều này, hành giả hãy thận trọng nhận thức rằng y là một Người Con của Thượng Đế, đang trở về với Đấng Cha lành; rằng y chính là Thượng Đế, đang tìm kiếm tâm thức của Thượng Đế mà cũng là tâm thức của y; rằng y là một vị sáng tạo đang tìm cách sáng tạo; và nhận thức rằng y là trạng thái thấp của Sự Sống Thiêng liêng đang tìm cách chỉnh hợp với trạng thái cao. Sau đó, hành giả xướng lên Thánh ngữ ba lần. Lần đầu xướng lên nhẹ nhàng để ảnh hưởng thể trí. Kế đó xướng lớn hơn để ổn định thể tình cảm. Và lần cuối lớn hơn nữa để tác động vào thể xác. Hiệu quả đối với mỗi thể đều có ba phương diện. Nếu xướng Thánh ngữ đúng cách và trụ vững tâm thức trong luân xa hành giả đã chọn, thì hiệu quả sẽ như sau:

Ở các cấp Trí tuệ:

a.     Tiếp xúc với luân xa đầu, khiến nó rung động; làm cho thể hạ trí yên lặng.

b.     Nối kết được ít nhiều với Chân nhân, nhưng luôn luôn đến mức nào đó qua hạt nguyên tử trường tồn.

c.      Loại ra những phần tử thô kệch và thu nạp những chất tinh anh hơn.

Ở các cấp Tình cảm:

a.     Qua hạt nguyên tử trường tồn làm ổn định thể cảm dục, tiếp xúc với luân xa tim và khiến nó hoạt động. [61]

b.     Thải ra những chất thô kệch, làm cho thể tình cảm hay cảm dục ngày càng trở nên không màu, nhờ đó mà phản chiếu được các ảnh hưởng cao một cách trung thực hơn.

c.      Gây nên một đợt sóng xúc cảm từ các cấp nguyên tử của cõi tình cảm đến cõi trực giác, qua đường truyền bằng vật chất nguyên tử nối liền hai cõi này. Sóng ấy dâng lên cao và khai thông đường truyền.

Ở các cấp Hồng trần:

a.     Ở đây, hiệu quả xảy ra cũng tương tự, nhưng hiệu quả đầu tiên là ở thể dĩ thái; nó kích thích sự lưu thông thần lực.

b.     Nó vượt ra ngoài phạm vi của thể này và tạo nên lớp vỏ bảo vệ, và xua tan các yếu tố bất hòa trong môi trường chung quanh.

Ngày 22-6-1920.

Hòa âm của Thượng Đế và sự Tương Đồng.

Giờ đây chúng ta hãy nghiên cứu tiếp đến việc dùng Thánh ngữ trong nhóm và áp dụng Thánh ngữ cho những mục tiêu đặc biệt. Chúng ta đã bàn vắn tắc về cách sử dụng Thánh ngữ [64] của người mới học thiền, – hiệu quả của nó phần lớn là sự tinh luyện, ổn định và tập trung. Tất cả những gì có thể làm được cũng chỉ ở mức này thôi, nếu người môn sinh chưa đến trình độ được phép xướng lên một âm phụ của Chân nhân. Chúng ta sẽ thấy nốt của Chân nhân cũng có âm trình giống như nốt của Thượng Đế. Chúng ta có những gì? Chúng ta có một hòa âm bảy nốt gồm những điểm quan trọng trong giai đoạn phát triển của chúng ta là:

1.     Nốt căn bản.

2.     Nốt chánh thứ ba.

3.     Thống âm hay nốt thứ năm.

4.     Nốt chót thứ bảy.

Ở đây, có thể theo lối tương đồng để đưa ra một ngụ ý. Có sự liên kết chặt chẽ giữa nốt thứ năm (thống âm) và nguyên khí thứ năm là Manas hay Trí tuệ. Và trong thái dương hệ này (chứ không phải trong hệ I hay hệ III) có sự ứng đáp thú vị giữa cảnh giới thứ năm (cõi trí) với thống âm, và sự đáp ứng của cảnh giới thứ sáu (cõi cảm dục) với nốt chánh thứ ba. Về vấn đề này, xét trên vài phương diện thì thể cảm dục lại là thể thứ ba của tâm thức nếu tính xác thân và thể sinh lực điện (thể của prana hay thể dĩ thái) là hai đơn vị. Tôi không thể nói thêm, vì tất cả đều hoán chuyển và xuyên thấu lẫn nhau, tôi chỉ đưa ra tài liệu để các bạn suy ngẫm.

Như trước tôi đã nói, trong nốt của Chân ngã các bạn cũng có diễn trình tương tự, vì trên cảnh giới của Chân nhân nó phản hưởng nốt của Thượng Đế. Vì thế, các bạn có nốt căn bản của thể xác, nốt thứ ba của thể cảm dục và nốt thứ năm của thể nguyên nhân. Khi hành giả đã làm chủ được âm khóa và đã tìm được âm phụ của chính mình thì bấy giờ y sẽ xướng lên Thánh ngữ một cách chính xác và đạt được mục tiêu mong muốn. Sự chỉnh hợp này sẽ hoàn hảo, các thể sẽ [65] tinh khiết, đường truyền thông suốt và nguồn linh cảm cao siêu sẽ tuôn xuống. Đó là mục tiêu của mọi cuộc tham thiền đích thực và có thể đạt được bằng việc sử dụng Thánh ngữ một cách đúng đắn. Trong khi chờ đợi, vì chưa có huấn sư và vì những khuyết điểm nơi môn sinh, tất cả những gì có thể làm hiện nay là đọc Thánh ngữ càng đúng càng tốt, và biết rằng với mục đích chân thành, chúng ta có thể tránh được nguy hiểm và có thể đạt được một số kết quả, như là sự bảo vệ, an định và hiệu chỉnh.

Sử dụng Thánh ngữ trong Nhóm.

Áp dụng trong hình thức tập thể, hiệu quả của Thánh ngữ được tăng cường, nếu nhóm được thành lập đúng đắn. Nếu trong nhóm có những yếu tố bất hảo thì hiệu quả sẽ bị trung hòa, và vô giá trị. Vì thế, muốn sử dụng Thánh ngữ một cách thỏa đáng, thì phải theo những điều kiện sau đây:–

a.     Nhóm phải gồm những người thuộc cùng một cung, hoặc có cung bổ túc với nhau.

b.     Thánh ngữ phải được xướng lên trong cùng một âm khóa, hoặc hòa âm một phần. Khi thực hiện được điều này, hiệu quả của sự rung động sẽ sâu rộng và sẽ xảy ra một số phản ứng.

Như thế, khi một nhóm được thành lập đúng cách, xướng lên Thánh ngữ đúng giọng điệu, thì sẽ có kết quả gì?

a.     Một dòng thần lực mạnh mẽ được tạo ra, thấu đến vị đệ tử hay vị Chân sư phụ trách nhóm đó, khiến vị này có thể kết hợp nhóm với Đ.Đ.C.G., khai thông đường dẫn để truyền xuống các giáo huấn.

b.     Tạo được một khoảng chân không phần nào tương ứng với khoảng chân không giữa Chân nhân và Phàm nhân, nhưng ở đây là giữa nhóm và các Đấng ở nội giới. [66]

c.      Nếu tất cả các điều kiện đều đúng đắn, thì kết quả gần như là sự liên kết nhóm Phàm nhân với nhóm Chân nhân liên hệ, là sự kích thích các thể nguyên nhân của họ, và liên kết ba nhóm – nhóm Phàm nhân, nhóm Chân nhân và Đ.Đ.C.G. – thành một tam giác để truyền thần lực.

d.     Có hiệu quả rõ rệt vào các thể xác của nhóm phàm nhân; tăng cường sự rung động của các thể tình cảm, loại trừ những rung động đối nghịch và hòa tất cả trong cùng nhịp điệu cao hơn. Điều này đưa đến sự quân bình, kích thích hạ trí và đồng thời mở rộng kết hợp với thượng trí để đưa ảnh hưởng vào làm ổn định hạ trí, hay là trí cụ thể.

e.      Hấp dẫn sự chú ý của các vị thiên thần giữ phần việc tạo các thể cho con người, khiến các vị ấy có thể làm phận sự một cách chính xác hơn, tạo được những sự tiếp xúc sẽ có chỗ dùng về sau.

f.       Tạo nên một lớp vỏ bảo vệ quanh nhóm, dù chỉ tạm thời cũng giúp họ khỏi bị quấy nhiễu, khiến mỗi cá nhân trong nhóm đều có thể làm việc dễ dàng hơn, theo đúng định luật, giúp các Huấn sư nội môn tìm được con đường ít trở ngại nhất giữa các Ngài và những người muốn được các Ngài truyền dạy.

g.     Trợ lực cho cuộc tiến hóa. Dù sự trợ giúp này có thể vô cùng bé nhỏ, nhưng mọi cố gắng nhằm giúp định luật phô diễn tự do, nhằm tác động vào vật chất bằng cách nào đó để thanh lọc vật chất nhiều hơn, nhằm kích thích sự rung động, tạo sự tiếp xúc dễ dàng giữa trạng thái cao và trạng thái thấp, đều là một lợi khí trong tay Đức Thượng Đế để đẩy nhanh cơ tiến hóa của Ngài. [67]

 Tôi đã đề cập đến một số hiệu quả khi cả nhóm đồng xướng lên Thánh ngữ. Về sau, khi các bạn hiểu được các qui luật của tham thiền huyền môn và áp dụng thực nghiệm, chúng ta sẽ nghiên cứu các hiệu quả này. Khi nhân loại ngày càng có nhiều người mở nhãn thông (thấu thị), họ sẽ kiểm soát và phân loại các hiệu quả trên. Những dạng hình học do cá nhân và nhóm tạo nên khi xướng lên Thánh ngữ, sẽ được ghi nhận và lưu ý. Việc đưa cá nhân ra khỏi nhóm và cho họ nhập vào nhóm khác thích hợp hơn sẽ tùy sự cứu xét sáng suốt về các công việc mà họ đã làm. Về sau khi các cá nhân mở được tâm thức cao hơn, thì vị trưởng nhóm phải được chọn ra – không chỉ do vị ấy có những thành đạt tinh thần và khả năng trí thức cao mà do vị ấy còn có thể nhìn thấy được bằng nội nhãn, nhờ thế mà giúp đỡ các thành viên và cả nhóm thực hiện được những kế hoạch thích đáng và phát triển đúng đắn.

Những Nhóm có Mục tiêu Đặc biệt.

Sau này sẽ có những nhóm được thành lập cho các mục tiêu đặc biệt. Đó là điểm thứ ba cần bàn: việc sử dụng Thánh ngữ cho các mục tiêu có tính toán.

Tôi sẽ kể ra đây vài mục tiêu mà các nhóm sẽ nhắm tới, khi được thành lập để đạt được những kết quả nhất định bằng cách sử dụng Thánh ngữ và hành thiền huyền môn thực sự. Chưa đến lúc làm việc này nên không cần phải đi vào chi tiết, nhưng nếu mọi việc tiến triển như dự tính, thì các bạn cũng có thể thấy đôi điều được thực hiện ngay trong kiếp sống này.

a.     Những nhóm có mục đích giúp thể cảm dục con người để phát triển, thu phục và thanh lọc nó.

b.     Những nhóm có mục đích phát triển trí tuệ, tăng cường sự quân bình và tạo sự tiếp xúc với thượng trí.

c.      Những nhóm trị bệnh thân xác. [68]

d.     Những nhóm có mục đích giúp chỉnh hợp, khai thông đường truyền giữa Chân ngã và phàm ngã.

e.      Những nhóm chữa trị các trường hợp ám ảnh và các bệnh tâm thần.

f.       Những nhóm có phận sự nghiên cứu sự phản ứng do việc đọc Thánh ngữ, ghi nhận và phân loại những dạng hình học được tạo nên, lưu ý hiệu quả của nhóm đối với các cá nhân trong nhóm, và lưu ý sức hấp dẫn của nó đã kêu gọi được những thực thể nào bên ngoài. Đây hẳn phải là những nhóm tiến hóa khá cao, có khả năng nghiên cứu bằng nhãn thông.

g.     Những nhóm có công tác rõ rệt là giao tiếp với các thiên thần và hợp tác với giới này theo Thiên luật. Trong thời kỳ hoạt động của cung bảy, công việc này sẽ được dễ dàng hơn nhiều.

h.     Những nhóm làm việc một cách rõ rệt và khoa học là nghiên cứu định luật của các cung, nghiên cứu màu sắc và âm thanh, sự tương quan giữa chúng và hiệu quả của chúng nơi cá nhân và tập thể. Đây nhất thiết là một nhóm chọn lọc và chỉ những người có trình độ tinh thần cao hay gần được Điểm đạo mới được phép gia nhập. Đừng quên rằng những nhóm ở cõi trần này chỉ là sự biểu hiện tất nhiên của những nhóm ở nội giới gồm những người chí nguyện, các môn sinh, các đệ tử và các điểm đạo đồ.

i.       Những nhóm làm việc trực thuộc một vị Chân sư, tuân theo những phương thức nhất định mà Ngài đã vạch. Vì thế, nhân viên của các nhóm này phải do Ngài chọn.

j.       Những nhóm hoạt động đặc biệt, thuộc một trong ba ngành lớn (ba cung chánh). Dưới sự hướng dẫn chuyên môn, họ tìm cách ảnh hưởng đến nhân loại về [69] mặt chính trị và tôn giáo, và đẩy nhanh diễn trình tiến hóa như đã được ngành của Đức Văn minh Đại đế điều hành. Một vài nhóm này sẽ hoạt động trong giáo hội, vài nhóm khác thì trong hội Tam điểm, còn những nhóm khác thì làm việc kết hợp với vị thủ lãnh điểm đạo đồ của những tổ chức lớn. Khi xem xét vấn đề này, các bạn nên nhớ rằng theo thời gian toàn thế giới ngày càng mở mang trí tuệ nhiều hơn, – vì thế, phạm vi hoạt động loại này ngày một tăng.

k.     Các nhóm khác hoàn toàn lo làm công việc có thể gọi là chuẩn bị cho cộng đồng sinh hoạt tương lai.

l.       Có những nhóm được gọi là nhóm hóa giải, được thành lập để giải quyết những vấn đề khó khăn phát sinh thuộc tôn giáo, chính trị, kinh tế và xã hội. Họ nghiên cứu những hiệu quả của tham thiền, của màu sắc và âm thanh.

m.  Còn có những nhóm chuyên lo việc dưỡng dục trẻ em, việc rèn luyện của từng cá nhân, việc hướng dẫn những đạo sinh trên đường dự bị, và việc phát triển các khả năng cao.

n.     Sau này, khi Đức Chưởng Giáo tức là Đức Christ giáng lâm cùng các vị Chân sư phụ tá Ngài, sẽ có vài nhóm rất nội môn được chọn từ tất cả các nhóm kia, trong đó các thành viên (do căn quả và trình độ cao) sẽ được huấn luyện tư cách đệ tử và được Điểm đạo lần thứ nhất. Sẽ có bảy nhóm như thế hay bảy trung tâm được thành lập cho cuộc Huấn luyện huyền môn đích thực….Chỉ những người nào có khả năng rung động thích hợp mới gia nhập các nhóm này.

Hôm nay xem xét bấy nhiêu đã đủ, còn điểm thứ tư chúng ta hãy để đến ngày mai. 

[70] Ngày 23-6-1920.

Các bạn có lý khi nghĩ rằng những điều kiện hiện nay thật không đáng mong muốn. Trọn cả thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng – một cuộc khủng hoảng để tái tạo, dù đối với kẻ bàng quan nó có vẻ hủy diệt. Trong mọi phương diện, việc phá tan các hình thức cũ còn đang tiến hành và vẫn chưa hoàn tất. Tuy nhiên, đã có đủ điều kiện để dựng lên cái giàn cho công trình xây dựng mới. Sự an tâm và bền bỉ gắn bó với bổn phận kế tiếp, khiến cho những việc bạn phải làm trở nên đơn giản.

Hôm nay, chúng ta bàn về hiệu quả của Thánh ngữ trên các luân xa khác nhau, trong mỗi thể, và sự hữu dụng của nó trong việc làm các hạ thể chỉnh hợp với thể nguyên nhân. Đây là điểm thứ tư của chúng ta. Hai điểm đầu có liên hệ chặt chẽ với nhau, vì Thánh ngữ (khi xướng lên đúng đắn) sẽ tác động lên những thể khác nhau qua trung gian của các luân xa, và các luân xa tương ứng trong thể cảm dục và thể trí. Một số hiệu quả như là loại bỏ vật chất không thích hợp và thu vào những chất mới, hiệu quả bảo vệ, làm ổn định và tinh luyện của Thánh ngữ, chúng ta đã có bàn qua ít nhiều. Bây giờ, chúng ta hãy tập trung chú ý vào các luân xa và hiệu quả ở đó khi xướng lên Thánh ngữ.

Bảy Luân xa và Thánh ngữ.

Như thường lệ, chúng ta hãy chia vấn đề thành nhiều mục. Đồ biểu có giá trị hệ thống hóa các hiểu biết. Nhờ thế thể trí được sắp xếp có thứ tự, và khi xem qua các bảng biểu chúng ta có thể nhớ lại dễ dàng.

1.     Kể tên và bàn về các luân xa.

2.     Sự tăng trưởng và phát triển các luân xa.

3.     Hiệu quả của tham thiền vào các luân xa.

4.     Mối tương quan giữa các luân xa trong việc chỉnh hợp. [71]

 Trước hết, xin nói rằng phải giữ lại một số kiến thức được xem là phần kế tục tự nhiên và hệ quả của những điều tôi phải truyền đạt. Mối nguy hiểm quá lớn do việc phát triển các luân xa không đúng cách, khiến chúng tôi không dám đưa ra giáo huấn có đủ chi tiết. Chúng tôi tìm cách phát triển hàng ngũ những vị Chân sư Từ ái, những người phân phối nguồn bác ái vũ trụ. Chúng tôi không tìm cách gia tăng những vị bàng môn và những người có biệt tài tự phô trương một cách thô bạo, bằng cách gây thiệt hại cho những ai không thuộc nhóm họ. Một số sự kiện đã được truyền đạt và nay có thể được truyền đạt. Chúng giúp hành giả phát triển trực giác, và giúp nguồn hứng khởi cho kẻ tìm ánh sáng càng hăng hái cố gắng hơn. Một số sự kiện khác phải giữ lại vì chúng sẽ trở thành vũ khí nguy hiểm trong tay kẻ bất lương. Vì thế, nếu các bạn thấy rằng dường như tôi chỉ truyền đạt những gì vừa đủ gợi sự quan tâm thôi, thì đó lại chính là mục tiêu của tôi vậy. Khi sự quan tâm của bạn và của mọi người chí nguyện đã đúng mức, thì không có gì cần giữ lại đối với các bạn cả.

1. Kể tên các luân xa.

Như các bạn biết, những luân xa trong thể hồng trần là: –

1.     Luân xa chót xương sống.

2.     Luân xa nhật tùng.

3.     Luân xa lá lách.

4.     Luân xa tim.

5.     Luân xa cổ họng.

6.     Luân xa tuyến tùng.

7.     Luân xa tuyến yên.

Kể như vậy là đúng rồi, nhưng tôi chỉ các bạn một lối phân chia khác, dựa trên những sự kiện tôi đã nói trước đây, và về thái dương hệ. Bảy luân xa này có thể được kể là năm, nếu không tính đến luân xa lá lách, còn hai luân xa đầu thì xem như một. Năm luân xa được xác định như thế, có thể áp [72] dụng cho cuộc tiến hóa năm giai đoạn của chúng ta trong thái dương hệ thứ hai này.

Trong thái dương hệ thứ nhất, ba luân xa thấp đã được mở mang và hiện nay các huyền bí gia không còn dùng chúng nữa. Chúng là căn bản để phát triển tứ hạ thể, trước khi con thú thành người, còn hiện nay thì ta phải vượt lên chúng, và ngọn lửa thiêng phải được tập trung trong các luân xa khác cao hơn.

Luân xa Lá lách.

Luân xa thứ ba là lá lách, có công dụng đặc biệt, có phần tương ứng trong trạng thái thứ ba hay là phương diện hoạt động, và trong Cung ba hay Cung Hoạt động (Thích nghi). Nó là căn bản của mọi hoạt động chính yếu của tiểu vũ trụ (con người), những sự thích ứng thường xuyên của y với hoàn cảnh, với nhu cầu của chính mình và với đại vũ trụ. Nó kiểm soát những tiến trình chọn lọc trong con người, rút lực rung động và năng lượng của đại vũ trụ và biến đổi cho con người sử dụng. Có thể gọi nó là cơ quan chuyển hóa, và khi những chức năng của nó được hiểu biết đầy đủ hơn ta sẽ thấy rằng nó tạo sự liên kết từ lực giữa con người suy tưởng, hữu thức, có ba trạng thái, và các hạ thể của mình, xem các hạ thể là phi-ngã và thấy chúng được sống động nhờ các thực thể phú linh. Vấn đề và mục đích là làm sao cho sinh lực tiếp xúc với các thực thể này.

Phần tương ứng với luân xa này trong thể cảm dục là cơ quan phân phối sinh lực cảm dục, và nó cũng tạo sự liên kết. Phần tương ứng trong thể trí có mục đích cũng gần giống vậy, chỉ có điều ở đây những hình tư tưởng được năng lượng ý chí làm sống động đang đi qua luân xa này. Vì thế, ngoài những chỉ dẫn tổng quát về luân xa này, tôi không muốn bàn thêm nữa. [73]

Ít người có khả năng kích thích luân xa này bằng Thánh ngữ, mà điều này cũng đừng nên làm. Nó sẽ phát triển bình thường nếu chính người chí nguyện tiến bộ toàn diện đúng như mong muốn: – nếu thể xác nhận được đầy đủ sinh lực mặt trời, nếu thể tình cảm được vận chuyển bằng những ước vọng cao thượng, mở ra đón nhận mãnh lực từ các cấp của thể nguyên nhân và trực giác tuôn xuống, và nếu y có trí tuệ tập trung, sinh động, với ý chí mạnh mẽ, năng động. Bấy giờ, luân xa lá lách với những phần tương ứng nội tại sẽ phát triển và ở trong tình trạng lành mạnh.

Thế là chúng ta thôi bàn về luân xa này, và trong các thư sau không còn nói đến nó nữa.

Những Luân xa Chủ yếu.

Ba luân xa nền tảng, rất quan trọng đối với những người tiến hóa trung bình, đã phân cực trong thể tình cảm và có cuộc sống hình thường ở thế gian, là:

1.     Luân xa chót xương sống.

2.     Luân xa nhật tùng.

3.     Luân xa tim.

Ba luân xa chính yếu đối với người đến gần Con đường Dự bị, đối với người đang hướng đến cuộc sống vị tha và đã khảo xét những hấp dẫn của tam giới, là:

1.     Luân xa chót xương sống.

2.     Luân xa tim.

3.     Luân xa cổ họng.

Bấy giờ luân xa nhật tùng của y được để cho hoạt động bình thường, sau khi đã đạt mục đích làm một trung tâm hội tụ tình cảm. Hoạt động của lửa thiêng ngày càng gom vào luân xa cổ họng. [74]

Ba luân xa chính đối với người đang đi trên đường Đạo (gồm hai giai đoạn) là:–

1.     Luân xa tim.

2.     Luân xa cổ họng.

3.     Luân xa đầu.

Hoạt động thiêng liêng đã phát triển luân xa nhật tùng, đang kiểm soát tất cả các luân xa dưới nhật tùng, và trong diễn tiến tuần tự vượt lên cho đến mức hội tụ và làm linh hoạt các luân xa ở đầu.

Trước đây, chúng ta đã chia cuộc sống con người làm năm giai đoạn chính, mô tả sự phát triển của y trong mỗi giai đoạn. Nếu thận trọng chỉ xét tổng quát, chúng ta có thể áp dụng năm giai đoạn đó vào năm luân xa.

Giai đoạn I – Trong giai đoạn này luân xa chót xương sống linh hoạt nhất, nhưng chỉ thuần là xoay tròn trong không gian ba chiều, chứ không phải bốn chiều. Ngọn lửa bên trong được gom vào việc làm sinh động những cơ quan sinh sản và gom vào cuộc sống chức năng thân xác của phàm nhân.

Giai đoạn II – Trong giai đoạn này luân xa nhật tùng là mục tiêu hội tụ của lửa và luân xa tương ứng của nó trong thể tình cảm cũng rung động đồng bộ. Cả hai luân xa đều cùng rung động, dù còn ở mức chậm chạp. Các luân xa khác đã sống động, có thể thấy chúng rung động, nhưng không có chuyển động xoay tròn.

Giai đoạn III – Bây giờ ngọn lửa thiêng lên đến luân xa tim, và cả ba luân xa đều xoay trong sự hòa hợp, nhịp nhàng và trật tự. Có thể nói là khi thức động một luân xa nào cũng khiến mãnh lực tuôn vào các luân xa khác, và tôi có thể nói thêm rằng trong luân xa đầu có bảy trung tâm (ba chính và bốn phụ) và mỗi trung tâm tương ứng trực tiếp với một luân xa trong cơ thể. Chúng là tổng hợp, và khi ta kích thích luân xa tương ứng của chúng, thì chúng cũng nhận được năng lực xoay tròn tương ứng. [75]

Giai đoạn IV – Đánh dấu sự kích thích rõ rệt luân xa cổ họng. Toàn bộ hoạt động sáng tạo của ba trạng thái phàm nhân – xác thân, tình cảm và trí tuệ – đều hướng thượng trong phụng sự. Về mặt huyền bí cuộc sống y bắt đầu phát ra âm thanh, và trở nên phong phú và hữu ích về mặt huyền môn. Y biểu hiện mạnh mẽ và âm thanh của y phát ra trước y. Đây là lời phát biểu huyền môn thực tế mà người có nội nhãn thông thấy rõ như thế. Các luân xa ngày càng điều hợp với nhau rõ rệt, ngày càng xoay nhanh hơn và hình dạng của chúng cũng thay đổi, nở lớn, chuyển động xoay theo bề đo thứ tư, tức là tự quay vào bên trong của chính nó. Bấy giờ, các luân xa này là những hạt nhân ánh sáng chói rạng và bốn trung tâm phụ tương ứng ở đầu cũng sinh động như vậy.

Giai đoạn V – Đánh dấu mức tiến của lửa thiêng đến các trung tâm ở đầu, và chúng được hoàn toàn thức động.

Trước khi điểm đạo, tất cả các luân xa sẽ xoay tròn trong trật tự không gian bốn chiều, nhưng sau khi điểm đạo chúng trở thành những bánh xe rực lửa, và nếu xem bằng nhãn thông ta sẽ thấy chúng tốt đẹp lạ lùng. Bấy giờ, luồng Hỏa hậu (Kundalini) được đánh thức và tiến lên theo những vòng xoắn cần thiết. Vào cuộc điểm đạo thứ hai, các luân xa của thể cảm dục cũng được thức động tương tự. Trong cuộc điểm đạo thứ ba, các luân xa của thể trí mới được chạm đến. Bấy giờ vị điểm đạo đồ có thể diện kiến Đức Huyền môn Đại đế, Đấng Điểm đạo Duy nhất.

Người môn sinh cần luôn ghi nhớ rằng ở đây tôi chỉ nói tổng quát thôi. Sự phát triển của tiểu vũ trụ cũng phức tạp như sự phát triển của đại vũ trụ. Sự thức động các luân xa theo thứ tự nào đó là tùy những yếu tố như:

1.     Cung của Tinh thần hay Chân thần.

2.     Cung của Chân nhân, Chân ngã, Đức Chúa Con, hay là cung phụ của Chân thần. [76]

3.     Giống dân và quốc tịch.

4.     Loại công việc đặc biệt mà hành giả cần phải làm.

5.     Cố gắng áp dụng của hành giả.

Các luân xa cơ bản của người bình thường.

Các luân xa cơ bản của người đã tiến hóa.

Các luân xa cơ bản của người trên Đường Đạo.

Vì thế, các bạn có thể thấy rằng thật là vô ích nếu đặt ra những qui luật để phát triển các luân xa và đưa ra những phương pháp để luân chuyển ngọn lửa, mà chưa đến lúc có những huấn sư lão luyện với kiến thức chuyên môn và khả năng nhãn thông đảm nhận công việc đó ở cõi trần. Người chí nguyện đừng nên có ý muốn tập trung tư tưởng vào bất kỳ một luân xa nào. Vì làm thế tức là tạo nguy cơ, khiến luân xa đó [77] bị kích thích quá độ hay suy yếu đi. Cũng đừng nên cố gắng quay ngọn lửa vào một điểm đặc biệt nào. Sự vận dụng dốt nát sẽ gây nên điên cuồng và bệnh hoạn. Nếu người môn sinh chỉ tìm cách phát triển tinh thần; nếu y chỉ nhằm mục đích thành thực và lòng từ ái vị tha; nếu y an tâm áp dụng, tập trung vào việc chế ngự tình cảm, mở mang thể trí và vun bồi thói quen suy tư trừu tượng, thì những kết quả mong muốn nơi các luân xa sẽ đạt được đúng mức nhu cầu mà không gây nguy hiểm.

Khi các tam giác này trở thành những con đường của ngọn lửa tam phân phát xuất từ luân xa chót xương sống, khi sự tương giao giữa chúng đã hoàn hảo và ngọn lửa tiến lên đúng cách theo con đường từ luân xa này đến luân xa khác và khi điều này được thành tựu theo thứ tự cần có do cung nguyên thủy của môn sinh, thì bấy giờ công việc hoàn tất. Con người năm trạng thái đã đạt được sự hoàn thiện trong đại chu kỳ này và đã đến mục tiêu.

(Nên nhớ rằng trật tự này cũng phải đạt được trong các   trung tâm ở đầu).

Ngày mai, chúng ta sẽ nghiên cứu các luân xa một cách cụ thể hơn và sẽ mô tả chúng một phần nào. Tôi sẽ chỉ rõ hiệu quả trong cuộc sống khi thức động các luân xa đó.

Ngày 25-6-1920.

2. Sự Phát triển và Khai mở các Luân xa.

Giờ đây chúng ta kể lại các luân xa và lần này xem xét các luân xa tương ứng ở cấp cao hơn, lưu ý đến màu sắc và số cánh của mỗi luân xa.

1.     Luân xa chót xương sống. Có bốn cánh, xếp theo hình chữ thập, tỏa ánh lửa màu vàng cam. [78]

2.     Luân xa nhật tùng. Có mười cánh, màu hồng pha màu xanh lục.

3.     Luân xa tim. Có mười hai cánh, màu vàng chói.

4.     Luân xa cổ họng. Có mười sáu cánh, màu xanh óng ánh bạc, nhưng màu xanh là chủ yếu.

5.     Các luân xa ở đầu. Gồm hai phần:–

a.     Luân xa giữa hai chân mày. Có chín mươi sáu cánh, một nửa hoa sen này màu hồng và vàng, nửa kia màu xanh và đỏ tía.

b.     Luân xa đỉnh đầu. Có mười hai cánh chính màu trắng và vàng ánh, và 960 cánh phụ xếp chung quanh mười hai cánh trung tâm. Như vậy, cả hai luân xa ở đầu có tất cả 1.068 cánh, hay là 356 bộ ba. Tất cả những con số này đều có ý nghĩa huyền bí.

Sự miêu tả này được trích từ sách “Đời sống Nội tâm,” áp dụng cho các luân xa thể dĩ thái. Chúng biểu lộ ở cõi trần các xoáy năng lực tình cảm tương ứng, với sinh lực tình cảm tác động xuyên qua. Chúng có các luân xa tương ứng trong thể trí, mà như trước tôi đã nói, khi thức động, phát triển và khai mở chúng, hành giả sẽ đạt mức sinh động chung cuộc và được giải thoát.

Mối liên kết giữa các luân xa, thể nguyên nhân và sự tham thiền ẩn trong ngụ ý sau đây: Chính nhờ sức quay nhanh và tương tác giữa các luân xa cùng mãnh lực của chúng (được tăng cường qua tham thiền huyền môn có qui củ) ta thực hiện được việc phá vỡ thể nguyên nhân. Khi nội hỏa luân chuyển [79] qua từng luân xa và khi luồng hỏa hậu theo đường xoắn đi lên chính xác theo dạng hình học, từ vùng xoáy này đến vùng xoáy khác thì sức tăng cường sẽ tương tác theo ba chiều hướng.

a.     Nó hội tụ ánh sáng hay tâm thức của Chân ngã vào ba hạ thể, đưa tâm thức này xuống để biểu lộ đầy đủ hơn và mở rộng tiếp xúc trong cả tam giới.

b.     Đưa lửa từ Tam nguyên Tinh thần tuôn xuống ngày càng nhiều để giúp thể nguyên nhân, giống như Chân nhân giúp ba hạ thể.

c.      Thúc đẩy sự hợp nhất giữa Chân ngã và Phàm ngã và thu hút sự sống của chính Chân thần. Khi việc này được thực hiện, khi mỗi kiếp sống kế tiếp lại thấy có sự tăng cường sinh lực trong các luân xa, và khi luồng hỏa hậu (với năng lực thất phân) chạm đến từng luân xa, thì thậm chí bấy giờ thể nguyên nhân cũng vẫn chưa tỏ ra thích hợp cho nguồn sống từ trên tuôn xuống. Có thể nói là hai ngọn lửa gặp nhau, và rốt cuộc thể nguyên nhân tan biến. Đền Solomon bị lửa thiêu rụi. Những nguyên tử trường tồn đều bị hủy diệt, và tất cả đều được tái hấp thu vào trong Tam nguyên tinh thần. Tinh hoa của Phàm ngã, những khả năng đã được phát triển, những kiến thức đã đạt được và ký ức về tất cả những việc đã xảy ra đều trở nên thành phần trang bị cho Tinh thần và rốt cuộc nhập vào Tinh thần hay Chân thần ở cảnh giới của nó.

Sau đây là những điều mà tôi chưa có thể đưa ra nhiều chi tiết hơn, vì làm thế là đặt các bạn trước những nguy cơ quá lớn.

1.     Phương pháp khơi dậy luồng Lửa thiêng.

2.     Thứ tự các bước tiến của nó.

3.     Khi đi lên nó phải theo những dạng hình học nào.

4.     Thứ tự phát triển các luân xa tùy theo cung của Chân   thần. Thật quá nhiều điều phức tạp.

[80] Cho nên càng nghiên cứu các bạn lại thấy vấn đề càng sâu xa, khó hiểu hơn. Nó phức tạp vì sự phát triển của các cung, do vị trí của môn sinh trên thang tiến hóa, do sự đánh thức các luân xa không đồng đều, vì cuộc sống mỗi kiếp mỗi khác. Vấn đề càng rắc rối hơn vì các luân xa đều có ba trạng thái – dĩ thái, tình cảm và trí tuệ – vì thực tế là một vài người có luân xa nào đó trong thể cảm dục đã hoàn toàn thức động và biểu lộ qua thể dĩ thái, trong khi những luân xa đối ứng trong thể trí có thể còn ngủ yên. Một số người khác có thể có luân xa trong thể trí đã thức động, luân xa của thể tình cảm thì kém sống động hơn, còn luân xa dĩ thái lại yên lặng. Vì thế, các bạn thấy rõ rằng nhu cầu về các huấn sư có nhãn thông hữu thức thật thiết yếu đến mức nào. Các vị ấy có thể giúp đỡ môn sinh một cách đúng đắn, có thể dùng kiến thức và phương pháp khoa học để kích thích những luân xa còn ngủ yên và chậm chạp, chỉnh hợp chúng, sao cho dòng năng lực có thể qua lại tự do giữa những luân xa bên ngoài và bên trong. Về sau, vị huấn sư có thể huấn luyện người môn sinh về cách an toàn để đánh thức luồng nội hỏa, để bồi dưỡng và chuyển di nó một cách khoa học. Ngài cũng dạy y biết cách cho nó cuốn xoáy đi lên theo thứ tự cần thiết trên đường của các tam giác cho đến các luân xa ở đầu. Khi Kundalini đã đi qua các đường hình học này, thì hành giả trở nên hoàn thiện, phàm ngã đã làm tròn phận sự, và mục tiêu đã đạt. Vì vậy, sở dĩ số cánh của tất cả các luân xa đều là những bội số của 4, vì 4 là con số của phàm ngã, của tứ hạ thể. Nếu không kể luân xa lá lách (vì nó có mục đích riêng biệt) và ba cơ quan sinh sản ở dưới, thì tổng số cánh của các luân xa là 1.110, tổng số này có nghĩa là sự hoàn thiện của tiểu vũ trụ, – 10 là con số của Phàm nhân hoàn hảo, 100 là con số của Chân ngã trọn [81] lành và 1.000 là con số của Tinh thần thành đạt. Khi mỗi cánh đều rung động trong tất cả các bề đo, thì đó là lúc đạt được mục đích của đại kiếp này. Tiểu liên hoa đã nở trọn vẹn và phản ánh được đại liên hoa một cách chính xác.

Ngày 26-6-1920.

Hiệu quả của tham thiền huyền môn đối với các luân xa.

Hôm nay, chúng ta sẽ nghiên cứu hiệu quả của tham thiền huyền môn trên các luân xa và sự thức động các luân xa do hiệu quả đó, để ấn định một lối thiền luôn luôn mở đầu bằng việc sử dụng Thánh ngữ, xướng lên đúng qui tắc.

Chúng ta cũng nói đến tham thiền dưới sự hướng dẫn của một vị huấn sư. Nhờ đó mà hành giả sẽ tham thiền đúng đắn hoặc gần đúng với lời hướng dẫn. Thế nên hôm nay chúng ta xem xét yếu tố thời gian liên quan đến các luân xa, vì việc thực hành nhất thiết phải chậm rãi và tuần tự. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng bao giờ các bạn cũng cần phải nhớ là trong các công phu thực sự huyền môn thì hiệu quả mong đợi chỉ đạt được một cách rất chậm chạp. Nếu trong một kiếp sống nào đó chừng như hành giả đạt được những bước tiến ngoạn mục thì chẳng qua là y đang phô bày những gì đạt được từ trước (sự biểu lộ những khả năng bẩm sinh đã đạt được từ tiền kiếp) và đang chuẩn bị cho một giai đoạn cố gắng mới một cách chậm chạp, chuyên cần và thận trọng. Trong kiếp này, y ôn lại những tiến trình đã đạt được trong quá khứ, nhờ thế mà đặt nền tảng cho nỗ lực mới. Nỗ lực chậm chạp và khó nhọc này (vốn là phương pháp tiến hóa nhất quán của vạn vật) chung qui chỉ là ảo tưởng về thời gian và do sự thực là hiện nay tâm thức của đa số nhân loại đang phân cực trong các hạ thể, chứ không ở thể nguyên nhân. Những trạng thái tâm thức nối tiếp nhau có vẻ chậm chạp, và nhờ diễn tiến chậm rãi đó mà Chân nhân mới có cơ hội đồng hóa được [82] thành quả của các giai đoạn này. Phải cần thời gian lâu dài mới tạo được một sự rung động bền vững, và cũng cần thời gian lâu như vậy để phá vỡ nó, và áp dụng một nhịp điệu rung động khác cao hơn. Sự tăng trưởng là một thời kỳ lâu dài xây dựng để rồi phá hủy, kiến tạo để rồi sau đó giải tán, phát triển một số tiến trình có tiết điệu để rồi về sau lại tiêu hủy chúng, buộc nhịp điệu cũ phải nhường chỗ cho cái mới. Khi Chân nhân hoạt động trong tâm thức thấp để tìm cách thay đổi những gì mà Phàm nhân đã kiến tạo trong hàng ngàn kiếp, thì khó mà thay đổi ngay được bao nhiêu. Việc chuyển sự phân cực từ thể tình cảm sang thể trí, sau đó đến thể nguyên nhân, để rồi tiến đến Tam nguyên Tinh thần thì quả là một giai đoạn cực kỳ khó khăn, một sự xung đột dữ dội cả ở nội tâm và với ngoại cảnh, sự đau khổ mãnh liệt và bề ngoài có vẻ tối tăm, đổ vỡ – đó là những đặc điểm trong cuộc đời của người chí nguyện hay người đệ tử. Điều gì gây ra trình trạng này và tại sao như vậy? Những lý do sau đây có thể cho thấy rõ tại sao việc dấn bước trên Đường Đạo lại nhọc nhằn đến thế, và tại sao cuộc leo thang tiến hóa (khi hành giả lên gần những nấc cao) lại trở nên ngày càng phức tạp và khó khăn.

1.     Mỗi thể phải được áp dụng phương thức và giới luật riêng, để tinh luyện.

2.     Mỗi thể phải được điều chỉnh lại và chỉnh hợp.

3.     Mỗi thể phải được phân cực lại.

4.     Mỗi thể phải thực sự được tái tạo.

5.     Trong mỗi cảnh giới, ba cõi phụ cao phải được chế ngự tuần tự (vì cuộc sống của người chí nguyện bắt đầu từ cõi phụ thứ tư).

6.     Mỗi luân xa phải được đánh thức một cách khoa học, thận trọng và tuần tự; nó phải được tăng cường vận tốc quay, bức xạ của nó phải được tích điện (xin tạm mượn từ này để dùng cho các luân xa) và mãnh lực của nó phải biểu lộ trong bề đo cao hơn. [83]

7.     Mỗi luân xa trong thể dĩ thái phải được liên kết bằng từ lực, phải chỉnh hợp hoàn toàn với những luân xa tương ứng trong thể tình cảm và trong thể trí, nhờ đó mà dòng mãnh lực không bị trở ngại.

8.     Bấy giờ mỗi luân xa phải được đánh thức một lần nữa bằng luồng Lửa thiêng, cho đến khi bức xạ, vận tốc và màu sắc của nó phù hợp với âm điệu của Chân nhân. Đây là một phần việc trong cuộc Điểm đạo.

Mỗi sự biến đổi này xảy ra tuần tự, ứng với cùng một định luật quản trị toàn cuộc phát triển theo chu kỳ của đại vũ trụ:

1.     Đầu tiên là sự va chạm của hai nhịp điệu cũ và mới.

2.     Kế đến là giai đoạn cái mới dần dần chế ngự, xóa bỏ cái cũ, và củng cố sự rung động mới.

3.     Cuối cùng, là sự chuyển tiếp và tắt dần để tái diễn một tiến trình mới.

Đó là công việc thực hiện trong các thể và ở các luân xa, qua tham thiền và bằng cách sử dụng Thánh ngữ. Thánh ngữ giúp điều chỉnh vật chất trong các thể, làm sinh động vật chất nhờ lửa, và giúp người chí nguyện có thể làm việc theo đúng định luật. Khai mở các luân xa là một tiến trình tuần tự, song hành với việc tinh luyện các thể và phát triển tâm thức thể nguyên nhân một cách chậm rãi.

Nhận xét tổng kết.

Để kết luận phần sử dụng Thánh ngữ trong tham thiền, tôi muốn nêu lên vài điểm, dù cũng chỉ là nói tổng quát thôi. Tôi hoàn toàn biết rằng vấn đề này làm các bạn khó hiểu.  [84] Lý do là vì phải nói thật ít để giữ an toàn cho các bạn. Cách dùng Thánh ngữ thật đúng là một trong những bí mật của điểm đạo, nên không thể tiết lộ. Phần nhỏ được chỉ dạy này cũng không có giá trị bao nhiêu với người môn sinh, nếu y không cố gắng thí nghiệm một cách khôn ngoan, và cuộc thí nghiệm phải có sự hướng dẫn của người đã biết. Dù vậy, tôi cũng sẽ chỉ dẫn một vài điều, nếu khéo suy ngẫm bạn có thể được soi sáng.

Khi tham thiền ở luân xa tim, hãy hình dung nó là một búp sen màu vàng ánh. Khi Thánh ngữ được xướng lên, hãy hình dung hoa sen này từ từ nở ra, cho đến khi thấy được tâm hoa là một vùng xoáy điện quang tỏa sáng, màu xanh nhiều hơn vàng. Hãy tưởng tượng ở đó hình ảnh của Chân sư bằng vật chất của thể dĩ thái, thể tình cảm, và thể trí. Làm thế tức là cần phải càng lúc càng thu tâm thức vào trong. Khi hình ảnh này đã được tạo đầy đủ thì nhẹ nhàng đọc Thánh ngữ lần nữa, và dùng nỗ lực ý chí thu tâm thức vào sâu hơn và liên kết với luân xa 12 cánh ở đầu, luân xa này thuộc tâm thức của thể nguyên nhân. Làm tất cả các điều này thật chậm rãi, từ từ, giữ thái độ hoàn toàn bình thản và an tĩnh. Hai luân xa 12 cánh này có liên hệ trực tiếp với tham thiền huyền môn, và tác động của luồng hỏa hậu về sau sẽ cho biết ý nghĩa đó. Sự hình dung này đưa đến sự tổng hợp, phát triển và mở rộng thể nguyên nhân, và cuối cùng giúp hành giả đến trước Chân sư.

Luân xa nhật tùng là cơ sở của tình cảm, không nên tập trung tư tưởng vào đó khi tham thiền. Nó là căn bản để chữa bệnh cho thể xác, và sau này chúng ta sẽ hiểu nó đầy đủ hơn. Nó là một trung tâm hoạt động – về sau, hoạt động này phải thuộc về trực giác. Luân xa cổ họng bắt đầu chói sáng, khi sự phân cực được chuyển từ nguyên tử trường tồn hồng trần đến nguyên tử trường tồn thượng trí, như đã bàn đến trước đây. [85] Nguyên tử trường tồn thượng trí trở thành trung tâm thuần lý trí hay là trung tâm tư tưởng trừu tượng. Rồi trong cuộc phát triển tâm thức, sẽ đến lúc mà mãnh lực tình cảm (đang chi phối biết bao nhiêu người) bị vượt lên và thay thế bằng mãnh lực của thượng trí. Nó thường đánh dấu bằng một giai đoạn mà con người sống thuần lý trí và không còn bị tình cảm chi phối nữa. Điều này có thể biểu lộ bằng sự nghiêm khắc của trí tuệ trong đời sống cá nhân ở cõi trần. Về sau nguyên tử trường tồn thể tình cảm được thay thế bằng nguyên tử trường tồn bồđề. Trực giác thuần khiết và sự thông hiểu toàn vẹn qua tình thương là quyền năng chủ động, có thêm khả năng phán đoán của lý trí. Bấy giờ luân xa nhật tùng được nổi bật nhờ sự linh hoạt rõ rệt của màu lục, vì thể cảm dục là tác nhân tích cực của thể cao hơn, và chỉ tỏa ra một ít màu hồng của dục vọng phàm nhân.

Khi mãnh lực xoay tròn xuyên qua vùng xoáy (sự xoay tròn này hình thành các cánh hoa sen) ta sẽ thấy một số cánh nổi bật rõ rệt, và mỗi luân xa phô bày một loại thập tự đặc biệt, chỉ trừ hai luân xa ở đầu, vì đó là những luân xa tổng hợp của các thập tự thấp hơn. Ta có thập tự bốn cánh của Thượng Đế ngôi ba ở luân xa chót xương sống, và thập tự của Huyền giai thứ tư (là nhân loại) ở luân xa tim.

Khi Thánh ngữ được một người chí nguyện trung bình xướng lên, nó mang mãnh lực xuyên qua các luân xa bên trong ra đến các luân xa dĩ thái, và gây nên một sự kích thích rõ rệt các cánh của mỗi luân xa. Nếu hoa sen chỉ được khai mở một phần, thì chỉ có một số cánh được kích thích. Sự kích thích này tạo nên một sự rung động (đặc biệt là trong luân xa mà hành gia đang tham thiền, ở đầu hay ở tim) gây tác động phản xạ trong cột sống, xuống tận luân xa chót xương sống. Chính việc này không đủ sức khơi dậy luồng lửa, mà chỉ khi nào làm đúng thể thức, đúng âm khóa và theo đúng một số qui luật nhất định mới thực hiện được. [86]

Khi tham thiền ở luân xa tim, theo đúng những định luật huyền môn và xướng Thánh ngữ chính xác, thì mãnh lực từ các cấp trực giác tuôn xuống xuyên qua các luân xa của thể tình cảm. Khi tham thiền ở luân xa đầu, thì mãnh lực tuôn xuống qua các luân xa của hạ trí từ các cấp độ trừu tượng của thượng trí, về sau thì từ cõi niết-bàn. Một mặt ta được trực giác tinh thần, còn mặt khác ta được tâm thức của Chân ngã.

Ở người tiến hóa cao, hai luân xa chính (đầu và tim) được liên kết thành một khí cụ tổng hợp, và luân xa cổ họng cũng rung động đồng nhịp. Bấy giờ ý chí và bác ái hòa hợp trong phụng sự, và hoạt động của phàm ngã chuyển thành hoạt động cho lý tưởng và vị tha. Khi đạt đến trình độ này, hành giả đã sẵn sàng để đánh thức luồng nội hỏa. Các thể của y đã được tinh luyện, đủ sức chịu đựng áp lực của dòng thần lực tuôn tràn. Chúng không còn những yếu tố nào gây nguy hại do diễn tiến của luồng hỏa. Các luân xa trong chúng được tăng cường rung động cao đến mức đủ sức tiếp nhận sự kích thích mới. Khi điều này được thực hiện thì đã đến lúc người đệ tử được điểm đạo, người phụng sự nhân loại tương lai sẽ đứng trước Đấng Chủ tể, với dục vọng đã được tinh luyện, với trí tuệ hiến dâng, và xác thân là tôi tớ chứ không còn là chủ của y nữa.

Hôm nay chấm dứt bức thư này. Đến mai, chúng ta sẽ bàn đến những nguy hiểm đối với người hành thiền. Tôi sẽ chỉ cho y biết phải đề phòng những gì, và những bước nào y phải tiến hành thận trọng.

 

[87]

BỨC THƯ V

NHỮNG NGUY HIỂM CẦN TRÁNH TRONG THAM THIỀN.

1.     Những nguy hiểm cố hữu nơi Phàm ngã.

2.     Những nguy hiểm phát sinh do Nghiệp quả.

3.     Những nguy hiểm do các mãnh lực tinh vi gây ra.

[88]

Ngày 22-7-1920.

 

Phải giữ lại một số Giáo huấn.

Đến đây, sự hiểu biết của chúng ta đã được đặt căn bản. Sự hiểu biết này khiến người môn sinh khôn ngoan có ý muốn tuân thủ những qui luật cần thiết, làm đúng theo những điều kiện được ấn định, và biến những quan niệm tri thức y đã hiểu thành những kinh nghiệm thực tế trong đời sống hằng ngày. Ý muốn này thật là chính đáng và khôn ngoan, và là mục tiêu của tất cả những gì đã được truyền thụ. Nhưng đến đây phải sáng suốt đưa ra lời khuyến cáo, để chỉ rõ một số nguy hiểm có thể xảy ra, để người môn sinh tự đề cao cảnh giác, tránh sự hăng say thái quá, có thể đưa y theo những con đường gây trở ngại cho sự phát triển, hoặc có thể tạo nên những loại rung động mà cuối cùng phải được làm cân bằng. Điều này khiến công việc của y bị chậm trễ, phải làm lại, mà nếu nhận thức được kịp thời thì có thể ngăn ngừa.

Có ba lý do khiến không thể nói ra hay viết ra một số điều giáo huấn cho các môn sinh:–

1.     Một số giáo huấn luôn luôn được khẩu truyền, vì chúng kêu gọi đến trực giác chứ không phải để cho hạ trí suy ngẫm hay lý luận. Những lời dạy đó cũng có những yếu tố nguy hiểm nếu truyền cho kẻ chưa chuẩn bị sẵn sàng.

Một số giáo huấn thuộc về những bí mật của Đường Đạo, và chính yếu là áp dụng cho những nhóm mà người môn sinh gia nhập. Các giáo huấn ấy chỉ có thể dạy chung cho các môn sinh khi họ đều ở ngoài thể xác. Đó là những lời dạy về thể nguyên nhân của nhóm, về một số bí mật của các cung, và cách kêu gọi sự trợ giúp của những thiên thần cấp cao để mang [89] lại những kết quả mong muốn. Những mối nguy hiểm kèm theo giáo huấn đó quá lớn nên không thể phổ biến cho công chúng được. Những hiệu quả huyền bí của lời nói và của chữ viết đều khác nhau và rất thú vị. Ngày nào chưa có một Huấn sư minh triết mang xác phàm ở giữa các bạn, ngày nào Ngài chưa có thể qui tụ các môn sinh quanh Ngài để dùng hào quang của Ngài mà bảo vệ và kích thích họ, và ngày nào mà thế giới chưa đủ điều kiện vượt qua được hiện tình lo âu căng thẳng để đến một giai đoạn thái hòa, thì vẫn chưa có thể truyền dạy những phương thức, những cách thỉnh cầu và những câu chân ngôn có tính cách đặc biệt. Bấy giờ vẫn chưa có thể đánh thức các luân xa sớm hơn mức tiến hóa cần thiết, trừ một vài trường hợp cá nhân khi một số môn sinh (có lẽ họ chưa tự biết mình) đang trải qua những tiến trình xác định có tác dụng tăng cường nhịp độ rung động rất cao. Công việc này đang được thực hiện cho chỉ một ít người trong mỗi nước, dưới sự trông nom trực tiếp của một vị Chân sư, tập trung qua H.P.B.

Những chỉ dẫn cách thỉnh cầu các thiên thần qua tham thiền, vẫn chưa có thể trao cho cá nhân một cách an toàn dù đã có thí nghiệm mở đầu trong các nhóm, như trong nghi lễ của Hội Tam điểm và Giáo hội. Những phương thức để ý chí con người chế ngự những vị thần hạng thấp vẫn chưa được truyền dạy. Nhân loại vẫn chưa được giao phó cho quyền năng đó, vì đa số đều bị sự ham muốn ích kỷ thúc đẩy nên họ sẽ lạm dụng quyền năng đó vào những mục đích riêng tư. Các Huấn sư minh triết của nhân loại đều cho rằng – như có lẽ trước đây tôi đã nói – hiểu biết quá ít thì ít nguy hiểm hơn là hiểu biết quá nhiều, và nếu những nhà huyền bí học sơ cấp có quyền năng, có thể họ sẽ áp dụng sai lầm và gây chướng ngại nghiêm trọng cho nhân loại hơn là họ thiếu những hiểu biết đó nên không gây nghiệp quả. Những quyền năng đạt được trong tham thiền, những khả năng tạo được  [90] do việc chỉnh đốn các hạ thể qua tham thiền, những năng khiếu khai mở được trong mỗi thể bằng những định thức tham thiền, sự điều dụng vật chất (là một trong những chức năng của nhà huyền bí học, là kết quả của những thể đã được chỉnh hợp nên ứng đáp hoàn toàn với các điều kiện của cảnh giới), và việc đạt được tâm thức của thể nguyên nhân – một tâm thức có khả năng bao gồm trong nó tất cả các ý thức cấp thấp hơn – những điều đó đều có tính cách quá nghiêm trọng, không thể xem thường. Còn việc huấn luyện con người theo các đường hướng đó thì chỉ những ai có thể được huấn sư tin cậy, Ngài mới khuyến khích thực hành. Được tin cậy theo nghĩa nào? Ngài tin y sẽ suy tư vì tập thể, chứ không vì riêng mình. Ngài tin rằng y dùng sự hiểu biết về các thể, về nghiệp quả của những người chung quanh có liên hệ với y chỉ nhằm giúp đỡ họ một cách khôn ngoan chứ không cho những mục tiêu ích kỷ. Và Ngài tin rằng y sẽ dùng những quyền năng huyền bí để thúc đẩy cuộc tiến hóa và phát triển trên tất cả mọi cảnh giới, cho các đề án mà ba vị Trưởng ngành đã hoạch định.

Tôi xin nói rõ thêm:–

Khi hành thiền điều hòa theo lời chỉ dạy đúng đắn, thì một trong những điều đạt được là tâm thức phàm ngã chuyển nhập vào tâm thức của Chân nhân. Điều này cũng kèm theo khả năng nhìn thấy từ mức độ của thể nguyên nhân, trực nhận được các sự thật trong cuộc sống kẻ khác, thấy trước được các biến cố và những việc sắp đến, và biết được giá trị tương đối của phàm nhân. Chỉ khi nào người môn sinh có thể im lặng, vô kỷ, và bền vững thì điều này mới có được. Ai đáp ứng được tất cả những đòi hỏi đó?

Tôi cố gắng truyền cho các bạn ý niệm tổng quát về những mối nguy hiểm trong việc phát triển quyền năng quá sớm qua tham thiền. Tôi muốn lên tiếng – không phải để làm bạn nản lòng – mà chỉ nhấn mạnh rằng người môn sinh phải có thể xác tinh khiết, thể cảm dục ổn định và thể trí thăng bằng, trước [91] khi được hiểu biết nhiều hơn. Chỉ khi tâm hồn mở ra cho trực giác và khép chặt đối với thú tính, thì y mới có thể tiến hành công việc một cách khôn ngoan. Chỉ khi tâm hồn rộng mở, cảm thông với tất cả chúng sinh, yêu thương tất cả mọi người mình gặp, hiểu biết và thiện cảm với những tạo vật của Thượng Đế, dù đó là vật đáng ghét nhất, bấy giờ công việc mới có thể tiến hành như mong muốn. Chỉ khi sự phát triển được đồng đều, chỉ khi trí tuệ (sự hiểu biết) không vượt quá xa trái tim (tình thương), và rung động của hạ trí mở ra cho thượng trí của Tinh thần, bấy giờ người môn sinh mới được tin cậy để đạt các quyền năng, mà nếu sử dụng sai lầm y sẽ gây tai họa cho chính mình và những người chung quanh. Chỉ khi người môn sinh không còn tạo ra những tư tưởng nào khác ngoài mục đích giúp đỡ thế gian, bấy giờ y mới được vị huấn sư sáng suốt tin cậy và chỉ cách điều dụng chất liệu của tư tưởng. Chỉ khi y không ham muốn điều gì khác hơn việc tìm biết những kế hoạch của Chân sư, rồi nhất định trợ giúp thực hiện các kế hoạch đó, bấy giờ y mới được tin cậy giao cho những phương thức chế ngự các thần linh bậc thấp. Những nguy hiểm thật quá to lớn và những rủi ro đe dọa người môn sinh bất cẩn nhiều đến đỗi, trước khi đi xa hơn, tôi muốn các bạn hãy lưu ý đề phòng.

Bây giờ chúng ta hãy kể ra một số nguy hiểm cần phải đề phòng khi hành thiền. Có nguy hiểm thuộc nguyên nhân này, có mối nguy thuộc nguyên nhân khác, và chúng ta sẽ phải trình bày thật chính xác.

1.     Những nguy hiểm sẵn có trong Phàm ngã của môn sinh. Có thể phân thành ba nhóm:– Những nguy hiểm cho thể xác, những nguy hiểm cho thể tình cảm và những nguy hiểm cho thể trí.

2.     Những nguy hiểm do nghiệp quả của môn sinh gây ra, và do hoàn cảnh của y. Nhóm này cũng có thể được chia thành ba loại: [92]

a.     Nghiệp quả của kiếp sống hiện tại, “vòng hạn định” của cá nhân y, tượng trưng bằng cuộc sống hiện tại.

b.     Sự di truyền và bản năng của quốc gia, ví dụ như y có loại thể xác người Tây phương hay Đông phương.

c.      Những liên hệ của y với nhóm, dù là nhóm nội môn hay ngoại môn.

3.     Những nguy hiểm do các mãnh lực tinh vi gây ra, mà vì không hiểu nên các bạn gọi là ma quỷ. Những nguy hiểm này gồm sự tấn công môn sinh do những sinh linh bên ngoài, trên một cảnh giới nào đó. Những sinh linh này có thể chỉ là người đã bỏ xác phàm. Đó cũng có thể là những dân cư của các cảnh giới khác nhân loại. Về sau khi môn sinh đã trở nên khá quan trọng, đủ gây chú ý, thì sự tấn công có thể là do những kẻ chỉ sử dụng thuần vật chất để cản trở công cuộc phát triển tinh thần, – những nhà hắc thuật, những anh em hắc đạo, hoặc những mãnh lực có vẻ hủy hoại khác. Nhìn theo khía cạnh thời gian và trong ba cõi thấp của chúng ta, thì sự việc đó có vẻ như vậy, chứ thực ra là do Đức Thái Dương Thượng Đế Ngài cũng đang tiến hóa, và (theo quan điểm của những Đấng vô cùng cao cả đang giúp Ngài phát triển) đó cũng do những khuyết điểm nhất thời của Ngài. Những khuyết điểm mà chúng ta gọi là của thiên nhiên, vốn là những bất toàn của Thượng Đế, và cuối cùng sẽ được khắc phục.

Thế là sáng nay tôi đã nói sơ lược về những đề tài mà tôi sẽ truyền đạt trong những ngày tới.

Ngày 24-7-1920.

Những mối nguy hiểm chực chờ người môn sinh hành thiền tùy thuộc vào nhiều yếu tố, và tôi không thể làm gì hơn là vắn tắt chỉ ra một số tình trạng hiểm nguy đe dọa, khuyến cáo để đề phòng một số tai họa có thể xảy ra, và cảnh giác người môn sinh hãy coi chừng những hậu quả có thể mang lại [93] do sự ráng sức không hợp lý, do sự nồng nhiệt thái quá, và do sự chuyên nhất có thể đưa đến phát triển mất quân bình. Nhất tâm thẳng đến mục đích là một đức tốt, nhưng đó nên là sự chuyên chú vào mục tiêu, mục đích, chứ không phải chỉ chuyên chú phát triển theo một đường lối độc nhất mà không áp dụng mọi phương pháp khác.

Những nguy hiểm trong tham thiền phần lớn là mối nguy của các tính tốt, với nhiều nỗi khó khăn trong đó; phần lớn là những nguy hiểm do người môn sinh có quan niệm trí thức tinh tế, vượt quá khả năng của các hạ thể, nhất là xác thân. Chí nguyện, chú tâm và cương quyết là những tính tốt cần thiết, nhưng nếu áp dụng thiếu phân biện, không phù hợp với trình độ tiến hóa thì những tính tốt ấy có thể đưa đến sự hủy hoại xác thân, làm đình hoãn tất cả sự tiến bộ trong một kiếp sống nào đó. Tôi trình bày có rõ không? Tôi chỉ muốn nói rằng người môn sinh huyền bí học tuyệt đối cần phải có lương tri mạnh mẽ là một trong những đức tính căn bản của y. Kèm theo đó là ý thức cân đối tỉ lệ quí hóa để đưa đến sự cảnh giác thích hợp và áp dụng gần đúng phương pháp cần thiết cho nhu cầu trước mắt. Vì thế, người hết lòng hành thiền huyền môn cần ghi nhớ những điều tóm lược sau đây:–

a.     Bạn hãy tự biết mình.

b.     Hãy tiến hành một cách chậm rãi và luôn cảnh giác.

c.      Hãy nghiên cứu các hiệu quả.

d.     Vun bồi sự nhận thức rằng cuộc sống vĩnh cửu thì vô cùng lâu dài và điều gì được xây dựng một cách chậm rãi thì còn mãi.

e.      Hãy nhắm tới sự đều đặn.

f.       Luôn luôn nhớ rằng những hiệu quả phát triển tinh thần đích thực phải thấy được trong cuộc sống phụng sự ngoài đời.

g.     Cũng nên nhớ rằng những hiện tượng thần thông không phải là dấu hiệu cho thấy sự thành công của tham thiền. Thế gian sẽ thấy những hiệu quả của [94] tham thiền và là quan toà sáng suốt hơn chính người môn sinh. Trên hết, Chân sư sẽ biết, vì Ngài thấy rõ những kết quả nơi thể nguyên nhân của môn sinh rất lâu trước khi y ý thức được một sự tiến bộ nào đó.

Giờ đây, chúng ta hãy xem xét chi tiết các điểm này.

Những Nguy hiểm cố hữu trong Phàm ngã.

Trước hết, chúng ta hãy xem xét những mối nguy hiểm gần gũi nhất trong đời sống của mỗi cá nhân. Những nguy hiểm này tùy thuộc ba hạ thể, tùy trình trạng riêng của mỗi thể và sự tương quan giữa chúng. Vấn đề này thật quá rộng lớn, nên chỉ có thể đưa ra một số kết quả do một số điều kiện gây nên. Mỗi người có một vấn đề khó khăn riêng, mỗi thể gây ra một phản ứng khác nhau, và mỗi đơn vị hạ thể này chịu ảnh hưởng của sự chỉnh hợp hay thiếu chỉnh hợp của nó. Trước chúng ta hãy xét riêng từng thể, rồi sau đó mới xét cả ba trong một tổng thể. Bằng cách này, các bạn có thể được truyền thụ một vài sự kiện đặc biệt.

Tôi bắt đầu nói đến thể trí, vì đối với người môn sinh hành thiền, thì nó là trọng tâm cố gắng của y, và nó kiểm soát hai thể kia. Người môn sinh chân chính tìm cách đưa tâm thức ra khỏi thể xác, thể tình cảm, để đến lĩnh vực tư tưởng hay là nhập vào hạ trí. Khi việc này đã đạt mức khả quan, y mới tìm cách vượt cao hơn hạ trí và trở nên phân cực trong thể nguyên nhân, dùng antahkarana làm vận hà liên lạc giữa thượng trí và hạ trí. Bấy giờ bộ óc chỉ là một máy thu, lặng lẽ nhận những gì từ Chân nhân hay Chân ngã truyền xuống, và sau đó là từ Tinh thần tam phân hay là Tam nguyên. Công việc nhất thiết phải đi từ vòng ngoài vào trong, và tạo sự tập trung. Khi [95] đã tập trung được và đã gom vào tâm điểm ổn định – lúc này luân xa nhật tùng và luân xa tim đều yên lặng – thì một điểm bên trong luân xa đầu, một trong ba luân xa chính ở đầu trở thành trung tâm ý thức, và cung Chân nhân của mỗi người sẽ quyết định trung tâm này. Đây là phương pháp dùng cho phần đông các môn sinh. Khi đạt mức này rồi, hành giả mới theo phương pháp thiền của cung y, như tôi đã nói tổng quát trong các bức thư trước. Trong mỗi trường hợp, thể trí đều trở thành trung tâm ý thức, và về sau nhờ thực hành nó trở thành khởi điểm để chuyển sự phân cực vào một thể cao hơn, trước là thể nguyên nhân, sau là nhập vào Tam nguyên.

Những nguy hiểm đối với thể trí thật là hiển nhiên và cần phải đề phòng. Quan trọng nhất là hai loại, một loại gọi là trí tuệ bị ức chế, còn loại kia là trí tuệ suy nhược.

a.     Trước hết chúng ta hãy xét những nguy hiểm do bị ức chế. Một số người nhờ có ý chí mạnh mẽ nên trong tham thiền có thể đạt đến mức kiềm hãm được ngay những diễn tiến trong hạ trí. Nếu các bạn hình dung thể trí là một hình bầu dục, bao quanh thể xác và phần nhiều ló ra ngoài thể xác, nếu bạn biết rằng những hình tư tưởng đủ loại (là những gì chứa trong thể trí hành giả và tư tưởng của những người chung quanh) đang liên tục luân chuyển trong hình bầu dục đó, vì thế, thể trí hình trứng này được tô điểm bằng những điều hấp dẫn nổi bật va nhiều dạng hình học khác nhau, tất cả đều ở trong tình trạng biến động hay luân chuyển, thì có lẽ các bạn sẽ hiểu được phần nào điều tôi muốn nói. Khi hành giả tìm cách buộc thể trí yên lặng bằng cách ức chế hay đè nén tất cả sự vận hành của tư tưởng, y sẽ làm các hình tư tưởng ngưng lại bên trong hình bầu dục của thể trí, y sẽ làm đình chỉ sự luân chuyển và có thể gây ra những hiệu quả nghiêm trọng. Sự ức chế này có tác dụng trực tiếp đến bộ não của xác thân và đây là nguyên nhân của phần lớn sự mệt mỏi sau khi tham thiền. [96] Nếu cứ tiếp tục dồn ép như thế, nó sẽ gây tai họa cho hành giả. Tất cả những người mới tập thiền ít nhiều gì cũng có làm điều này, nếu họ không học cách đề phòng thì họ sẽ làm vô hiệu bước tiến của mình và làm trì hoãn sự phát triển. Những hậu quả thực ra có thể còn nghiêm trọng hơn nữa.

Phương pháp đúng để loại trừ tư tưởng là gì? Làm sao có thể trí thanh tịnh mà không phải dùng ý chí để đè nén? Những lời đề nghị sau đây có thể hữu ích và giúp đỡ các bạn:–

Sau khi đã thu tâm thức lên cõi trí, tại một điểm nào đó trong não bộ, hành giả nhẹ nhàng xướng Thánh ngữ ba lần. Y hãy hình dung luồng hơi thở phát ra là một sức mạnh thanh lọc, và nếu tiếp tục nó sẽ quét sạch những hình tư tưởng đang luân chuyển ra khỏi hình trứng của thể trí. Sau khi xướng xong, y hãy nhận thức rằng thể trí của mình đã hết sạch các hình tư tưởng.

Sau đó hành giả nên nâng sự rung động của mình càng cao càng tốt. Kế đến là nâng sự rung động đó vượt khỏi hạ trí lên đến thể nguyên nhân, để đem lại sự tác động trực tiếp của Chân nhân vào ba hạ thể. Nếu giữ được tâm thức ở cấp cao và giữ được mức rung động của Chân nhân (trên cảnh giới của Chân nhân) thì hành giả sẽ giữ được thể trí trong trạng thái quân bình. Nó không còn mang sự rung động thấp kém nào tương tự như rung động của các hình tư tưởng đang luân chuyển trong môi trường chung quanh nó. Mãnh lực của Chân nhân sẽ luân chuyển trong hình trứng của thể trí, khiến cho không đơn vị tư tưởng dạng hình học nào ở ngoài có thể xâm nhập và hành giả sẽ tránh được những nguy hiểm của sự ức chế. Có thể làm nhiều hơn nữa khi, với thời gian cố gắng, chất liệu trong thể trí theo nhịp rung động này trở nên bền vững và sẽ tự động loại bỏ tất cả những gì thấp kém và bất hảo.

b.     Còn những nguy hiểm của sự thoái hóa, suy nhược là [97] gì? Đơn giản là như vầy: Một số người có tính chất quá phân cực trên cõi trí đến đỗi họ đứng trước nguy cơ bị cắt đứt liên lạc với hai thể dưới. Các thể này sở dĩ có là để tiếp xúc, để thu đạt kiến thức ở các cõi thấp và tích lũy kinh nghiệm, thêm dung tích cho thể nguyên nhân. Vì vậy, các bạn sẽ thấy rõ rằng nếu tâm thức nội tại không xuống thấp hơn cõi trí và bỏ bê thể tình cảm và thể xác, thì có hai hậu quả xảy ra. Hai hạ thể này sẽ bị bỏ mặc và vô dụng, không đạt được mục đích. Theo quan điểm của Chân nhân thì chúng đang suy nhược và chết dần, còn thể nguyên nhân thì không được kiến tạo như mong muốn và thế là thời gian bị phí đi. Thể trí cũng trở nên vô dụng, chỉ chứa đựng những sự ích kỷ, không giúp ích được ai và giá trị kém cỏi. Một người mơ mộng mà không bao giờ thực hiện điều mơ ước, một nhà xây dựng chỉ dự trữ vật liệu mà không bao giờ dùng đến, một nhà viễn tưởng mà các viễn ảnh của y không giúp ích gì cho thần thánh hay con người, thì đó là một mối trở ngại trong đại cuộc. Y đang lâm vào nguy cơ rất lớn là bị suy nhược.

Tham thiền nên có hiệu quả là làm cả ba hạ thể ngày càng ở dưới sự kiểm soát hoàn toàn hơn của Chân nhân, đưa đến sự điều hợp và chỉnh hợp, phát triển cân đối và đầy đủ, khiến con người trở nên thật hữu dụng cho các Đấng Cao cả. Khi hành giả nhận thấy có lẽ y chú tâm quá nhiều vào cõi trí, thì y nên nhắm mục đích rõ rệt là làm cho tất cả những kinh nghiệm trí tuệ, những nguyện vọng và cố gắng của y thành sự thực ở cõi trần, đặt hai hạ thể dưới sự chế ngự của thể trí và khiến chúng trở thành những khí cụ cho các hoạt động và sáng tạo trí tuệ.

Tôi đã chỉ cho các bạn hai mối nguy trong số những mối nguy hiểm thường gặp nhất, và khuyên tất cả các môn sinh [98] huyền bí học nhớ rằng cả ba hạ thể đều quan trọng như nhau trên cả hai mặt phục vụ Chân nhân và phục vụ Nhân loại. Hãy để cho ba hạ thể phát biểu một cách hòa hợp khôn ngoan, cho vị Thượng Đế nội tâm có thể xuất lộ để giúp đỡ thế gian.

Ngày 25-7-1920.

Hiện nay thể cảm dục là thể quan trọng nhất trong Phàm nhân vì nhiều lý do. Khác với thể xác và thể trí, nó là một đơn vị toàn diện, là trung tâm phân cực của phần đông nhân loại. Nó là thể khó chế ngự nhất và thực tế là thể chỉ đến sau cùng mới được thu phục hoàn toàn. Lý do là sự rung động của dục vọng đã chế ngự không chỉ trường tiến hóa nhân loại mà còn trong các giới động vật và thực vật với mức độ ít hơn. Vì thế con người nội tâm đang tiến hóa phải chống chế được các khuynh hướng do cả ba giới kể trên gây ra. Trước khi tinh thần có thể hoạt động thông qua các hình thể của giới thứ năm (giới tinh thần) thì rung động dục vọng ấy phải được loại trừ và các khuynh hướng ích kỷ phải được chuyển hóa thành nguyện vọng tinh thần. Thực tế thì thể cảm dục hợp với thể xác thành một đơn vị, vì một người bình thường hầu như hoạt động do sự xúi giục của tình cảm, – thể thấp nhất của y tự động vâng theo những mệnh lệnh của thể cao hơn. Như tôi đã thường nói, thể tình cảm cũng là thể liên kết trực tiếp nhất với các cấp độ trực giác, và đó là một con đường để thành đạt. Trong tham thiền, thể tình cảm nên được thể trí kiểm soát, và khi sự phân cực đã được chuyển vào thể trí qua những phương thức hành thiền với chủ đích và ý chí mạnh mẽ, lúc đó thể cảm dục trở thành an tịnh và thụ cảm. [99]

 Chính thái độ tiêu cực này, nếu đi quá mức, cũng mở lối cho những nguy hiểm nghiêm trọng, mà tôi sẽ bàn rộng sau này khi nói đến vấn đề ám ảnh, đôi khi có tính cách thiêng liêng nhưng thường thì ngược lại. Tình trạng tiêu cực không tốt cho bất cứ thể nào cả, và những người mới học thiền thường đạt đến chính sự tiêu cực này, nên họ mới lâm nguy. Mục đích là nên làm cho hình bầu dục của thể tình cảm trở nên tích cực đối với những gì thấp kém và đối với những gì chung quanh nó, và chỉ thụ cảm đối với Tinh thần thông qua thể nguyên nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách phát triển khả năng kiểm soát hữu thức – sự kiểm soát mà ngay trong những lúc rung động và tiếp xúc cao nhất, khả năng này vẫn linh mẫn trông nom và bảo vệ các hạ thể. “Hãy trông chừng và cầu nguyện” là lời dạy của Chúa khi Ngài còn tại thế. Ngài nói câu này theo những thuật ngữ huyền môn mà nhân loại vẫn chưa diễn giải và chú tâm đúng mức. Thế thì phải trông chừng những gì?

1.     Thái độ của thể tình cảm và sự tích cực hay tiêu cực chế ngự thể này.

2.     Độ ổn định của vật chất tình cảm và tính thụ cảm hữu thức của nó.

Sự chỉnh hợp của nó với thể trí và với thể nguyên nhân. Nếu sự chỉnh hợp này bất toàn (quá thường là như vậy) thì sự thụ cảm từ các cảnh giới cao sẽ không chính xác. Những chân lý truyền xuống qua Chân nhân sẽ bị lệch lạc, và gây nên điều rất nguy hiểm là chuyển mãnh lực đến những luân xa không đáng mong muốn. Sự thiếu chỉnh hợp này là nguyên nhân khiến những người có khuynh hướng tinh thần rõ rệt thường không giữ được sự tinh khiết về tình dục. Họ có thể đạt đến một vài cấp độ trực giác. Chân nhân có thể chuyển một phần năng lượng từ cõi cao xuống, nhưng vì sự chỉnh hợp bị bất toàn, nên mãnh lực từ các cấp cao xuống bị lệch lạc, những luân xa không nhắm đến lại bị kích thích quá độ, và gây ra tai họa.

Một mối nguy khác cần phải đề phòng là sự ám ảnh, [100] nhưng tư tưởng thanh khiết, mục đích tinh thần, và đức hạnh vô kỷ thắm tình huynh đệ là những điều cơ bản để bảo vệ an toàn. Nếu ngoài những điều chính yếu này lại có thêm lương tri trong tham thiền và sự áp dụng một cách khôn ngoan các qui luật huyền môn, có sự xem xét đúng đắn về các cung và nghiệp quả, thì những nguy hiểm này sẽ không còn nữa.

Ngày 28-7-1920.

Vài ý tưởng về LỬA.

Trước khi xét đến vấn đề đang bàn, tôi muốn nêu lên một sự kiện khá thú vị. Nếu suy nghĩ kỹ, các bạn sẽ nhận thức rằng hầu hết các hiện tượng tâm lý của địa cầu này đều ở dưới quyền kiểm soát của Hỏa đức Tinh quân, vị Đại đế đầu tiên của lửa, vị Chúa tể của cõi trí. Lửa vũ trụ là nền tảng của cuộc tiến hóa của chúng ta. Lửa của cõi trí kiểm soát và ngự trị nội tại và có khả năng tinh luyện cùng những hiệu quả thanh lọc, đó là mục đích tiến hóa của cuộc sống ba trạng thái của chúng ta. Khi nội hỏa của cõi trí và lửa tiềm tàng trong các hạ thể hòa hợp với lửa thiêng của Tam nguyên Tinh thần thì công việc đã hoàn tất và con người trở thành một vị Chân sư. Sự nhất quán đã được thực hiện và công việc nghìn đời đã hoàn thành. Toàn bộ công việc này được thực hiện nhờ sự hợp tác của Hỏa đức Tinh quân và các vị thần cao cấp ở cõi trí, họ làm việc với vị Chúa tể của cõi này, và vị Đại Thiên vương, Chúa tể của cảnh giới thứ hai.

Cuộc tiến hóa của đại vũ trụ cũng tương tự như vậy. Những luồng nội hỏa ở sâu trong tâm địa cầu chúng ta sẽ hòa hợp với lửa thiêng của mặt trời ở cuối đại chu kỳ này, và bấy giờ thái dương hệ sẽ đạt mức thánh hóa. Dần dần, khi những kỳ gian vô lượng và những tiểu chu kỳ trôi qua, lửa sẽ thẩm thấu các cấp dĩ thái và ngày càng được nhận thức và kiểm soát [101] cho đến cuối cùng lửa vũ trụ và lửa của địa cầu sẽ hợp nhất (các thiên thể mang những hình tướng vật chất tự thích nghi với những điều kiện thay đổi) và sự tương ứng sẽ được phô bày. Khi điều này được nhận thức thì những hiện tượng của địa cầu – chẳng hạn như vấn đề xáo trộn do động đất – sẽ được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Về sau khi vấn đề đã được thấu đáo hơn, người ta sẽ hiểu những hiệu quả của các xáo trộn đó cũng như các phản ứng của chúng vào con người. Trong những tháng mùa hè – khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu – thì các hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “các thần kiến tạo hồng trần” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y.

“Bí mật của Lửa ẩn trong mẫu tự thứ nhì của Thánh ngữ. Bí mật của sự sống ẩn trong luân xa tim. Khi điểm thấp này rung động, khi tam giác Thánh thiện ngời sáng, khi điểm này, luân xa ở giữa và luân xa ở đỉnh cùng bừng cháy, thì cả hai tam giác lớn và nhỏ hòa lẫn thành ngọn lửa duy nhất, nó thiêu rụi tất cả.”

Giờ đây chúng ta hãy đề cập vắn tắt đến những nguy hiểm nơi thể xác khi hành thiền. Giống như rất nhiều điều khác trong Thiên cơ, những mối nguy hiểm này cũng có tính [102] tam phân, tấn công vào ba thành phần của thể xác. Chúng biểu lộ trong:–

a.     Bộ não.

b.     Hệ thần kinh.

c.      Các cơ quan sinh dục.

Không cần phải nói rõ tại sao tôi lại bàn về những nguy hiểm ở thể trí và thể cảm dục trước. Cần phải làm như vậy vì nhiều nguy hiểm đe dọa đến thể xác đều bắt nguồn từ những cảnh giới tinh vi hơn cõi trần và chỉ là những biểu hiện ra ngoài của những điều ác hại bên trong.

Mỗi cá nhân khi sinh ra đều có một thể xác và thể dĩ thái với những thành phần nhất định, những thành phần này là sản phẩm của tiền kiếp. Thực ra thì các thể này được tái tạo y hệt như các thể cũ mà mỗi người bỏ lại khi từ trần. Công việc trước mắt mọi người là nhận thể đó, nhận biết những khuyết điểm và nhu cầu của nó, rồi cẩn thận tiếp tục kiến tạo một thể mới tỏ ra thích hợp hơn cho nhu cầu của sự sống tinh thần ở nội tâm. Đây là một công việc có tầm mức rộng lớn và cần thời gian, cần giới luật nghiêm minh, sự từ bỏ và trí phán đoán.

Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.” Tôi muốn các bạn chú trọng đến câu này vì nó bao hàm một chân lý ít người nhận thức được. “Đùa với lửa” là một chân lý xưa đã mất ý nghĩa do việc lặp đi lặp lại một cách hời hợt. Tuy nhiên câu này hoàn toàn và tuyệt đối chính xác. Nó không phải là một lời dạy tượng trưng mà có thực nghĩa rõ rệt. Lửa là căn bản của tất cả – Chân ngã là lửa, trí tuệ là một hình thái của lửa, và bên trong thể xác của con người có ẩn một ngọn lửa thực sự, nó có thể hoặc là sức mạnh hủy hoại, đốt cháy các mô trong cơ thể và kích thích sai lạc các luân xa, hoặc là một yếu tố làm sinh động, là tác nhân [103] kích thích và đánh thức. Khi được hướng theo những đường dẫn đã chuẩn bị sẵn, lửa này có thể là sức mạnh tinh luyện và là mối liên kết quan trọng giữa phàm ngã và Chân ngã.

Khi tham thiền, người môn sinh tìm cách tiếp xúc với ngọn lửa thiêng tức là Chân ngã của y, đồng thời liên kết mật thiết với lửa của cõi trí. Khi sự tham thiền bị thúc bách, hoặc là hành thiền quá mãnh liệt, trước khi sự chỉnh hợp giữa các thể cao và thấp xuyên qua thể cảm dục được hoàn tất thì lửa này có thể tác động vào luồng lửa ẩn tàng ở chót xương sống (gọi là kundalini) và có thể khiến nó vận chuyển quá sớm. Việc này sẽ gây tan vỡ và hủy hoại chứ không phải là kích thích và làm sinh động các luân xa trên. Có một con đường hình xoắn ốc thích hợp mà luồng lửa này phải đi theo, tùy theo cung của môn sinh và nốt khóa rung động trong các luân xa cao của y. Luồng lửa này chỉ nên cho luân chuyển dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Chân sư và do chính người môn sinh hữu ý phân phối theo lời khẩu truyền cụ thể của vị thầy. Đôi khi luồng lửa có thể được đánh thức theo vòng xoắn đi trên một cách đúng đắn mà ở cõi trần (lúc thức) người môn sinh không hề hay biết gì cả. Trên những cõi cao y biết điều đó, nhưng y không đưa được sự hiểu biết này xuống đến tâm thức hồng trần.

Bây giờ chúng ta hãy bàn đến ba sự nguy hiểm chính yếu thường đe dọa xác thân. Xin lưu ý rằng tôi bàn đến những mối nguy hiểm này ở mức cùng cực, trong khoảng đó có nhiều mức độ nguy hại khác nhau tấn công người môn sinh bất cẩn.

Những nguy hiểm cho não bộ hồng trần.

Bộ não thường chịu hai nguy hiểm chính:–

Sự sung huyết, làm cho tràn dịch các huyết quản và hậu [104] quả căng thẳng ở mô não mảnh mai. Điều này có thể làm tổn thương vĩnh viễn, thậm chí có thể gây nên sự đần độn. Trong những giai đoạn đầu, nguy hiểm này có biểu hiện mất cảm giác hay mệt mỏi. Nếu người môn sinh vẫn cứ tiếp tục tham thiền khi thấy tình trạng đó thì hậu quả sẽ thành nghiêm trọng. Luôn luôn khi hành thiền, người môn sinh phải đề phòng khi cảm thấy mệt mỏi, phải ngưng ngay khi bắt đầu thấy có bất cứ dấu hiệu trở ngại nào. Có thể dùng lương tri để đề phòng tất cả những nguy hiểm này, và hãy nhớ rằng bao giờ việc rèn luyện và kiến tạo các thể cũng phải chậm rãi, từ từ. Trong kế hoạch tiến hóa của các Đấng Cao cả, không có điều gì cần phải hấp tấp cả.

Sự điên khùng. Điều tai hại này thường thấy ở những môn sinh quá nhiệt tâm cứ cố chịu mãi một sức ép không hợp lý, hoặc tìm cách khơi luồng hỏa hậu bằng những phép luyện hơi thở và những cách tập tương tự mà không phòng bị gì cả. Họ phải trả giá cho sự liều lĩnh này do thiếu suy xét của lý trí. Luồng hỏa không đi theo dạng hình học đúng đắn, không tạo được những tam giác cần thiết, dòng điện lưu đi lên với tốc độ và sức nóng ngày càng tăng, và thực sự đốt cháy tất cả hay một phần mô não, vì thế mà gây nên điên khùng và đôi khi tử vong.

Khi những điều này được hiểu biết rộng rãi hơn và được công khai thừa nhận, các bác sĩ và các chuyên gia về não sẽ nghiên cứu một cách thận trọng và chính xác hơn về điều kiện điện tích của cột sống, và liên hệ điều kiện đó với điều kiện bộ não để đạt được những kết quả tốt.

Những nguy hiểm cho hệ thần kinh.

Những trở ngại liên quan đến hệ thần kinh thường có hơn các mối nguy tấn công bộ não như điên khùng hay phá vỡ mô não. Hầu hết những người hành thiền đều cảm biết có [105] ảnh hưởng đối với hệ thần kinh. Đôi khi đó là tình trạng mất ngủ, dễ bị kích động hoặc năng lượng căng thẳng và bứt rứt không được thư thả. Hoặc họ trở nên dễ bực bội khác với tính khí trước khi tham thiền. Hoặc đó là một lối phản ứng thần kinh – như co giật tay chân, ngón tay hay mắt – hoặc buồn nản hay giảm sút sinh lực. Cũng có những ảnh hưởng khác như thần kinh căng thẳng, bồn chồn, tùy theo tính khí và bản chất của mỗi cá nhân. Những dấu hiệu bệnh thần kinh này có thể nặng hay nhẹ, nhưng tôi muốn nói rõ rằng điều đó không nhất thiết là phải có nếu người môn sinh tuân theo những qui tắc của lương tri, nếu y nghiên cứu tính khí của mình một cách khôn ngoan và không mù quáng theo những thể thức và phương pháp nào nếu không hiểu được lý do tại sao phải làm như thế. Nếu các môn sinh huyền bí tuân theo giới luật trong cuộc sống một cách khôn ngoan hơn, nếu họ nghiên cứu cẩn thận hơn về vấn đề thực phẩm, nếu họ cương quyết hơn để ngủ đủ số giờ cần thiết, nếu họ làm việc một cách chậm rãi thận trọng, chứ không theo những kích động nhất thời (dù ước nguyện của họ có cao đến đâu), thì họ sẽ thấy có những kết quả lớn lao hơn và các Đấng cao cả sẽ có những phụ tá nhiều hiệu năng hơn trong việc phụng sự nhân loại.

Dụng ý của tôi trong các bức thư này không phải là đặc biệt nói về các bệnh tật của bộ não và hệ thần kinh. Tôi chỉ muốn nêu ra những lời chỉ dẫn và khuyến cáo tổng quát, và (để khích lệ các bạn) bày tỏ rằng sau này khi các Huấn sư minh triết thực sự sống giữa nhân loại và công khai giảng dạy trong các trường chuyên khoa, thì nhiều dạng trở ngại trong não bộ và các bệnh thần kinh sẽ được chữa trị bằng phương pháp hành thiền có điều chỉnh cho hợp với nhu cầu của từng cá nhân. Những lối thiền thích hợp sẽ được ấn định để kích thích các luân xa còn yên lặng, để chuyển luồng nội hỏa vào những đường truyền đúng đắn, để phân phối nhiệt lực thiêng liêng trong trật tự điều hòa, để tạo nên những mô [106] mới và để chữa bệnh. Chưa đến lúc thực hiện điều này, dù rằng ngày ấy không còn xa lắm.

Những nguy hiểm cho các cơ quan sinh dục.

Mối nguy hiểm do kích thích thái quá các cơ quan này các bạn đã biết rất nhiều về mặt lý thuyết và hôm nay tôi không muốn nói nhiều hơn. Tôi chỉ muốn nêu rõ rằng mối nguy này là có thực. Lý do là khi các trung tâm này bị kích thích quá độ luồng nội hỏa chỉ theo lối nào dễ đi nhất, do tình trạng phân cực của toàn thể nhân loại. Vì thế người môn sinh phải làm hai việc:–

a.     Y phải rút ý thức ra khỏi các trung tâm đó. Đây không phải là việc dễ làm, vì làm thế tức là chống lại những kết quả của sự phát triển đã lâu đời.

b.     Y phải hướng chú tâm động lực sáng tạo của y vào cõi trí. Khi làm như vậy mà thành công, y sẽ chuyển hướng hoạt động của lửa thiêng lên luân xa cổ họng và đến trung tâm tương ứng của nó ở đỉnh đầu chứ không hướng xuống các cơ quan sinh dục. Thế nên, các bạn thấy rõ rằng trong những năm còn trẻ, hành giả không nên bỏ nhiều thời gian để hành thiền, trừ trường hợp người tiến hóa rất cao. Qui luật xưa của giai cấp Bà-la-môn có dạy một cách minh triết rằng mỗi người phải dùng thời gian còn trẻ để lo việc gia đình và chỉ khi nào đã làm tròn nhân đạo thì y mới có thể bước vào cuộc sống của người chí nguyện. Đây là qui luật dành cho người thường. Còn các Chân nhân tiến hoá, các đạo sinh và các đệ tử thì không phải như vậy, mỗi người phải tự giải quyết lấy vấn đề của chính mình.

Ngày 29-7-1920.

Những nguy hiểm do Nghiệp quả của môn sinh.

Những nguy hiểm này có thể chia làm ba loại như sau: [107]

1.     Những nguy hiểm do nghiệp quả của kiếp sống hiện tại.

2.     Những nguy hiểm do di truyền quốc gia, và bản chất của cơ thể.

3.     Những nguy hiểm do y gia nhập các nhóm dù đó là nhóm ở cõi trần (ngoại môn) hay ở các cõi cao (nội môn).

Các bạn hiểu thế nào là “Nghiệp quả của người môn sinh?” Chúng ta thường dùng ngôn từ một cách hời hợt, nên tôi nghĩ rằng câu trả lời không đắn đo sẽ là: Nghiệp quả của môn sinh là những việc nhất định sẽ xảy đến cho y trong hiện tại hoặc trong tương lai mà y không thể tránh khỏi. Nói vậy cũng đúng phần nào, nhưng đó chỉ là một khía cạnh của toàn vấn đề. Trước tiên, chúng ta hãy nhìn vấn đề một cách rộng rãi hơn, vì thường là nhờ hiểu được những nét đại cương, chúng ta mới thấu được các tiểu tiết.

Khi Đức Thái Dương Thượng Đế tạo lập thái dương hệ, Ngài thu hút vào trong phạm vi biểu hiện một số vật chất đủ dùng cho kế hoạch của Ngài, và các chất liệu thích hợp cho mục tiêu Ngài nhắm đến. Ngài không đặt tất cả những mục tiêu của Ngài vào chỉ thái dương hệ này: Ngài chỉ đặt một mục đích đặc biệt nào đó, nên nó cần một loại rung động đặc biệt và cần loại vật chất đã phân hóa nhất định. Phạm vi này chúng ta gọi là “vòng giới hạn” thái dương hay của hệ thống, nó đặt giới hạn cho tất cả những gì xảy ra trong thái dương hệ, và cuộc biểu hiện nhị nguyên của chúng ta tiếp diễn trong đó. Tất cả những gì trong vòng này đều rung động theo một nhịp điệu chủ yếu, tuân theo những qui luật nhất định, nhằm hoàn thành một mục tiêu đặc biệt và đạt một cứu cánh nhất định mà chỉ có Ngài mới hoàn toàn biết rõ. Tất cả những gì ở trong vòng giới hạn này đều phục tùng những qui luật riêng, và chịu sự chế ngự của một nhịp điệu chính yếu nào đó, và có thể xem như bị chi phối bởi nghiệp quả của cuộc hiện hữu tuần hoàn thất phân đó, và bị thôi thúc bởi những nguyên nhân lâu đời, trước khi có vòng giới hạn. Vì thế mà thái dương hệ chúng ta được liên kết với hệ thống trước và hệ thống sẽ có sau này. Chúng ta không [108] phải là một đơn vị riêng biệt mà là thành phần của một toàn thể vĩ đại hơn. Tất cả chúng ta đều chịu sự chi phối của định luật vũ trụ và cùng nhau thực hiện những mục tiêu nhất định.

Mục đích của tiểu vũ trụ.

Tiểu vũ trụ cũng thế. Chân nhân trên cảnh giới của mình cũng hành động như Đức Thượng Đế, nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp. Chân nhân tạo ra một thể nhất định dùng cho những cứu cánh nhất định. Chân nhân nhắm đến một sự hoàn mãn nào đó bằng cách gom góp một số vật liệu rung động theo cùng nhịp điệu, chịu sự chi phối của một số qui luật trong một kiếp sống nhất định, và nhắm đến một mục tiêu cụ thể, – chứ không phải tất cả các mục tiêu khả dĩ có.

Mỗi phàm nhân đối với Chân nhân cũng như thái dương hệ đối với Đức Thái Dương Thượng Đế. Đó là môi trường biểu lộ của Chân nhân và là phương cách để Chân nhân đạt được một mục tiêu rõ rệt. Mục tiêu này có thể là hoạch đắc đức hạnh bằng cách trả giá cho tật xấu. Đó có thể là đạt được sự thành thạo trong kinh doanh bằng cố gắng cung cấp những nhu yếu của đời sống. Đó có thể là mở mang tính nhạy cảm bằng cách phát hiện những điều độc ác trong bản chất. Đó có thể là phát triển lòng yêu thương vô kỷ bằng cách đáp lại lời kêu cầu của những người phụ thuộc đang thiếu thốn. Hoặc đó có thể là chuyển hóa dục vọng bằng phương pháp tham thiền trên Đường Đạo. Chính mỗi linh hồn phải tự tìm lấy mục tiêu. Nhưng sự kiện thực tế mà tôi muốn các bạn ghi nhớ là chính yếu tố này có mang một mối nguy hiểm nhất định. Ví dụ như trong việc thu đạt khả năng trí tuệ để tham thiền, người môn sinh quên mất chính điều y cần đạt khi mang xác phàm, thành ra kết quả chỉ là sự phát triển không đồng đều và tạm thời bị mất thời gian.

Chúng ta hãy minh họa chi tiết hơn:– Một Chân nhân đã hình thành ba thể để biểu hiện và đặt chúng trong vòng giới hạn với mục đích trước mắt là đưa vào thể nguyên nhân  [109] khả năng “hiểu biết các sự kiện cơ bản của đời sống bằng trí tuệ.” Mục tiêu của kiếp sống này là phát triển trí năng của môn sinh, là dạy cho y những sự kiện cụ thể và khoa học, mở mang thể trí của y, để dùng cho công việc sau này. Y có thể phát triển quá độ về mặt tình cảm hay sùng tín thái quá. Y có thể bỏ ra nhiều kiếp để mơ ước, để nhìn ngắm các linh ảnh và tham thiền thần bí. Nhu cầu lớn của y là phải thực tiễn, phải có đầy đủ lương tri, phải hiểu chương trình của Phòng Học tập và áp dụng sự hiểu biết đã học được một cách thực tế ở cõi trần. Tuy nhiên, dù cho vòng giới hạn của y có vẻ ngăn cản và hạn chế các khuynh hướng sẵn có nơi y, và dù đã có sắp xếp khiến cho dường như y phải học những bài học của cuộc sống thực tiễn ở thế gian, y cũng không chịu học, mà chỉ đi theo lối nào dễ dàng cho y nhất. Y tưởng đến những mơ ước của mình, và sống xa rời thế sự. Y không làm tròn ý muốn của Chân nhân mà bỏ lỡ cơ hội. Y chịu nhiều đau khổ, và trong kiếp tới y cũng cần ở trong sự sắp xếp tương tự với sức thôi thúc mạnh hơn và một vòng giới hạn chặt chẽ hơn, cho đến khi nào y thực hiện được ý muốn của Chân nhân y.

Đối với một người như thế, tham thiền không giúp đỡ gì được mà chỉ gây trở ngại. Như trước tôi có nói, tham thiền (được áp dụng một cách khôn ngoan) là dành cho những ai đạt mức tiến hóa mà thể nguyên nhân đã phần nào nở nang già dặn và họ đang bước vào một trong những cấp chót của Phòng Học tập. Xin nhớ rằng ở đây tôi nói đến tham thiền huyền môn một cách khoa học, chứ không phải là tham thiền thần bí. Vì thế, những nguy hiểm đó thực tế là làm hao phí thời gian, là tăng cường một rung động đến mức lỗi nhịp, không còn hài hòa với những rung động khác, là sự nảy nở không cân đối và kiến tạo thể nguyên nhân thiên lệch, khiến phải kiến tạo lại trong các kiếp sau.

 [110] Ngày 30-7-1920.

Những nguy hiểm do di truyền quốc gia và bản chất của cơ thể.

. . . Như các bạn hiểu, tôi không có ý định bàn rộng về những nguy hiểm do một cơ thể bất toàn gây ra. Nói chung, tôi chỉ nêu ra qui luật rằng đối với người nào có bệnh tật rõ rệt, có căn bệnh bẩm sinh hay một loại suy nhược tâm thần nào đó thì không nên khinh suất mà tham thiền, vì tham thiền có thể chỉ làm tăng cơn bệnh mà thôi. Đặc biệt là tôi muốn nêu ra lời hướng dẫn các môn sinh sau này, cũng như tiên đoán rằng trong thời gian tới khi khoa học tham thiền được hiểu biết nhiều hơn thì có hai yếu tố sẽ được cân nhắc và cứu xét một cách khôn ngoan, trước khi ấn định phương pháp hành thiền. Đó là:–

a.     Các đặc tính phân chủng của môn sinh.

b.     Y thuộc mẫu người nào, có xác thân Đông phương hay Tây phương.

Bằng cách đó, sẽ tránh được một số tai nạn và phòng ngừa được một số bệnh tật mà hiện nay ít nhiều gì cũng có trong mọi nhóm bí giáo.

Nói chung, ai cũng thừa nhận rằng mỗi giống dân đều có một đặc điểm nổi bật, tức là một đặc tính nào đó lộ rõ trong thể tình cảm. Đây là qui luật chung. Khi so sánh những khác biệt giữa các dân tộc Ý và Đức thì trí ta tổng kết các điểm dị biệt này trong phạm vi tình cảm. Nghĩ đến người Ý, ta thấy họ có tính nóng nảy, lãng mạn, bất thường, thông minh. Người Đức thì lại điềm tĩnh, thực tế, đa cảm, khôn ngoan, và ưa lý luận một cách lạnh lùng. Vì thế, các bạn thấy rõ là những tính khí khác nhau có mang những mối nguy hiểm riêng, và nếu dại dột theo đuổi những lối tham thiền không thích hợp, thì những tính tốt có thể được chú trọng đến mức gần như thành tính xấu và các nhược điểm trong tính tình có thể được tăng cường đến mức thành những mối đe doạ. Hậu quả sẽ là sự mất thăng bằng thay [111] vì đạt được một trong những mục tiêu trước mắt là làm cho thể nguyên nhân nở nang tốt đẹp và quân bình. Vì thế, khi vị Huấn sư minh triết sống trong nhân loại và chính Ngài hướng dẫn tham thiền, thì những sự dị biệt về chủng tộc sẽ được cân nhắc và những nhược điểm cố hữu của các giống dân sẽ được bù đắp chứ không tăng cường. Những tác dụng làm cân bằng của tham thiền huyền môn sẽ loại trừ sự phát triển thái quá và thành quả không cân đối.

Trong cơ bản, cách hành thiền hiện nay và trong thời kỳ Atlantis có khác nhau. Trong căn chủng thứ tư có một cố gắng để giúp đạt được dễ dàng từ cõi cảm dục đến cõi trực giác, xuyên qua cõi phụ nguyên tử mà không qua cõi trí. Đó là con đường của tình cảm và có hiệu quả rõ rệt trong thể cảm dục. Cố gắng này bắt đầu từ thể cảm dục đi lên, chứ không như hiện nay chúng ta đang làm việc bằng thể trí và dùng nó để chế ngự hai thể thấp hơn. Trong căn chủng Aryan, đang có cố gắng tạo cầu nối liền Chân nhân và hạ thể và bằng cách tập trung tâm thức vào hạ trí rồi đến thể nguyên nhân để giao tiếp với Chân nhân, cho đến khi dòng thần lực từ Chân nhân tuôn xuống liên tục. Hiện nay, hầu hết các môn sinh tiến hóa đều thỉnh thoảng cảm thấy có những tia sáng khai ngộ chợt lóe lên, nhưng sau này họ sẽ cảm được ánh sáng rạng chiếu liên tục. Cả hai phương pháp đều có những nguy hiểm riêng. Trong thời đại Atlantis, tham thiền có khuynh hướng kích thích tình cảm thái quá, và dù người ta đạt được những đỉnh cao, họ cũng rơi xuống những vực sâu. Ma thuật tình dục đã đến mức hoành hành không thể tưởng. Luân xa nhật tùng thường quá sinh động, các tam giác không được theo đúng, và các luân xa thấp bị phản ứng của lửa đưa đến những kết quả đau thương.

Những nguy hiểm hiện nay lại khác. Sự phát triển thể trí  [112] khiến nó bị những mối nguy ích kỷ, kiêu căng, và mù quáng quên mất Chân nhân, là điều mà phương pháp hiện nay đang nhằm lập lại thăng bằng. Nếu trong thời kỳ Atlantis, các cao thủ hắc đạo đã đạt được những quyền năng lớn, thì hiện nay họ còn nguy hiểm hơn nhiều. Phạm vi hoạt động của họ còn lan rộng hơn trước. Vì thế mà có sự chú trọng vào công tác phụng sự, vào việc giữ vững thể trí là điều cần yếu cho người nào muốn tiến bộ và muốn trở nên một thành viên của Quang minh Chánh đạo.

Vấn đề mà hôm nay tôi muốn truyền đạt đôi phần thật rất quan trọng đối với tất cả các môn đệ có nhiệt tâm. Đối với nhân loại đang tiến hóa thì người phương Đông cũng như trái tim trong cơ thể con người. Đó là nguồn của ánh sáng, của sự sống, nhiệt lực và sinh lực. Người phương Tây đối với nhân loại cũng như bộ não hay hoạt động trí tuệ đối với xác thân, – đó là yếu tố tổ chức chỉ đạo, khí cụ của hạ trí, là kho tích lũy các sự kiện. Sự dị biệt trong toàn cả “bản tính” của người phương Đông và của người Âu hay Mỹ thật quá lớn và ai ai cũng đều biết rõ nên có lẽ tôi khỏi phải nói đến nữa.

Người Đông phương thiên về triết lý, bản tính mơ mộng, qua nhiều thế kỷ đã được tập suy tư trừu tượng, thích những biện chứng khó hiểu, tính tình yếu đuối và thái độ chậm chạp. Qua nhiều thời đại suy tưởng siêu hình, sống chay lạt, tính trì trệ, thích bảo thủ những hình thức và qui luật sống nghiêm khắc, đã tạo nên mẫu người trái ngược hẳn với người anh em phương Tây.

Người phương Tây thích thực tế, làm việc có hệ thống, năng động, hành động mau lẹ, lệ thuộc sự tổ chức (vốn là một hình thức khác của nghi lễ), được thúc đẩy bằng trí tuệ rất cụ thể, thích thu đạt, ưa chỉ trích, làm tận lực khi công việc trôi chảy mau lẹ, và dùng lý trí quyết định nhanh chóng khi cần thiết. Họ không thích những tư tưởng trừu tượng nhưng biết đánh giá khi hiểu được và khi họ có thể làm những tư tưởng [113] đó thành hiện thực ở cõi trần. Họ dùng luân xa đầu nhiều hơn luân xa tim, và luân xa cổ họng của họ thường được sinh động. Người Đông phương thì dùng luân xa tim nhiều hơn luân xa đầu và tất nhiên là dùng trung tâm ở đầu tương ứng với luân xa tim. Luân xa ở đáy xương sọ, đầu cột sống hoạt động mạnh mẽ hơn luân xa cổ họng.

Người Đông phương tiến hóa bằng cách thu tâm thức vào luân xa đầu, qua cố gắng tham thiền tích cực. Đó là luân xa y phải chế ngự. Y học hỏi bằng cách dùng các câu thần chú một cách khôn ngoan, bằng cách sống ẩn dật và tham thiền theo những phương thức đặc biệt, mỗi ngày nhiều giờ trong thời gian dài.

Người Tây phương trước hết phải nhằm rút tâm thức vào luân xa tim, vì họ đã dùng luân xa đầu quá nhiều. Họ thường sử dụng các hình thức tập thể thay vì các chú nguyện dùng riêng cho cá nhân. Họ không thường làm việc trong đơn độc như người anh em phương Đông mà phải tập trung tâm thức ngay cả trong sự náo nhiệt và quay cuồng của cuộc sống kinh doanh và trong những đám đông ở các đô thị lớn. Họ dùng những hình thức tập thể để đạt mục tiêu của mình, và việc đánh thức luân xa tim tự biểu lộ trong phụng sự. Vì vậy, người phương Tây phải chú trọng đến tham thiền ở luân xa tim và cuộc sống phụng sự sau đó.

Thế nên, các bạn sẽ thấy rằng khi bắt đầu làm công tác thực sự huyền môn thì phương pháp có thể khác nhau – và nhất thiết phải khác nhau – ở phương Đông và phương Tây, nhưng mục đích thì giống nhau. Chẳng hạn như chúng ta phải ghi nhớ rằng một phương pháp thiền có thể giúp cho người phương Đông phát triển, lại có thể gây nguy hiểm và tai hại cho người anh em Tây phương, hoặc nói ngược lại cũng vậy. Nhưng bao giờ mục đích cũng vẫn như nhau. Những hình thức có thể là cá nhân hay tập thể. Những câu thần chú có thể được mỗi người đọc riêng hay đọc chung cả nhóm. Người ta có thể đặc biệt chú ý khai mở những luân xa khác nhau, [114] nhưng những kết quả vẫn đồng nhất. Sự nguy hiểm sẽ xảy ra khi người phương Tây cố gắng tu tập theo những qui luật chỉ hợp với người Đông phương, như tôi đã vạch rõ nhiều lần. Các Đấng cao cả đang dùng sự minh triết của các Ngài để trừ khử mối nguy này. Mỗi giống dân một phương pháp khác nhau, mỗi dân tộc một hình thức dị biệt, nhưng cũng cùng những hướng dẫn minh triết ở nội giới, cũng cùng Phòng Minh triết vĩ đại, cũng cùng một Cửa Điểm đạo thu nhận tất cả vào bên trong thánh điện. . . .

Để kết thúc vấn đề này, tôi muốn đưa ra một lời ngụ ý:– Cung Bảy (Định luật Nghi thức hay Trật tự) đang gia tăng quyền lực và cho người phương Tây những gì mà từ lâu đã là đặc quyền của người phương Đông. Cơ hội hiện nay rất lớn lao, và trên đà chế ngự của cung này có sức thúc đẩy cần thiết (nếu áp dụng đúng) sẽ đưa người Tây phương đến dưới chân Đức Chúa tể Hoàn cầu.

Ngày 2-8-1920.

Những nguy hiểm do các liên kết tập thể.

Sáng nay, tôi sẽ nói vắn tắt về các nguy hiểm trong tham thiền do các liên kết nhóm của người môn sinh, dù đó là nhóm ngoại môn hay nội môn. Không thể nói nhiều về vấn đề đặc biệt này trừ những lời chỉ dẫn tổng quát. Mỗi vấn đề tôi đã đề cập đến đều có thể viết thành một thiên khảo luận dày. Nên tôi không có ý muốn nói đủ mọi điều mà chỉ vạch ra vài khía cạnh của vấn đề (nếu được suy ngẫm cẩn thận) sẽ mở ra cho người tìm chân lý nhiệt thành nhiều con đường để mở mang hiểu biết. Mọi sự huấn luyện huyền môn đều nhắm làm việc này, – là cho người môn sinh một tư tưởng gốc nào đó (nếu được nghiền ngẫm trong sự yên lặng của tâm hồn) sẽ cho y [115] nhiều thành quả thật có giá trị, mà y có thể thực sự xem là của chính mình. Những gì chúng ta đạt được do phấn đấu và nỗ lực thì mãi mãi vẫn còn là của chúng ta, và không thể nào bị quên lãng như những tư tưởng ta đọc trong sách hay những lời giảng dạy của một vị huấn sư, dù Ngài có được tôn kính đến đâu.

Khi người môn sinh bước vào con đường dự bị và khởi sự tham thiền, thì y thường không để ý đến một điều: mục tiêu y cần nhắm đến không phải chủ yếu là hoàn tất sự phát triển của chính y mà là tự trang bị để phụng sự nhân loại. Trong phụng sự tất nhiên y sẽ tăng trưởng và phát triển nhưng đó không phải là mục đích. Hoàn cảnh trực tiếp quanh y và những người cộng sự thân cận ở cõi trần là các đối tượng để phụng sự. Nếu trong khi cố gắng đạt một số khả năng hay đức tính nào đó, y lại bỏ bê các nhóm mà y đang kết hợp, thờ ơ không phụng sự họ một cách khôn ngoan, và không trung thành vì lợi ích của nhóm, là y đang lâm vào mối nguy của sự kết tinh, đang rơi vào sự mê hoặc của lòng kiêu căng tội lỗi, và thậm chí có thể dấn bước đầu tiên vào con đường tà đạo. Nếu sự tăng trưởng nội tâm không biểu lộ trong việc phụng sự tập thể thì người môn sinh đang đi vào con đường nguy hiểm.

Ba loại nhóm liên kết với môn sinh.

Có lẽ ở đây tôi có thể đưa ra một vài chỉ dẫn về các nhóm của người môn sinh trên những cảnh giới khác nhau. Có nhiều nhóm khác nhau như thế và trong những giai đoạn khác nhau của đời người các nhóm ấy có thể thay đổi, khi người môn sinh thanh toán được sự bó buộc của nghiệp quả chi phối các liên kết đó. Chúng ta cũng nên nhớ rằng khi một người mở rộng khả năng phụng sự thì đồng thời y cũng gia tăng kích thước [116] và số nhóm mà y tiếp xúc, cho đến khi trong một kiếp nào đó về sau thế giới là trường phụng sự của y và vô số người được y giúp đỡ. Y phải phụng sự bằng ba cách trước khi được phép đổi đường lối hành động và bước sang một công tác khác, – thuộc hành tinh, thái dương hệ hay vũ trụ.

Trước hết, y phụng sự thông qua hoạt động, bằng cách sử dụng trí thông minh, dùng những khả năng cao của trí tuệ và tài năng của mình để giúp đỡ những người con của nhân loại. Y từ từ khai mở những quyền năng lớn của trí tuệ và vượt qua cạm bẫy của lòng kiêu hãnh. Bấy giờ y đem trí thông minh linh hoạt của mình đặt dưới chân toàn thể nhân loại, và đem hết khả năng ra phụng sự loài người.

Y phụng sự bằng tình thương và theo thời gian trở nên một trong những vị cứu thế hiến trọn cuộc đời mình cho các huynh đệ với tình thương toàn hảo. Rồi đến một kiếp y sẽ hy sinh trọn vẹn và chết trong tình thương để cho những người khác được sống.

Sau đó là phụng sự bằng quyền lực. Trong lò lửa tôi luyện, y đã chứng tỏ là không có tư tưởng nào khác ngoài việc nghĩ đến những gì tốt đẹp cho mọi người chung quanh. Y được tin cậy để giao phó quyền năng, sau khi đã áp dụng tình thương tích cực một cách khôn ngoan. Y làm việc hợp với định luật và dùng tất cả ý chí của mình để bày tỏ quyền năng của định luật trong ba lĩnh vực của cõi tử (là tam giới).

Trong cả ba ngành phụng sự này, bạn sẽ nhận thấy rằng khả năng làm việc với các nhóm là tối quan trọng. Như tôi đã nói, những nhóm này rất đa dạng và thay đổi trên những cảnh giới khác nhau. Chúng ta hãy kể ra tóm tắt như sau:–

1.     Ở cõi trần. Có những nhóm sau đây:–

a.     Gia đình là nhóm y thường quan hệ vì hai lẽ. Một là để giải quyết nghiệp quả và thanh toán các món nợ tiền kiếp. Hai là để nhận một xác thân thuộc loại mà Chân nhân cần để biểu lộ đầy đủ. [117]

b.     Các cộng sự viên và bạn bè, những người mà hoàn cảnh đưa đẩy y đến với họ, những người cộng sự kinh doanh, các liên hệ với giáo hội, những người quen biết, những người bạn gặp gỡ tình cờ và những người mà y tiếp xúc trong một thời gian ngắn rồi thôi. Y cũng có hai việc cần làm với họ: một là phải thi hành một nghĩa vụ nào đó nếu y đã chuốc lấy món nợ. Hai là để thử thách khả năng y gây ảnh hưởng lành cho những người chung quanh, biết nhận trách nhiệm và biết chỉ đạo, giúp đỡ. Trong thử thách này, các vị Hướng đạo nhân loại thấy được hành động và phản ứng của hành giả, khả năng phụng sự của y và cách y đáp ứng nhu cầu của những người chung quanh.

c.      Đoàn phụng sự mà y gia nhập, là nhóm của một Đấng Cao cả, được kết hợp rõ rệt để làm công tác huyền môn, tinh thần. Đó có thể là một đoàn phụng sự trong giáo hội chính thống (những người sơ cơ đều được thử thách trong nhóm này). Đó cũng có thể là đoàn công tác xã hội như trong phong trào lao động hay chính trường, hoặc có thể thuộc những phong trào tiền phong của thế giới như Hội Thần triết, phong trào Khoa học Công giáo, những người thuộc phái Tân Tư tưởng và những nhà Giáng thần học. Tôi có thể thêm một chi nhánh hoạt động nữa khiến bạn ngạc nhiên, – đó là phong trào Xô-viết ở Nga và tất cả những đoàn thể mạnh mẽ, cấp tiến đang thành tâm phụng sự theo các lãnh tụ của họ (dù có khi bị lạc hướng và mất thăng bằng) để nâng cao điều kiện sinh hoạt của đại khối quần chúng.

Như thế, các bạn thấy rằng mỗi người đều thuộc vào ba nhóm ở cõi trần. Y có bổn phận đối với họ và phải làm tròn. Vậy có gì nguy hiểm khi tham thiền? Đơn giản là khi nghiệp quả còn ràng buộc người môn sinh với một nhóm nào đó thì y phải lo làm tròn bổn phận của mình. Nhờ thế y có thể trả [118] sạch nghĩa vụ nghiệp quả và tiến lên hướng về sự giải thoát cuối cùng. Ngoài ra, y phải đưa nhóm của mình lên những tầm thức cao thượng hơn và hữu ích hơn. Vì thế, nếu tham thiền không thích hợp, y sẽ bỏ quên nghĩa vụ đích thực của mình, làm chậm trễ mục đích của kiếp sống hiện tại và sẽ phải thực hiện trong một kiếp khác. Nếu y đưa vào thể nguyên nhân của nhóm ấy (là sản phẩm kết hợp của nhiều đường hướng) những gì không thích đáng, thì y không giúp được gì mà chỉ gây trở ngại và đây cũng lại là điều bao gồm nguy hiểm. Tôi xin minh họa để giải rõ hơn:– Một môn sinh ở trong nhóm có nhiều người sùng tín quá mức, y gia nhập với mục đích rõ rệt là làm quân bình đức tính này bằng một yếu tố khác, đó là sự phân biện khôn ngoan và thăng bằng trí tuệ. Nếu y để cho mình bị hình tư tưởng của nhóm chi phối và tự trở thành một người sùng tín luôn hành thiền theo lối sùng tín và thiếu khôn ngoan mà bỏ quên việc làm quân bình thể nguyên nhân của nhóm ấy, thì y lâm vào mối nguy, chẳng những tự hại mình mà còn làm hại luôn cả nhóm hiện hữu.

2.     Ở cõi tình cảm. Trên cảnh giới này y thuộc vào nhiều nhóm, như là:–

a.     Nhóm gia đình của y ở cõi tình cảm, nhóm này chính thực là nhóm của y hơn là gia đình mà y đầu thai ở cõi trần. Các bạn sẽ thấy điều này được chứng nghiệm nhiều lần trong cuộc sống, khi những người thuộc một gia đình ở cõi tình cảm gặp lại nhau ở cõi trần. Họ nhận biết nhau ngay.

b.     Lớp học trong Phòng Học tập mà y được xếp vào, và nhận được nhiều giáo huấn trong đó.

c.      Đoàn Cứu trợ Vô hình mà có thể y đang cộng tác, và Đoàn Phụng sự.

Y có những nghĩa vu và công việc phải làm trong các nhóm này và tất cả đều phải được xem xét khi nghiên cứu [119] áp dụng cho y một phương pháp thiền đúng đắn. Tham thiền phải làm tăng khả năng trả nợ nghiệp quả của môn sinh, phải đem lại cho y cái nhìn sáng tỏ, sự xét đoán khôn ngoan và hiểu biết được công việc nào phải thi hành ngay. Bất cứ những gì đi ngược lại điều này đều nguy hiểm.

3.     Ở cõi trí. Những nhóm trên cõi này có thể kể ra như sau:–

a.     Những nhóm đệ tử Chân sư mà y có liên hệ và đang làm việc với họ. Đây thường chỉ là trường hợp mà người môn sinh đang thanh toán nghiệp quả của mình một cách nhanh chóng và đang đến gần cửa Đạo. Vì thế, y nên được Chân sư của y trực tiếp hướng dẫn cách tham thiền, và bất cứ phương thức nào đem áp dụng mà không phù hợp với nhu cầu của y đều đem đến những yếu tố nguy hiểm, vì những rung động và những mãnh lực phát sinh ở cõi trí thì mạnh mẽ hơn ở các cõi thấp rất nhiều.

b.     Nhóm Chân nhân của y. Nhóm này quan trọng nhất, vì nó liên hệ đến sự cứu xét cung của môn sinh khi ấn định phương pháp thiền. Vấn đề này đã phần nào được đề cập đến.

Như các bạn thấy, tôi không đặc biệt nói đến những mối nguy hiểm riêng cho một thể nào. Không thể bàn vấn đề theo cách đó. Sau này, khi tham thiền huyền môn được mọi người hiểu biết nhiều hơn và vấn đề này được nghiên cứu một cách khoa học, thì bấy giờ tùy theo khả năng các môn sinh sẽ soạn thảo những dữ liệu cần thiết và những thiên khảo luận về toàn bộ vấn đề. Tuy nhiên, tôi xin có lời khuyến cáo rằng tôi chỉ vạch ra con đường, – các huấn sư nội môn ít khi nào làm hơn điều đó. Chúng tôi nhắm đến việc đào tạo, phát triển những nhà tư tưởng, những người có tầm mắt sáng tỏ, có khả năng suy luận hợp lý. Chúng tôi làm việc đó bằng cách dạy mọi người tự phát triển, tự mình suy nghĩ, tự suy xét để giải quyết các vấn đề khó khăn của mình, và tự trau giồi đức hạnh. Đó là Đường Đạo….

[120] Ngày 03-8-1920.

Những nguy hiểm do các mãnh lực tinh vi gây ra.

. . . Sáng nay chúng ta bàn đến phần cuối của vấn đề các nguy hiểm có thể phát sinh trong tham thiền. Chúng ta đã bàn đôi điều về những nguy hiểm sẵn có trong ba hạ thể. Chúng ta đã đề cập đến những nguy hại có thể xảy ra khi không để ý đến nghiệp quả của nguời môn sinh và các liên kết của y với nhóm. Vấn đề hôm nay thật khó khăn. Chúng ta phải bàn đến những nguy hiểm do những người, những mãnh lực, những sinh linh và những nhóm đang hoạt động ở các cảnh giới ẩn vi hơn cõi trần gây ra. Sự khó khăn này có ba lý do:–

1.     Người môn sinh trung bình không hiểu được tính chất của các mãnh lực này và không biết được thành viên của các nhóm ở những cõi ẩn vi.

2.     Mối nguy khi tiết lộ những điều không cần thiết trong một cuốn sách công truyền.

3.     Mối nguy về mặt huyền môn mà người chưa được điểm đạo ít biết đến. Do sự thực là việc tập trung tư tưởng tất sẽ phát sinh khi bàn thảo các vấn đề này làm các sóng tư tưởng phát động, tiếp xúc với những dòng mãnh lực và hình tư tưởng lưu chuyển gây sự chú ý của các đối tượng đang bị bàn đến. Điều này đôi khi có thể đưa đến những hậu quả không hay. Vì thế, tôi sẽ chỉ bàn vắn tắt thôi. Ở các nội giới, chúng ta sẽ có được sự bảo vệ và ánh sáng hiểu biết cần thiết.

Ba nhóm thực thể:–

Có thể xếp các nhóm thực thể này thành ba hạng:–

1.     Những nhóm vong linh lìa trần, ở trong thể cảm dục hay thể trí.

2.     Các thiên thần, làm việc riêng hay từng nhóm.

3.     Những huynh đệ Hắc đạo. [121]

Chúng ta hãy xem xét kỹ từng phần, và trước hết đặt nền tảng cho sự hiểu biết bằng cách nêu ra rằng những nguy hiểm phát sinh do tình trạng ba hạ thể của người môn sinh đôi khi có thể là hiệu quả của tham thiền. Các tình trạng đó là:–

Tình trạng tiêu cực khiến cho cả ba hạ thể Phàm nhân trở nên yên lặng và thụ cảm, và do thế bỏ ngỏ cho những dân cư của các cõi khác đang chờ chực tấn công.

Tình trạng dốt nát hay khờ dại, cố liều lĩnh sử dụng một vài phương thức và những câu chú mà không được phép của vị Huấn sư, khiến người môn sinh liên hệ đến một số nhóm thiên thần, khiến y tiếp xúc với các thần của cõi cảm dục hay cõi trí. Do hành động thiếu hiểu biết này, y làm bia cho họ tấn công và làm món đồ chơi cho bản năng hủy hoại của họ.

Tình trạng ngược lại với tình trạng trên, khiến cho người môn sinh trở thành tích cực và vì thế mà trở thành đường truyền cho thần lực và quyền năng. Trong trường hợp này, người môn sinh tiến hành vận dụng dòng điện lưu của các cõi ẩn vi theo định luật hay quy luật huyền môn và dưới sự hướng dẫn của Sư phụ y. Y trở thành một trung tâm chú ý của những người chống lại Chánh đạo.

Hai tình trạng đầu là hậu quả của việc hành thiền không khôn ngoan và thiếu hiểu biết, còn tình trạng cuối thường là phần thưởng của sự thành công. Trong hai trường hợp đầu việc chữa trị do chính người môn sinh thực hiện bằng cách khôn ngoan sửa đổi loại tham thiền và áp dụng thận trọng hơn. Trong trường hợp thứ ba thì có nhiều cách đối trị sau này tôi sẽ chỉ dẫn.

Những nguy hiểm của sự ám ảnh.

Các vong linh thoát trần thường gây ra những mối nguy ám ảnh rõ rệt, hoặc là chỉ tạm trong thời gian ngắn, hay kéo [122] dài lâu hơn. Thậm chí nó có thể kéo dài trong suốt một kiếp sống. Trước đây tôi có viết cho các bạn một bức thư nói về vấn đề này và các bạn có thể dùng để tham khảo thêm. Vì thế, không cần lặp lại ở đây. Chính yếu tôi muốn nhấn mạnh điểm căn bản là sự xâm nhập mà chúng ta gọi là ám ảnh này phần lớn là do thái độ tiêu cực của người môn sinh khi y dại dột thực hành một phương pháp thiền không thích hợp. Do háo hức muốn đón nhận ánh sáng từ cõi trên, do ý quyết tự ép mình cho được tiếp xúc với các huấn sư hay ngay cả Chân sư, và trong cố gắng loại trừ tất cả những tư tưởng và những rung động thấp, người môn sinh phạm sai lầm là làm cho toàn thể phàm ngã trở nên thụ cảm. Thay vì làm cho phàm ngã trở nên vững vàng, tích cực đối với những yếu tố chung quanh, với mọi tiếp xúc ở cõi thấp, và thay vì chỉ để cho “đỉnh chóp của thể trí” (xin tạm gọi như thế) thụ cảm và mở ra đối với những gì được truyền xuống từ các cấp độ trừu tượng hoặc của thể nguyên nhân và thậm chí từ cõi trực giác, thì người môn sinh lại để cho thụ cảm từ mọi phía. Chỉ có một điểm bên trong bộ não là nên để cho thụ cảm, tất cả những gì còn lại trong tâm thức đều phải được phân cực đến mức có thể ngăn được mọi xâm nhập từ bên ngoài. Đây là nói về thể tình cảm và thể trí, dù rằng với đa số nhân loại hiện nay điều này chỉ liên quan đến thể tình cảm mà thôi. Trong thời kỳ đặc biệt này của lịch sử thế giới, dân cư ở cõi tình cảm quá đông đảo, và sự ứng đáp của cõi trần với cõi tình cảm hiện đang trở nên rất mực phù hợp, thế nên mối nguy hiểm của sự ám ảnh lại càng to lớn hơn bao giờ hết. Nhưng các bạn cũng nên mừng vì kết quả ngược lại cũng rất tốt, sự ứng đáp của cõi trần đối với cõi thiêng liêng và sự đáp ứng lẹ làng với nguồn cảm hứng cao siêu thật lớn lao hơn trước rất nhiều. Nguồn cảm hứng thiêng liêng hay “nhập thể thiêng liêng” vốn là đặc ân của những linh hồn tiến hóa, trong những năm tới sẽ được nhiều người hiểu rõ, và nhất định sẽ là một trong những phương [123] pháp được Đức Chưởng Giáo và các Đấng Cao cả phụ tá Ngài sử dụng khi lâm phàm để giúp đỡ thế gian.

Điều cần nhớ là trong trường hợp có ám ảnh sai lạc thì con người chịu sự chi phối của thực thể ám ảnh và cộng tác trong diễn tiến này, dù vô tình hay miễn cưỡng. Trong sự nhập thể thiêng liêng hành giả tự nguyện hợp tác hữu thức với Đấng muốn linh cảm, nhập thể hay sử dụng các hạ thể của y. Động lực nội tâm của y bao giờ cũng là muốn giúp đỡ nhân loại nhiều hơn trước. Sự giáng nhập như thế không phải là kết quả của một tình trạng tiêu cực mà là sự cộng tác tích cực, tiến hành đúng định luật, trong một thời khoảng cụ thể…Khi nhân loại ngày càng phát triển sự liên tục tâm thức giữa cõi trần và cõi cảm dục và sau đó là cõi trí, thì việc chuyển nhượng các thể sẽ xảy ra thường xuyên hơn và được hiểu biết nhiều hơn.

Ngày 9-10-1919.

Những Nguyên nhân của Ám ảnh.

Một trong những việc làm trước mắt của người đạo sinh là nghiên cứu và xem xét vấn đề này một cách khoa học. Trong nhiều cuốn sách huyền môn, chúng ta được biết rằng sự ám ảnh và sự điên cuồng có liên quan mật thiết với nhau. Sự điên cuồng có thể có trong cả ba hạ thể, chứng điên cuồng trong thể xác ít tai hại nhất, còn điên cuồng trong thể trí thì kéo dài nhất và khó chữa trị nhất. Điên cuồng trong thể trí là số phận nặng nề giáng xuống những ai đã nhiều kiếp sống trong độc ác ích kỷ, cố ý dùng trí thông minh của y để phục vụ những mục tiêu ích kỷ, dù vẫn biết đó là quấy. Nhưng loại điên cuồng này là một phương tiện mà đôi khi Chân nhân dùng để chặn đứng một người đang tiến về tà đạo. Theo ý nghĩa này thì nó có ẩn một ân huệ. Giờ đây chúng ta hãy bàn trước về những nguyên nhân của sự ám ảnh, còn vấn đề điên [124] cuồng thì hãy để ngày khác. Có bốn nguyên nhân ám ảnh và mỗi nguyên nhân đều có cách chữa trị khác nhau:–

Một nguyên nhân là sự suy yếu rõ rệt của thể dĩ thái ở tấm lưới ngăn cách, giống như một chỗ nới dãn và đàn hồi khiến cho một thực thể ngoại lai trên cõi cảm dục có thể xâm nhập được. Cửa vào hình thành bởi lưới này không được đóng chặt, nên ảnh hưởng bên ngoài có thể xâm nhập. Đây là nguyên nhân thuộc thể xác và là kết quả của sự điều chỉnh sai các chất liệu trong thể xác. Đó là do nghiệp quả có trước khi sinh và biểu hiện ngay khi đứa bé chào đời. Thường thì người bệnh có thể xác yếu đuối, trí tuệ suy kém, nhưng lại có thể cảm dục rất mạnh, bị ám ảnh, cố phấn đấu, chiến đấu mãi để ngăn chặn sự xâm nhập. Sự ám ảnh thỉnh thoảng xảy ra và thường tấn công nữ giới hơn là nam giới.

Một nguyên nhân khác nữa là do thể tình cảm, sự thiếu điều hợp giữa thể tình cảm và thể xác. Thế nên ban đêm lúc ngủ khi hành giả hoạt động trong thể tình cảm, y khó trở về với xác thân. Các sinh linh khác thừa dịp này nhập vào thân xác y, và Chân nhân không thể vào trú ngụ. Đây là hình thức ám ảnh thông thường nhất, ảnh hưởng đến những người có thể xác khỏe, các rung động tình cảm mạnh mẽ nhưng thể trí yếu kém. Trong sự chống chỏi của nạn nhân, tình trạng ám ảnh này đưa đến sự la hét trong điên loạn và những cơn động kinh. Nam giới dễ bị ám ảnh lối này hơn nữ giới, vì nữ giới thì được phân cực rõ rệt hơn trong thể cảm dục.

Ám ảnh trong thể trí là loại ít khi xảy ra. Trong thời gian tới, khi thể trí ngày càng được phát triển, có lẽ trường hợp này sẽ có nhiều hơn. Ám ảnh thể trí tức là sự xâm chiếm trên cõi trí – vì vậy ít khi xảy ra. Thể xác và thể tình cảm vẫn còn hợp thành một đơn vị, nhưng Người suy tưởng (Linh hồn) [125] bị bỏ lại trong thể trí, trong khi thực thể ám ảnh (dùng lớp áo bằng vật chất cõi trí) nhập vào hai thể kia. Trong trường hợp ám ảnh thể tình cảm thì linh hồn bị bỏ lại trong thể tình cảm và thể trí mà không có thể xác. Còn trong trường hợp sau (ám ảnh thể trí) thì linh hồn không ở trong thể tình cảm cũng như thể xác. Nguyên do là thể trí phát triển quá độ, còn thể tình cảm và thể xác thì tương đối yếu ớt. Đối với hai thể này thì linh hồn quá mạnh nên không thèm sử dụng chúng. Người này chỉ thích làm việc trên cõi trí, vì thế mà tạo cơ hội cho các thực thể ám ảnh khống chế. Như tôi đã nói, điều này ít khi xảy ra và là kết quả của sự phát triển thiên lệch. Nam giới và nữ giới đều có thể bị tấn công. Tình trạng này thường biểu lộ từ bé thơ và rất khó chữa trị.

Một nguyên nhân ám ảnh khác hiếm có hơn nữa và rõ ràng là việc làm của các Anh em hắc đạo. Đó là việc cắt đứt sợi dây từ điện nối liền Chân nhân với thể xác, để người ấy ở trong thể tình cảm và thể trí. Thường điều này làm chết thể xác, trừ trường hợp vị Hắc đạo dùng thể xác ấy, nhập vào nó và nối kết nó với sợi dây từ điện của y. Những trường hợp này không thường thấy và chỉ liên hệ đến hai hạng người:–

Những người đã tiến hóa cao trên Đường Đạo, nhưng trong một kiếp đã vì một khuyết điểm cố ý nào đó nên thất bại và tự để cho lực lượng hắc ám chi phối. Tội lỗi (như các bạn thường gọi) trong phàm nhân của người đệ tử tạo nên một nhược điểm, và nhược điểm này bị lợi dụng. Loại ám ảnh này biểu lộ trong sự biến đổi mà đôi khi chúng ta thấy một linh hồn cao cả bỗng nhiên lao vào con đường đồi trụy rõ rệt, khi y hoàn toàn chuyển hướng cuộc đời và dùng bùn nhơ bôi bẩn bản tánh đẹp đẽ của mình. Việc làm này tất sẽ mang lại hình phạt, vì ở nội giới người đệ tử theo dõi điều đó, trí y [126] đau khổ khi thấy hạ thể bôi nhọ danh dự vị chủ nhân thực sự của nó và khiến cho một sự nghiệp đáng quý phải mang tiếng xấu.

Người ít tiến hóa thì có cấu tạo yếu kém nên không thể chống lại được sự ám ảnh này.

Các loại thực thể ám ảnh.

Nếu nói chi tiết thì có rất nhiều loại, nhưng tôi chỉ kể ra đây vài loại thôi.

1.     Những sinh linh hạng thấp đã từ trần, đang chờ đầu thai, có ý muốn và chực chờ cơ hội ám ảnh, ở trường hợp một và hai.

2.     Những người tự tử, đang băn khoăn muốn chuộc lại hành động sai lầm này và muốn trở lại cõi trần.

3.     Những vong linh quyến luyến cõi trần, dù tốt hay xấu, họ đang khắc khoải âu lo cho những người thân yêu của họ, về công việc làm ăn, hay nóng lòng muốn làm một việc quấy hoặc chuộc lại một hành động độc ác nào đó, họ xâm nhập để chiếm thể xác như trong trường hợp một và hai.

4.     Các vị Hắc đạo thường lợi dụng các trường hợp ba và bốn như tôi đã nói. Họ cần những thể đã phát triển cao, chứ không dùng những thể yếu ớt hay chưa được tinh luyện. Trong trường hợp ba, sự yếu kém chỉ là tương đối, do quá chú ý đến thể trí.

5.     Những loài tinh linh và những sinh linh thấp kém hơn con người, có tính độc ác, chúng rình rập bất cứ cơ hội cỏn con nào và ở nơi nào chúng thấy có sự rung động tương ứng.

6.     Vài loại thiên thần bậc thấp, vô hại nhưng ưa phá khuấy, vì tinh nghịch và đùa giỡn mà tìm cách nhập vào một cơ thể khác giống như trẻ con ưa mặc quần áo lạ kiểu để làm trò.

7.     Những du khách từ các hành tinh khác, đôi khi đến và nhập vào một số cơ thể tiến hóa cao vì mục đích riêng. Nhưng trường hợp này rất, rất hiếm hoi…

 [127] Giờ đây tôi chỉ cho các bạn một vài phương pháp mà rốt cuộc sẽ là những cố gắng đầu tiên để chữa trị.

Trong những trường hợp thuộc loại đầu tiên, đối với người có thể chất yếu kém, thì trước hết sự chữa trị phải chú trọng vào việc kiến tạo thể chất mạnh mẽ, cả thể xác và dĩ thái, nhất là thể dĩ thái. Trong những năm sau này, điều đó sẽ được thực hiện với sự giúp đỡ trực tiếp của các vị thiên thần tạo hình (những thiên thần màu tím hay những thiên thần ở các cấp dĩ thái). Việc tăng cường lưới dĩ thái sẽ được trợ giúp bằng cách dùng ánh sáng tím, với âm thanh tương ứng của nó, áp dụng trong những dưỡng đường yên tĩnh. Cùng với việc chữa trị này là cố gắng tăng cường thể trí. Khi thể xác được tăng cường, những cuộc tấn công sẽ thưa dần để cuối cùng dứt hẳn.

Khi nguyên nhân là thiếu sự điều hợp giữa thể xác và thể tình cảm thì những phương pháp chữa trị đầu tiên sẽ là cách trừ tà nhờ những câu chú và nghi lễ (như nghi lễ tôn giáo). Những người có đủ khả năng sẽ dùng các câu chú này vào ban đêm, khi người ta cho rằng thực thể ám ảnh vắng mặt lúc bệnh nhân ngủ. Các câu chú này sẽ kêu gọi vị chủ nhân thực sự (của các thể) trở lại, sẽ tạo một bức tường bảo vệ sau khi chủ nhân nhập xác, và bắt buộc kẻ ám ảnh phải ở ngoài. Khi chủ nhân thực sự đã trở về, thì việc sau đó là giữ y lại trong thể xác. Việc giảng huấn ban ngày và biện pháp bảo vệ ban đêm cho bệnh nhân, thực hiện trong thời gian lâu hoặc mau, sẽ từ từ loại ra kẻ chiếm đoạt hay mượn xác bất hảo, và thời gian qua nạn nhân sẽ tiếp tục được thêm an toàn. Vấn đề này về sau tôi sẽ nói thêm.

Trong trường hợp ám ảnh thể trí thì vấn đề càng khó hơn. Hầu hết những cuộc chữa trị thành công trong tương lai đều tập trung vào hai nhóm bệnh nhân đầu tiên. Chứng ám ảnh thể trí phải đợi có sự hiểu biết rộng rãi hơn, dù cần phải [128] thí nghiệm ngay từ đầu. Hầu hết công việc sẽ phải làm đều từ cõi trí, bởi những người có thể hoạt động ở đó một cách tự do, để tiếp xúc với linh hồn trong thể trí của y. Phải có sự hợp tác của linh hồn bệnh nhân để phối hợp mở cuộc tấn công vào thể tình cảm và thể xác đã bị ám ảnh. Ban đêm, phương pháp chữa trị của hai trường hợp đầu sẽ được đem dùng phần lớn, nhưng trong trường hợp sau, linh hồn phải chiếm lại cả hai thể xác và tình cảm, vì thế nên hết sức khó khăn. Thường thì kết quả là cái chết.

Trong trường hợp cắt đứt sợi dây từ điện thì hiện nay chưa có cách nào trị được.

Những nguy hiểm từ trường tiến hóa thiên thần.

Điểm thứ nhì này còn phức tạp hơn. Các bạn nhớ chăng trước đây tôi đã nói rằng có thể tạo sự tiếp xúc với các thiên thần bằng những câu chú và những phương thức đặc biệt, và sự tiếp xúc này có thể gây nguy hiểm cho kẻ bất cẩn. Hiện nay, điều này thật nguy hiểm lạ thường, vì các lý do sau đây:

Sự nhập cuộc của cung màu tím, tức là Cung Nghi thức hay Cung bảy đã làm cho sự tiếp xúc này được thực hiện dễ dàng hơn từ trước đến nay. Vì thế, đây là cung giúp hai trường tiến hóa liên kết (nhân loại và thiên thần) có thể tiến đến gần và gặp gỡ nhau, bằng cách sử dụng nghi lễ và những phương thức ấn định sẵn, kết hợp với chuyển động chuẩn mực nhịp nhàng. Vấn đề này sẽ rõ rệt khi sử dụng các nghi thức, và những người đồng tử đều xác nhận sự thực là điều này đã được chứng minh trong cả nghi lễ của giáo hội Thiên Chúa và Hội Tam điểm. Sự tiếp xúc này ngày càng nhiều, và có nguy cơ không tránh khỏi bị nhiều người biết, và vì thế mà ảnh hưởng đến những kẻ bất cẩn theo nhiều lối khác nhau. Như [129] các bạn biết, hiện nay Đ.Đ.C.G. của Địa cầu đang có nỗ lực rõ rệt nhằm truyền đạt cho giới thiên thần phần hành của họ trong Thiên cơ, và phần việc mà Nhân loại cũng phải thực hiện. Nỗ lực đó đang được từ từ tiến hành và tất sẽ mang lại một số kết quả nhất định. Trong những bức thư này, tôi không có ý bàn với các bạn về vai trò của nghi lễ và các câu chú đặt sẵn, trong cuộc tiến hóa của thiên thần và nhân loại. Tôi chỉ nêu ra mối nguy cho con người khi họ khờ dại sử dụng những phương thức kêu gọi các thiên thần, khi họ thử dùng Thánh ngữ với mục đích tiếp xúc với các vị thần kiến tạo (vốn chịu ảnh hưởng của Thánh ngữ rất lớn), và khi họ cố tọc mạch muốn biết những bí mật của nghi lễ và các chi tiết phụ thuộc về màu sắc và âm thanh. Về sau, khi người môn sinh đã bước qua cửa điểm đạo, y sẽ biết được điều đó cùng những kiến thức cần thiết để làm việc đúng định luật. Khi theo đúng luật thì không có ẩn chứa mối nguy nào cả.

Nhân loại đang có quyết tâm cao độ muốn xuyên thấu bức màn bí mật, và muốn tìm ra những gì chưa biết trong cõi vô hình. Ở bất cứ đâu người ta cũng ý thức được những quyền năng đang khai mở trong tâm họ mà tham thiền làm tăng cường. Họ nhận thấy rằng nếu thận trọng theo đúng một số qui luật, họ sẽ trở nên nhạy cảm hơn đối với những hình ảnh và âm thanh của các cảnh giới nội tại. Họ thoáng thấy những điều chưa được biết. Thỉnh thoảng, trong những giây phút hiếm hoi, nhãn quan bên trong tạm thời khai mở, họ nghe thấy được trên cõi tình cảm hay cõi trí. Họ thấy được những thiên thần trong cuộc gặp gỡ có dùng nghi thức. Họ nghe được âm thanh hay tiếng nói cho họ biết những sự thực mà họ nhìn nhận là đúng. Con người đang bị cám dỗ quá mạnh muốn phải có sự tiếp xúc, muốn kéo dài giờ tham thiền, muốn thử một vài phương pháp hứa hẹn tăng cường khả năng thần thông của họ. Họ cưỡng bách làm những điều đó một cách bất cẩn và rước lấy thảm họa. Tôi xin đưa ra đây một vài lời ngụ [130] ý:– Có thể nói theo nghĩa đen rằng tham thiền tức là đùa với lửa. Các thiên thần ở cõi trí vận dụng những luồng lửa tiềm ẩn của thái dương hệ, nên đương nhiên họ vận dụng được các loại lửa ẩn tàng của con người ở nội tâm. Thật là đáng tiếc nếu chúng ta để cho mình trở thành món đồ chơi của họ và bị hủy diệt trong tay họ. Điều tôi nói đây là sự thực, chứ không phải là lời lẽ của một bộ óc ưa tưởng tượng chuyện kỳ lạ, hão huyền. Hãy cẩn thận khi đùa với lửa.

a.     Giai đoạn chuyển tiếp này có rất nhiều điều nguy hiểm kể trên. Hiện nay chưa kiến tạo được loại cơ thể thích hợp để gìn giữ và vận dụng mãnh lực huyền bí, nên việc sử dụng những thể hiện có trong công việc nói trên chỉ mang lại tai ương cho người môn sinh nhiều tham vọng. Khi một người bắt đầu theo đuổi con đường hành thiền huyền môn, y phải cần khoảng mười bốn năm để tái tạo các thể thanh cũng như thể xác của y. Trong suốt thời gian đó, y không nên chạm đến những điều chưa biết để giữ an toàn. Vì chỉ những người nào có thể xác mạnh mẽ đã được tinh luyện, có thể cảm dục quân bình, ổn định, đã chủ trị, và thể trí có vân thích hợp, mới được vào những cảnh giới cao siêu và thực sự làm việc với Fohat, vì đó là việc làm của đệ tử huyền môn. Thế nên, ở khắp nơi tất cả các Huấn sư minh triết đều nhấn mạnh rằng Con đường Tinh luyện phải đi trước Con đường Khai ngộ. Các Ngài nhấn mạnh rằng phải kiến tạo khả năng tinh thần trước khi được phép mở quan năng thần thông an toàn. Các Ngài đòi hỏi môn sinh phải phụng sự nhân loại hằng ngày, trong suốt cuộc đời, trước khi y được phép vận dụng những sức mạnh của thiên nhiên, được phép chế ngự các tinh linh, hợp tác với các thiên thần và được học các phương thức và nghi lễ, những câu thần chú và các khẩu quyết để làm phát lộ các mãnh lực ấy.

Ngày 4-8-1920.

Nguy hiểm do các Huynh đệ Hắc đạo.

Tôi nghĩ rằng trước đây thực sự tôi đã nói tất cả những [131] gì có thể truyền đạt được cho các bạn về các Huynh đệ Hắc đạo, như người ta thường gọi. Ở đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng người môn sinh trung bình không phải lo sợ gì về mối nguy này. Chỉ khi nào một người sắp bước vào hàng đệ tử huyền môn và là một khí cụ của Huyền môn Chánh đạo, quá xuất sắc so với các bạn đồng môn, y mới hấp dẫn sự chú ý của những người đối nghịch. Khi áp dụng tham thiền, quyền năng và hoạt động của mình để phụng sự, hành giả đã phát triển các thể của mình đến mức thành tựu thực sự. Bấy giờ những rung động của y làm vận chuyển một loại vật chất đặc biệt, y học cách làm việc bằng loại vật chất đó, cách vận dụng những dòng điện lưu và điều khiển các vị thần kiến tạo. Làm thế tức là y bước vào phạm vi của những người làm việc với các mãnh lực giáng hạ tiến hóa, và vì thế y có thể khiến cho mình bị tấn công. Sự tấn công này có thể hướng đến một hạ thể của y, hoặc cũng có thể theo lối khác. Tôi xin nói vắn tắt vài phương pháp dùng tấn công một người đệ tử, chỉ là những lối có liên hệ đến các môn sinh của những bức thư này:

a.     Tấn công ngay vào thể xác. Mọi phương tiện đều được sử dụng để gây bệnh tật, thương tật cho xác thân người đệ tử, khiến y kém hữu dụng. Không phải tất cả các tai nạn đều do nghiệp quả, vì người đệ tử thường đã vượt qua phần lớn nghiệp quả loại này, thế nên y tương đối tự do, ít bị trở ngại trong hoạt động xác thân.

b.     Một cách khác là dùng ảo cảm, tức là phủ lên người đệ tử một đám mây bằng vật chất cõi tình cảm hay cõi trí, đủ để che giấu sự thực và tạm thời làm cho điều chân thực bị mờ ám. Khi nghiên cứu những trường hợp dùng ảo giác tấn công, người ta thấy rất rõ rằng ngay đến người đệ tử tiến hóa cao cũng khó có thể phân biện được giữa cái thực, cái hư, giữa điều chân và lẽ giả. Ảo cảm có thể ở cõi tình cảm hoặc cõi trí nhưng [132] thường ở cõi tình cảm hơn. Một hình thức được sử dụng là phủ lên người đệ tử những bóng mờ của các tư tưởng yếu đuối, chán nản hay chỉ trích, khiến đôi khi y phải lùi bước. Khi ảo cảm đó được tạo ra, nó xuất hiện với vẻ đe dọa quá lố khiến người đệ tử bất cẩn, vì không ngờ rằng điều y đang thấy chẳng qua là sự phóng đại của các tư tưởng thoáng qua nơi y, nên đành chiều theo sự chán nản, thường đến mức tuyệt vọng và trở nên kém hữu ích cho các Đấng Cao cả. Một hình thức khác là ném vào hào quang thể trí y những ý tưởng và những đề nghị dường như đến từ Chân sư y, nhưng đó chỉ là những gợi ý tinh vi nhằm ngăn cản và không giúp ích gì cả. Người đệ tử khôn ngoan phải luôn luôn phân biện tiếng nói của Đức Thầy thật của y và tiếng thì thầm dối trá của kẻ giả mạo, và ngay đến những điểm đạo đồ cao cấp cũng vẫn tạm thời bị lầm lạc.

Có nhiều phương tiện tinh vi được dùng để lừa gạt nhằm làm giảm hiệu năng của người phụng sự ở thế gian. Vì thế mà tất cả những người chí nguyện đều được dạy bảo một cách khôn ngoan rằng phải học hỏi và làm việc để phát triển viveka tức là trí phân biện, để được an toàn, tránh khỏi bị gạt gẫm. Nếu đức tính này được chuyên cần kiến tạo và vun trồng trong mọi việc dù lớn hay nhỏ trong cuộc sống hằng ngày thì có thể tránh được những nguy cơ lầm lạc.

c.      Phương pháp thứ ba thường được sử dụng là bao bọc chung quanh người đệ tử một đám mây đen dày đặc, dùng bức màn đêm và lớp sương mù không thể xuyên thấu được bao vây y, khiến y phải quờ quạng và thường hay vấp ngã. Đó có thể là một đám mây đen của vật chất cõi cảm dục, của một loại tình cảm đen tối nào đó dường như có thể lung lạc mọi rung động ổn cố và ném người môn sinh bối rối vào bóng đen của tuyệt vọng. Y cảm thấy tất cả đang rời xa y. Y làm mồi cho những tình cảm buồn thảm và hay thay đổi. Y nghĩ rằng đã bị mọi người từ bỏ. Y xem các nỗ lực đã qua là hoài công vô ích và y chẳng còn gì cả, trừ cái chết. Trong những lúc [133] như vậy, y cần rất nhiều phân biện, nghiêm túc cân nhắc sự việc và điềm tĩnh suy ra lẽ phải. Trong những lúc như vậy, y nên tự nhắc nhở rằng bóng tối không che giấu Đấng Thượng Đế nội tâm được điều gì. Trung tâm ý thức vững vàng vẫn còn đó, không hề bị ảnh hưởng dù điều gì xảy ra. Y phải bền lòng cho đến lúc cuối, – lúc cuối của điều gì? Đó là lúc chấm dứt đám mây bao phủ, lúc nó tự tan ra trong ánh mặt trời. Y phải đi qua hết bề dài của đám mây ấy và bước ra ánh sáng ban ngày, với nhận thức rằng bất cứ lúc nào cũng không có gì chạm đến và làm tổn thương tâm thức bên trong. Thượng Đế vẫn ngự trong tâm ta, dù bên ngoài có việc gì xảy ra. Chúng ta quá thường nhìn ra hoàn cảnh bên ngoài, dù là cõi trần hoặc cõi tình cảm hoặc cõi trí, mà quên rằng ở nơi sâu thẳm của tâm hồn chúng ta vốn có điểm tiếp xúc với Đấng Thượng Đế của càn khôn vũ trụ.

d.     Sau cùng (vì tôi không thể nêu tất cả những phương pháp dùng để tấn công), phương tiện được dùng có thể là phủ lên thể trí người đệ tử một lớp màn đen tối. Sự tối tăm có thể thuộc tri thức, và tất nhiên là khó xuyên qua hơn, vì trong trường hợp này, phải kêu gọi đến quyền năng của Chân ngã, trong khi ở trường hợp trên, thường chỉ lặng lẽ dùng hạ trí suy xét cũng đủ giải quyết được vấn đề khó khăn. Trong trường hợp đặc biệt này, người đệ tử khôn ngoan sẽ không chỉ cố gắng kêu gọi Chân nhân hay Chân ngã của mình để đánh tan đám mây đen mà cũng kêu gọi đến vị Huấn sư hay ngay cả vị Chân sư của y để được Ngài trợ giúp.

Đây chỉ là một số nguy hiểm vây quanh người chí nguyện, và tôi bàn sơ qua chỉ để khuyến cáo và hướng dẫn, chứ không để làm cho các bạn lo sợ. Ở đây, các bạn có thể thêm vào đây những qui luật mà tôi đã nói trong bức thư trước để giúp đỡ người đệ tử.

Ngày 25-09-1920.

Các Huynh đệ Hắc đạo.

Hôm nay tôi muốn nói với các bạn về quyền năng của các Huynh đệ Hắc đạo. Chúng ta cần phải biết một số qui luật chi [134] phối các hành động của họ, một số phương pháp họ dùng, và cần phải hiểu và sử dụng một số phương pháp phòng bị. Như trước tôi đã nói với các bạn rằng đa số nhân loại vẫn chưa đánh giá được sự hiểm nguy. Thế nhưng thời gian qua chúng tôi thấy cần phải chỉ dạy cho các bạn, là những cộng sự viên của chúng tôi ở cõi trần, cách nào để tự bảo vệ, đề phòng và tránh sự tấn công.

Hãy luôn luôn nhớ rằng các Huynh đệ Hắc đạo là anh em của chúng ta, đang lầm lỗi và lầm lạc, nhưng vốn là con của một Đấng Cha chung, dù họ đang lạc bước nơi xa, đến tận chân trời góc biển. Con đường họ trở lại sẽ rất dài, nhưng tất nhiên bánh xe tiến hóa sẽ buộc họ quay lại trong những chu kỳ rất lâu sau này. Người nào quá tán tụng thể trí cụ thể (hạ trí) và để cho nó tiếp tục đóng kín đối với thượng trí, là đang có nguy cơ lạc vào tà đạo. Nhiều người đi lệch như thế . . . nhưng quay lại được, rồi trong tương lai tránh được những lỗi lầm tương tự, như một đứa trẻ tránh lửa vì đã có lần bị bỏng. Nếu người ấy vẫn ngoan cố, dù đã được khuyến cáo và chịu nhiều đau khổ, thì cuối cùng sẽ trở thành một vị bàng môn. Lúc đầu, Chân nhân chiến đấu rất mạnh mẽ để ngăn không cho phàm nhân phát triển như thế. Nhưng những thiếu sót của thể nguyên nhân (đừng quên rằng những tật xấu chỉ là những đức tốt bị dùng sai cách) khiến thể nguyên nhân trở nên méo mó, quá phát triển theo một chiều hướng nào đó, đầy những chỗ khuyết và khoảng trống, mà đáng lẽ nơi đó là những đức tánh tốt.

Người bàng môn không công nhận sự hợp nhất với đồng loại, y chỉ thấy đó là những người cần khai thác để thực hiện các mục đích của y. Dấu hiệu này cũng có ở mức ít hơn nơi những người bị y sử dụng, hoặc hữu ý hay vô tình. Họ không kính trọng ai cả, xem mọi người như là miếng mồi ngon. Họ bắt buộc mọi người phải làm theo đường lối của họ, và dùng những phương tiện đúng đắn hay bẩn thỉu để triệt hạ mọi chống đối và để cá nhân họ đạt được những gì họ muốn.

[135] Vị hắc đạo không để ý đến nỗi đau khổ mà y có thể gây ra. Y không bận tâm đến sự đau đớn tinh thần mà y mang lại cho kẻ chống đối y. Y cứ thực hiện ý định và không ngừng gây tổn thương cho bất cứ ai, đàn ông, phụ nữ hay trẻ em, miễn là việc làm đó khiến y thêm đến gần mục đích. Tuyệt đối không bao giờ nên trông mong lòng nhân từ của những kẻ chống lại Quang minh Chánh đạo.

Ở cõi trần và cõi tình cảm, các vị bàng môn có nhiều quyền lực hơn các Huynh đệ Ánh sáng, – không hơn về quyền năng thực sự, mà chỉ hơn về quyền năng bề ngoài, vì các Huynh đệ Chánh đạo không tìm cách thi thố quyền năng của mình trên hai cảnh giới đó, như phe Hắc đạo làm. Họ có thể vận dụng thẩm quyền của mình nhưng lại tự hạn chế, chỉ làm việc với các quyền năng thăng thượng tiến hóa, chứ không với các quyền năng tiến hóa giáng hạ. Những lực lượng tinh linh ở hai cảnh giới này được vận dụng bởi hai yếu tố.

a.     Những mãnh lực cố hữu của cơ tiến hóa đang hướng dẫn tất cả đi tới hướng về sự hoàn thiện cuối cùng. Các Chân sư Chánh đạo đang hợp tác trong công cuộc này.

b.     Các vị Hắc đạo đôi khi sử dụng các lực lượng tinh linh này để thỏa mãn ý muốn của họ và trả thù những người chống lại họ. Dưới sự điều khiển của họ, đôi khi có những tinh linh của cõi trần phục vụ như những thần giữ của và các loài tinh hoa hình dạng xấu xa, vài loại thần lùn và các tiên nữ màu nâu, màu xám và màu tối. Họ không thể kiểm soát được các thiên thần tiến hóa cao, cũng như các tiên nữ màu xanh, màu xanh lục và vàng, dù một số tiên nữ màu đỏ có thể bị buộc phải làm việc theo chỉ thị của họ. Những tinh linh dưới nước (không phải là thủy thần hay thủy tiên) có khi cũng đến trợ giúp họ. Khi kiểm soát được các lực lượng tiến hóa giáng hạ này họ cũng đôi lần gây tổn thất cho công việc của chúng ta. [136]

Thường thì vị Hắc đạo giả làm một nhân viên Chánh đạo, họ thường đóng vai một sứ giả của thần thánh. Nhưng tôi đoan chắc với các bạn rằng, người nào hành động dưới sự hướng dẫn của Chân nhân mình sẽ có tầm mắt sáng tỏ và tránh được sự lừa gạt.

Vào thời gian này, thế lực của họ thường là mạnh mẽ. Tại sao? Bởi vì vẫn còn quá nhiều điểm trong phàm ngã của mọi người đáp ứng với sự rung động của Hắc đạo, vì thế họ dễ dàng ảnh hưởng đến các thể của con người. Tương đối là trong nhân loại vẫn quá ít người đã tạo được những rung động cao có thể đáp ứng với chủ âm của các Huynh đệ Ánh sáng, đang hoạt động thực sự trên cả hai cõi phụ cao nhất (hay là cõi phụ nguyên tử và á nguyên tử) của cõi trí, cõi tình cảm của cõi trần. Khi hoạt động trên hai cõi phụ đó, người đệ tử có thể cảm thấy sự tấn công của các tinh linh ở cõi thấp hơn mà không bị tổn hại gì. Thế nên người đệ tử cần có một cuộc sống trong sạch, những tình cảm thanh khiết có kiểm soát và tư tưởng thanh cao.

Các bạn sẽ lưu ý lời tôi nói rằng quyền lực Hắc đạo có vẻ đang chế ngự ở cõi trần và cõi tình cảm. Nhưng ở cõi trí thì không mạnh như vậy, vì đó là cõi mà các Huynh đệ Chánh đạo đang hoạt động. Những nhà hắc thuật cao cường có thể hoạt động ở cõi hạ trí, chứ ở cõi thượng trí thì Chánh đạo ngự trị. Ba cấp cao này của cõi trí là nơi Họ cầu mong những người tiến hóa trong nhân loại tìm đến. Đó là lĩnh vực của Chánh đạo mà ai ai cũng đều ngưỡng vọng và cố gắng tiến vào. Các vị Hắc đạo áp đặt ý muốn của họ vào con người (nếu có đồng rung động) và các giới tinh linh giáng hạ tiến hóa. Các Huynh đệ Chánh đạo cầu mong – như Đức Jesus đã cầu mong – cho nhân loại đang lạc lầm có thể vươn lên bước vào ánh sáng. Vị Hắc đạo làm trì hoãn sự tiến bộ và tìm mọi cách để đạt được cứu cánh của họ. Trong khi vị Chánh [137] đạo dồn mọi nỗ lực để đẩy nhanh cuộc tiến hóa, từ bỏ mọi tư hữu để hoàn thành công việc. Ở trong sương mù, trong xung đột, trong xấu xa độc ác và thù ghét của thời đại, nếu nhờ làm thế mà vị này có thể bằng cách nào đó giúp đỡ được một số người (ra khỏi bóng tối của trần gian) để họ đặt chân lên Đỉnh núi và có thể vượt qua Thập tự giá.

Giờ đây những phương pháp nào có thể được sử dụng để bảo toàn người phụng sự nhân loại? Làm thế nào để bảo đảm an toàn cho họ trong cuộc xung đột hiện tại và trong cuộc xung đột còn lớn lao hơn của các thế kỷ sắp đến?

1.     Hãy nhận thức rằng sự thanh khiết của tất cả các thể là điều kiện tiên quyết. Nếu một vị Hắc đạo chế ngự được một người nào thì điều ấy chứng tỏ rằng cuộc sống y có một vài nhược điểm. Cánh cửa xâm nhập phải do người đó tự mở ra, và kẽ hở mà sức mạnh độc hại có thể tràn vào phải do chủ nhân các thể tự tạo. Vì thế cần phải thận trọng gìn giữ xác thân hết sức sạch sẽ, chỉ có những tình cảm thanh khiết, vững vàng trong thể tình cảm, và tư tưởng trong thể trí phải thật thanh cao. Khi làm được như vậy, sẽ có sự điều hợp trong các hạ thể và Người suy tưởng (Chân ngã) ở nội tâm sẽ ngăn được mọi sự xâm nhập.

2.     Hãy chấm dứt mọi nỗi sợ hãi. Những mãnh lực thăng thượng tiến hóa rung động mau lẹ hơn các mãnh lực tiến hóa giáng hạ, đây có thể hiểu là yếu tố an toàn. Sự sợ hãi làm suy yếu; suy yếu làm tan rã; một điểm yếu vỡ ra tạo nên khoảng trống, qua đó mãnh lực ác hại có thể xâm nhập. Yếu tố xâm nhập là sự sợ hãi của chính đương sự, y tự mở ra cánh cửa theo cách đó.

3.     Hãy điềm tĩnh, vững vàng dù điều gì xảy ra cũng vậy. Chân bạn có thể chìm trong bùn lầy của mặt đất, nhưng đầu bạn có thể tắm trong ánh nắng mặt trời ở trên cao. Hãy nhận biết bùn lầy của thế gian nhưng đừng để bị nhiễm bẩn.

[138]

4.     Hãy biết cách dùng lương tri và áp dụng lương tri vào vấn đề đang có. Hãy ngủ nhiều và trong khi ngủ tìm cách làm cho cơ thể trở nên tích cực. Hãy cố gắng làm công việc trên cõi tình cảm và giữ gìn sự an tịnh nội tâm. Đừng bắt thân xác làm việc quá mệt mỏi, và chơi đùa bất cứ khi nào có dịp. Những giờ ngơi nghỉ, thư thả giúp điều chỉnh, ngăn ngừa những sự căng thẳng về sau.

 

[139]

BỨC THƯ VI
SỬ DỤNG HÌNH THỨC TRONG THAM THIỀN.

a.                 Sử dụng Hình thức để nâng cao tâm thức.

b.                 Sử dụng Hình thức của thần bí gia và huyền bí gia.

c.                  Những Hình thức đặc biệt.

d.                 Sử dụng Hình thức tập thể.

 

[140]

Ngày 6-8-1920.

Ước muốn rất tự nhiên của các bạn là mong được tôi truyền cho một số hình thức tham thiền đặc biệt để đạt những kết quả nhất định, nhưng ước muốn này không thể hoàn toàn chấp nhận được. Tôi không có ý định phác họa cho các bạn bất cứ hình thức tham thiền nào để các bạn chăm chỉ hành theo. Như tôi đã nói trước đây, những nguy cơ thật to lớn nếu không có sự giám sát của một vị huấn sư trực tiếp để trông chừng các phản ứng ở môn sinh. Sau này, các bạn sẽ được truyền cho các phương thức đó. Kế hoạch được thảo ra đúng lúc cho thế hệ môn sinh sắp đến, và loạt thư này cũng nhằm phác họa công việc vừa kể. Hôm nay, tôi định làm theo cách khác. Có bốn điểm mà tôi định là chúng ta sẽ đề cập và soi sáng riêng từng điểm. Nếu thấu hiểu đúng đắn và thực hiện được bốn điểm này, các bạn sẽ được khai ngộ nhiều hơn. Trong phương pháp giáo huấn huyền môn, từng bước, từng điểm được từ từ đưa ra cho người môn đệ, và chỉ khi nào y đạt được một bước hay nắm vững được một điểm thì y mới hiểu rõ được phần kế tiếp. Vị huấn sư cho một lời hướng dẫn hay một lời ngụ ý và đề cập đến một khía cạnh nổi bật nào đó. Người môn đệ thực hành theo điểm đã được nhấn mạnh và thấy rằng khi làm thế thì có thêm ánh sáng chiếu rọi vào, một giai đoạn mới hiện ra, và vị huấn sư sẽ nói thêm những ẩn ý khác. Vì thế, huyền bí gia huấn luyện người đạo sinh trong sự phối hợp hành động và phản ứng.

Khi nghiên cứu đề tài “Sử dụng hình thức trong tham thiền,” các sự kiện cần bàn được xếp trong bốn phần sau đây:–

1.     Sử dụng Hình thức tham thiền để nâng cao tâm thức.

2.     Sử dụng Hình thức của thần bí gia và huyền bí gia. [141]

3.     Sử dụng Hình thức đặc biệt cho các mục tiêu cụ thể.

4.     Sử dụng Hình thức tham thiền tập thể.

Các bạn sẽ thấy rằng tôi cố gắng trình bày các vấn đề này để cho các bạn hiểu được đúng giá trị của các hình thức tham thiền, chứ không phải truyền thụ một phương pháp thiền đặc biệt nào. Tôi muốn bày tỏ tính cách thiết yếu của việc tiến hành theo đúng định luật là phương tiện quan trọng nhất để hợp nhất với nguồn sống thiêng liêng, và để tạo sự nhất quán giữa cái cao và cái thấp. Đó là mục tiêu của toàn cuộc tiến hóa. Tôi muốn lưu lại trong trí độc giả sự hiểu biết đúng đắn về mối liên quan giữa tinh thần và vật chất, là căn bản của mọi công việc thuộc loại này.

Phương pháp mà Đức Thượng Đế dùng trong thái dương hệ thứ nhì này chính là sử dụng hình thể cho những mục đích biểu hiện, làm trung gian để phát biểu và làm phương tiện để giúp sự sống nội tại có thể tăng trưởng, phát triển, kinh nghiệm và thấy được tự tánh. Điều này đúng cho mọi hình tướng, dù đó là hình thể của toàn thái dương hệ hay là hình thể phức tạp của một con người, hoặc đó là một hình thể do y tạo ra khi cố gắng nhận thức và hiểu biết một điều gì, – một hình thể được tạo ra để làm phương tiện giúp tâm thức có thể tự nâng cao từng bước theo những giai đoạn đã định nhằm đạt đến một trình độ dự kiến nào đó. Đây là điểm chúng ta khảo sát đầu tiên:

1.     Sử dụng hình thức tham thiền để nâng cao tâm thức.

Trong mục này chúng ta phải xét ba điều:

a.     Tâm thức.

b.     Mục tiêu mà tâm thức cố gắng đạt đến.

c.      Các bước để thành đạt.

Mỗi người trong nhân loại đều là thành phần của tâm thức thiêng liêng, là cái tự ý thức hay trực thức về những gì [142] ở ngoài nó, – tự biết mình khác với vận cụ bao bọc mình, hay khác với những hình thể ở chung quanh mình.

Trong giai đoạn tiến hóa đặc biệt này, người bình thường chỉ ý thức được sự dị biệt, chỉ thấy y phân cách với tất cả những người khác trong gia đình nhân loại, do thế y thấy mình là một đơn vị tâm thức trong số những đơn vị tâm thức khác. Y thừa nhận điều này và thừa nhận những cá nhân khác cũng có quyền tự nghĩ về họ như vậy. Y còn thừa nhận thêm một điểm nữa là ở đâu đó trong vũ trụ này có một Tâm Thức tối cao, Đấng mà y gọi theo lý thuyết là Thượng Đế hay Thiên nhiên. Giữa quan điểm thuần vị kỷ này (tôi dùng từ “vị kỷ” theo nghĩa khoa học chứ không hạ thấp ý nghĩa của nó) và luận thuyết lờ mờ nói về Thượng Đế hằng hữu nội tại, có nhiều giai đoạn khác nhau. Trong mỗi giai đoạn có một sự mở mang tâm thức, hay là nới rộng quan điểm, nó đưa cá nhân tự thức ấy đi từng bước. Từ chỗ nhận ra chính mình đến mức nhận biết những cái ta cao siêu, rồi tự làm cho mình xứng đáng để cũng được thừa nhận là một cái ta cao siêu, và cuối cùng có nhận thức huyền bí về cái Ta cao siêu nơi chính y. Y nhận ra rằng Thượng ngã hay Chân nhân chính thật là Chân ngã của y, và từ đó y bước vào giai đoạn tâm thức tập thể. Trong giai đoạn này lần đầu tiên y nhận biết được nhóm Chân nhân của y rồi đến các nhóm Chân nhân khác.

Tiếp theo giai đoạn này là sự thừa nhận nguyên lý đại đồng của Tình Huynh đệ. Đó không chỉ là thừa nhận trên lý thuyết suông mà là sự hòa hợp tâm thức vào tâm thức của toàn thể nhân loại. Đây mới thực là mức phát triển tâm thức giúp hành giả nhận biết được không chỉ các mối liên kết trong nhóm Chân ngã của y mà còn biết được vị trí của y trong Trường tiến hóa nhân loại, trên cảnh giới của chính nhân loại. Y thực sự biết rằng mình là một thành phần của một trong các vị Thiên nhân vĩ đại. Về sau, nhận thức này [143] còn nới rộng đến một quan điểm bao la hầu như không quan niệm nổi – về vị trí của y trong Đấng Đại Thiên nhân mà chính Đức Thái Dương Thượng Đế là đại diện.

Chúng ta chỉ cần bàn đến mức đó vì mục đích của chúng ta trong loạt thư này không nhắm đến sự phát triển tâm thức vũ trụ.

Vì thế các bạn thấy rõ rằng tất cả những giai đoạn này phải được thực hiện một cách có hệ thống và mỗi giai đoạn phải được thấu đáo từng bước. Trước hết, cần phải hiểu rằng sự triển khai và nhận thức cuối cùng phải xảy ra trong tâm thức đang suy tư và bừng tỉnh. Chân nhân ở trên cõi của chính mình có thể biết sự hợp nhất tâm thức của Nó với mọi tâm thức khác, và ý thức rằng Nó với nhóm của Nó là một. Thế nhưng đến khi nào phàm nhân (trong tâm thức hồng trần) đã tự nâng tâm thức của mình lên đến cảnh giới của Chân nhân, cũng biết được tâm thức của nhóm y, cũng tự xem mình là Chân ngã trong nhóm Chân ngã chứ không phải là một đơn vị riêng rẽ, thì bấy giờ sự nhận thức ấy mới khỏi bị vô dụng như mớ lý thuyết được thừa nhận nhưng không được đem ra thực nghiệm.

Người môn sinh phải trải qua những giai đoạn này trong tâm thức hồng trần của y và phải hiểu biết bằng cách thực nghiệm – chứ không chỉ qua lý thuyết – những gì tôi nói, trước khi y được xem như đã sẵn sàng bước lên giai đoạn kế tiếp. Trọn cả vấn đề đều qui vào việc mở mang thượng trí cho đến mức nó chế ngự được hạ trí, và phát triển khả năng nhận thức trừu tượng để rốt cuộc có thể biểu hiện ở cõi trần. Điều này có nghĩa là làm sao cho những lý tưởng và những lý thuyết cao siêu nhất của bạn trở thành những sự kiện có thể chứng minh được. Đó chính là sự hòa hợp giữa Chân ngã và phàm ngã, và làm cho phàm ngã được hoàn bị đến mức thích hợp để biểu lộ Chân ngã. Đây chính là vai trò của việc hành thiền. Tham thiền có tính khoa học đích thực cung ứng những [144] phương thức tuần tự để nâng cao tâm thức và giúp thượng trí tăng trưởng cho đến mức nó bao trùm cả:

1.     Gia đình và bạn bè.

2.     Các cộng sự viên ở chung quanh.

3.     Những nhóm liên hệ.

4.     Nhóm Chân nhân của môn sinh.

5.     Các nhóm Chân nhân khác.

6.     Đấng Thiên nhân mà các nhóm Chân nhân hợp thành một luân xa của Ngài.

7.     Đấng Đại Thiên nhân.

Để đạt được điều này, về sau sẽ đề ra một số phương thức thiền (hành theo đường lối của cung môn sinh), dạy y biết cách nâng cao tâm thức từng bước. Các bạn lưu ý là tôi đã bàn đến chính tâm thức và mục tiêu mà tâm thức thiết tha hướng đến, tức là tôi đã bàn đến hai điểm đầu của mục này. Giờ đây ta bàn đến điểm cuối là những bước đưa đến thành đạt.

Ai muốn bước vào con đường phát triển huyền môn và có ước vọng hướng thượng, đều đã trải qua giai đoạn của một người thường, – là người thấy mình hoàn toàn đứng riêng biệt và chỉ làm điều gì có lợi cho mình thôi. Người chí nguyện thì nhằm mục đích khác. Y tìm cách hòa hợp với Chân ngã y và với tất cả những gì liên quan đến từ ngữ này. Những giai đoạn cao hơn rất khó hiểu và đều là những bí mật của Điểm đạo, nên chúng ta khỏi phải bàn.

Ước nguyện đạt đến Chân ngã, mang lại tâm thức cao siêu, và việc kế tiếp là phát triển tâm thức tập thể, chính là những điều trực tiếp liên hệ đến các độc giả của những bức thư này. Đó là bước kế tiếp, dành cho những ai đang đi trên Đường Dự bị. Nó không thể thành tựu bằng cách chỉ hành thiền mỗi ngày ba chục phút, theo những thể thức định sẵn.

Đây là cố gắng hết giờ này sang giờ khác, suốt ngày và tất cả [145] mọi ngày, để giữ tâm thức càng cao gần mức đạt được trong tham thiền buổi sáng càng hay. Đây là quyết tâm lúc nào cũng xem mình là Chân nhân, chứ không phải là một Phàm nhân riêng biệt. Về sau, khi Chân nhân ngày càng nắm quyền chế ngự, hành giả sẽ có khả năng xem mình là thành phần của một nhóm. Y không còn những ước muốn hay quyền lợi riêng tư nào, những mục tiêu hay mong ước nào khác hơn là điều tốt đẹp cho cả nhóm. Y cần phải luôn luôn cảnh giác từng giờ, từng phút, trọn ngày, để khỏi rơi trở lại những rung động thấp kém. Đó là sự chiến đấu liên tục với phàm ngã đang lôi kéo xuống, là sự tranh đấu không ngừng để gìn giữ những rung động thanh cao. Và – đây là điểm tôi muốn các bạn ghi nhớ – nên nhắm phát triển thói quen tham thiền suốt ngày và quen sống trong tâm thức Chân ngã. Hãy cố gắng cho đến khi tâm thức thanh cao ấy vững mạnh đến mức làm cho các loài tinh hoa của hạ trí, của dục vọng và của xác thân trở nên tiêu mòn và suy kém vì không được chú ý đến. Bấy giờ phàm tính tam phân chỉ còn là phương tiện để Chân nhân tiếp xúc với cõi trần nhằm mục đích trợ giúp nhân loại.

Khi làm thế, hành giả hoàn thành được những điều mà người môn sinh trung bình không hiểu được bao nhiêu. Y đang tạo một hình thể, một hình tư tưởng rõ rệt, cuối cùng thành một phương tiện để y vượt khỏi phàm tâm và nhập vào tâm thức Chân ngã, một loại hình thể tạm để làm trung gian dẫn truyền (cho y đến với Chân ngã). Những hình thức này thường không đổi và có hai loại:–

Hằng ngày người môn sinh tạo ra một hình thể của Chân sư y, một cách cẩn trọng, yêu thương và chăm chú, mà đối với y đó là hiện thân của tâm thức cao siêu lý tưởng. Trong tham thiền, y phác họa hình thể này và tô điểm cho rõ nét trong cuộc sống và tư tưởng hằng ngày. Hình thể này thấm nhuần mọi đức tốt, lấp lánh đủ màu sắc và nhất là được làm sống [146] động bằng tình thương của người môn sinh đối với Chân sư. Về sau (khi đã đạt yêu cầu) hình thể này sẽ được chính Chân sư làm cho thêm sống động. Ở một giai đoạn phát triển nhất định, hình thể này được dùng làm cơ sở cho kinh nghiệm huyền môn là nhập vào tâm thức Chân ngã. Người môn sinh tự nhận thức được rằng y là một thành phần của tâm thức Chân sư và qua tâm thức bao trùm tất cả của Ngài y lướt vào linh hồn của nhóm Chân ngã một cách hữu thức. Hình thể này làm trung gian cho kinh nghiệm ấy, cho đến lúc không còn cần đến nữa. Bấy giờ hành giả có thể nhập vào nhóm Chân ngã của y tùy ý muốn, và về sau có thể thường xuyên hữu thức an trụ trong đó. Đây là phương pháp được dùng rất nhiều, là con đường bác ái và sùng tín.

Trong phương pháp thứ hai, người môn sinh tự hình dung mình là một con người lý tưởng. Y hình dung mình có đủ các tính tốt, và trong cuộc sống hàng ngày y cố gắng sống đúng với hình ảnh lý tưởng ấy. Phương pháp này được dùng nhiều hơn cho những người trí thức, những người có trí năng và những người mà cung y không nhuộm nhiều màu sắc bác ái, sùng tín hay điều hòa. Phương pháp này không phổ thông như trường hợp trên. Hình tư tưởng được tạo trong thể trí này cũng là một hình thể tạm như trong phương pháp trên và hành giả từ đó lướt vào tâm thức Chân ngã. Thế nên, các bạn thấy việc tạo các hình thể này phải theo một số bước, và mỗi mẫu người (tùy theo cung) sẽ tạo một hình thể hơi khác nhau.

Mẫu người thứ nhất bắt đầu tạo hình ảnh của một cá nhân mà y thương mến, và từ đó y nâng tâm thức qua những cá nhân khác để đến Chân sư.

Mẫu người thứ hai bắt đầu tham thiền về đức tính mà y muốn có nhất, rồi từng đức tính được thêm vào để kiến tạo nên hình thể của cái ngã lý tưởng, cho đến mức có đủ mọi đức tính và y bỗng nhiên tiếp xúc được với Chân nhân của mình.

[147] Ngày mai, chúng ta cũng sẽ bàn về đề tài này nhưng theo khía cạnh khác và nghiên cứu sự khác nhau giữa huyền bí gia và thần bí gia.

Ngày 8-8-1920.

2.     Hình thức tham thiền của huyền bí gia và thần bí gia.

Đề tài hôm nay sẽ có nhiều điều thú vị.

Chắc hẳn điều có giá trị là trước hết chúng ta nên thận trọng phân biệt giữa hai mẫu người này. Thần bí gia không nhất thiết là một huyền bí gia, nhưng huyền bí gia phải vốn là một nhà thần bí. Khoa thần bí chỉ là một bước trên đường huyền bí học. Trong thái dương hệ này – hệ của tình thương linh hoạt – con đường ít trở ngại nhất cho nhiều người là con đường của thần bí gia, hay là con đường bác ái và sùng tín. Trong thái dương hệ sau, con đường ít trở ngại nhất sẽ là con đường mà hiện giờ chúng ta gọi là con đường của huyền bí gia. Lúc đó, mọi người đều đã đi qua con đường thần bí. Hai mẫu người này khác nhau thế nào?

Thần bí gia quan tâm đến sự sống đang tiến hóa. Huyền bí gia chú ý đến hình thể.

Thần bí gia chú trọng đến Thượng Đế ở nội tâm. Huyền bí gia chú trọng đến Thượng Đế biểu hiện ở bên ngoài.

Thần bí gia đi từ trung tâm ra ngoại biên. Huyền bí gia làm ngược lại.

Thần bí gia tiến lên cao bằng chí nguyện và sự nhiệt liệt tôn sùng Đấng Thượng Đế trong tâm hay vị Chân sư y thừa nhận. Huyền bí gia thành đạt bằng cách nhận biết sự vận hành của định luật và vận dụng định luật để chi phối vật chất và cung ứng nó cho các nhu cầu của sự sống ẩn bên trong. Theo cách này, huyền bí gia tiến đến các Đấng Thông tuệ là những Đấng vận dụng định luật, cho đến khi y đạt đến Nguồn Thông tuệ nguyên thủy.

[148] Thần bí gia hoạt động qua các Cung Bác ái, Điều hòa và Sùng tín, hay là con đường của Cung hai, Cung bốn và Cung sáu. Huyền bí gia hoạt động qua Cung Quyền lực, Cung Hoạt động và Cung Định luật Nghi thức, hay là Cung một, Cung ba và Cung bảy. Cả hai đều gặp gỡ và hòa hợp nhau bằng sự phát triển trí tuệ, hay là qua Cung năm, Cung Kiến thức Cụ thể (là một phần nhỏ của nguồn thông tuệ vũ trụ). Trên cung thứ năm này nhà thần bí trở thành huyền bí gia và sau đó hoạt động với tất cả các cung.

Bằng cách tìm ra Thiên giới trong tâm mình và bằng cách nghiên cứu những định luật của chính bản thể mình, thần bí gia trở nên thông thạo các định luật quản trị vũ trụ mà y là một thành phần trong đó. Huyền bí gia nhận biết Thiên giới trong thiên nhiên hay thái dương hệ và tự xem mình là một phần nhỏ của tổng thể to lớn đó, và vì thế cũng chịu sự chi phối của những định luật giống nhau.

Nói chung, thần bí gia hoạt động trong ngành của Đức Chưởng giáo hay là Đức Di Lạc (Đấng Christ), còn huyền bí gia thì thường hoạt động trong ngành của Đức Bàn cổ hay Đấng Cai trị. Nhưng khi cả hai đã đi qua bốn cung phụ trong ngành của Đức Văn minh Đại Đế thì sự phát triển của họ đến mức hoàn hảo. Bấy giờ thần bí gia trở thành huyền bí gia và huyền bí gia bao gồm những đặc tính của nhà thần bí. Nói một cách đơn giản để dễ hiểu hơn là:– Sau cuộc điểm đạo thì thần bí gia hoà hợp với huyền bí gia và y trở nên người học hỏi định luật huyền môn. Y phải làm việc với vật chất, vận dụng và sử dụng nó. Y phải chủ trị và kiểm soát được tất cả những hình thể thấp của cuộc biểu hiện và học những qui luật làm việc của các thiên thần kiến tạo. Trước khi điểm đạo, con đường của thần bí gia có thể được gọi là Con đường Dự bị. Trước khi huyền bí gia có thể vận dụng được vật chất của thái dương hệ một cách khôn ngoan, y phải thấu đáo các định luật chi phối tiểu vũ trụ. Dù đương nhiên y ở trên con đường huyền [149] bí nhưng y vẫn phải tìm thấy Thượng Đế trong chính bản thể y, trước khi có thể thám hiểm con đường của định luật huyền môn một cách an toàn.

Thần bí gia tìm cách tiến từ thể cảm dục lên thể trực giác (bồ-đề), sau đó đến Chân thần hay Tinh thần. Huyền bí gia làm việc từ thể xác đến thể trí sau đó đến atma hay Tinh thần. Người này đi theo con đường bác ái. Người kia đi theo con đường của ý chí. Thần bí gia không đạt được mục đích của cuộc sống y – tức là tình thương biểu lộ trong hành động – nếu y không biết dùng ý chí thông tuệ để điều hợp toàn thể các hoạt động. Vì thế thần bí gia phải trở thành huyền bí gia.

Huyền bí gia cũng bị thất bại tương tự và chỉ trở thành đại diện ích kỷ của quyền năng tác động thông qua trí thông minh, nếu y không đặt mục đích cho ý chí và tri thức của mình bằng tình thương linh hoạt, là động cơ đầy đủ cho tất cả các cố gắng của y.

Tôi đã cố gắng giúp các bạn phân biệt được hai nhóm này thật rõ, vì vấn đề này rất quan trọng khi nghiên cứu thiền. Hình thức tham thiền sử dụng cho mỗi nhóm đều hoàn toàn khác nhau, và khi dùng nhãn thông nhìn vào, ta sẽ thấy thật là thú vị.

Hình thức tham thiền thần bí.

Khi nói “hình thức thần bí” thì hầu như là một điều nghịch lý, vì nếu nhà thần bí được để làm theo ý mình thì y loại bỏ mọi hình tướng. Y chỉ tập trung vào Thượng Đế hay Chân tánh ở bên trong, và mãi suy ngẫm về tâm điểm ý thức này. Y tìm cách liên kết tâm điểm này với những tâm điểm khác – như là Chân sư của y, hay một vị thánh, hoặc ngay cả chính Đức Thượng Đế – và tiến lên bằng con đường của sự sống, không màng đến bất cứ lớp vỏ bọc nào bên ngoài. Y đi theo con đường của lửa. Đối với y thì câu “Thượng Đế của chúng ta [150] là ngọn lửa đang thiêu hủy” là lời phát biểu thực tế, có tính chân lý nhận thức được. Y tiến lên từ loại lửa này đến loại lửa khác, từ những nhận thức từng bước về Lửa nội tại cho đến mức chạm đến lửa vũ trụ. Có thể nói là nhà thần bí sử dụng chỉ một hình thức là cái thang bằng lửa hay thập tự bằng lửa, nhờ đó mà y nâng tâm thức lên đến mức mong muốn. Y chú tâm đến những điều trừu tượng, vào các thuộc tính (attributes) hơn là các trạng thái (aspects), về phương diện sự sống hơn là phương diện hình thể. Y ước nguyện, y thiêu hủy, y điều hòa, y yêu thương và làm việc trong sự tôn sùng. Y tham thiền bằng cách cố gắng loại trừ toàn bộ trí cụ thể và mong mỏi được vươn lên từ cõi tình cảm đến cõi trực giác.

Thần bí gia có những nhược điểm: ưa mơ mộng, dễ sinh ảo tưởng, không thực tế, đa cảm và thiếu đức tính của trí tuệ mà chúng ta gọi là phân biện. Y có trực giác, có khuynh hướng tử vì đạo và tự hy sinh. Trước khi có thể thành công và trước khi được điểm đạo, y phải làm ba việc:–

Một là qua tham thiền, để chế ngự trọn cả bản tính mình, và phải học cách tạo những hình thể, nhờ đó mà hiểu được giá trị của chúng.

Hai là y phải phát triển khả năng đánh giá đúng đắn sự vật cụ thể, và hiểu rõ vai trò của những lớp vỏ bọc khác nhau trong cơ sáng tạo vạn vật, là các hình thể mà sự sống y hết sức yêu quý phải biểu hiện xuyên qua đó. Y phải dùng thể trí để làm việc và biến nó thành kho tích lũy các sự kiện, trước khi y có thể tiến xa hơn.

Ba là y phải học hiểu giá trị nhị nguyên của đại vũ trụ, nhờ nghiên cứu tiểu vũ trụ một cách sáng suốt, tức là nghiên cứu hệ thống tinh thần-vật chất nhỏ bé của chính y.

Thay vì chỉ biết ngọn lửa thiêu hủy, y phải hiểu và làm việc bằng ngọn lửa kiến tạo, hàn gắn và phát triển hình thể. Qua tham thiền, y phải học công dụng tam phân của Lửa. Câu sau cùng này thật là quan trọng nên các bạn cần lưu ý.

[151] Ngày 10-8-1920.

Hình thức tham thiền huyền môn.

Hai ngày trước chúng ta đã nghiên cứu phương pháp nhà thần bí tiến đến sự hợp nhất, và phác họa vắn tắt con đường mà y cố gắng để đạt mục tiêu. Hôm nay chúng ta cũng phác họa vắn tắt con đường của huyền bí gia, phương pháp thiền của y, so sánh với phương pháp thiền thần bí. Sau đó chúng ta nêu ra cách nào mà cả hai phải hòa hợp và các yếu tố riêng rẽ nơi họ cần được thống nhất.

Đối với huyền bí gia thì con đường của hình thể là con đường ít trở ngại nhất, và sẵn đây tôi xin thêm vào một ý tưởng. Vì sự kiện này đang được thừa nhận, nên chắc rằng hiện nay chúng ta có thể thấy được sự phát triển mau lẹ của kiến thức huyền môn và sự xuất hiện của một số huyền bí gia chân chính. Nhờ sự nhập cuộc của Cung bảy, Cung của Hình thể hay Nghi thức, mà việc tìm thấy con đường huyền môn và hấp thụ các kiến thức huyền môn trở nên rất dễ dàng. Trước hết, huyền bí gia chú tâm vào hình thể mà Thượng Đế biểu lộ xuyên qua đó hơn là chính Thượng Đế, và đây là điểm khác biệt căn bản giữa hai nhóm, rõ nét ngay từ bước đầu. Thần bí gia loại bỏ hay cố vượt lên khỏi trí tuệ trong cuộc tìm kiếm Chân ngã. Huyền bí gia đạt đến cùng mục đích nhờ chú ý một cách sáng suốt vào các hình thể che phủ Chân ngã và nhờ sử dụng nguyên khí trí tuệ ở cả hai cấp độ thượng và hạ trí.

Y nhận ra được những lớp vỏ che án. Y chú tâm nghiên cứu những định luật chi phối thái dương hệ biểu hiện. Y chú tâm vào cái khách quan, cụ thể và trong những năm đầu đôi khi y có thể bỏ qua, không màng đến giá trị của cái chủ quan, trừu tượng. Rốt cuộc, y đạt đến sự sống ở nội tâm bằng cách dùng sự hiểu biết và chủ trị một cách ý thức hết lớp vỏ này đến lớp vỏ khác. Y tham thiền về hình thể cho đến mức, hình thể mờ đi, và vị sáng tạo ra hình thể trở thành cái toàn thể trong vạn hữu. [152]

Cũng như thần bí gia, huyền bí gia phải làm ba việc:–

1.     Y phải học định luật và áp dụng định luật đó vào chính mình. Phương pháp của huyền bí gia là giữ giới thật nghiêm nhặt. Cần phải làm thế vì những hiểm nguy đối với huyền bí gia khác với các nguy hiểm của nhà thần bí. Y phải hoàn toàn tẩy sạch lòng kiêu căng, tính ích kỷ và việc sử dụng định luật vì tính hiếu kỳ và lòng ham muốn quyền lực, trước khi y được tin cậy giao cho gìn giữ những bí mật của Đường Đạo.

2.     Trong khi tham thiền y phải thông qua hình thức đã tạo được mà chú tâm vào sự sống nội tại. Y phải tìm ngọn lửa đang cháy sáng trong tâm, nó soi tỏ tất cả các hình thể làm nơi trú ẩn cho sự sống thiêng liêng.

3.     Bằng việc nghiên cứu một cách khoa học về đại vũ trụ, là “Thiên giới ở bên ngoài,” y đạt đến trình độ thấy rằng Thiên giới này cũng có trong tâm y.

Vì thế, đây là điểm hòa hợp của thần bí gia và huyền bí gia. Đến giai đoạn này hai con đường nhập một. Ở đầu bức thư này tôi có nói đến sự thú vị của nhà nhãn thông khi quan sát sự dị biệt của những hình thể do nhà thần bí và nhà huyền bí tạo ra trong tham thiền. Tôi có thể kể ra vài điểm khác nhau để các bạn lưu ý, dù rằng nếu các bạn chưa có mắt thấy được thì đây cũng chỉ là ngôn từ thôi.

Những hình thể do thần bí gia và huyền bí gia tạo ra, thấy qua nhãn thông.

Nhà thần bí khi đang tham thiền tạo ra trước y và chung quanh y một hình ảnh mơ hồ, với những nét phác mờ mịt như mây, thế nào để chính y là trung tâm của hình thể đó. Thường thì theo khuynh hướng của thượng trí y mà tâm điểm của hình thể đó có thể là một biểu tượng được ưa thích như thập tự giá, bàn thờ hay ngay cả hình tư tưởng của y về một Đấng Cao cả. Hình thể này được bao bọc bằng những làn sương của lòng sùng tín, hòa nhịp với những đợt màu sắc dâng tràn, dấu hiệu của chí nguyện, tình thương và lòng mong ước thiết tha. Những màu sắc trong đó thật trong sáng và tinh khiết lạ [153] thường và càng lúc càng vươn lên đến mức rất cao. Mật độ và vẻ đẹp của những đám mây màu sắc đang dâng cao này tùy theo khả năng chí nguyện và lòng bác ái của hành giả. Còn sự chính xác của biểu tượng hoặc hình ảnh ở trung tâm các đám mây màu sắc đang luân chuyển thì tùy theo sự ổn định trong tính tình của y.

Những hình thể do huyền bí gia tạo ra được trí tuệ chi phối nhiều hơn, nên thuộc loại hình học. Những đường nét sẽ rõ rệt, nhưng thường cứng nhắc. Hình thể này được tạo ra một cách chu đáo tỉ mỉ hơn và trong thời gian tham thiền hành giả tiến hành một cách cẩn thận và chính xác hơn. Có thể nói y thận trọng vận dụng vật liệu để kiến tạo hình thể đó. Vật chất của cõi trí sẽ lộ rõ hơn và vật chất của cõi tình cảm sẽ là phụ thuộc, dù trong đó cũng có vài đám mây làm bằng chất liệu tình cảm. Những màu sắc được dùng có thể trong sáng ngang nhau nhưng được phân phối tùy theo những chủ đích cụ thể của hành giả. Còn hình thể thì nổi rõ chứ không bị chìm trong các màu sắc của tình cảm dâng cao như thường có trong hình thức tham thiền thần bí.

Về sau, khi hành giả thuộc một trong hai nhóm đã đạt được mức phát triển đầy đủ hơn và thành một huyền bí gia kiêm cả nhà thần bí, thì những hình thể tạo được sẽ kết hợp được cả hai phẩm tính, với vẻ đẹp hiếm có.

Hôm nay như thế cũng đủ, nhưng tôi muốn phác họa cho các bạn những ý tưởng mà sau này phải đem ra bàn. Chúng ta sẽ bàn đến việc sử dụng các hình thể để đạt những kết quả đặc biệt. Dù rằng tôi không có ý định phác thảo hay đưa các hình thức đó ra nhưng tôi muốn phân loại chúng cho các bạn biết để về sau khi vị Huấn sư đến với mọi người Ngài có thể thấy các môn sinh ở khắp nơi đều đã hiểu được vấn đề này.

1.     Các hình thức thiền ảnh hưởng đến ba hạ thể.

2.     Những hình thức dành cho các cung. [154]

3.     Những hình thức dùng để chữa bệnh.

4.     Các câu thần chú.

5.     Các hình thức dùng cho một trong ba Ngành:–

a.           Ngành của Đức Bàn cổ.

b.           Ngành của Đức Chưởng giáo hay Đấng Christ.

c.            Ngành của Đức Văn minh Đại đế.

6.     Những hình thức để kêu gọi các tinh linh.

7.     Những hình thức để tiếp xúc với các thiên thần.

8.     Những hình thức đặc biệt liên quan đến Lửa.

Ngày 11-8-1920.

. . . Những thời gian xác thân bị suy yếu chỉ có giá trị khi cho thấy rằng hành giả hết sức cần phải kiến tạo một xác thân mạnh khỏe trước khi y có thể thành tựu được nhiều, và sức khỏe tốt là một điều quan trọng trước khi người đệ tử có thể tiến tới trên Đường Đạo. Chúng tôi không thể cho phép các môn sinh làm một số việc, hoặc là chỉ dạy cho họ theo một số đường hướng, trừ khi xác thân họ được khỏe mạnh, và họ thực sự không bị trở ngại bao nhiêu về bệnh tật hay sức khỏe kém, và nghiệp quả bị tai nạn của cá nhân họ hầu như đã được trả sạch. Đôi khi nghiệp quả quốc gia hay của nhóm cũng ảnh hưởng đến người môn sinh và gây khó khăn phần nào cho các kế hoạch, nhưng điều này không thể tránh và ít khi có thể được giải trừ.

Sử dụng những hình thức đặc biệt cho các mục tiêu cụ thể.

Từ trước đến nay chúng ta đã bàn nhiều về những khía cạnh tham thiền cho cá nhân, và đã xem xét hai loại thiền thật phổ biến và thật cơ bản, tức là nghiên cứu sơ qua về (a) Tham thiền của thần bí gia, và (b) Tham thiền của huyền bí gia.

Chúng ta hầu như chỉ nói tổng quát chứ không cố đi sâu vào chi tiết. Ở giai đoạn này việc bàn chi tiết là không thích [155] hợp và không đáng làm chút nào. Tuy nhiên, đến một trình độ nhất định trong tham thiền, khi người môn sinh đã có được sự tiến bộ cần thiết, đã trải qua một số giai đoạn cụ thể và đã đạt được một số mục tiêu nhất định (sự thành đạt đó được xác nhận bằng cách quan sát thể nguyên nhân của môn sinh), và khi y đã đặt được nền móng của cuộc sống chân chánh mà không cơn bão táp hoặc cuộc tấn công nào có thể dễ dàng gây xáo trộn hay phá hủy được, bấy giờ vị Huấn sư mới có thể truyền dạy cho người môn đệ thành tâm những giáo huấn để y có thể xây dựng bằng vật chất của cõi trí, theo một số qui luật và những thể thức nhất định, đưa đến những tác động và phản ứng cụ thể. Những thể thức này sẽ được lần lượt truyền dạy và đôi khi (nhất là lúc đầu) người môn đệ không hề ý thức được các thành quả đã đạt. Y sẽ tuân theo các mệnh lệnh, đọc những chân ngôn được truyền dạy, hoặc thực hành theo những công thức đã được phác thảo, và các kết quả đạt được có thể tự xảy ra, dù cho người môn đệ không ý thức được điều đó. Về sau – nhất là sau khi được điểm đạo, khi các năng khiếu ẩn vi đã hoạt động, và các luân xa đã xoay trong trật tự của bề đo thứ tư – y có thể trực nhận được các hiệu quả tham thiền của y ở cõi tình cảm và cõi trí.

Chúng tôi không bao giờ bận tâm đến các kết quả. Triệt để tuân theo định luật, luôn luôn chấp hành các qui tắc đã đặt ra, cố gắng hành động thật khéo léo, đó là phận sự của người môn đệ khôn ngoan. Những kết quả tất sẽ có mà không kèm theo nghiệp quả.

. . . Chúng ta hãy đề cập đến từng hình thức theo thứ tự, nhưng trước hết tôi xin có lời khuyến cáo. Tôi không có ý định phác họa những thể thức, hay đưa ra những huấn thị cụ thể về cách đạt được những kết quả đã định. Điều đó sau này sẽ được thực hiện, nhưng không thể nói được khi nào. Có rất nhiều yếu tố tùy thuộc vào công việc thực hiện trong bảy năm tới, tùy theo nghiệp quả của nhóm và cũng tùy thuộc vào sự tiến bộ đạt được, không những của nhân loại mà còn của trường tiến hóa thiên thần. Tất cả sự bí mật của điều này đều ẩn trong

Cung bảy là Cung Nghi thức, và thời điểm cho bước tiến kế [156] tiếp sẽ được ấn định do Đức Hành Tinh Thượng Đế thứ bảy, Ngài làm việc phối hợp với ba vị Trưởng ngành, nhất là với vị Trưởng ngành thứ ba.

Những hình thức thiền dùng cho ba hạ thể.

Đây là những hình thức sẽ được tiết lộ trước nhất, và trong những lối tham thiền khác nhau đã được các vị Hướng đạo minh triết của nhân loại tán thành, các bạn thấy có ấn định những nét phác họa cơ bản để làm việc với hạ trí. Các phương thức này sẽ dựa vào nhu cầu đặc biệt của một hạ thể, và sẽ tìm cách vận dụng vật chất để tạo ra những gì cần thiết cho việc bổ túc các khuyết điểm và cung ứng những thiếu sót. Việc vận dụng này trước nhất sẽ bắt đầu trên chất dĩ thái của thể hồng trần, bằng những cách tập thở (hô hấp), và bằng các dòng mãnh lực nhịp nhàng phát khởi trên cõi trí và từ đó được lèo lái xuống các tầng dĩ thái thấp hơn. Nhờ thế, thể dĩ thái sẽ được tăng cường, tinh luyện, tẩy sạch và chỉnh đốn lại. Nhiều bệnh tật của xác thân bắt nguồn từ thể dĩ thái, và nên chú ý đến mục tiêu này càng sớm càng hay.

Cũng sẽ có những hình thức tham thiền đặc biệt dùng cho thể tình cảm, và khi người môn sinh đã cần mẫn vun bồi đức tính phân biện và lấy đó làm một yếu tố linh hoạt trong đời y thì lúc đó các hình thức thiền này sẽ lần lượt được trao truyền. Nhưng ngày nào y chưa có thể phân biệt được ít nhiều giữa điều chân lẽ giả và chưa điều chỉnh được ý thức tỉ lệ một cách khôn ngoan, thì cõi cảm dục đối với y vẫn là một bãi chiến trường, chứ không phải là trường thực nghiệm. Xin nói rõ hơn về loại công việc mà các hình thức thiền tác dụng vào vật chất tình cảm này phải hoàn thành. Mục tiêu của người môn sinh đang đi trên Đường Đạo là kiến tạo một thể tình cảm có thành phần là vật chất của các cõi phụ cao, trong sáng và nhạy cảm. Dùng thể này làm trạm tiếp chuyển chính xác, [157] với rung động ổn định, chuyển động đều đặn, nhịp nhàng, không dễ dàng bị xáo trộn bởi những cơn bão táp và không bị những xúc cảm thiếu kiểm soát làm cho xao xuyến. Khi mục tiêu lý tưởng này đã đạt được khá cao, khi vật chất của hai cõi phụ cao đã gần đủ số phần trăm cần thiết, và khi người môn sinh lúc nào cũng thực sự nhận ra rằng y không phải là ba hạ thể, mà quả thật là Đấng thiêng liêng ngự trong chúng, thì lúc đó y mới được truyền dạy một số điều mà khi theo đúng y sẽ làm được hai việc:

Tác động ngay vào thể cảm dục, thải ra những chất tạp và thô, và ổn định sự rung động của thể này.

Tạo một thể hay hình thể bằng chất liệu tình cảm để y có thể dùng trong những công tác nhất định, và có thể sử dụng làm phương tiện để đạt các kết quả mà sẽ là một phần trong việc tinh luyện và kiến tạo thể tình cảm. Chỉ có thể nói với các bạn bấy nhiêu thôi, nhưng cũng đủ nêu rõ loại hình thức cần nhắm đến.

Hình thức tham thiền của các cung.

Đây là một vấn đề rất thú vị và rộng lớn nên chỉ có thể nói tổng quát thôi. Có những hình thức thiền được đặt theo phương diện số học của những cung khác nhau là sở hữu đặc biệt của các cung đó, thể hiện ý nghĩa hình học và cho thấy vị trí của chúng trong thái dương hệ. Một số hình thức này thuộc về các cung cụ thể hay cung kiến tạo thì thích hợp cho các huyền bí gia, trong khi những hình thức thiền khác thuộc các cung trừu tượng hay cung thuộc tính thì nhà thần bí dễ thực hành hơn.

Các hình thức này nhằm ba mục đích:–

a.     Giúp người môn sinh tiếp xúc ngay với cung của mình, dù đó là cung Chân nhân hay Cung phàm nhân.

b.     Giúp y liên kết với nhóm của y ở các nội giới, hoặc là nhóm người phụng sự, nhóm người cứu trợ vô hình, hay sau này là nhóm Chân nhân của y. [158]

c.       Giúp môn sinh hòa hợp được hai con đường huyền bí và thần bí trong cuộc sống y. Nếu đang đi trên đường thần bí thì y sẽ thực hành phương thức thiền của các Cung Trạng thái, để phát triển tri thức về phương diện cụ thể của Thiên nhiên tức là phương diện làm việc theo định luật. Ở trường hợp người có khuynh hướng huyền bí thì các bạn có thể nói ngược lại, cho đến khi nào hai con đường nhập một và các hình thức thiền đều như nhau đối với Điểm đạo đồ. Các bạn nên nhớ rằng ở điểm hòa hợp này bao giờ hành giả cũng làm việc chính yếu ở cung y, khi đã vượt lên khỏi Phàm ngã và tìm được nốt của Chân ngã y. Sau đó, y vận dụng vật chất của chính cung y và qua hình thức thiền của cung này y thực hành các hình thức thiền tiêu biểu cho các cung phụ, cho đến khi y thành thạo và biết được bí quyết tổng hợp. Người môn đệ được vị Huấn sư truyền dạy các hình thức thiền này.

Các bạn sẽ thấy rằng dù tôi nói về vấn đề này rất ít, nhưng nếu chịu suy ngẫm những điều tôi đã nói các bạn sẽ thấy chúng chứa đựng rất nhiều. Chúng có thể cho những ai thấu đáo ý nghĩa của chúng chiếc chìa khóa để tìm ra bước tiến kế tiếp. Tôi có thể đề cập đến vấn đề này và nói rộng thêm, khi chúng ta bàn vấn đề tiến đến Chân sư nhờ tham thiền.

Hình thức thiền để chữa bệnh.

Khi bàn đến những hình thức thiền này, trước hết ta hãy xếp chúng thành ba nhóm, mỗi nhóm gồm nhiều đề mục phụ.

a.     Những hình thức thiền để chữa bệnh cho thể xác. Chắc chắn các bạn ngạc nhiên khi thấy rằng ít khi phải dùng hình thức thiền loại này, và vì thế chúng không có nhiều. Lý do là ít có bệnh tật nào của xác thân lại phát sinh từ chính nó. Một vài bệnh bắt nguồn từ thể dĩ thái, nhưng ở giai đoạn tiến hóa này thì đa số các bệnh tật đều phát sinh từ thể cảm dục, và phần còn lại từ thể trí. Chúng ta có thể nói khái quát như sau: [159]

25% bệnh tật thể xác phát sinh từ thể dĩ thái.

25% do thể trí.

50% bắt nguồn từ thể tình cảm.

Vì thế, dù những tai nạn có thể mang tai họa bất ngờ đến cho thể xác và các hình thức thiền để trị các bệnh tật đó có thể được truyền dạy, nhưng người môn sinh khôn ngoan sẽ thấy rằng trước phải bắt đầu bằng các hình thức thiền ảnh hưởng đến thể dĩ thái. Các hình thức này khi được tạo ra trong tham thiền, sẽ tác dụng ngay vào các kênh sinh lực đi vào cơ cấu của thể dĩ thái – mạng lưới phức tạp này có phần tương ứng của nó trong hệ tuần hoàn của xác thân. Chúng là nguồn gốc của nhiều bệnh tật trong thể xác hiện nay, hoặc là trực tiếp hay do những nguyên nhân từ thể tình cảm phản ứng vào thể dĩ thái.

b.     Những hình thức thiền để chữa bệnh cho thể tình cảm. Như đã nói trên, nhiều bệnh tật hiện nay là do những nguyên nhân phát khởi trong thể tình cảm. Các nguyên nhân này có ba loại chính, và tôi chỉ đưa ra những lời chỉ dẫn tổng quát thôi.

Tình cảm dữ dội và sự rung động không ổn định. Nếu buông thả sẽ gây đổ vỡ và phản ứng vào thần kinh hệ. Nếu bị dồn nén hay ức chế, nó cũng gây hiệu quả nguy hiểm tương tự, gây bệnh gan và mật, chất độc tiết ra trong cơ thể, biểu lộ trong các trường hợp ngộ độc do nhiễm khuẩn, các bệnh ngoài da và vài chứng thiếu máu.

Sự sợ hãi và các tiên cảm tai nạn, âu lo và thất vọng. Các loại tình cảm này thường xảy ra, có hiệu quả làm suy nhược cơ thể, đưa đến mất sinh lực, làm trì trệ sự hoạt động của các cơ quan và nhiều hình thức bệnh hoạn tiềm ẩn trong hệ thần kinh, trong não bộ và trong cột sống. [160]

Xúc cảm tình dục, chiếm phần rất lớn trong tình cảm, từ sự đè nén dục tình (mà các nhà tâm lý học đang bắt đầu nghiên cứu) cho đến các tình cảm tội lỗi, nhơ bợn, biểu lộ trong sự ăn chơi trụy lạc và phóng đãng.

Nhiều điểm có thể gom lại để bàn dưới những đề mục này, nhưng các bức thư này không phải viết để chữa bệnh mà là thư về tham thiền nên tôi không thể nói rộng thêm.

Trong những hình thức thiền dùng cho ba trường hợp trên, cần phải chú ý đến những nguyên nhân gây bệnh, nó bắt nguồn từ cảnh giới nào, và những hậu quả trên các hạ thể, hay từng thể. Việc phân định các hình thức thiền phải nhắm đến những mục tiêu khác nhau. Ví dụ như khi bệnh do tình cảm bị đè nén, thì hình thức thiền (nếu được theo đúng) phải có hiệu quả chuyển hóa tình cảm đó và giúp nó thăng hoa. Khi sử dụng hình thức thiền đúng đắn, thể cảm dục được tẩy sạch các u uất tình cảm, thì mãnh lực ban phát sự sống của Chân nhân và của sinh lực prana (có ở khắp nơi) sẽ được khai phóng. Các sức mạnh này sẽ lưu thông dễ dàng, điều hòa toàn cơ thể và tẩy sạch các cơ quan bị đau yếu do bế tắc bên trong.

c.      Những hình thức thiền để chữa bệnh thể trí. Đối với phần đông các bạn, thì các hình thức này có vẻ khó hiểu hơn, và thực tế là các bệnh thể trí khó trị hơn bệnh ở hai thể kia rất nhiều. Điều này có hai nguyên nhân, một là sự phân cực của toàn nhân loại chưa ở trong thể trí. Khi một thể là trụ điểm của tâm thức, thì bao giờ việc tiếp xúc và vận dụng nó cũng dễ dàng hơn rất nhiều. Thể cảm dục cũng vậy, vì uyển chuyển hơn nên nó dễ được cảm kích hơn. Hôm nay tôi không thể nói nhiều hơn về các bệnh tật của thể trí trừ việc nêu ra rằng các nguyên nhân này có thể phát sinh trong chính thể trí vì nghiệp quả kiếp trước, hoặc bắt nguồn từ thể cảm dục và phản ứng ngược lại thể trí. Ví dụ như một người có khuynh [161] hướng dễ bị những cơn bão tố trong tình cảm. Nếu điều này cứ tiếp tục xảy ra thì có thể gây nên rung động tương tự trong thể trí. Sự rung động này lại có thể trở thành thường xuyên, và sự tương tác giữa hai thể này có thể sinh ra bệnh nặng. Bệnh chứng này có thể mang nhiều hình thức, từ đơn giản là gây tính gắt gỏng cho cá nhân ấy, khiến y trở nên khó chịu, sống không hạnh phúc, cho đến các bệnh não, gây điên khùng, não có bướu hay ung thư trong đầu.

Với các bệnh tật này cũng có những hình thức tham thiền – nếu thực hành kịp thời – cuối cùng sẽ chữa trị được. Ở đây, các bạn cần hiểu rõ sự kiện căn bản là chỉ khi nào người môn sinh đã sáng suốt đánh giá được một cơn bệnh hay các cơn bệnh đã ảnh hưởng đến y, chỉ khi nào y có khả năng thận trọng theo đúng các công thức được truyền thụ, và chỉ khi nào mục tiêu của y là bất vị kỷ, y mới được giao phó cho các hình thức thiền này. Khi mục tiêu của y là tự trang bị để phụng sự, khi y chỉ nhằm có được các thể mạnh khỏe để thực hiện kế hoạch của các Đấng Cao cả một cách tốt đẹp hơn, và khi y không muốn trốn tránh bệnh tật vì lợi ích cá nhân y, thì chỉ chừng đó các công thức này mới tác động kết hợp với tâm thức Chân nhân. Sức sống tuôn xuống từ Thượng Đế nội tâm làm cho các hạ thể mạnh khỏe, vì thế, chỉ khi nào phàm nhân hòa hợp với Chân nhân và sự phân cực chuyển từ thấp lên cao thì công việc này mới thực hiện được. Hiện nay thời điểm này đang đến với nhiều người, và mong rằng có sự tiến bộ trong trường phái y khoa mới – căn cứ trên tư tưởng. Những hình thức trong tham thiền chẳng qua chỉ là những hình thể làm bằng chất liệu tư tưởng, nên các bạn sẽ thấy rằng bước khởi đầu tổng quát đã được thực hiện.

Tôi đưa ra thêm một lời ngụ ý về vấn đề này:– Qua các luân xa khác nhau của cơ thể – tức là bảy luân xa mà người [162] môn sinh phải làm việc – quyền năng sẽ đến để chữa lành trung tâm tương ứng trong thể xác. Khi các luân xa này được làm sinh động thì hiệu quả sẽ biểu lộ ở thể xác. Và việc thực hành những thể thức thiền đặc biệt tác động vào và xuyên qua các luân xa sẽ mang lại những kết quả có thể soi sáng vấn đề khó hiểu là việc trị liệu qua các thể thanh.

Ngày 20-8-1920.

Hình thức thiền dùng thần chú.

Hôm nay chúng ta tiếp tục bàn về những hình thức mà một ngày kia sẽ rất thông dụng trong các môn sinh hành thiền huyền môn. Chúng ta đã đề cập đến ba hình thức, và hãy còn năm hình thức nữa phải bàn.

Hình thức thần chú là tập hợp các nhóm từ, những từ, và các âm thanh mà nhờ tác dụng nhịp nhàng sẽ đạt được những kết quả không thể thực hiện nếu thiếu chúng. Các hình thức thần chú này có quá nhiều không thể nghiên cứu ở đây. Thế nên chỉ cần đề cập phần nào về các loại thần chú sẽ hay đang được sử dụng trong những người có đặc ân dùng chúng.

Có những hình thức thần chú hoàn toàn dựa vào Thánh ngữ. Các thể thức này nếu được xướng lên một cách nhịp nhàng theo những âm giai nhất định sẽ thành tựu được những kết quả nhất định như việc kêu gọi các vị thần bảo hộ. Chúng đưa đến những hiệu quả nhất định ở nội tâm hay ngoại cảnh. Những thể thức hay thần chú này hiện nay được người Đông phương hay các tôn giáo Đông phương sử dụng nhiều hơn ở Tây phương. Khi quyền năng của âm thanh được hiểu biết đầy đủ hơn và tác dụng của âm thanh được nghiên cứu kỹ, thì các thần chú này sẽ được người Tây phương chấp nhận.

Một số câu chú rất cổ và khi được xướng lên bằng tiếng Bắc Phạn nguyên thủy sẽ có những hiệu quả mạnh mẽ không thể tưởng. Chúng mạnh mẽ đến đỗi người môn sinh bình [163] thường không được phép biết, và chỉ được khẩu truyền trong khi chuẩn bị cho cuộc điểm đạo.

Có một số câu chú rất huyền bí bằng tiếng Sensa nguyên thủy, mà Huyền giai vẫn còn biết kể từ thời gian đầu thành lập Đ.Đ.C.G…Chúng được các vị Hỏa Tinh quân mang đến địa cầu và chỉ có ba mươi lăm câu. Chúng là chìa khóa để mở những bí nhiệm của mỗi cõi phụ trong năm cảnh giới tiến hóa của nhân loại. Vị Chân sư được dạy cách dùng chúng, và có thể sử dụng chúng đúng chỗ, theo những điều kiện nhất định. Đây là những câu chú có quyền năng mạnh mẽ nhất được biết trên địa cầu chúng ta, với các hiệu quả rất sâu rộng. Như các bạn biết, sự rung động của mỗi cảnh giới đều tương ứng với một âm khóa và nốt khác nhau. Khi xướng lên một số từ nhất định theo cách đặc biệt, với giọng đặc biệt, người ta có thể vận dụng vật chất và các luồng mãnh lực của cảnh giới này. Khi xướng lên như thế, vị Chân sư nhập vào tâm thức của cảnh giới này và của tất cả các nhân vật bên trong. Những câu chú xướng lên bằng tiếng nước nào cũng đều căn cứ vào các thần chú nói trên, dù từ trước đến giờ đã bị chuyển đổi và sai lạc đến độ trên thực tế đã trở thành vô dụng.

Một số trong các thần chú nguyên thủy này được Huyền giai đồng xướng lên trong những dịp trọng đại, hay khi cần quyền năng tổng hợp của các Ngài để thực hiện những mục tiêu cần thiết. Mọi biến cố vĩ đại đều được mở đầu bằng việc xướng lên chủ âm của chúng và sử dụng những linh từ thích hợp. Mỗi căn chủng đều có câu chú cùng hòa âm riêng mà chỉ các bậc hữu trách với các giống dân mới biết được.

Như các bạn biết, cũng có những câu bằng tiếng Bắc Phạn được các môn sinh sử dụng khi tham thiền để kêu gọi sự chú ý của một vị Chân sư. Các câu chú này được Chân sư truyền cho đệ tử, để y kêu gọi đến sự chú ý và trợ giúp của Ngài. [164]

Những công thức khác quan trọng hơn, đôi khi được truyền đạt để có thể tiếp xúc với ba vị Trưởng ngành và thỉnh cầu được sự chú ý của các Ngài theo một chiều hướng nhất định.

Một câu chú, khi được xướng lên đúng cách, sẽ tạo ra một khoảng chân không trong vật chất, giống như một cái phễu. Cái phễu này được hình thành giữa người xướng thần chú và người nhận ảnh hưởng của nó, tức là đã tạo được một con đường thông đạt trực tiếp. Vì thế, các bạn thấy lý do tại sao các câu chú này được giữ gìn cẩn mật, những từ và những âm khóa của chúng được giấu kín. Dùng chúng mà thiếu phân biện thì chỉ mang lại tai họa. Người môn sinh trước khi có đặc ân được sử dụng một câu chú để kêu gọi đến Chân sư của y, phải đạt một trình độ tiến hóa nhất định và một sự rung động phần nào tương tự như Ngài.

Cũng có bảy câu thần chú mà chỉ có ba vị Trưởng ngành và các vị Huynh trưởng trong Đ.Đ.C.G. biết được. Các Ngài dùng chúng để kêu gọi bảy vị Hành Tinh Thượng Đế hay là bảy Đấng mà Thánh kinh Thiên Chúa giáo gọi là bảy vị “Tinh quân trước Ngai vàng.” Một trong các câu chú này dùng để tiếp xúc với Đấng Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta, cũng được các vị Chân sư biết đến. Cứ thế mà lên cao dần, các Linh từ được xướng lên, cho đến khi đạt đến câu thần chú của địa cầu, vốn dựa vào âm khóa của Trái đất, và gồm một câu tóm lược toàn cuộc tiến hóa của chúng ta. Mỗi hành tinh có một nốt hay âm tiết như thế để các vị hướng đạo của hành tinh đó có thể tiếp xúc với Hành Tinh Thượng Đế của họ. Bảy vị Hành Tinh Thượng Đế này lại có những nghi thức hay thể thức để liên lạc với Đức Thái Dương Thượng Đế Ba Ngôi. Luôn luôn các Ngài làm điều này bốn lần mỗi năm, hoặc khi nào có nhu cầu cấp thiết.

Mỗi năm một lần, toàn thể Đ.Đ.C.G. xướng lên một câu chú tổng hợp để tạo một khoảng chân không giữa các nhân viên cao nhất và thấp nhất của Đ.Đ.C.G. và tiếp tục hướng lên – qua bảy vị Hành Tinh Thượng Đế – để đến Đức Thái Dương [165]

Thượng Đế. Đó là lúc nỗ lực tinh thần đến mức mãnh liệt nhất và sống động nhất trong năm, mà hiệu quả kéo dài trong suốt các tháng sau đó. Hiệu quả này có tầm mức vũ trụ và liên kết chúng ta với trung tâm vũ trụ của chúng ta.

Thần chú của các cung. Mỗi cung đều có những công thức và âm thanh riêng, có hiệu quả quan trọng đối với những người thuộc cung đó. Người môn sinh khi hành thiền nếu xướng nó lên sẽ tạo ba hiệu quả:

1.     Giúp y liên kết và chỉnh hợp với Chân nhân hay Chân ngã của mình.

2.     Giúp y tiếp xúc với Chân sư, và qua Ngài mà tiếp xúc với một trong các vị Trưởng ngành, – tùy theo cung.

3.     Giúp y liên kết với nhóm Chân nhân của y và kết hợp tất cả thành một khối chặt chẽ, cùng rung động theo một âm điệu duy nhất.

Các thần chú này là một trong những bí mật của ba cuộc điểm đạo cuối cùng. Nếu không được phép người môn đệ không được xướng lên trước thời gian đó, dù đôi khi y có thể được dự vào việc xướng các câu thần chú theo sự hướng dẫn của Chân sư.

Các câu chú hay là những công thức ngôn từ khi được người đệ tử xướng lên sẽ có tác dụng trực tiếp vào một trong ba thể. Các câu chú này phần lớn đã được sử dụng trong các cuộc hành lễ của các đoàn thể tôn giáo trong mọi nước, dù bị lệch lạc nhiều. Một số hiểu biết đang được truyền đạt trong nghi thức của Giáo hội Thiên Chúa. . . . . . . . . . Các mật ngữ dùng trong Hội Tam điểm – dù hiện nay thực tế là không còn giá trị gì cả – đều dựa vào việc sử dụng các câu chú và một ngày kia khi có một vị Điểm đạo đồ lãnh đạo tất cả các tổ chức này (như Hội Tam điểm, các hội bí học và các đoàn thể tôn giáo) thì các câu chú cổ xưa sẽ được truyền dạy trở lại dưới hình thức thuần túy cho các dân tộc. [166]

Cũng có những câu chú dùng để trị bệnh và để mở các quan năng thần thông. Một số câu chú có tác dụng trực tiếp vào các luân xa của cơ thể, và sau này sẽ được sử dụng dưới sự hướng dẫn của Chân sư để tăng cường rung động, để tạo chuyển động theo bề đo thứ tư và để làm cho luân xa hoàn toàn linh hoạt.

Còn có những câu chú khác tác động vào lửa tiềm ẩn trong con người, nhưng tôi sẽ đề cập sơ lược sau này. Có nhiều kinh sách ở Đông phương bàn về vấn đề này, một đề tài thật rộng rãi đến đỗi tôi khuyên các bạn nên thận trọng, đừng nên tìm kiếm quá nhiều vì làm thế chỉ phí thì giờ của người phụng sự thế gian. Tôi đã đề cập đến vấn đề này vì không quyển sách thiền nào đầy đủ nếu không đề cập đến những điều mà một ngày kia sẽ thay thế tất cả các phương pháp thiền sơ cấp. Khi nhân loại đã đạt đến một mức phát triển nào đó, và khi thượng trí có ảnh hưởng lớn lao hơn, thì các câu chú huyền bí này – được truyền dạy đúng đắn và xướng lên đúng đắn – sẽ là một phần trong chương trình học thông thường của người môn sinh. Y sẽ bắt đầu tham thiền bằng việc sử dụng câu thần chú thuộc cung y, vì thế mà điều chỉnh được vị thế của mình trong đại cuộc. Sau đó y sẽ dùng câu chú kêu gọi đến Chân sư y, và tạo sự hòa hợp với Đ.Đ.C.G.. Bấy giờ, y sẽ bắt đầu tham thiền với các thể đã được chỉnh đốn, và với khoảng chân không mà y tạo ra để làm môi trường thông đạt.

Ngày 13-8-1920.

Những hình thức thiền dùng cho một trong ba ngành.

Vấn đề tôi đề cập hôm nay rất là thú vị vì đó là các hình thức thiền trong ngành của Đức Bàn cổ, của Đức Chưởng giáo và của Đức Văn minh Đại đế.

Ba ngành này trong Đ.Đ.C.G. tượng trưng cho ba trạng thái của Thượng Đế biểu lộ trong thái dương hệ, – Trạng [167] thái Ý chí hay Quyền lực, Trạng thái Bác ái và Minh triết (là trạng thái căn bản của thái dương hệ này) và Trạng thái Hoạt động hay Thông tuệ. Các bạn đã nghiên cứu và biết phần việc của ba ngành này rồi.

Đức Bàn cổ vận dụng vật chất và lo về sự tiến hóa của các hình thể, dù đó là thể xác của động vật, chất khoáng, hoa cỏ, con người hay hành tinh, hoặc đó là hình thể của các giống dân, các quốc gia, thiên thần hay trường tiến hóa khác.

Đức Di Lạc Bồ-tát hay là Đức Chưởng giáo Thế gian làm việc với sự sống đang tiến hóa trong hình thể. Ngài gieo rắc những ý tưởng tôn giáo và giúp phát triển các quan niệm triết học cả trong cá nhân và các giống dân.

Đức Văn minh Đại đế là Đấng tổng hợp bốn cung phụ. Ngài lo về mặt trí tuệ hay thông tuệ, và hợp tác với hai vị Đạo Huynh của Ngài, dìu dắt sự phát triển trí tuệ để Tinh thần hay Chân ngã có thể sử dụng hình thể hay Phi-ngã.

Công tác phối hợp của ba vị Trưởng ngành này thật lớn lao không thể tưởng. Hình thể–Sự sống–Thông tuệ, Vật chất–Tinh thần–Trí tuệ, Prakriti (Bản chất)–Purusha (Tinh thần)–Manas (Trí năng), là ba đường lối phát triển, và việc tổng hợp cả ba sẽ đưa đến sự hoàn thiện.

Mỗi đường hướng này đều hoạt động qua các công thức hay những thể thức đã định mà khi tiến hành theo những bước tuần tự hành giả sẽ tiếp xúc được với con đường tiến hóa đặc biệt tiêu biểu bởi vị Huynh trưởng của con đường đó.

. . . . . . . . . .Những gì tôi muốn nêu ra ở đây là ba con đường rõ rệt để hành giả có thể tiến lên đến Thượng Đế và hợp nhất với Chân ngã của Thái dương hệ. Y có thể tiến lên theo con đường của Đức Bàn cổ, y có thể thành đạt theo con đường của Đức Bồ-tát, hoặc y có thể đạt được mục đích theo con đường của Đức Văn minh. Nhưng các bạn hãy đặc biệt lưu ý rằng trên hành tinh này vị Chúa của Bác ái và Quyền lực, vị

Kumara thứ nhất, là tụ điểm của cả ba ngành. Ngài là Đấng [168] Điểm đạo Duy nhất. Dù hành giả đi theo con đường Quyền lực hay con đường Bác ái, hoặc con đường Thông tuệ, cuối cùng y cũng phải tìm thấy mục tiêu của mình trên Cung tổng hợp Bác ái và Minh triết. Y phải chính là tình thương và phát lộ tình thương này. Nhưng đó có thể là tình thương tác động qua quyền lực. Đó có thể là tình thương trong sự điều hòa, hoặc là tình thương tác động thông qua hiểu biết, qua nghi lễ hay sùng tín. Hoặc đó chỉ là bác ái và minh triết thuần túy, hòa hợp tất cả những đặc tính khác. Bác ái là nguồn cội, là mục tiêu, là phương pháp thành đạt.

Ngày 14-8-1920.

Ba con đường tiến lên.

Tiếp tục bàn vấn đề hôm qua, các bạn sẽ nhận thấy rằng có ba con đường trực tiếp giữa thượng và hạ, tất cả đều tụ hội qua cùng một Đấng Điểm đạo, và đồng thời ba con đường này lại hoàn toàn khác nhau trong phương pháp tiến tới. Nếu các bạn ghi nhớ điểm này thì rõ ràng mỗi con đường đều cung ứng cho hành giả (nốt của Chân nhân y thuộc một trong ba ngành, hoặc một chi nhánh của ngành thứ ba) lối đi ít trở ngại nhất và con đường dễ dàng nhất để về với Đấng Tối cao. Đây cơ bản là vấn đề khai mở những trạng thái tâm thức khác nhau, và chính là phương diện mà các Đấng Cao cả giúp đỡ người môn sinh rất nhiều. Nhờ tham thiền được điều chỉnh đúng theo con đường của mình, người môn sinh có thể từng bước kiểm soát được những trạng thái trung gian khác nhau giữa y và mục tiêu. Nhờ những tiêu điểm thần lực khác nhau mà y tiến lên cao. Các tiêu điểm đó có thể là Chân ngã y, có thể là Chân sư y, hoặc có thể là một lý tưởng…… Nhưng đó chỉ là những nấc thang để đạt sự mở mang tâm thức, giúp người môn sinh có thể nới rộng chu vi tâm thức của y cho đến khi y từ từ bao trùm tất cả, đến mức hòa hợp [169] với Chân thần, và sau đó hòa hợp với Toàn ngã, là chính Đức Thượng Đế.

Để nói rõ hơn và để đáp ứng nhu cầu phân biệt của hạ trí các bạn nên ba ngành này được mô tả một cách khác biệt và riêng rẽ nhau, dù cũng có những điểm liên quan với nhau. Trên thực tế – khác với ảo tưởng mà hạ trí luôn luôn tạo ra – cả ba con đường là một, và bảy cung chỉ là những phần tử hợp thành một toàn thể tổng hợp. Tất cả đều đan kết và pha trộn vào nhau. Cả ba ngành này chỉ là những thành phần cần thiết của một tổ chức duy nhất do Đức Chúa tể Hoàn cầu ngự trị. Cả ba chỉ là những cơ quan thừa hành để quản trị mọi công việc của hành tinh này. Mỗi cơ quan đều tùy thuộc vào hai cơ quan kia và cả ba hợp tác chặt chẽ với nhau. Một người thấy mình ở trên con đường nào cũng phải nhớ rằng trước khi đạt mức hoàn thiện, có lúc y phải nhận ra sự tổng hợp của toàn thể. Y phải hiểu đó là một sự thực hiển nhiên, chứ không phải chỉ là một quan niệm tri thức. Trong tham thiền rốt cuộc sẽ đến lúc y nhận thức được sự hợp nhất chính yếu này và sẽ tự biết mình là một phần tử của cái toàn thể rộng lớn hơn.

Trong ba ngành nói trên, phương pháp để tiến đến vị Trưởng ngành là tham thiền, và những phương tiện để người môn sinh kết hợp với Sự Sống chính yếu của ngành đó (đây chỉ toàn là vấn đề từ ngữ) cũng khác biệt. Nhờ thiền định mà sự sống trong hình thể biểu lộ theo ba cách khác nhau. Có thể nói rằng những kết quả của tham thiền biểu lộ trong tính tình thực ra đều cùng là những trạng thái biểu lộ nhưng trong những phạm vi hay những điều kiện khác nhau. Tôi xin liệt kê như sau:–

Con đường của Đức Bàn cổ

Thần lực, Sức mạnh, Quyền năng cai trị. [170]

Con đường của Đức Di Lạc Bồ-tát     

Từ lực, Hấp dẫn, Trị liệu.

Con đường của Đức Văn minh Đại đế         

Điện lực, Tổng hợp, Tổ chức.

Ở đây tôi muốn nói rằng hiệu quả trong cuộc sống của người môn sinh tham thiền theo một trong ba đường hướng này sẽ là như vừa kể, dù dĩ nhiên là tất cả đều bị cung của phàm nhân hay trình độ tiến hóa của y nhuộm màu hay qui định. Nếu nghiên cứu ba từ ngữ áp dụng cho ba con đường này, các bạn sẽ thấy được soi sáng nhiều hơn. (Tôi không nói để mở rộng thể trí mà để rèn luyện trực giác.) Các từ này bày tỏ sự tác động của định luật thông qua ba nhóm, và biểu lộ tích cực trong tam giới bằng cách theo đúng con đường cần thiết. Mỗi con đường có những hình thức thiền đặc biệt để đạt được những kết quả kể trên. Sẽ đến lúc những điều cương yếu của các hình thức thiền này (những phương thức cơ bản đầu tiên) sẽ được truyền cho những môn sinh nào được xem là đã chuẩn bị sẵn sàng và đã thực hiện công tác sơ khởi cần thiết.

Con đường của Đức Bàn Cổ.

Ở đây chúng ta có thể đưa ra một phần phương pháp gần đúng, và ấn định một số qui tắc dùng để minh giải khi thời gian đến.

Con đường thứ nhất này đặc biệt là con đường của chính quyền, sự phát triển các giống dân, chăm lo về phương diện vật chất cho các hình thể trong tất cả những cảnh giới tiến hóa của nhân loại. Như tôi đã nói, đây chính là con đường huyền bí học. Nó chú trọng đến phương pháp của Đ.Đ.C.G., thể hiện sự chuyên chế thiêng liêng, và là con đường để Đức Thái Dương Thượng Đế áp dụng Thiên ý của Ngài cho loài người. Nó liên kết chặt chẽ với các Đấng Nghiệp quả Tinh quân, và Luật Nhân quả tác động qua ngành này. Bốn Đấng Nghiệp quả Tinh quân hoạt động mật thiết với Đức Bàn cổ, vì các Ngài áp dụng định luật, còn Đức Bàn cổ thì vận dụng các [171] hình thể của con người, các lục địa, các giống dân và các quốc gia, sao cho định luật ấy có thể tác động đúng đắn.

Vì thế, người nào cố gắng dùng tham thiền để tiếp xúc với các quyền lực này, dùng những phương tiện này để vươn lên đến sự hợp nhất và để đạt được tâm thức của trạng thái Ý chí, đều hoạt động theo những qui luật đã định, tiến lên cao từng bước theo các phương thức đúng đắn, và luôn luôn suy ngẫm về Định luật cùng những tác động của nó. Y tìm hiểu, phân biện và học hỏi. Y chuyên chú vào những gì cụ thể và vị trí của sự vật cụ thể trong Thiên cơ. Y thừa nhận thực tế về sự sống nội tại nhưng vẫn chú tâm chính yếu vào phương pháp và hình thức biểu hiện của sự sống này. Những qui luật căn bản của sự phát biểu và quản trị thu hút sự chú ý của y, và nhờ nghiên cứu các qui luật và định luật và nhờ tìm hiểu mà tất nhiên y sẽ tiếp xúc với Đấng Ngự trị. Y tiến lên cao theo từng giai đoạn – từ vị chúa của tiểu vũ trụ trong tam giới đến nhóm Chân nhân mà tiêu điểm là một vị Chân sư. Từ vị lãnh đạo của nhóm này, y tiến lên đến Đức Bàn cổ, là vị Chủ tể ngành của y, rồi đến Đức Chúa tể Hoàn cầu, về sau đến Đức Hành Tinh Thượng Đế, rồi đến Đức Thái Dương Thượng Đế.

Con đường của Đức Di Lạc Bồ Tát.

Đây là con đường của tôn giáo và triết học, và sự phát triển của sự sống nội tại. Nó liên hệ đến tâm thức ẩn trong hình thể hơn là với chính hình thể đó. Đây là con đường ít trở ngại nhất đối với nhiều người. Nó thể hiện trạng thái minh triết của Thượng Đế, và là con đường mà tình thương của Ngài thể hiện nổi bật nhất. Thái dương hệ chính là sự biểu lộ trực tiếp của Đức Thượng Đế và trạng thái bác ái của Ngài mà toàn cuộc biểu hiện đều dựa vào đó – bác ái đang ngự trị, bác ái dâng tràn, bác ái đang tác động, – nhưng trên con đường thứ hai này bác ái biểu lộ đến mức cao nhất và rốt cuộc sẽ hấp thu tất cả.

Người tham thiền trên con đường này sẽ luôn luôn tìm cách nhập vào tâm thức của mọi sinh vật, và nhờ sự khai [172] mở tâm thức từng bậc mà cuối cùng đạt đến Toàn linh thức và nhập vào sự sống của Đấng Chí Tôn. Nhờ thế, y nhập vào sự sống của vạn hữu bên trong tâm thức của Thượng Đế.

Y không suy ngẫm nhiều về Định luật mà suy ngẫm nhiều về sự sống được Định luật đó quản trị. Nhờ tình thương y hiểu biết và nhờ tình thương mà trước hết y tự hòa hợp với Chân ngã y, sau đó với Chân sư, rồi với nhóm Chân ngã của y, rồi đến tất cả các nhóm khác, cho đến cuối cùng y nhập vào tâm thức của chính Thượng Đế.

Con đường của Đức Văn minh Đại đế.

Đây là con đường của trí tuệ hay thông tuệ, của kiến thức và khoa học. Đây là con đường của trí tuệ trừu tượng và của những ý tưởng nguyên thủy. Hành giả trên con đường này không suy ngẫm nhiều về Định luật, về Sự Sống mà suy ngẫm nhiều về ảnh hưởng của cả hai trong cuộc biểu hiện, và các nguyên do. Trên con đường năm chi nhánh này, y luôn luôn hỏi tại sao, bằng cách nào, từ đâu, và tìm cách tổng hợp, tìm hiểu và tạo ra các nguyên mẫu và các sự kiện lý tưởng trong cuộc biểu hiện. Y suy ngẫm về các lý tưởng khi y cảm được chúng. Y nhắm đến việc tiếp xúc với Trí tuệ Vũ trụ, khám phá những bí mật từ đó, và phát biểu chúng. Đây là con đường của tổ chức kinh doanh, cũng là con đường của các họa sĩ, nhạc sĩ, các nhà khoa học và những người phụng sự nhân loại. Các Chân thần Bác ái và Hoạt động phải dành nhiều thời gian cho một trong năm chi nhánh của ngành này, trước khi chuyển qua con đường tình thương và quyền lực.

Trong lúc tham thiền, hành giả lấy một lý tưởng, một phần của Thiên cơ, một phương diện của mỹ lệ và nghệ thuật, một vấn đề của khoa học hay của nhân loại, rồi nhờ suy ngẫm về đó và nhờ sử dụng hạ trí y khám phá ra được tất cả những gì có thể hiểu và cảm nhận được. Khi đã làm xong các điều này, y tìm cách nâng tâm thức mình lên cao hơn nữa, cho đến khi y chạm đến nguồn khai ngộ, có được [173] ánh sáng và sự hiểu biết cần thiết. Y cũng lên cao bằng cách nhập vào tâm thức của các bậc cao cả hơn y, không do tình thương (như ở con đường thứ hai) mà do sự khâm phục và vui mừng trước các thành tựu của họ, do lòng biết ơn những việc mà các vị ấy đã làm cho nhân loại, cũng như tôn sùng chính cái ý tưởng đã thôi thúc họ hành động.

Vì thế, dù nghiên cứu về ba con đường này có sơ lược đến đâu các bạn cũng thấy rõ là tất cả nhân loại đều đang tiến lên. Ngay đến những người – dù thường bị khinh miệt – hiện đang tích cực phụng sự thế gian (trong vị thế của họ và qua lòng tôn sùng những lý tưởng phụng sự hay khoa học, hoặc ngay cả tổ chức kinh doanh) vẫn có thể tiến hóa cao như những người được coi trọng hơn, vì đã biểu lộ rõ rệt trạng thái bác ái của Chân ngã thiêng liêng. Đừng quên rằng sự hoạt động cũng thiêng liêng, và trong căn bản cũng là sự biểu hiện của Đấng Cha Chung như tình thương trong hy sinh, còn hơn cả cái mà hiện giờ chúng ta gọi là quyền lực, bởi vì chưa có ai trong các bạn hiểu rõ về phương diện quyền lực, hiện nay và về sau, cho đến khi nó biểu hiện nhiều hơn.

Ngày 14-8-1920.

Những hình thức thiền để kêu gọi các vị thiên thần và các tinh linh.

Chúng ta có thể gom hai điểm sáu và bảy làm một, vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy.

Trước hết chúng ta hãy phân biệt rõ hai nhóm này.

Các tinh linh chính yếu là giới tiến hóa dưới nhân loại. Việc ta tiếp xúc với chúng trên cõi tình cảm không bảo đảm rằng chúng đang ở trên đường tiến hóa thăng thượng. Trái [174] lại, chúng đang ở trên đường tiến hóa giáng hạ, trên vòng cung đi xuống. Chúng có trên tất cả các cõi, và nhiều người đã biết những hình thể tinh linh ở cõi dĩ thái như là các tiểu thần, các thần giữ của và các tiên đồng. Chúng được tạm chia ra làm bốn nhóm:–

1.     Tinh linh của đất.

2.     Tinh linh của nước.

3.     Tinh linh của không khí.

4.     Tinh linh của lửa.

Nếu các bạn có thể biết được, thì chúng là tinh hoa của mọi vật. Chúng là những loài tinh hoa của thái dương hệ, có bốn cấp bậc, như chúng ta biết trong chu kỳ thứ tư này, trên hành tinh thứ tư hay là địa cầu.

Các thiên thần đang trên đường tiến hóa thăng thượng, trên vòng cung đi lên. Như các bạn biết, đó là các vị Thần kiến tạo của thái dương hệ làm việc trong những hàng ngũ có cấp bậc và sát cánh với nhau. Có những thần ngang cấp với các Hành Tinh Thượng Đế, và những vị Chủ tể của năm cảnh giới tiến hóa của nhân loại có cấp bậc ngang một Chân sư được bảy lần điểm đạo. Những vị khác (theo con đường riêng của họ) thì có mức phát triển bằng một Chân sư được năm lần điểm đạo. Họ làm việc một cách tự nguyện và hữu thức với các Chân sư trong Đ.Đ.C.G.. Thiên thần cũng có ở mọi cấp thấp hơn cho đến những vị tiểu thần kiến tạo chỉ làm việc một cách hầu như vô thức với nhóm của họ để xây dựng những hình thể cần cho sự sống đang tiến hóa.

Trước đây – trước khi tôi đọc các bức thư này cho các bạn – các bạn đã được truyền đạt về cách thỉnh cầu các tinh linh và thiên thần bằng thần chú. Giáo huấn vừa kể đúng ở mức đó, và nếu muốn các bạn có thể kết hợp vào đây.

“Mãnh lực tiến hóa thăng thượng và mãnh lực tiến hóa giáng hạ vốn khác nhau. Đó là lời phát biểu sơ khởi. Một [175] đàng là sự hủy diệt, bạo lực, hoạt động mù quáng của quyền lực các loài tinh linh. Trên đường tiến hóa giáng hạ, các tinh linh làm hầu hết mọi việc, chúng làm việc một cách mù quáng nhưng được các Thần kiến tạo kiểm soát, nên công việc cũng có tính cách xây dựng, kết hợp, cùng tăng trưởng tuần tự, tạo sự điều hòa từ bất hòa, tạo sự mỹ lệ từ hỗn loạn. Các giới thấp của thiên thần cũng hoạt động dưới sự hướng dẫn của các vị Đại thiên thần Kiến tạo, và tất cả đều đi lên trong sự mỹ lệ trật tự, từ cõi này đến cõi khác, từ hệ thống này đến hệ thống khác, từ vũ trụ này đến vũ trụ khác. Vì thế, khi nghiên cứu kiến thức huyền môn, các bạn cần nhớ hai điều:–

a.     Các bạn phải kiểm soát các sức mạnh tinh linh.

b.     Các bạn phải hợp tác với các thiên thần.

Một đàng thì các bạn phải chế ngự, còn trường hợp kia thì các bạn phải cố gắng hợp tác. Các bạn kiểm soát nhờ phương diện hoạt động, bằng cách thực hiện một số việc nhất định, chẳng hạn như chuẩn bị một số nghi lễ để qua đó một số mãnh lực có thể tác động. Đó là một bản sao bé nhỏ của những gì mà Đức Thượng Đế Ngôi Ba làm khi sáng tạo ra thế giới. Những hoạt động nhất định mang lại những kết quả nhất định. Sau này, sẽ có tiết lộ các nghi thức và nghi lễ, để chúng ta có thể dùng tiếp xúc với nhiều loại tinh linh khác nhau và chế ngự chúng. Cung Nghi lễ giáng lâm trong thời đại hiện nay và đang giúp cho những công việc loại này được thực hiện dễ dàng hơn.

Các tinh linh của lửa, các thủy tinh và các tinh linh thấp kém hơn đều có thể được chế ngự qua các nghi thức. Nghi thức này gồm ba loại:–

 

1.     Nghi thức bảo vệ, để các bạn tự hộ thân.

2.     Nghi thức kêu gọi, để kêu gọi các tinh linh và làm chúng xuất hiện. [176]

3.     Nghi thức kiểm soát và điều khiển các tinh linh, khi đã triệu tập chúng lại.

Đối với các vị thiên thần thì các bạn sử dụng trạng thái minh triết hay bác ái, trạng thái thứ hai của Thượng Đế, là phương diện kiến tạo. Nhờ tình thương và ước vọng mạnh mẽ mà các bạn có thể đạt đến họ, và bước đầu (vì các bạn cũng đang ở trên con đường tiến hóa thăng thượng như họ) là tiếp xúc với họ. Bởi vì trong tương lai các bạn và họ phải cộng tác để hướng dẫn các mãnh lực tinh linh và để trợ giúp nhân loại. Thật không an toàn chút nào cho nhân loại, những con người khờ dại đáng thương, khi họ tìm cách tiếp xúc với các mãnh lực tiến hóa giáng hạ mà chưa được nối kết với các thiên thần nhờ sự tinh khiết trong đức hạnh và sự cao thượng của tâm hồn.

Qua nghi lễ và nghi thức các bạn có thể cảm được các thiên thần và tiếp xúc với họ, nhưng phương cách và lý do tiếp xúc không giống như đối với các tinh linh. Thiên thần thì tham dự các nghi lễ một cách tự do và không phải đến do triệu tập. Cũng như các bạn, họ đến là để thu mãnh lực. Khi rung động của các bạn đúng mức trong sạch, thì các nghi lễ có thể trở thành nơi gặp gỡ chung.

. . . . . . . . . . . . Tóm lại, khi các bạn đã học cách sử dụng phương diện hoạt động đối với các mãnh lực tiến hóa giáng hạ, và dùng trạng thái minh triết để hợp tác với các thiên thần, bấy giờ các bạn hãy chuyển sang kết hợp sử dụng trạng thái thứ nhất, là trạng thái ý chí hay quyền lực.”

Trước khi bàn thêm, tôi muốn đưa ra lời khuyến cáo về sự nguy hiểm khi kêu gọi và tiếp xúc với nhóm kiến tạo này; đặc biệt là trong sự tiếp xúc với các mãnh lực tinh linh. Tại sao lại đặc biệt là nhóm sau? Bởi các mãnh lực này luôn luôn tìm sự ứng đáp của một trong ba hạ thể của con người. Các thể này (xem như những lớp vỏ riêng rẽ) được cấu tạo bằng những sinh linh đang tiến hóa giáng hạ nói trên. Vì thế, kẻ [177] nào vô ý tự mình tiếp xúc thẳng với bất cứ một tinh linh nào là làm một việc liều lĩnh và có ngày sẽ hối hận đắng cay. Nhưng khi hành giả đang tiến đến quả vị Chân sư, đã làm chủ được chính mình và do đó được tín nhiệm giao cho quyền làm chủ nhiều hình thể khác của sự sống, y sẽ có một số quyền năng. Những quyền năng này, dựa vào định luật, sẽ trao vào tay y quyền ngự trị các sinh linh thấp kém hơn. Y sẽ biết cách hợp tác với các thiên thần, là điều rất thiết yếu trong giai đoạn sau của cuộc tiến hóa.

Các câu thần chú quyền năng.

Những câu thần chú nắm giữ bí quyết của quyền năng (như các bạn biết và đã nêu trên) vốn có nhiều loại, và chính yếu thì có bốn loại:

a.     Quan trọng nhất là các câu chú hộ thân.

b.     Loại thần chú kêu gọi các tinh linh và các tiểu thần, và đưa họ vào tầm hấp dẫn của người kêu gọi.

c.      Loại thần chú dùng để áp đặt ý chí của người kêu gọi vào các tinh linh và các thần bậc thấp.

d.     Loại thần chú chấm dứt sự hấp dẫn (xin tạm gọi như vậy) và lại đưa các tinh linh và các thần này ra ngoài phạm vi từ lực của người kêu gọi họ.

Bốn loại thần chú này đặc biệt liên quan đến việc kêu gọi và tiếp xúc với các tinh linh và thần cấp thấp, và không được sử dụng nhiều ngoại trừ những trường hợp sử dụng hiếm hoi của các điểm đạo đồ và các vị Chân sư. Các vị này hoạt động qua trung gian của các thiên thần hướng dẫn và các vị thần kiến tạo cấp cao. Các Huynh đệ Bàng môn làm việc với các mãnh lực tiến hóa giáng hạ, và buộc các sinh thể thấp kém và vô thức ấy phải làm theo ý họ muốn. Qui trình đích thực mà các Huynh đệ Chánh đạo sử dụng là kiểm soát những nhóm tinh linh và các thần bậc thấp này bằng chính các cấp [178] chỉ huy của chúng, là các nhóm thiên thần kiến tạo với vị Thiên thần Chúa tể của họ.

Điều này khiến tôi phải đề cập đến một nhóm thần chú khác dùng để kết hợp với chính các thiên thần.

e.      Các thần chú có nhịp điệu giúp người sử dụng tiếp xúc được với nhóm thiên thần mà y tìm kiếm. Dĩ nhiên đây là những hình thức Thần chú của các Cung, vì chúng dùng để kêu gọi các thiên thần ở một cung. Các câu chú này lại thay đổi nếu chính người sử dụng lại thuộc cùng một cung với nhóm thiên thần mà y kêu gọi. Các bạn hỏi tại sao không sử dụng các câu chú hộ thân trước, như khi kêu gọi các tinh linh. Chính yếu là vì lý do sau đây. Các câu chú kêu gọi các tinh linh thì dễ tìm thấy và dễ sử dụng hơn các câu chú dùng cho các thiên thần. Quá khứ đã có đầy dẫy các trường hợp người ta làm điều này, và khắp nơi trên thế giới (ngay cả ở thời đại này) vẫn có những người nắm giữ bí quyết giúp họ tiếp xúc được với các tinh linh thuộc loại này hay loại khác. Mọi người trong thời đại Atlantis đều biết cách thực hiện điều này. Hiện nay một số dân tộc dã man và một số người ở các nước văn minh vẫn còn biết và sử dụng nghệ thuật này. Lý do thứ hai là đối với người thường dù có biết được câu chú y vẫn không thể kêu gọi được một vị thiên thần nào, vì nó còn một số bí quyết khác nữa chứ không chỉ là xướng lên các từ và âm thanh mà thôi. Bí quyết đó là một bí mật của điểm đạo. Khi là một điểm đạo đồ hay là một vị Chân sư thì người ta không cần những nghi thức hộ thân, vì theo định luật của huyền môn thì chỉ những ai có cuộc sống thanh khiết với động lực vô tư lợi mới có thể đạt đến trường tiến hóa của các thiên thần một cách thành công. Trong khi liên lạc với các sinh linh thấp kém thì phải làm cách khác.

Những câu thần chú giúp liên giao với các thiên thần khi đã kêu gọi họ. Như chúng ta đều biết là thiên thần không hiểu được các lời nói, nhưng những xung lực, những mãnh lực, những rung động được tạo ra nhờ sử dụng các thể thức đặc biệt sẽ đưa đến kết quả mong muốn mà khỏi dùng lời. Những [179] thể thức này mở đường cho sự thông hiểu lẫn nhau.

Có những thần chú ảnh hưởng đến các nhóm thiên thần và các thần chú khác lại ảnh hưởng đến từng vị. Ở đây, cần lưu ý rằng thường thì các thiên thần được kêu gọi từng nhóm chứ không từng cá thể, trừ khi các bạn có thể tiếp xúc với các vị thần ở cấp bậc rất cao.

f.       Các câu chú kêu gọi trực tiếp sự chú ý của một trong các vị chúa thiên thần của một cõi phụ, hoặc là vị Đại Thiên thần chủ tể của một cảnh giới. Rất ít người biết được các câu chú này, và chúng chỉ được các vị điểm đạo đồ cấp cao sử dụng mà thôi.

Ngày 17-8-1920.

Hiểu biết về mãnh lực.

. . . . . . Tình trạng căng thẳng hiện nay rất lớn, và mãnh lực tuôn vào tất cả các luân xa khác nhau, nếu không được điều chỉnh đúng cách, sẽ thường gây ra một cảm giác mệt mỏi, căng thẳng, khích động và bứt rứt không yên. Rất ít người biết được bí quyết của sự điều chỉnh bằng cách không đối kháng. Thế nên, sự tăng cường xúc cảm, các phản ứng thô bạo, và thời đại tội ác lan tràn hiện tại, phần rất lớn là hậu quả của việc sử dụng sai và áp dụng sai các mãnh lực. Điều này có thể xảy ra trong mọi tầng lớp xã hội, và chỉ những ai biết được bí quyết thấy mình không gì khác hơn là một kênh vận chuyển và vẫn điềm tĩnh trong chốn bí mật ở nội tâm, mới có thể vượt qua cuộc khủng hoảng hiện tại mà khỏi bị những đổ vỡ và khổ đau không đáng có. Sự kích thích – đều khắp như hiện nay – đưa đến sự đau khổ với hậu quả là các phản ứng mà chúng ta phải hết sức đề phòng, cũng như phải đề phòng điều trái lại là mất sinh lực. Hãy đề cao cảnh giác chứ không phải là bưng tai bịt mắt lẩn tránh sức kích thích, mà thu nhận mãnh lực này, cho nó đi qua bản thể của mình, và chỉ hấp thu một phần tùy theo khả năng. Phần còn lại sẽ đi qua luôn như một tác nhân chữa bệnh trên đường trở về kho chứa chung. Cái ý nghĩa đích thực và huyền bí của các mãnh lực trong thiên nhiên, của các dòng [180] điện trong vũ trụ và sức nóng ẩn tàng trong mọi hình thể, cho đến ngày nay, các nhà khoa học ở ngoại môn và những đạo sinh tương lai cũng ít biết đến. . . . . . Người đạo sinh tiến hành nghiên cứu huyền bí học từ phương diện này, và vì thế y đạt được sự hiểu biết sâu xa về định luật.

Tôi đề cập đến vấn đề này vì nó vốn có trong mọi đường hướng giáo huấn huyền môn. Nếu các bạn hiểu được phần nào ý nghĩa của vấn đề và hiểu rằng định luật chỉ là sự thích ứng của hình thể với một trong các dòng mãnh lực vĩ đại thì các bạn sẽ soi sáng trọn cả cuộc sống của mình. Các bạn sẽ lần theo những dòng mãnh lực, các dòng từ lực, lưu chất sinh lực, và các tia điện lực kể trên (hoặc gọi theo từ khác) đến tận trung tâm của những gì chưa được biết.

Chính ý tưởng này về mãnh lực và các dòng từ lực của thái dương hệ chi phối tất cả những điều tôi đã truyền đạt khi nói về tham thiền trong tất cả các ngành – thiền đặc biệt, thiền cá nhân và thiền tập thể, thiền có hình thức hay không có hình thức. Đó là trung gian để các câu thần chú tác động, từ những câu chú chỉ ảnh hưởng đến các tinh linh, cho đến các đại Linh từ xướng lên theo nhịp điệu để kêu gọi các vị Chủ tể của một Cung, vị Đại thiên thần của một cảnh giới, hay ngay cả Đức Thái Dương Thượng Đế. Việc xướng lên các Linh từ này, sự tiến lên qua những hình thức tuần tự để đến một mức độ đặc biệt, và việc đọc lên các câu thần chú, đều chỉ nhằm đặt hành giả vào trong một dòng mãnh lực nào đó. Đây là việc tìm ra lối đi ít trở ngại nhất để đạt đến mục tiêu, để liên lạc với một Đấng Thông tuệ, để chế ngự một sinh linh đang tiến hóa giáng hạ, hay để tiếp xúc và hợp tác với một nhóm thiên thần. Tôi đã nói ngoài đề để tóm tắt phần nào những gì tôi đã truyền đạt về các hình thức, các câu chú hoặc những điều khác mà các môn sinh thiền huyền môn sử dụng.

Chúng ta có thể hiểu rằng việc kêu gọi các thiên thần hoặc tinh linh chỉ có thể được thực hiện an toàn bởi người có khả năng sử dụng họ một cách khôn ngoan. Vì thế, các [181] câu chú kể trên chỉ được đặt vào tay những người đứng về phía các lực lượng xây dựng của thái dương hệ. Đó là những người có thể điều khiển các tinh linh hủy hoại vào công tác xây dựng, uốn nắn chúng cho phù hợp với các mãnh lực đang làm tan rã, mà vốn là một phần của kế hoạch kiến tạo vĩ đại. Nếu người nào không có các khả năng này mà lại tiếp xúc với các thiên thần và nhờ sử dụng các câu chú mà tập hợp họ lại quanh y, thì có thể mãnh lực mà các thần này mang đến sẽ giáng xuống y như một sức mạnh hủy hoại, và có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng trong một thể nào đó của y.

Vì thế, các bạn hãy suy ngẫm kỹ vấn đề này để nhớ rằng các hiểm nguy sẽ là sự kích thích quá độ, sự đổ vỡ thình lình, và sự tan rã do lửa hay sức nóng. Còn nếu y qui tụ các sinh linh tiến hóa giáng hạ đến quanh y, thì sự hiểm nguy sẽ khác đi, hay đúng hơn là có hiệu quả ngược lại. Đó là kiệt lực vì bị ma cà rồng hút máu, bị rút hết mãnh lực ở một trong các thể của y, hoặc thu nạp một chất liệu bất bình thường vào trong một thể nào đó (do tác động của các tinh linh thuộc cõi trần hay cõi cảm dục) và chết vì nước, vì đất hay vì lửa (hiểu theo nghĩa huyền môn).

Tôi đã bàn về các hiểm nguy cho người nào kêu gọi đến trong vòng từ lực của y, một trong hai nhóm này mà chính y lại không có sự hiểu biết cần thiết để tự bảo vệ, để chế ngự và sử dụng các thiên thần hay tinh linh đó. Tại sao tôi lại đề cập đến vấn đề này? Bởi vì các phương thức huyền thuật này vốn có thật, sẽ được biết và sử dụng nếu người môn sinh đã chuẩn bị sẵn sàng, và khi công việc cần đến. Một ngày kia những hình thức sơ cấp sẽ lần lượt được truyền cho những ai đã tự chuẩn bị chu đáo và làm việc một cách vô tư lợi để phụng sự nhân loại. Như tôi đã nói, chúng đã được nhiều người biết đến ở thời đại Atlantis. Chúng đã đưa đến những hậu quả thảm khốc vào thời đó, vì chúng bị sử dụng bởi những người có cuộc sống không [182] trong sạch, với những mục tiêu ích kỷ và độc ác. Họ kêu gọi các tinh linh để thực hiện việc trả thù các kẻ địch của họ. Họ kêu gọi các thiên thần cấp thấp và dùng quyền năng của các vị ấy để thỏa mãn tham vọng của họ. Họ không tìm cách hợp tác với định luật, mà lại muốn vận dụng định luật đó cho các kế hoạch của họ ở cõi trần vốn bắt nguồn từ những dục vọng của họ. Đ.Đ.C.G. đương thời cho sự hiểm nguy đó thật quá lớn, vì sự tiến hóa của con người và thiên thần đã bị đe dọa. Nên các Ngài từ từ thu lại sự hiểu biết về các công thức và các Linh từ khỏi tâm thức của con người để chờ đến lúc nào đó lý trí đã được khai mở ít nhiều và có những dấu hiệu của trí tuệ tinh thần thức động trong họ. Theo cách này hai trường tiến hóa lớn và cuộc tiến hóa thứ ba còn tiềm ẩn (gồm các sinh linh giáng hạ tiến hoá) đã bị tách rời và ngăn cách hẳn với nhau. Tạm thời toàn thể thang rung động đã bị làm chậm lại, vì mục tiêu nguyên thủy là sự phát triển song hành. Sở dĩ có sự thoái bộ tạm thời này trong các kế hoạch của Đức Thượng Đế là do tàn dư của phe Ác tích cực cấp vũ trụ, chúng đã tìm cách xen vào cuộc biểu hiện. Đây là những gì còn sót lại của thái dương hệ đầu tiên hay thái dương hệ hoạt động, là căn bản của hệ thống này, hệ thống của tình thương. Sự ác chỉ là tồn dư của nghiệp quả chưa chấm dứt và bắt nguồn từ sự vô minh.

Sự tách rời làm ba phần giữa các sinh linh tiến hóa thăng thượng và các sinh linh tiến hóa giáng hạ vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Với sự nhập cuộc của cung bảy, Cung Pháp thuật Nghi thức, hai nhóm tiến hóa đã được phép thử tiến lại gần nhau đôi chút, dù rằng nhóm tiến hóa giáng hạ thì chưa. Bạn hãy nhớ lời phát biểu này. Trong vòng 500 năm tới, trường tiến hóa thiên thần và nhân loại sẽ ý thức được nhau hơn trước đôi phần, và vì thế hai nhóm sẽ có thể hợp tác tự do hơn. Khi ý thức này tăng trưởng, người ta sẽ tìm kiếm các phương pháp truyền thông. Khi mọi người thực sự cảm được nhu cầu truyền thông cho các mục đích xây dựng, thì dưới sự hướng dẫn đúng [183] đắn của các Chân sư một số câu thần chú cổ sẽ được phép lưu hành. Mọi tác động, tương tác và phản ứng của chúng sẽ được theo dõi và nghiên cứu kỹ. Hy vọng rằng cả hai nhóm đều hưởng được lợi ích. Trường tiến hóa nhân loại sẽ thêm sức mạnh cho giới thiên thần và các thiên thần sẽ đem đến nguồn vui cho loài người. Con người sẽ truyền đạt cho thiên thần các ý kiến khách quan, còn các thiên thần sẽ ban rải cho con người từ lực để chữa trị. Các thiên thần gìn giữ prana, từ lực và sinh lực, cũng như con người là kẻ gìn giữ nguyên khí thứ năm, hay trí tuệ. Tôi đã đưa ra nhiều ẩn ý và không thể nói thêm.

Ngày mai, có lẽ chúng ta sẽ bàn đến phần thú vị và quan trọng nhất là hình thức tham thiền kết hợp với lửa. Hôm nay như thế là đủ.

Ngày 19-8-1920.

Các hình thức thần chú kết hợp với lửa.

Có lẽ nên bàn đôi điều về vai trò của lửa trong cơ tiến hóa và trên các ngành liên quan đến lửa trong thái dương hệ chúng ta. Tôi đặc biệt nhấn mạnh điều này bởi vì vào thiền là chúng ta đi vào lĩnh vực của lửa, và vì vấn đề này tối quan trọng. Lửa đóng vai trò quan trọng trong năm ngành nêu dưới đây. Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ.

1.     Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.

2.     Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp.

3.     Lửa của cõi trí. [184]

4.     Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa.

5.     Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người. Ngọn lửa này phân biệt Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta với các vị Thượng Đế khác, và đây chính là tổng kết tất cả các đặc tính của Ngài. “Thượng Đế của chúng ta là Lửa đang thiêu hủy.”

Tất cả những phân biệt này về lửa, thực tế là những biến phân của cái duy nhất. Trong căn bản tất cả đều như nhau dù khi biểu hiện lại khác nhau. Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền.

1.     Những loại lửa sống động giữ cho sự điều hòa nội tại của con người (hệ thống tiểu vũ trụ) biểu hiện đầy đủ. Khi sự cháy bên trong này chấm dứt thì sự chết xảy đến, và hệ thống vật chất hồng trần bên ngoài sẽ tan biến. Đại vũ trụ cũng vậy. Giống như mặt trời là tâm của thái dương hệ chúng ta, trái tim là tiêu điểm cho sức nóng của tiểu vũ trụ. Tương tự, quả đất cũng được làm sinh động bằng chính sức nóng đó và trong dãy địa cầu của chúng ta nó ở mức vật chất trọng trược nhất, với sức nóng của vật chất cao nhất. Cơ quan sinh dục cũng là trung tâm thứ yếu cho lửa nội tại trong đa số các trường hợp. Sự tương ứng này rất chính xác, mầu nhiệm và thú vị.

2.     Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô [185] hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo. Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau.

3.     Có thể dễ dàng chứng minh sự tương ứng với lửa của cõi trí. Vì công việc của các Hỏa Tinh Quân là ban rải tia lửa trí tuệ, đã được triển khai và tăng tiến cho đến đỗi người ta thấy ngọn lửa tri thức đang cháy sáng trong các dân tộc văn minh. Mọi năng lượng đều tập trung vào việc nuôi dưỡng tia trí tuệ đó, nhằm sử dụng nó cách nào lợi ích nhất.

4.     Có thể biết được phần nào các hỏa tinh linh trong tiểu vũ trụ qua các hình tư tưởng mà người đủ khả năng có thể tạo nên và làm cho sống động. Người có sức suy tư mạnh mẽ tạo ra các hình tư tưởng này và làm sinh động bằng sự sống hay khả năng gia nhiệt của y, và chúng vẫn tồn tại chừng nào y còn năng lực làm sinh động chúng. Hiện nay sự tồn tại này không được lâu vì người ta còn hiểu rất ít về năng lực thực sự của tư tưởng. Trong đại chu kỳ thứ năm của dãy hành tinh này, chúng ta sẽ thấy sự phát triển tột đỉnh của nguyên khí thứ năm là trí tuệ. Sự tương ứng này về sau sẽ được hiểu nhiều hơn. Hiện nay mối liên hệ này tất nhiên là còn khó hiểu.

5.     Tia lửa sống động ẩn tàng trong mỗi người cho thấy y có cùng bản tính với Đức Thái Dương Thượng Đế.

Như vậy, các bạn thấy rằng trong các hệ thống lớn, nhỏ đều có lửa. Ở đây, tôi chỉ tóm tắt cho các bạn về mục đích của lửa trong tiểu vũ trụ và những gì phải nhắm đến. Chúng ta có ba loại lửa:–

1.     Tia lửa thiêng sinh động.

2.     Tia lửa trí tuệ.

3.     Luồng hỏa hậu (kundalini), sự hòa lẫn nhị nguyên của sức nóng nội tại và dòng sinh lực prana. Nơi ẩn trú [186] của mãnh lực này là luân xa chót xương sống, và luân xa lá lách hằng bồi dưỡng sức nóng đó.

Khi cả ba loại lửa này – một của tứ hạ thể, một của tam nguyên và một của nguyên khí thứ năm – gặp nhau và hòa lẫn với nhau một cách thích hợp về mặt hình học, thì mỗi luân xa sẽ được sinh động đúng mức, mọi quyền năng sẽ tự biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết và cặn bã sẽ bị đốt sạch, và hành giả đạt đến mục tiêu. Tia lửa đã trở thành ngọn lửa, và ngọn lửa là thành phần của khối lửa Đại ngã đang làm sống động trọn cả vũ trụ khách quan.

Vì thế, có thể nói một cách hợp lý rằng ba loại thần chú này sẽ được kết hợp và hòa hợp bằng một câu thần chú khác. Thực tế là chúng ta có:–

Các câu chú ảnh hưởng đến kundalini và khơi dậy luồng nội hỏa này một cách đúng đắn. Bằng năng lực rung động, các câu chú này làm ngọn lửa luân chuyển qua các luân xa theo diễn tiến tự nhiên và hình học của chúng. Một nhóm thần chú thứ yếu của loại này liên hệ đến luân xa lá lách, và sự kiểm soát các lưu chất sinh lực prana để giữ gìn sức khỏe, để làm sinh động, và ảnh hưởng đến lửa ở luân xa chót xương sống.

Các thần chú tác động vào vật chất của cõi trí, ở một trong hai lĩnh vực chính (trừu tượng và cụ thể) của cõi này và tác động ở đó theo hai cách. Một là tăng cường khả năng suy tư, vận dụng vật chất của cõi hạ trí. Hai là kích thích thể nguyên nhân, làm cho thể này mau trở thành một vận cụ của tâm thức và chuẩn bị cho nó cuối cùng chịu tan rã do lửa.

Các câu chú mang lại sự đáp ứng của Thượng Đế nội [187] tâm và đặc biệt tác động đến Chân nhân. Từ đó tạo sự rung động mạnh mẽ trong Tam nguyên, khiến cho mãnh lực từ Chân thần tuôn xuống thể nguyên nhân. Các câu thần chú này đều có thể được sử dụng riêng rẽ và có kết quả riêng biệt.

Có bảy đại thần chú, mỗi câu dùng cho một cung (khi Chân sư hay một nhân viên của Đ.Đ.C.G. sử dụng) sẽ kết hợp được cả ba hiệu quả kể trên. Chúng khơi dậy luồng hỏa hậu, tác động vào thể nguyên nhân trên cõi trí, và tạo sự rung động trong Tam nguyên để thực hiện sự nhất quán giữa các thể thấp, các thể cao và nguyên khí thứ năm. Điều này phản ánh những gì đã xảy ra khi các Hỏa Tinh quân đến. Nó đưa đến sự thống hợp toàn vẹn, và từ đó về sau con người biểu lộ rõ tình thương trong hành động, với sự trợ giúp của trí tuệ đã khai ngộ.

Trên đây là bốn loại thần chú quan trọng nhất cho cuộc tiến hóa và phát triển cá nhân, mà những vị nào huấn luyện các môn sinh sắp điểm đạo đều hiểu rõ. Cho dù kẻ chưa chuẩn bị sẵn sàng có khám phá ra được chính các câu thần chú này thì công hiệu của chúng cũng rất ít. Vì sự sử dụng các câu thần chú này phải kèm theo năng lực do áp dụng Điểm đạo Thần trượng. Nhờ viên kim cương gắn trên đỉnh nên Thần trượng này tập trung được ba loại lửa, tương tự như chiếc kính hội tụ gom được ánh sáng mặt trời, để làm bùng lên một ngọn lửa.

Ở đây dù nói ít nhưng tôi đã trao cho các bạn nhiều hiểu biết. Vấn đề này còn rất cô đọng. Nó có ý nghĩa đặc biệt cho người nào đến gần Con đường Điểm đạo. Các bạn hãy suy nghĩ kỹ về các điều đã được trao truyền, vì khi yên lặng suy ngẫm điều đó trong tâm, ánh sáng có thể đến và ngọn lửa nội tại sẽ bùng cháy với sức nóng nhiều hơn.

Cũng có thể kể ra những loại thần chú khác nữa liên quan đến lửa. Có hai nhóm có thể vận dụng được nhờ sử dụng những âm thanh với nhịp điệu nhất định. [188]

Những hỏa tinh linh và các nhóm của chúng ở trong lòng đất, trên mặt đất, và trong không khí.

Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí.

Các câu chú để kêu gọi, điều khiển và giải tán các tinh linh này vốn rất thông dụng vào thời Atlantis. Những nguy hiểm đã nổi lên và đe dọa vùng đất này vì các tinh linh bị sử dụng một cách bừa bãi làm xáo trộn các công trình chính xác của Thiên cơ, làm phiền lòng các Đấng Hướng dẫn nhân loại, nên sự hiểu biết về các câu chú này bị thu hồi. Căn chủng Atlantis bị hủy diệt vì các thủy tai, vì bị ngập lụt, vì bị nhận chìm. Nếu các bạn nhớ rằng nước là kẻ thù tự nhiên của lửa, và cả hai nhóm tinh linh này không có điểm nào kết hợp được ở giai đoạn này, thì các bạn mới có thể hiểu một điểm thú vị về các cuộc đại biến thời Atlantis.

Những câu chú kêu gọi các hỏa thần cũng được gìn giữ rất

kỹ, không chỉ vì các nguy hiểm có thể xảy ra, mà do những trở ngại về thời gian khi các thiên thần này bị kêu gọi một cách vô tình và họ bị mãnh lực của thần chú cầm giữ, nên không làm phận sự cần thiết của họ được. Ngoài hai loại thần chú này, có nhiều loại thứ yếu, chỉ sử dụng đặc biệt với những nhóm tinh linh và thiên thần khác nhau. [189]

Chúng ta đã kể ra sáu loại thần chú kết hợp với lửa. Cũng có một vài loại nữa mà tôi có thể kể ra vắn tắt như sau:

Những loại thần chú thanh lọc, khơi dậy một loại lửa tinh luyện và cháy trên một cõi trong tam giới. Việc này được thực hiện nhờ hoạt động của các tinh linh (được các hỏa thần kiểm soát) và dưới sự hướng dẫn trực tiếp của một điểm đạo đồ hay đệ tử Chân sư, nhằm một mục đích thanh luyện đặc biệt nào đó. Mục đích này có thể là tẩy sạch một trong các thể của con người, thanh lọc một địa điểm, một ngôi nhà hay một đền thờ.

Các câu chú để kêu gọi lửa giáng xuống để truyền từ lực vào các bùa phép, vào các loại đá quí hay những thánh địa.

Các câu chú dùng để chữa bệnh, nhờ công dụng huyền bí của lửa.

Những câu chú được sử dụng bởi:–

a.     Đức Bàn cổ, vận dụng những gì cần thiết để chuyển di các lục địa, hay nhận chìm các lãnh thổ.

b.     Đức Chưởng giáo, để kích thích ngọn lửa tiềm ẩn trong mỗi người.

c.      Đức Văn minh Đại đế, khi Ngài làm việc với trí thông tuệ hay là nguyên khí thứ năm.

Hiện có tất cả các hình thức thần chú này và nhiều loại khác . . . . . . Muốn hoạch đắc các thần chú này thì bước đầu tiên là phải có khả năng thiền huyền môn. Vì không phải chỉ việc xướng lên các từ của thần chú là có thể đạt mục đích, mà phải định trí để hình dung ra các kết quả cần đạt. Điều này cũng phải kèm theo ý chí của người xướng đọc, để y chế ngự những kết quả đó. Các câu chú này sẽ thành nguy hiểm và vô ích, nếu không có sự quân bình trí tuệ tập trung của hành giả, cùng với khả năng điều khiển và làm sinh động của y. [190]

Ngày 21-8-1920.

Giờ đây chúng ta bàn đến phần cuối của bức thư thứ sáu.

Sử dụng các hình thức thiền tập thể.

Để làm sáng tỏ, chúng ta hãy bàn phần này dưới ba đề mục:–

1.     Sử dụng âm thanh trong hình thức thiền tập thể.

2.     Sử dụng nhịp điệu trong hình thức thiền tập thể.

3.     Những dịp đặc biệt sử dụng các hình thức thiền này.

. . . . . . Trong loạt thư này chúng ta đã xem xét khá đầy đủ về tham thiền cá nhân, và đã nhìn vấn đề dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tựu trung việc bàn luận chỉ đủ để tạo sự quan tâm nơi các bạn, khiến các bạn tinh tấn hơn, nghiên cứu kỹ hơn, và khảo xét sâu hơn. Chỉ những gì được hiểu tường tận bằng kinh nghiệm thực sự của tâm thức nội tại mới giúp ích hành giả được phần nào trên con đường phát triển huyền môn khó khăn này. Chỉ có lý thuyết và khái niệm tri thức thì không ích lợi gì cả. Chúng chỉ làm tăng thêm trách nhiệm. Chỉ khi nào những lý thuyết này được trắc nghiệm và do đó được biết là những sự kiện thực tế, và chỉ khi nào các khái niệm tri thức được đưa xuống và biểu lộ ở cõi trần trong kinh nghiệm thực hành thì người môn sinh mới có thể chỉ đường cho những người khác đang tìm Đạo và đưa tay trợ giúp kẻ đi sau. Khi nói: “Tôi nghe” là đã có ích và đáng khích lệ. Nếu nói thêm rằng “Tôi tin” thì càng bảo đảm hơn nữa. Nhưng nếu nói được một cách mạnh mẽ rằng “Tôi biết” thì đó mới là điều cần thiết trong những giờ phút đen tối nhất của thời kỳ mạt pháp này. Hiện nay con số những người hiểu biết hãy còn rất ít. Tuy nhiên, hiểu biết là điều hoàn toàn có thể được, và chỉ tùy theo sự chuyên cần, thành thực và khả năng của người môn sinh trên Đường Đạo có thể đứng vững vàng trong đau khổ. [191]

Đã có được khái niệm về những kết quả cần phải đạt, cùng những phương pháp cần sử dụng trong tham thiền cá nhân, và đã bàn rộng hơn về cách sử dụng các hình thức thiền cá nhân, giờ đây chúng ta hãy xét đến vấn đề trên bình diện tập thể.

Một số điều quan trọng nhất cần lưu ý trong việc sử dụng các phương thức thiền tập thể là các phương thức này đang thịnh hành ở khắp nơi, rất hiệu quả và cũng có thể rất nguy hiểm. Sự thờ cúng Thượng Đế một cách tập thể và việc kết hợp cử hành các nghi thức tôn giáo đã quá phổ biến trong sinh hoạt cộng đồng của mọi dân tộc, đến đỗi lý do tồn tại của nó và các kết quả đạt được thường hay bị bỏ qua. Mọi tôn giáo dù là Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo cho đến sự thờ cúng các thần vật một cách sai lạc của các giống dân thoái hóa nhất đều đã nhấn mạnh đến giá trị và hiệu quả của cố gắng tập thể để tiếp xúc với Thiêng liêng. Thế nào cũng đạt được một số kết quả, từ cảm giác thanh tĩnh và an lạc của người tham dự các nghi lễ bí nhiệm của Thiên Chúa giáo, cho đến sự múa may cuồng nhiệt của tín đồ một số giáo phái đạo Hồi, hay của giống người Zulu dốt nát nhất. Sự khác biệt là do khả năng của người lễ bái trong việc đồng hóa mãnh lực, gìn giữ và vận chuyển mãnh lực đó. Những điều này tùy theo trình độ tiến hóa của y, và do y có thể kiểm soát tình cảm và trí tuệ của mình đến mức nào.

Định đề đầu tiên cần nhớ khi xem xét việc sử dụng hình thức thiền tập thể là, khi sử dụng âm thanh và nhịp điệu, các hình thức này sẽ mở ra con đường thông thương hình phễu giữa những người tham dự và các Đấng Thông tuệ hay các Đấng Quyền lực mà họ muốn tiếp cận. Nhờ con đường thông thương này xuyên thấu từ cõi trần đến cõi tình cảm hay đến một vài cấp cao hơn của cõi trí, các Đấng Thông tuệ hay các Đấng Quyền lực có thể ban xuống ánh sáng khai ngộ hay một loại quyền năng, cho những ai tiến đến các Ngài bằng cách [192] đó. Con đường hình phễu này là phương tiện để tiếp xúc. Trọn cả tiến trình có tính thuần khoa học, dựa trên sự rung động và kiến thức động lực học. Nó tùy thuộc vào việc tạo ra khoảng chân không một cách đúng đắn, nhờ kiến thức huyền môn. Lời phát biểu huyền môn rằng “Thiên nhiên rất ghét sự trống không” là hoàn toàn đúng thực. Khi xướng lên chính xác những âm thanh nhất định, ta sẽ tạo được khoảng chân không hay hình phễu trống rỗng này giữa cái cao và cái thấp, và mãnh lực hay quyền năng là một dạng biểu hiện của năng lượng Fohat sẽ tuôn vào hình phễu này do tác động tất yếu của định luật, và xuyên qua đó để đến mục tiêu.

Những gì chúng ta gọi là hắc thuật hay ma thuật đều phần lớn dựa vào chính sự lạm dụng kiến thức này. Nhờ thỉnh cầu và những hình thức thiền, các Huynh đệ Hắc đạo (hay những người thông đồng với cái mà do thiếu hiểu biết nên người ta gọi là những quyền lực của ma quỉ) tiếp xúc được với sức mạnh của các vị Hắc đạo bản lĩnh cao cường. Vì thế, họ gây ra nhiều sự việc ở cõi trần, bắt nguồn từ các hang động bí mật, tối tăm của phe ác vũ trụ, ẩn trong thái dương hệ của chúng ta. Tương tự, chúng ta cũng có thể tiếp xúc với các mãnh lực còn vĩ đại hơn nữa của ánh sáng giác ngộ và chí thiện, để đẩy nhanh cơ tiến hóa.

Sử dụng âm thanh trong các hình thức thiền tập thể.

Giờ đây chúng ta hãy đặc biệt xét đến khía cạnh âm thanh của vấn đề này. Khi nghiên cứu về Thánh ngữ và cách sử dụng Thánh ngữ, chúng ta thấy có ba hiệu quả, hủy hoại, kiến tạo và cá nhân, hoặc (xin tạm gọi) là tác động trực tiếp để kích thích các luân xa của cơ thể. Chúng ta có thể thấy được ba hiệu quả này khi sử dụng âm thanh trong một tập thể đông người. Để rõ hơn, chúng ta có thể kể thêm hiệu quả thứ tư là việc tạo một đường thông thương hình phễu. Thực ra hiệu quả thứ tư này là tổng hợp các hiệu quả kia, vì khi tạo ra con đường thông thương hình phễu thì các điều chỉnh [193] vật chất trong tam giới phải được thực hiện. Các điều chỉnh này trước hết giúp tiêu hủy loại vật chất gây trở ngại, rồi sau đó mới kiến tạo con đường thông thương hình phễu. Việc này được thực hiện rất chính xác bằng cách sử dụng các luân xa. Điểm sau cùng này thật cơ bản và đáng quan tâm, vì nó giữ bí quyết về cách sử dụng mạnh mẽ nhất của âm thanh. Cách sử dụng này là làm âm thanh nổi lên trong vật chất cõi trí, nhờ một trong các luân xa chính. Những hiệu quả đạt được do một nhóm người có khả năng hoạt động trên cõi trí, và đồng thời sử dụng được một trong các luân xa chính (hoặc toàn bộ luân xa đầu, hay một trong các luân xa chính khác kết hợp với phần tương ứng trong luân xa đầu) có thể mạnh mẽ không thể tưởng. Thật là điều tốt khi nhân loại chưa có được quyền năng này. Chỉ khi động lực nội tâm thuần khiết được kết hợp với sự bền lòng tìm kiếm hạnh phúc cho mọi người một cách vô kỷ, thì quyền năng này mới được phép phổ biến lại cho thế gian. Hiện nay, thực tế chưa thể có đủ số người có cùng một trình độ, trong cùng một giai đoạn trên thang tiến hóa, có thể sử dụng cùng một luân xa và ứng đáp được với rung động của cùng một cung để họ kết hợp nhau cùng xướng lên một âm điệu hay một câu thần chú. Họ cũng phải được thúc đẩy bởi lòng bác ái thuần khiết và cùng làm việc một cách thông minh để nâng cao tinh thần của tất cả mọi người.

Một phần quyền năng của Đ.Đ.C.G. là do các Ngài có khả năng làm được chính điều này. Khi cuộc tiến hóa ngày càng cao, và vấn đề được hiểu tường tận hơn, thì các nhóm thiền sẽ thay đổi tình trạng của họ hiện nay. Từ một nhóm người chí nguyện đang tha thiết tìm ánh sáng khai ngộ, họ sẽ trở thành nhóm người phụng sự cộng tác một cách xây dựng và thông minh, để đạt những mục tiêu nhất định. Trong Thánh kinh Thiên Chúa giáo, ta thấy có một phần của câu chuyện từ thời Atlantis truyền lại. Vào thời đó, việc sử dụng âm thanh ở [194] cõi trần và cõi tình cảm đều được mọi người hiểu biết và thực hành, phần nhiều dùng cho những mục tiêu ích kỷ. Chúng ta đọc thấy rằng, sau khi dân chúng tuần hành nhịp nhàng quanh thành Jericho, thì tiếng kèn trỗi lên một số lần nhất định làm cho các bức tường thành sụp đổ. Điều này đã được thực hiện do các vị lãnh đạo dân chúng có kiến thức huyền môn. Họ thành thạo khoa học âm thanh, đã nghiên cứu các hiệu quả hủy hoại và kiến tạo của âm thanh, nên biết áp dụng khoa học này đúng lúc để đạt mục tiêu mong muốn.

Các âm thanh này có thể được chia thành ba nhóm:–

Việc đồng loạt xướng lên Thánh ngữ.

Đây là một trong những phương pháp thông thường nhất và là cách trực tiếp nhất để tạo ra con đường hình phễu cho việc chuyển di năng lượng. Như đã được chứng tỏ nhiều lần, phương cách này rất có công hiệu trong trường hợp cá nhân, nên việc xướng lên đồng loạt chắc chắn sẽ có hiệu quả phi thường, và thậm chí còn mãnh liệt đến mức nguy hiểm. Chính vì cách sử dụng Thánh ngữ này đã bị thất truyền mà hiệu năng của tất cả các tôn giáo công truyền hiện nay đã bị sa sút và hạn chế. Thế nhưng người ta cố ý làm thất truyền vì những hiểm nguy xảy ra cho nhân loại ở mức tiến hóa còn thấp kém. Khi việc sử dụng Thánh ngữ được phục hồi cho tập thể, và khi các nhóm dự lễ có thể xướng Thánh ngữ đúng giọng và đúng nhịp thì mãnh lực từ trên tuôn xuống (phẩm tính của mãnh lực này tùy theo âm giai và âm điệu) sẽ đến mức sự sinh động của tiểu vũ trụ (những người dự nhóm) ảnh hưởng đến các vùng và môi trường chung quanh, và tạo sự kích thích tương ứng trong mọi giới của thiên nhiên. Vì giới nhân loại là gạch nối giữa các giới cao và thấp, và khi liên kết với giới thiên thần, nhân loại sẽ tạo môi trường gặp gỡ cho những mãnh lực của sự sống.

Những hiệu quả này trên các luân xa khác nhau cũng sẽ được cảm nhận rõ ở một cõi nào đó trong tam giới. Tôi xin [195] minh họa cho rõ nghĩa. Tuy nhiên, cần lưu ý các bạn rằng không nhất thiết phải theo thứ tự đặc biệt kể ra ở đây. Chưa đến lúc tiết lộ thông tin chính xác về vấn đề này.

Giả sử một nhóm người đang mong muốn liên kết với một kênh mãnh lực tác động qua các tình cảm để kích thích nguyện vọng tinh thần và tình thương cao cả hơn. Họ cùng đứng yên lặng cho đến khi vị trưởng nhóm ra hiệu, mỗi người trong nhóm sẽ thận trọng thu tâm thức mình vào luân xa tim, và từ luân xa này (giữ vững tâm thức ở đó) y sẽ xướng lên Thánh ngữ theo cao độ âm khóa mà đa số ứng đáp. Âm khóa này sẽ được trưởng nhóm xác định bằng cách dùng nhãn thông xem xét nhanh hào quang của mọi người dự nhóm. Âm thanh này sẽ tạo được con đường hình phễu cần thiết, với kết quả tạm thời mở rất rộng chu vi thể tình cảm của các thành viên, và khơi động mạnh mẽ các luân xa tim của họ. Nhờ đó họ có thể tiến lên cao hơn và nhận được những ân huệ mà họ không thể có nếu thực hành riêng rẽ. Các bạn có thể tự nghĩ ra các điều kiện khác. Dùng khả năng tưởng tượng trong các vấn đề này thật rất quan trọng, tạo được sự kết hợp khả năng này và khả năng tương ứng cao hơn, là trực giác. Môn sinh hành thiền phải học cách tưởng tượng nhiều hơn nữa.

Việc kết hợp xướng lên một số câu thần chú sẽ nhằm những mục đích đặc biệt như là:–

a.     Thanh tẩy một thành phố.

b.     Truyền từ lực cho các vùng đất được dùng làm những trung tâm chữa bệnh. [196]

c.      Khai thông trí tuệ của nhóm, để họ có thể nhận được ánh sáng khai ngộ cao siêu.

d.     Chữa bệnh cho một nhóm bệnh nhân.

e.      Chế ngự những sức mạnh của thiên nhiên để có thể tạo nên các sự kiện ở cõi trần.

f.       Truyền thụ các Bí nhiệm Sơ cấp cho dân chúng.

Đúng như các bạn nghĩ, đoạn này có chứa tài liệu đủ để viết ra một quyển sách. Đây là một phần chánh thuật sẽ được phục hồi cho nhân loại, nhờ đó nhân loại sẽ đạt được nguồn vinh quang và một nền văn minh đã được ám chỉ từ thời Atlantis, và cũng là một trong những ước mơ của các nhà viễn tưởng trong nhân loại.

Việc xướng tập thể các thần chú hay linh từ để giao tiếp với các thần hay giới thiên thần. Đây là một loại thần chú đặc biệt, liên hệ đến ngành của Đức Văn minh Đại đế, về sau tôi sẽ bàn cụ thể . . . . . .

Ngày 22-8-1920.

Sử dụng Nhịp điệu Tập thể trong Tham thiền.

Nhịp điệu có thể được diễn tả là chuyển động nhịp nhàng, tự động đưa những ai sử dụng nó vào trong phạm vi một số mãnh lực của Thiên nhiên. Chính hành động có hướng dẫn ấy, được một nhóm người đồng loạt thực hiện, sẽ tạo nên sự chỉnh hợp và hiệu quả nhất định trên một thể nào đó hay tất cả các thể. Vì thế nhịp điệu có những mục đích:

a.     Đưa một thể, hay một nhóm nhiều thể vào trong tầm tác động của một dòng mãnh lực.

b.     Điều chỉnh vật chất trong một hay tất cả các thể của những thành viên trong nhóm. [197]

c.      Hòa hợp hào quang của các cá nhân trong nhóm theo những thế cân bằng và các bố trí hình học nhất định, và khiến cho các hào quang này hình thành một hào quang thống nhất của nhóm, nhờ đó mãnh lực lưu chuyển nhịp nhàng theo những chiều hướng nhất định, cho một số mục tiêu cụ thể.

Qua các thời đại điều này đã được hiểu rõ, dù các phương pháp, các qui trình và kết quả không được thấu hiểu hay lập đồ biểu một cách khoa học, ngoại trừ trong một số tổ chức huyền bí hay nội môn. Trong các nghi thức gọi là của ngoại giáo ngày xưa giá trị của nhịp điệu đã được hiểu rõ, và ngay cả David người viết thánh ca của Do Thái cũng múa để tôn sùng Thượng Đế. Sự lắc lư cơ thể theo một nhịp điệu nhất định và xoay thể xác theo nhiều chiều hướng, nhịp nhàng với âm thanh của các nhạc khí, có một hiệu quả đặc biệt và rõ rệt vào phần vật chất của hai thể tinh anh hơn. Nhờ chuyển động nhịp nhàng này:

a.     Mãnh lực tiếp xúc theo cách này được hướng (theo nhịp) đến một luân xa nào đó trong cơ thể.

b.     Vật chất của hai thể tình cảm và hạ trí hoàn toàn được tái điều chỉnh và tái phối hợp, tạo ra một số hiệu quả có thể biểu lộ ở thể xác.

c.      Ảnh hưởng đến sự chỉnh hợp của các thể, có thể làm chúng lệch lạc hay sai vị trí, hoặc có thể chỉnh hợp chúng một cách đúng đắn để tiếp xúc với thể nguyên nhân.

Đây là một trong những mục đích chính của chuyển động nhịp nhàng đích thực mà nhiều thế kỷ qua đã bị lệch lạc và kết quả là lý tưởng cao cả trở thành loại khiêu vũ tân thời hạ cấp hiện nay. Trong vũ điệu tân thời này, sự biểu lộ của chuyển động nhịp nhàng trở thành đồi bại nhất, và hiệu quả chính của nhịp điệu này là hướng mãnh lực tiếp xúc được qua khiêu vũ vào thể cảm dục và loại vật chất thấp nhất của thể [198] này. Điều đó gây nên một sự kích thích hết sức bất hảo vào các cơ quan sinh dục của xác thân. Công dụng đích thực của chuyển động nhịp nhàng có hiệu quả tạo sự chỉnh hợp của ba thể với thể nguyên nhân. Khi có chí nguyện mãnh liệt và ước muốn nồng nhiệt thì sự chỉnh hợp này khiến một dòng thần lực từ trên tuôn xuống. Điều này làm sinh động ba luân xa chính, và mang lại sự khai ngộ rõ rệt.

Khi toàn nhóm được thôi thúc bởi ước nguyện duy nhất cao cả như thế, và khi các hào quang của họ hòa hợp và tạo thành một đường truyền duy nhất cho thần lực phóng hạ thì hiệu quả được tăng cường mãnh liệt và tầm ảnh hưởng có thể bao trùm địa cầu. Một ví dụ cho điều này là lễ Wesak kỳ diệu đã được phổ biến ở Ấn Độ cho đến ngày nay. Bấy giờ Đ.Đ.C.G. tự trở thành một đường truyền năng lượng và ân huệ từ cấp độ của Đức Phật. Ngài đóng vai trò một tụ điểm cho năng lượng, và xuyên qua hào quang của Ngài năng lượng ấy tuôn xuống cho nhân loại theo đường truyền tạo bởi các vị Trưởng ngành, các Chân sư, các cấp điểm đạo đồ và các hàng đệ tử. Đường truyền này được hình thành nhờ sử dụng đồng thời các âm thanh và nhịp điệu. Bằng cách xướng lên một câu thần chú nhất định, bằng các chuyển động chậm rãi và nhịp nhàng kèm theo việc xướng chân ngôn này con đường thông thương hình phễu được hình thành và tiến lên đến tận vị thế mong muốn. Những dạng hình học được tạo nên bằng vật chất các cõi cao (là kết quả sự chuyển động theo hình học của các vị tụ hội tại trung tâm Hy-mã-lạp-sơn này) trở thành những con đường tuyệt diệu để cho dân chúng, các thiên thần hay các sinh linh khác, từ bất cứ cảnh giới nào cũng có thể tiến đến gần trung tâm của ân huệ. Với những người có thể quan sát cuộc lễ bằng nhãn thông thì các dạng hình học này thật xinh đẹp không thể tưởng, và vẻ mỹ lệ càng tăng thêm nhờ hào quang rực rỡ của các Đấng Cao cả đang tụ họp ở đó. [199]

Trong thời gian tới, giá trị của sự phối hợp âm nhạc với xướng tụng và chuyển động nhịp nhàng sẽ được thấu hiểu nhiều hơn, và sẽ được sử dụng để đạt những kết quả nhất định. Nhiều nhóm người sẽ cùng nhau nghiên cứu những hiệu quả sáng tạo hay hiệu năng tinh luyện của âm thanh có trình tự, phối hợp với các chuyển động và sự hợp nhất. Hiệu quả kiến tạo ở ba hạ thể sẽ được nghiên cứu bằng nhãn thông. Hiệu quả thải trừ vật chất của các thể sẽ đươc lập đồ biểu một cách khoa học, và những hiểu biết đã đạt sẽ được áp dụng vào việc cải thiện các thể này. Phẩm tính của mãnh lực tiếp xúc được, các hiệu quả tạo phấn khởi, làm sinh động và kích thích của mãnh lực sẽ được quan sát kỹ. Sẽ nghiên cứu các luân xa liên quan đến những dòng mãnh lực mà chúng tiếp xúc. Việc phát triển và tăng cường chuyển động quay của chúng sẽ được thực hiện một cách xác định.

Một khía cạnh khác của toàn bộ vấn đề này trở thành công tác phụng sự thế gian, và tuy là tùy thuộc vào tình trạng và các thành viên của nhóm nhưng chính yếu nó không được dùng cho những mục đích của nhóm. Các nhóm sẽ chuyên chú vào việc tiếp xúc với những loại thần lực nhất định của Thượng Đế, cho thần lực này xuyên qua vận hà hình phễu của nhóm và gởi thần lực này đi khắp thế gian để thực hiện những mục tiêu xây dựng nhất định. Công tác này liên kết chặt chẽ với công việc của các vị Ứng thân hay các Đấng phân phối thần lực, và phần lớn công việc sẽ do các Ngài chỉ đạo. Khi thời cơ đến các Ngài sẽ có thể sử dụng các nhóm này làm tiêu điểm cho hoạt động của các Ngài. Công việc của các Ngài hiện nay chính yếu là hội tụ trên cõi trí và phần nào trên cõi cảm dục. Khi bí quyết chỉnh hợp với thể nguyên nhân được nắm vững hơn, và khi các nhóm người ở cõi trần có thể hợp tác thực sự (hiện nay thì chưa thể được, vì phàm ngã của con người còn quá lớn) bấy giờ các vị Ứng thân có thể tiếp xúc thẳng với cõi hồng trần, để dùng nguồn thần lực vĩ đại mà tác động vào các giới tiến hóa ở đây. [200]

Các nhóm trị liệu sẽ hoạt động như sau. Vòng tròn các nhân viên (với bệnh nhân ở giữa) sẽ chuyên chú vào việc trị liệu bằng cách sử dụng các câu thần chú đã định sẵn, và khi theo đúng một số chuyển động họ sẽ làm cho mãnh lực tuôn xuống hội tụ vào bệnh nhân ở giữa. Nhờ sức kích thích của mãnh lực đó, nhờ tính tái tạo hay khả năng tiêu hủy và thải trừ của nó mà những gì gọi là phép lạ sẽ xảy ra hằng ngày. Vấn đề thật là rộng lớn nên chỉ có thể nói khái quát ở đây. Nhưng khi nhân loại tiến tới và khi bí mật của sự nhất quán được hiểu rõ hơn, khi nhiều người bước vào Con đường Dự bị, khi con số các điểm đạo đồ gia tăng hơn hiện nay, và khi đa số nhân loại được chỉnh hợp trực tiếp với thể Chân nhân của họ, người ta sẽ thấy việc áp dụng một cách khoa học các định luật của âm thanh và nhịp điệu.

Đồng thời các bạn cũng sẽ thấy sự lạm dụng các quyền năng này –sự lạm dụng sẽ báo trước một trong các trận chiến cuối cùng giữa các vị Chúa của Ánh sáng và các vị Chúa của Bóng tối. Biến cố này sẽ lớn lao vô cùng, và tai họa sẽ thật là kinh khủng, nhưng luôn luôn Ánh sáng sẽ chiếu rọi vào bóng tối. Đấng ngự trị trên tất cả, Đấng bao gồm tất cả trong vòng hào quang của Ngài biết rõ thời cơ và cũng biết cách sử dụng những gì có thể bảo vệ.

Những dịp đặc biệt để sử dụng các hình thức tham thiền tập thể này.

Sự kiện trọng đại trên hành tinh có liên quan trực tiếp đến nhân loại là lễ Wesak (lễ Phật hiện). Có một thời điểm còn lớn lao hơn nữa trong năm, khi một đường truyền trực tiếp được tạo lập để nối liền trái đất và Đấng Chúa tể tối cao, tức là Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. Điều này được thực hiện nhờ năng lực của một số câu thần chú và nỗ lực kết hợp của Đ.Đ.C.G. cùng các vị Thiên vương trên các cảnh giới. Các vị Thiên vương này được giới tiến hóa thiên [201] thần trợ lực, còn Đ.Đ.C.G. thì được sự trợ giúp của những người thuần thành trong nhân loại. Bấy giờ, các Ngài hội tụ qua các vị Chúa tể của các Cung đang biểu hiện, cũng như thông qua Đức Hành Tinh Thượng Đế của trái đất chúng ta. Ngày giờ của sự kiện này cũng chưa được công bố.

Trên ba con đường cận tiến chính yếu – của Đức Bàn cổ hay Đấng Cai trị, của Đức Di Lạc Bồ-tát hay Đức Chưởng giáo Thế gian và của Đức Đại Đế quân hay Đức Văn minh Đại đế – có những nhóm riêng của các Ngài. Các nhóm này chịu ảnh hưởng của một số câu thần chú và những linh từ nhất định, và hoạt động theo một số định luật tiết điệu. Tôi chỉ có thể đưa ra ở đây một lời gợi ý mà tôi nghĩ là các bạn sẽ thấy thú vị. Sắp đến lúc những ai đang hoạt động trong ngành của Đức Bàn cổ, đang điều hành các quốc gia, đang chú tâm vào chính quyền và chính trị, đang ở trong các quốc hội dân cử, đang ban hành luật lệ và sử dụng công lý, những người này sẽ khởi đầu công việc của họ bằng những đại lễ có tiết điệu. Nhờ nhịp điệu thống nhất và đồng loạt xướng lên các từ, họ sẽ tự tiếp xúc được với tâm thức của Đức Bàn cổ và với ngành quản trị vĩ đại của Ngài, để thực thi các kế hoạch của Ngài rõ rệt hơn và thể hiện các dự định của Ngài. Khi đã chỉnh hợp các thể và đã tạo được đường thông thương cần thiết, họ tiếp tục tiến hành công việc, sau khi đã đặt giữa họ một hoặc hai người đóng vai trò tụ điểm khai sáng, để những người này chuyên tâm tìm hiểu ý định của Đức Bàn cổ và các vị phụ tá của Ngài về vấn đề hiện hành.

Ở ngành của Đức Di Lạc Bồ-tát, phương cách tiến hành cũng tương tự như vậy, và đã được tổ chức sẵn. Vị chức sắc sẽ là tiêu điểm, và sau khi cả nhóm kết hợp hành lễ với nhịp điệu đúng đắn thì họ sẽ là trạm chuyển vận những gì nhận được từ các cõi cao. Nhưng ở đây có điểm rất quan trọng cần lưu ý: phần hành của vị chủ lễ bấy giờ sẽ không thuộc một nhóm người riêng biệt nào. Tất cả sẽ là những vị chủ tế, và [202] một người tín đồ thường cũng có thể giữ phần vụ ấy nếu được chọn thích hợp khi buổi lễ bắt đầu. Điều kiện duy nhất cần có là khả năng chỉnh hợp với Chân ngã và hợp tác với tất cả các thành viên khác trong cuộc lễ.

Trong ngành của Đức Văn minh Đại đế, vị Chúa của Văn minh và Văn hoá, vị cầm đầu con đường tiến hóa thứ ba, chúng ta cũng thấy có những hoạt động tương tự. Không có trường đại học hay học đường nào khai giảng mà không có nghi lễ chỉnh hợp. Lúc đó, giáo viên sẽ là con đường hội tụ kiến thức từ ngành chi phối các hoạt động của trí tuệ này. Sự kích thích thể trí của học sinh và sự tăng cường con đường thông thương giữa hạ trí và thượng trí sẽ được giúp đỡ rất nhiều theo cách này, và học sinh cũng sẽ được phát triển và tiếp xúc với trực giác. Những điều nói trên không thể bao gồm trọn cả vấn đề. Tôi chỉ nêu ra vài nét khái quát về những điều mà một ngày kia sẽ thành sự kiện thực tế ở cõi trần. Tư tưởng này truyền đạt nhiều vấn đề để xem xét, suy ngẫm và rất hữu ích cho người môn sinh nghiên cứu khôn ngoan. Bất cứ điều gì làm cho chân trời của y rộng mở và gia tăng tầm mắt của y đều rất tốt dù y có thể còn hiểu sai những sự kiện này, và còn thiếu khả năng hấp thu kiến thức.

 

[203]

BỨC THƯ VII

SỬ DỤNG MÀU SẮC VÀ ÂM THANH

1.                 Màu sắc và vài lời bình giải.

2.                 Màu sắc và luật tương ứng.

3.                 Hiệu quả của màu sắc.

4.                 Ứng dụng của màu sắc và việc sử dụng màu sắc trong tương lai.

[204]

BỨC THƯ VII

SỬ DỤNG MÀU SẮC VÀ ÂM THANH.

Ngày 27-8-1920.

Không có vấn đề là kẻ nào phạm luật sẽ bị luật tiêu diệt, còn kẻ nào tuân thủ định luật sẽ được sống nhờ định luật. Việc nghiên cứu huyền bí học đích thực là nghiên cứu về nguyên do và cách nào mà các hiện tượng xảy ra. Đó là việc tìm kiếm phương pháp để đạt kết quả, cũng như phân tích tỉ mỉ các sự kiện và các trường hợp để tìm ra những định luật quản trị chi phối chúng. Sỡ dĩ tôi nói lên các điểm lưu ý sơ khởi này với các bạn hôm nay, vì tôi thấy rõ những vấn đề đang chi phối tâm trí các bạn. Những vấn đề này có giá trị rất lớn nếu các bạn vẫn chuyên chú tìm câu giải đáp đúng đắn. Có những định luật nhất định quản trị đời sống của người đệ tử và đó cũng là những định luật chung cho toàn cuộc sống. Sự dị biệt là do người đệ tử nhận thức thiên lệch về mục đích của các định luật đó, lý do tồn tại của chúng và cách áp dụng chúng một cách hữu thức và đúng đắn vào các trường hợp xảy ra trong đời sống hằng ngày. Cuộc sống cá nhân sẽ được chuyển hóa nhờ tuân thủ định luật. . . Ví dụ như Định luật về Vật chất Cơ bản. Luật này đặt người đệ tử vào vị thế sử dụng kho tàng chung một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất và cho nó thích nghi với các sức mạnh tương tác của cung và cầu. . . Đức tin mù quáng chỉ đúng với nhà thần bí, và là một trong các phương tiện để đi vào kho tàng Thiêng liêng này. Nhưng hiểu được phương pháp làm kho chứa này được cung cấp thêm mãi và hiểu được phương tiện nào để mang nguồn cung cấp dồi dào của Đấng Cha Lành đến cho nhu cầu của con cái Ngài, thì còn hay hơn nữa. Một trong những câu châm ngôn về cung và cầu là: Chỉ khi nào mức cung được sử [205] dụng một cách khéo léo cho các nhu cầu của người phụng sự và công việc phụng sự thì nguồn cung cấp ấy mới tiếp tục tuôn tràn vào. (Câu này tôi chọn cẩn thận từng từ). Bí quyết là: sử dụng, yêu cầu, nhận lấy. Chỉ khi nào cánh cửa mở ra do định luật cầu thì một cánh cửa khác cao hơn mới mở ra để cung tuôn vào. Trong luật vạn vật hấp dẫn có ẩn chứa bí mật này. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ.

Vài nhận xét về màu sắc.

Trở lại với công việc, tối nay chúng ta phải xét đến vấn đề có ý nghĩa sâu xa và tế nhị, rất đáng quan tâm. Đó là việc sử dụng màu sắc và âm thanh trong tham thiền.

Như các bạn biết, chúng ta đã bàn nhiều về vấn đề âm thanh trong những bức thư trước, khi nghiên cứu việc sử dụng Thánh ngữ, các hình thức thiền và những câu thần chú. Khi nói rằng âm thanh là màu sắc và màu sắc là âm thanh, thì đó là sự thực hiển nhiên. Thực vậy, chủ đề tôi muốn các bạn chú ý không phải bàn đến âm thanh với tính cách là âm thanh, mà là các tác dụng của âm thanh về mặt màu sắc. Trong bức thư này, tôi đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh màu sắc và xin các bạn luôn luôn nhớ rằng tất cả các âm thanh đều tự biểu lộ bằng màu sắc.

Khi Thượng Đế phát ra Đại thánh ngữ vũ trụ cho thái dương hệ này thì ba dòng màu sắc chính bừng lên rồi hầu như đồng thời tách ra bốn dòng khác, để thành bảy dòng màu sắc cho vạn vật biểu hiện. Các màu đó là:–

1.     Xanh (Blue).

2.     Chàm (Indigo).

3.     Xanh lục (Green).

4.     Vàng (Yellow).

5.     Vàng cam (Orange).

6.     Đỏ (Red).

7.     Tím (Violet). [206]

Không phải tôi vô ý mà đặt các màu sắc theo thứ tự này. Tôi để cho các bạn tự khám phá ra ý nghĩa chính xác.

Tôi muốn nhấn mạnh đến ý thứ hai:– Bảy dòng màu sắc này là sản phẩm của cuộc tham thiền của Thượng Đế. Ngài tham thiền, suy ngẫm, nhận thức bằng trí, tạo ra một thế giới lý tưởng và xây dựng nó bằng chất liệu của tư tưởng. Rồi sau đó, vũ trụ khách quan của chúng ta bỗng nhiên xuất hiện, chói lọi trong bảy màu mà màu xanh thẫm hay màu chàm là tông phụ tổng hợp. Vì thế, có thể nói vài điều về màu sắc:–

1.     Màu sắc liên hệ đến tham thiền về thế giới khách quan, vì thế nó liên hệ đến hình thể.

2.     Màu sắc là kết quả của âm thanh phát ra ở cao điểm của tham thiền.

3.     Nếu hiểu một cách sáng suốt thì bảy màu này có ẩn khả năng của con người có thể làm giống như Thượng Đế và kiến tạo.

4.     Màu sắc có những ảnh hưởng nhất định trên các thể khác nhau, và trên các cõi mà những thể này hoạt động. Nếu huyền bí gia hiểu được màu nào áp dụng cho cõi nào, và đâu là màu cơ bản của cõi đó, thì y đã nắm được bí mật nền tảng trong sự phát triển của tiểu vũ trụ. Y có thể tạo ra thể biểu hiện của mình nhờ chính các định luật mà Thượng Đế dùng để tạo ra thái dương hệ khách quan của Ngài. Đây là bí mật mà rốt cuộc sự tham thiền về các cung sẽ tiết lộ cho người môn sinh sáng suốt. Bốn điểm này làm nền tảng cho những điều tôi sẽ nói đến sau đây.

Các bạn không nên thắc mắc rằng những màu tôi vừa kể có gì tương phản với các màu H. P. B. đã kể hay không. [207] Các bạn sẽ thấy chúng không hề trái ngược nhau, nhưng cả hai chúng tôi đều dùng những màn che, và đều dùng những loại màn che mà người có mắt sẽ có thể thấy được. Một màn che không còn che án khi ta nhận thức được nó, và vì thế tôi không đưa ra chìa khóa ở đây. Tuy nhiên, tôi có thể đưa ra một vài ngụ ý:–

Trong các sách huyền môn, những màu bổ túc có thể được gọi bằng tên của nhau. Màu đỏ có thể gọi là xanh lục và vàng cam có thể gọi là xanh. Chìa khóa để giải thích chính xác các thuật ngữ dùng ở đây đều tùy theo cấp độ của đơn vị đang được bàn đến. Nếu nói về Chân nhân ta có thể dùng từ này thì nói về Phàm nhân ta có thể dùng một từ khác. Trong khi đó Chân thần hay bầu hào quang cao hơn có thể được mô tả một cách tổng hợp hay trong phạm vi của cung Chân thần.

Những màu của thượng và hạ trí đôi khi được nói đến trong phạm vi của cảnh giới chứ không theo phạm vi của cung liên hệ.

Màu xanh-chàm, có liên quan với nhau ở cấp vũ trụ, không những chỉ tương đồng mà có thể được dùng thay cho nhau với mục đích che giấu. Tôi xin nói rõ hơn:–

Trong công tác của các Hỏa Tinh quân kết hợp với hành tinh này người ta có thể nói đến các Ngài trong phạm vi bốn màu:–

a.     Màu chàm, vì các Ngài cùng đường lối với Đức Bồ-tát, kết hợp với Cung Bác ái hay Minh triết. Đức Chúa tể Hoàn cầu là phản ánh trực tiếp của Ngôi hai.

b.     Màu xanh, vì màu này kết hợp với màu chàm và có quan hệ với noãn hào quang. Giống như Đức Thái Dương Thượng Đế được gọi là “Đức Thượng Đế màu Xanh” (đúng ra là màu chàm), màu của người hoàn thiện và của hào quang qua đó y biểu hiện cũng chính yếu là màu xanh.

c.      Màu vàng cam, bổ túc cho màu xanh và liên quan trực tiếp đến người có trí thông minh. Y là kẻ nắm giữ [208] nguyên khí thứ năm (manas) trong quan hệ với toàn thể phàm ngã.

d.     Màu vàng, là màu bổ túc cho màu chàm, cũng là màu của bồ-đề và trên đường lối trực tiếp của Ngôi hai.

Tôi minh giải các điều trên để chứng tỏ cho các bạn thấy tính phức tạp của việc sử dụng các màn che. Ngoài ra, đối với những người có mắt thấy được thì ngay cả việc chọn lựa các màn che này cũng không tùy ý kiến cá nhân mà phải theo qui luật.

Thế nên các bạn thấy rõ tại sao người ta thường nhấn mạnh rằng khi bàn về các vấn đề nội môn thì hạ trí không giúp ích được gì cả. Chỉ người nào có nhãn quan cao đang phát triển mới hy vọng đạt được một mức độ phân biệt chính xác nào đó. Vì màu xanh lục trong hoạt động của Thiên nhiên là căn bản của phương diện bác ái, hay rung động màu chàm của thái dương hệ bác ái này, nên điều đó cũng có trên cõi trí. Tôi không được nói gì thêm mà ở đây chỉ đưa ra đề tài cho các bạn suy ngẫm. Màu vàng cam cũng giữ bí mật của các Chân ngã (Con của Trí tuệ), và khi nghiên cứu về ngọn lửa (ngay ở cấp ngoại môn nó cũng hòa hợp tất cả các màu) các bạn sẽ được soi sáng thêm.

Khi nghiên cứu về vấn đề màu sắc và âm thanh trong tham thiền, chúng ta hãy chia chủ đề rộng lớn này theo cách nào hợp lý nhất và xem xét vấn đề theo các mục sau đây:–

1.     Kể ra các màu với vài nhận xét.

2.     Màu sắc và Luật Tương ứng.

3.     Hiệu quả của màu sắc:–

a.     Đối với các thể của người môn sinh.

b.     Đối với các nhóm và công tác tập thể.

c.      Đối với môi trường chung quanh.

4.     Ứng dụng của màu sắc:–

a.     Trong tham thiền. [209]

b.     Để chữa bệnh qua tham thiền.

c.      Trong công tác xây dựng.

5.     Công dụng của màu sắc trong tương lai.

Theo năm đề mục này chúng ta có thể tóm lược tất cả những điều cần nói hiện nay. Có lẽ các bạn sẽ thấy trong cơ bản những điều tôi nói cũng chẳng mới bao nhiêu, vì tôi không đưa ra điều nào ngoài những gì đã nói trong tác phẩm nền tảng của H. P. B.. Tuy nhiên, với cách trình bày mới mẻ hơn và việc tập hợp tài liệu theo một đề mục, các bạn có thể được khai ngộ với kiến thức được chỉnh đốn tốt hơn. Chúng ta sẽ bàn về năm phần này sau. Tối nay tôi chỉ thêm vài điểm vào những điều đã nói.

Các màu sắc biểu hiện ở cõi hồng trần thuộc cấp độ thô kệch nhất. Ngay cả những màu tinh tế nhất mà mắt thường có thể thấy được (ở cõi hồng trần) cũng cứng nhắc và thô sơ so với các màu sắc biểu lộ trên cõi tình cảm. Khi tiếp xúc với vật chất thanh bai hơn ở các cảnh giới khác, thì cứ mỗi lần chuyển tiếp, vẻ mỹ lệ, dịu dàng và phẩm tính tuyệt mỹ của các màu sắc khác nhau lại càng tăng. Khi đạt đến màu tổng hợp tối thượng thì sự mỹ lệ vượt cao hơn mọi quan niệm của con người.

Những màu sắc mà hiện chúng ta đang dùng trong cuộc tiến hóa của mình đều là các màu sắc của ánh sáng. Có một số màu là những gì còn sót lại của thái dương hệ trước, và đã bị chiếm lấy để dùng làm phương thức biểu lộ của sự bí mật mà vì thiếu hiểu biết nên chúng ta gọi là “điều ác vũ trụ.” Đó là những màu sắc thoái hoá, và là trung gian của mãnh lực Bàng môn. Người chí nguyện trên Con đường Ánh sáng không sử dụng các màu này. Đó là màu nâu, xám, màu tím bầm và màu xanh lục quái đản, có thể tìm thấy trong những nơi tối tăm của quả đất, trên cõi cảm dục và trên các cấp thấp của cõi trí. Đó là các màu tiêu cực. Âm điệu của chúng thấp độ hơn âm điệu của Thiên nhiên. Hiểu theo nghĩa nội môn thì [210] các màu đó là con cháu của bóng đêm. Chúng là căn bản của ảo cảm, của sự thất vọng, đồi trụy. Đệ tử của các Đấng Cao cả phải vô hiệu hoá chúng bằng cách chiếu rọi vào đó các màu sắc của ánh sáng.

6.     Như đã nói trước đây, tổng hợp của tất cả các màu là cung tổng hợp màu chàm. Màu này ẩn trong tất cả, và hấp thu tất cả các màu khác. Nhưng trong ba cõi tiến hóa của con người, thì màu vàng cam của ngọn lửa soi rọi tất cả. Màu vàng cam này phát ra từ cõi thứ năm, ẩn trong nguyên khí thứ năm, và là hiệu quả của việc xướng lên câu chân ngôn huyền bí “Thượng Đế của chúng ta là Lửa đang thiêu hủy.” Các từ này áp dụng cho nguyên khí manas là lửa của sự thông tuệ hay lý trí mà các Hỏa Tinh quân đã truyền đạt. Nó kích thích và hướng dẫn cuộc sống của phàm nhân đang hoạt động. Đó là ánh sáng của lý trí dẫn dắt con người từ Phòng Học tập đến Phòng Minh triết. Ở phòng sau, các giới hạn của nó bị khám phá, và chính cái cấu trúc mà kiến thức đã xây dựng (là thể nguyên nhân hay là Ngôi đền của Vua Solomon) bị lửa thiêu hủy. Lửa này thiêu hủy cái nhà tù kỳ diệu mà con người đã xây dựng bao đời để giải phóng ánh sáng thiêng liêng bên trong. Bấy giờ hai loại lửa hợp nhất, cùng vươn lên cao và mất hút trong Ánh sáng của Tam nguyên.

Một số màu sắc đặc biệt thuộc về trường tiến hóa nhân loại; có những màu khác thuộc về giới thiên thần. Sự pha trộn và hòa hợp cuối cùng của các màu đó, rốt cuộc sẽ mang lại sự hoàn thiện. . . .

Ngày 29-8-1920.

1. Kể ra các màu sắc.

Tối nay, chúng ta đề cập đến điểm cần nghiên cứu đầu tiên về màu sắc.

Tôi sẽ đưa ra một vài nhận xét và trao cho các bạn một số dữ liệu, nhưng một lần nữa xin các bạn nhớ rằng tôi đang dùng các từ ngữ ngoại môn, và việc bàn thảo này chỉ có tính [211] cách gợi ý mà thôi. Chính việc sử dụng từ “Màu sắc” cũng cho thấy ý định này, bởi vì như các bạn đều rõ định nghĩa của từ này nói lên ý tưởng che giấu. Vì thế, màu sắc là “cái che giấu.” Nó chỉ là trung gian khách quan để nhờ đó mà sức mạnh bên trong tự truyền ra. Đó là sự phản ánh trên vật chất, loại ảnh hưởng phát xuất từ Thượng Đế và đã xuyên thấu đến phần trọng trược nhất trong thái dương hệ của Ngài. Chúng ta nhận biết được điều đó với tính cách là màu sắc. Vị Chân sư biết rằng đó là mãnh lực đã phân hóa, còn vị điểm đạo đồ cao cấp hơn thì biết đó là ánh sáng tối hậu, không bị phân hóa và phân chia.

Hôm qua, chúng ta đã kể ra các màu sắc theo một thứ tự nào đó. Tôi sẽ kể lại theo thứ tự đó, nhưng lần này để nhắc các bạn nhớ rằng Cung duy nhất mà tất cả các cung khác chỉ là cung phụ, có thể được xem là một vòng ánh sáng bảy màu. Các môn sinh quá thường hình dung bảy dải màu vạch xuống, xuyên qua năm cõi thấp cho đến khi chúng chạm đến cõi trần và bị hấp thu vào vật chất trọng trược. Sự thực không phải vậy. Bảy màu này được xem như một dải gồm bảy màu xoay tròn, di chuyển liên tục qua các cảnh giới để trở về nguồn xuất phát của chúng. . . . . . Bảy dải màu này phát ra từ Cung tổng hợp. Cung phụ màu chàm của Cung chính màu chàm là con đường ít trở ngại nhất để đi từ tâm của vật chất trọng trược nhất trở về nguồn. Các dải màu này hợp thành một vòng tuần hoàn, chuyển động theo các nhịp rung động khác nhau, đi xuyên qua các cõi và cứ thế mà lên xuống mãi. Điều tôi muốn đặc biệt nêu ra ở đây là bảy dải màu này không chuyển động theo cùng một tốc độ, và đây là điểm then chốt giải thích tính phức tạp của vấn đề. Một vài màu di chuyển với nhịp rung động mau hơn một số màu khác. Vì thế, khi chúng mang theo các Chân thần tương ứng [212] của chúng thì đó là lý do tại sao một số Chân nhân dường như tiến bộ nhanh hơn một số Chân nhân khác.

Các vòng nhuộm màu này không đi theo một con đường thẳng thông suốt, mà đan vào nhau một cách thật kỳ lạ. Chúng pha trộn với nhau, hấp thu lẫn nhau trong những chu kỳ đã định sẵn, tự hợp thành những nhóm ba hay nhóm năm, mà vẫn tiến tới mãi. Đây là cơ sở thực tế của mô hình đan chéo trên lưng con rắn minh triết. Ba đường màu sắc chính có thể xem như hình lưới mắt cáo ở trên da rắn, với bốn màu kia đan vào. Một ngày kia người môn sinh nghiên cứu về màu sắc và khoa Minh triết Thiêng liêng sẽ có thể biên soạn một biểu đồ lớn về bảy cảnh giới và con rắn minh triết bảy màu sẽ được đặt lên bảy cảnh giới đó. Nếu vẽ đúng tỉ lệ, ta sẽ thấy được nhiều kiểu sắp xếp hình học rất thú vị, khi những vòng tròn cắt ngang những mặt phẳng, và truyền đến thị giác một ấn tượng nào đó về tính phức tạp của vấn đề bảy cung . . .

Có lẽ thích hợp để nói ra đôi điều vắn tắt ở đây:–

Màu chàm đích thực là màu xanh của bầu trời trong một đêm không trăng. Nó là màu tột đỉnh, và khi tất cả mọi sự tổng hợp đã đạt được thì đêm thái dương sẽ đến. Vì thế, màu này tương ứng với những gì bầu trời ban đêm biểu lộ. Màu chàm có tính hấp thu.

Màu xanh lục là căn bản cho sự hoạt động của thiên nhiên. Đây là màu tổng hợp của thái dương hệ 1, và là nền tảng của thái dương hệ được biểu lộ hiện tại. Âm điệu của Thiên nhiên là màu xanh lục. Mỗi khi con người xem xét lớp áo trái đất đang mặc, là y tiếp xúc với một phần mãnh lực đã đến mức hoàn mãn trong thái dương hệ 1. Màu xanh lục có tính kích thích và chữa bệnh.

Ở đây cần lưu ý các bạn là chúng tôi chưa được phép tiết lộ ý nghĩa huyền bí của các màu này hoặc là nói chính xác về [213] thứ tự và ứng dụng của chúng. Những mối nguy hiểm quá lớn, vì trong sự thấu hiểu các định luật của màu sắc và trong kiến thức (ví dụ như) về màu nào là tượng trưng cho cung nào, có ẩn chứa quyền năng mà Chân sư vận dụng.

Vài nhận xét về màu sắc.

Chúng ta đã biết một số màu, và kể lại ở đây cũng tốt. Cung tổng hợp là màu chàm, hay là màu xanh thẫm. Đó là cung của Bác ái và Minh triết là cung nền tảng vĩ đại của thái dương hệ này, và là một trong các cung vũ trụ. Vũ trụ cung này, khi biểu hiện sẽ tự chia ra thành bảy cung phụ như sau:

1.     Màu chàm . . . . . . . . . .và một màu chưa được tiết lộ.

2.     Màu chàm-chàm . . . Cung phụ thứ hai Bác ái và Minh triết. Biểu lộ rõ rệt ở cõi đại niết-bàn (cõi của Chân thần), với biểu hiện chính là những Chân thần bác ái.

3.     Màu chàm-xanh lục. . . . . . . Cung phụ thứ ba, Cung chánh thứ ba Hoạt động hay Thích nghi, là cung cơ bản của thái dương hệ thứ hai này. Đó là cung lớn của trường tiến hóa thiên thần.

4.     Màu chàm-vàng. . . . . . . . . . . . . . . .  Cung Điều hòa.

5.     Màu chàm-vàng cam. . . . . .  Cung Kiến thức Cụ thể.

6.     Màu chàm. . . và một màu chưa được tiết lộ. Cung Sùng tín.

7.     Màu chàm-tím. . . . . . . . . . . .  Cung Trật tự Nghi lễ.

Các bạn lưu ý là tôi không kể ra hai màu, chàm-đỏ và chàm-xanh, hoặc xếp chúng vào cung nào hoặc cõi nào. Không [214] phải là không thể nói được, nhưng tôi giữ lại chi tiết này để làm câu đố. Có một số điểm mà khi nói về màu sắc các bạn phải luôn luôn nhớ là:

Tôi đã cho các tên màu sắc này và ứng dụng của chúng về mặt ngoại môn, và trong đó chỉ có hai màu (chàm và xanh lục) là tương ứng với áp dụng nội môn của chúng. Cung Tổng hợp và Cung Hoạt động, ở giai đoạn này, là hai cung mà các bạn có thể hoàn toàn biết chắc. Một màu là mục tiêu của nỗ lực, còn màu kia là màu sắc nền tảng của Thiên nhiên.

Năm màu kia có liên quan đến cuộc tiến hóa năm giai đoạn của chúng ta, thì thay đổi, pha trộn, hòa hợp cùng nhau. Về mặt nội môn chúng không giống như nghĩa mà các bạn có thể tưởng tượng ra khi dùng các từ đỏ, vàng, vàng cam, xanh và tím. Về mặt nội môn chúng không giống chút nào với các tên gọi này, và chính các tên gọi này cũng nhằm đánh lạc hướng và để che giấu.

Mỗi một trong ba màu này và hai màu kia, cho đến nay vẫn chỉ được hiểu qua bốn cung phụ của chúng. Đây là cuộc tuần hoàn thứ tư, và cho đến nay chỉ có bốn cung phụ của các màu này là được hiểu thoáng qua. Khi nhớ ba điểm này các bạn sẽ khỏi phải chú trọng không nhằm lối vào sự hiểu biết ở bề ngoài, và người môn sinh khôn ngoan tránh đưa ra ý kiến khi vấn đề chưa sáng tỏ.

Màu vàng là một màu khác nữa đã đến với chúng ta từ thái dương hệ 1. Sự hoà lẫn màu xanh và màu vàng trong hệ thống đó đã giúp nhiều vào việc làm phát sinh hoạt động. Màu vàng tạo sự điều hòa, nó đánh dấu mức hoàn thành và kết quả. Các bạn hãy để ý trong mùa thu, khi các tiến trình của Thiên nhiên đã xong và chu kỳ hoàn tất, thì bằng cách nào mà màu vàng của mùa thu trải rộng ra bao trùm cảnh vật. Cũng nên lưu ý rằng khi ánh nắng mặt trời thong dong tỏa xuống ta cũng thấy màu vàng của mùa gặt hái. Cuộc sống [215] tinh thần cũng vậy. Khi cõi thứ tư của điều hòa hay cảnh giới bồ-đề đã đạt được thì đó là lúc hoàn thành viên mãn. Khi công việc của phàm nhân đã hoàn tất, và khi mặt trời của tiểu vũ trụ, là Chân nhân, chiếu xuống đời sống cá nhân một cách dễ dàng, thì thành quả và mùa gặt hái đến. Khi tạo được sự điều hòa hay nhất quán là đã đạt mục tiêu. Màu xanh và vàng hòa nhau thành xanh lục, và màu xanh tổng hợp hay màu chàm (trạng thái bác ái và minh triết) sẽ ngự trị khi đạt đến cảnh giới điều hòa. Bấy giờ sẽ đưa đến cảnh giới thứ ba của atma, nơi màu xanh lục của hoạt động chiếm ưu thế. . . . . .

Ngày 31-8-1920.

Tiếp tục nghiên cứu về màu sắc và tham thiền, và phần đặc biệt trong nghiên cứu này, để khích lệ các bạn, tôi xin nói rằng việc nhận và ấn hành các bức thư này là phần các bạn, còn tôi thì chịu trách nhiệm truyền đạt dữ liệu. Dù cho các bạn không hiểu được chúng, hoặc thậm chí một số dữ liệu có vẻ mâu thuẫn, các bạn nên hiểu rằng trong cách lý giải nội môn này có chứa một nửa bí nhiệm. Phân nửa còn lại bị che giấu vì sự thực là toàn bộ việc giải thích đều tùy lập trường của người lý giải và tùy theo cõi mà tâm thức y đang hoạt động. Giá trị của những gì hiện nay tôi trao truyền đều gồm trong điểm này:– khi nghiên cứu màu sắc (là một hình thức nghiên cứu sự rung động) các bạn sẽ có khả năng hiểu được rung động của phàm ngã, biết hòa hợp sự rung động này với sự rung động của Chân nhân, và sau đó làm cho nó đồng bộ với sự rung động của Chân sư. Một trong những phương pháp chính để tạo sự đồng bộ này là tham thiền. Khi trí thông tuệ thấu hiểu được các sự kiện khoa học về vấn đề này thì mới sử dụng được các sự kiện ấy để gia tăng sự rung động, và phát triển được các màu cần thiết một cách khôn ngoan.

[216] Trong bức thư vừa qua, tôi có đề cập đến bốn màu – xanh, chàm, xanh lục, và vàng, – và trong cách phân nhóm đầu tiên này có nhiều điều thú vị. Bây giờ chúng ta sang nhóm màu khác, tự nhiên cùng đi với nhau, là vàng cam, đỏ, và tím.

Vàng cam. Đối với mục đích của chúng ta thì đây là màu của cõi trí, là màu đánh dấu sự cháy. Nó là biểu tượng của ngọn lửa, và hơi lạ là màu này cũng tiêu biểu cho sự phân cách. Nhưng cần lưu ý rằng màu vàng cam huyền bí không phải chính xác là màu các bạn hiểu theo từ ngữ này. Màu vàng cam ngoại môn là màu pha trộn của vàng và đỏ. Màu vàng cam huyền bí là màu vàng tinh khiết hơn và hầu như không thấy màu đỏ trong đó. Màu vàng cam này là sự rung động phát ra từ một cung vũ trụ và đến với chúng ta. Các bạn nên nhớ rằng cung thứ năm (cũng như cõi thứ năm và nguyên khí thứ năm) vốn liên kết chặt chẽ với cung thông tuệ của vũ trụ, hay với trạng thái hoạt động là sự biểu lộ vĩ đại trong thái dương hệ thứ nhất. Cung tổng hợp vào thời đó là cung màu xanh lục, liên kết rất mật thiết với cung màu vàng cam, hay trí tuệ hoặc thông tuệ biểu lộ qua hình thể. Ở thái dương hệ này, chúng ta có sự tương ứng trong cung tổng hợp Bác ái và Minh triết, cùng sự liên quan mật thiết của nó với Cung thứ tư là Cung Điều hòa. Mối quan hệ này phát biểu trong tam giác hình thành do sự tương tác của chúng như sau:–

[217]

THÁI DƯƠNG HỆ THỨ NHẤT

Cung màu Xanh lục

Trạng thái Thứ ba

Hoạt động hay Thông tuệ

Cung phụ thứ ba

Cung phụ thứ năm

Hoạt động 

Manas, trí tuệ

Xanh lục-xanh lục

Xanh lục-vàng cam

 

THÁI DƯƠNG HỆ THỨ HAI

Cung màu Chàm

Trạng thái Thứ hai

Bác ái và Minh triết

                         

Cung phụ thứ hai

Cung phụ thứ tư

Bác ái và Minh triết

Điều hòa

Chàm-chàm

Chàm-vàng

[218] Trong thái dương hệ hoạt động, chúng ta thấy trạng thái thứ ba của trí tuệ vũ trụ hay hoạt động biểu lộ xuyên qua cung phụ cụ thể màu vàng cam . . . . . . sự thích nghi thông qua sắc tướng – là hình thể phát biểu hoạt tính tiềm ẩn đó một cách hoàn hảo. Tương tự, trong thái dương hệ thứ hai của bác ái, chúng ta thấy trạng thái bác ái phát biểu qua màu vàng của cung điều hòa hay mỹ lệ – là bác ái tự biểu lộ hoàn toàn qua sự hợp nhất, điều hòa hay mỹ lệ. Ở đây xin các bạn lưu ý rằng tôi lại dùng những từ ngữ mà sự đúng đắn tùy theo cách giải thích ngoại môn hay nội môn.

Thế nên, để trở lại điểm tôi đã nói trên, màu vàng cam đến với chúng ta như sự rung động phát ra do cung hoạt động của vũ trụ trong thái dương hệ trước. Mãnh lực của màu vàng cam (là sự thấu hiểu về mặt khoa học nhờ trí thông tuệ) đến với chúng ta để hoàn thành sự liên kết giữa tinh thần và hình thể, giữa sự sống và các vận cụ mà sự sống tìm cách phát biểu thông qua đó.

Chúng ta có thể phân chia các màu chính yếu cơ bản bằng các thuật ngữ khác nhau mà chúng ta dùng để diễn tả toàn thể vũ trụ biểu hiện:–

1.Trạng thái Sự sống

2.Trạng thái  Hình Hướng

3.Trạng thái  Thông tuệ

Tinh thần

Vật chất

Trí tuệ

Tâm thức

Vật cụ

Sinh lực

Ngã

Phi-Ngã

Sự liên lạc giữa

Cung

Cung

Cung

2.Bác ái và minh triết

1. Quyền lực hay ý chí

3.Hoạt động hay Thích nghi

4. Điều hòa

7. Định luật

5.  Kiến thức Cụ thể

6. Sùng tín

5. Kiến thức Cụ thể

 

[219] Đây chỉ là một trong những cách phân bố các cung và xem các cung là những ảnh hưởng tác động trực tiếp vào cuộc sống đang tiến hoá hay trên hình thể mà sự sống tiến hóa trong đó, nhờ yếu tố thứ ba là sự thông tuệ. Ba phần này tạo thành ba đỉnh của một tam giác vũ trụ:–

và dòng thần lực của các cung tác động ở cấp đại vũ trụ giữa ba đỉnh này, có phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ là luồng hỏa hậu (được khơi hoạt qua tham thiền) tác động theo dạng hình học chính xác giữa ba luân xa chính yếu:–

Tất cả bảy cung đều tương tác giữa sự sống, hình thể và trí tuệ nội tại, và cốt yếu chính là ba trạng thái này. Chúng là sự sống, chúng là sắc tướng, chúng là sự thông tuệ, và tổng thể của chúng là vũ trụ biểu hiện. Trong những thời kỳ khác nhau, tất cả bảy cung đều tác động vào những phương diện khác nhau. [220]

Sự tương tác quan trọng nhất là giữa:

a.     Cung Bác ái-Minh triết và Cung Điều hòa, cũng như sự tương tác giữa cõi của Chân thần (đại niết-bàn) và cõi bồ-đề.

b.     Cung Quyền lực và cung Định luật Nghi thức, cũng như sự tương tác giữa cõi thứ nhất và cõi thứ bảy.

c.      Cung Hoạt động hay Thích nghi và cung Kiến thức Cụ thể hay Khoa học, cũng như sự tương tác giữa cõi thứ ba của atma (niết-bàn) và cõi thứ năm của trí tuệ. Màu xanh lục và vàng cam đã liên kết nhau trong thái dương hệ thứ nhất, và vẫn tiếp tục liên kết trong hệ thống này. Tôi đã mở ra những lĩnh vực rộng lớn để tất cả các môn sinh chân thành suy ngẫm.

Trong quan hệ giữa màu chàm, xanh và vàng có ẩn một điều bí mật.

Trong quan hệ giữa màu xanh lục, vàng cam và đỏ có một bí mật khác.

Trong quan hệ giữa màu xanh, đỏ, và tím còn có một bí ẩn khác nữa.

Người môn sinh nào nhờ dùng trực giác của mình mà hiểu được ba điều bí nhiệm này là đã tìm được chìa khóa để đi vào chu kỳ lớn hơn, và nắm được chìa khóa của sự phát triển tiến hóa. Vì thế, khi nghiên cứu tiểu vũ trụ, các bạn hãy nhớ rằng chúng ta sẽ tìm được chính mối quan hệ đó và sẽ mở được cánh cửa vào “Thiên giới trong tâm.”

Màu đỏ có vẻ là một trong những màu khó xem xét hơn hết. Nó bị xếp vào loại bất hảo. Tại sao? Vì màu đỏ đã bị xem là màu của kama, hay là ác dục, và bao giờ ta cũng thấy những màu đỏ bầm và đen tối trong thể cảm dục của người kém tiến hóa. Nhưng khá lâu sau này, màu đỏ sẽ là màu căn bản của một thái dương hệ, và trong sự hòa hợp hoàn hảo của màu đỏ, xanh lục và màu xanh rốt cuộc đưa đến công trình [221] hoàn thành của Đức Thái Dương Thượng Đế và sự viên mãn của ánh sáng trắng tinh khiết.

Thái dương hệ hoạt động đã có màu xanh lục.

Thái dương hệ bác ái hiện có màu xanh.         

Thái dương hệ quyền lực sẽ có màu đỏ.

Các bạn đều biết ba màu đỏ, xanh và xanh lục hợp nhất thành màu trắng, và nói theo nghĩa huyền bí thì bấy giờ Thượng Đế đã “rửa những lớp áo của Ngài và tẩy chúng trắng tinh bằng máu.” Điều này giống như con người là tiểu vũ trụ đang làm trong diễn trình tiến hóa, theo ý nghĩa thấp hơn.

Màu tím. Điều kỳ lạ là Cung màu tím, Định luật Nghi thức hay Trật tự, lại là cung tổng hợp khi biểu hiện trong tam giới. Cũng như Cung tổng hợp Bác ái và Minh triết là tổng hợp của tất cả các mãnh lực của sự sống, thì trong tam giới Cung bảy tổng hợp tất cả những gì liên quan đến hình thể. Trên cảnh giới thứ nhất, sự sống ở trong trạng thái tổng hợp tinh khiết nhất, cao cả nhất, chưa phân hóa gì cả. Trong khi trên cảnh giới thứ bảy thì hình thể ở trong trạng thái dày đặc nhất, thô kệch nhất, và phân hóa thành thiên hình vạn trạng. Một mặt, sự sống được thu vào Cung tổng hợp của Bác ái. Trong khi đó phương diện hình thể chịu sự tác động của Cung bảy.

Cũng có một sự tổng hợp khác do sự thực là nhờ trung gian của màu tím mà hai trường tiến hóa nhân loại và thiên thần có được nơi tiếp xúc. Theo nghĩa huyền bí thì tím là trắng. Khi hòa hợp được hai trường tiến hoá này bảy Đấng Thiên Đế đạt được sự hoàn thiện viên mãn, và về mặt huyền bí các Ngài được xem như đã trở nên khiết bạch, đồng nghĩa với hoàn thiện.

Một điểm tổng hợp khác nữa là nhờ sự thống ngự của Cung bảy này mà có sự hòa hợp giữa thể xác và thể dĩ thái. Đây là điểm tối quan trọng trong đại vũ trụ và đối với người môn sinh hành thiền. Muốn cho giáo huấn được truyền đến bộ não hồng trần đạt mức chính xác nào đó thì trước phải tạo [222] được sự hòa hợp và chỉnh hợp này. Nó liên quan mật thiết đến sự chỉnh hợp các luân xa.

Trong các nhận xét trên, tôi chỉ có ý muốn vạch ra những đường hướng suy tưởng, nếu được theo đúng, chúng có thể mang lại những kết quả làm bạn ngạc nhiên. Nhờ nghiên cứu các màu sắc và các cảnh giới, nhờ nghiên cứu màu sắc cùng ảnh hưởng và mối quan hệ của nó với phương diện sự sống, và nhờ dùng trí nghiên cứu phương diện hình thể mà người môn sinh hành thiền sẽ đạt được nhiều điều có giá trị, miễn là y luôn luôn làm ba việc:–

1.     Y cố gắng tìm hiểu các màu huyền bí và ứng dụng đúng đắn của chúng vào các cảnh giới và các luân xa, vào các thể biểu hiện của y, và vào các thể mà Thượng Đế biểu hiện thông qua đó (bảy hành tinh thánh thiện), vào các cuộc tuần hoàn và các giống dân, cùng là các chu kỳ của cuộc sống cá nhân y. Nếu làm được điều này là y đã nắm được chìa khóa của toàn bộ kiến thức.

2.     Y cố gắng áp dụng thực hành các chân lý đã học được vào cuộc sống phụng sự của mình trong tam giới. Trong các phương pháp làm việc của mình y cố gắng theo đúng những phương pháp mà Đức Thượng Đế phô bày qua bảy cung hay bảy ảnh hưởng. Có nghĩa là nhờ tham thiền y đã đặt cuộc sống của mình dưới bảy ảnh hưởng vĩ đại này một cách có hệ thống trong các chu kỳ huyền bí tuần tự. Do đó y tạo được sự mỹ lệ trật tự trong việc làm phát lộ Chân ngã nơi mình.

3.     Y phải luôn luôn nhớ rằng sự hoàn thiện như chúng ta biết cũng chỉ là một phần và chưa đích thực, và ngay cả chính sự hoàn thiện – hiểu theo trí phàm – cũng chỉ là ảo tưởng. Chỉ có sự biểu hiện (trong thái dương hệ) kế tiếp của Thượng Đế mới cho thấy sự vinh quang tối hậu đã định. Ngày nào còn có các màu sắc khác biệt là còn sự bất toàn. Cần nên nhớ rằng màu sắc như chúng ta biết vốn là nhận thức về một sự rung động chạm vào mắt của người đang sử dụng một cơ thể của căn chủng thứ năm, trong cuộc tuần hoàn thứ tư, trên dãy hành tinh thứ tư. Vậy thì một người với thân xác thuộc căn chủng thứ bảy trong cuộc tuần hoàn [223] thứ bảy sẽ thấy màu sắc ra sao? Thậm chí đến chừng đó trọn cả dãy màu sắc có vẻ đẹp kỳ diệu sẽ vẫn ở ngoài và vượt khỏi tầm hiểu biết của y. Lý do là chỉ có hai trạng thái lớn của sự sống Thượng Đế đang hoàn toàn biểu lộ, còn trạng thái thứ ba sẽ chỉ hiển lộ một phần, chờ đợi “Ngày vĩ đại hơn nữa đến với chúng ta” để bừng lên trong sự chói rạng hoàn toàn. Từ “chói rạng” này có một ý nghĩa huyền bí đáng cho các bạn xem xét.

Ngày 3-9-1920.

Bền lòng gắn bó với bổn phận kế tiếp và đặt chân vững vàng lên bước tiến tiếp theo sẽ rộng mở con đường đi đến Chân sư và đồng thời dẹp sạch những nỗi khó khăn. Minh định các quan niệm tri thức cao thượng và phát biểu chúng ở cõi trần giúp thể trí phát triển, để cho nguồn sống ngày càng lớn lao hơn tuôn tràn từ trên xuống. Ổn định tình cảm và thăng hóa dục vọng từ cõi này lên cõi bồ-đề, khiến hành giả có khả năng phản ánh trung thực quan điểm cao siêu. Tinh luyện và giữ giới luật thân xác giúp hành giả có khả năng phát triển những gì mà Chân ngã nội tâm hiểu biết. Nếu ba điều này được quan tâm tuân thủ thì bấy giờ định luật có thể tác động và việc khai phóng được xúc tiến mau lẹ. Vậy định luật vận hành cách nào? Phần chúng ta phải hành động ra sao để cuộc sống cá nhân khỏi bị định luật trói buộc? Như đã nêu trên, đơn giản chỉ là gắn bó với bổn phận cao cả nhất, và sắp xếp đời sống phàm nhân thế nào để bổn phận này có thể được hoàn thành mỹ mãn.

Các Màu sắc Thông thường và Huyền bí.

Đề tài hôm nay là điểm thứ hai về việc sử dụng màu [224] sắc và bàn đến luật tương ứng và màu sắc . . . . . . Như tôi đã nói với các bạn, ý nghĩa huyền bí của các màu sắc thông thường vẫn chưa được tiết lộ trọn vẹn. Một số ý nghĩa này đã được H.P.B. nói đến, nhưng nguyên nghĩa của chúng vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Đây là điều gợi ý để các bạn suy xét. Một số kiến thức về màu sắc và âm thanh được đề cập trong bộ Giáo lý Bí nhiệm có liên quan đến thái dương hệ thứ nhất, và một số chi tiết lại liên quan đến một phần của thái dương hệ thứ hai. Đương nhiên sự phân biệt đó vẫn chưa được thấu hiểu, nhưng đây sẽ là sự tiết lộ với tính cách một sự kiện then chốt để nghiên cứu trong trường phái mới sau này. Về ý nghĩa huyền bí của màu sắc, tôi muốn các bạn lập một bảng liệt kê (dù điều này có thể tìm thấy trong Giáo lý Bí nhiệm), để làm căn bản cho những điểm tôi có thể sẽ truyền đạt sau này.

 

Màu thông thường

Màu huyền bí

 

Tía  (purple)

Xanh  (blue)

 

Vàng  (yellow)

Chàm (indigo)

 

Vàng nhạt (cream)

Vàng (yellow)

 

Trắng (white)

Tím (violet)

Hiện nay, chỉ có bốn màu này là có thể nói đến, nhưng nếu được hiểu đúng thì các màu này là chìa khóa của cuộc tuần hoàn thứ tư hiện nay và lịch sử của nó. Vì chúng ta đang ở trong dãy hành tinh thứ tư và cuộc tuần hoàn thứ tư nên lịch sử của thời kỳ hiện tại đang nằm trong số 4. Đặc biệt tôi khuyến khích các bạn, là các huấn sư và các môn sinh của thế hệ mới sau này, hãy suy ngẫm xem tại sao màu trắng hiểu theo nghĩa nội môn lại là màu tím. Hiện nay màu tím đang có ứng dụng đặc biệt khi cung của màu tím đang nhập cuộc, và Cung bảy hiện là một trong ba cung chính yếu trong cuộc tuần hoàn này. Nó vận dụng quyền lực trong tỉ lệ của số 4, dựa vào số 4 và theo số 4.

Các màu huyền bí tương ứng với màu đỏ, xanh lục và vàng cam thông thường, chưa có thể phổ biến cho công chúng. Tuy [225] nhiên, các môn sinh và các đệ tử nhập môn với khả năng phân biện đáng tin cậy nếu cố gắng họ có thể đạt được kiến thức cần thiết.

Ở đây tôi muốn nêu ra một số điểm khác để xem xét thật kỹ bằng cách bàn vắn tắt về luật tương đồng và tương ứng.

Đó là các điểm sau đây:–

a.     Các tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.

b.     Các tương ứng cơ bản.

c.      Màu sắc trong tiểu vũ trụ và trong đại vũ trụ.

Chúng ta hãy bàn từng điểm một, vì có hiểu đúng định luật chúng ta mới có khả năng suy nghĩ về mặt nội môn, và thấy được ý nghĩa sâu xa của các sự việc xảy ra bên ngoài.

Sự tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.

 Mối quan hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ rất chính xác, không những về mặt đại thể mà trong chi tiết cũng vậy. Đây là một sự kiện cần phải nắm vững và thấu hiểu. Khi kiến thức gia tăng với nhiều tiến bộ và khi năng lực tham thiền tạo được khả năng truyền đạt từ Tam nguyên qua thể nguyên nhân đến Phàm ngã thì các sự kiện này sẽ ngày càng được chứng minh trong từng chi tiết, cho đến mức hành giả thấu hiểu được trọn vẹn. “Trên sao dưới vậy” là một chân lý hiển nhiên thường được nói suông, nhưng ít được nhận thức. Ở trên có gì, và những gì sẽ phát triển tương ứng ở dưới?

Ở trên có Ý chí, Bác ái và Hoạt động, hay là Quyền lực, Minh triết và Thông tuệ, là những từ áp dụng cho ba trạng thái biểu hiện thiêng liêng. Ở dưới cũng có ba trạng thái này đang xuất lộ:–

a.     Phàm nhân phát biểu trí thông minh tích cực. [226]

b.     Chân nhân phát biểu bác ái hay minh triết.

c.      Chân thần phát biểu quyền lực hay ý chí.

Trong tam giới của Phàm nhân ta cũng có:–

a.     Thể hồng trần, phát biểu phản ánh phương diện hoạt động.

b.     Thể tình cảm, phát biểu phản ánh phương diện bác ái hay minh triết.

c.      Thể trí, phát biểu phản ánh phương diện ý chí hay quyền lực.

Nếu mô tả theo lối thông thường, thì ba thể trên có màu sắc nào?

a.     Màu tím của thể hồng trần phát biểu qua thể dĩ thái.

b.     Màu hồng hay đỏ của thể cảm dục.

c.      Màu vàng cam của thể trí.

Trong Tam nguyên hay thế giới của Chân nhân tam phân có những gì?

a.     Thể thượng trí, phát biểu phương diện hoạt động hay thông tuệ.

b.     Thể bồ-đề, phát biểu phương diện bác ái hay minh triết.

c.      Thể atma, phát biểu phương diện ý chí hay quyền lực.

Và nếu mô tả theo lối thường thì ba thể trên có màu sắc nào?

a.     Màu xanh của thượng trí.

b.     Màu vàng của cấp bồ-đề.

c.      Màu xanh lục của cấp atma.

Các màu trên đang trong tiến trình chuyển hóa. Các bạn phải thực hiện sự thay đổi tương ứng của màu sắc từ thấp lên cao. Các bạn hãy kết hợp những điều này với những điều tôi đã nói trong một bức thư trước về việc chuyển di sự phân cực.

Có sự tương ứng trực tiếp giữa:–

a.     Màu tím của cấp dĩ thái và màu xanh của cấp thượng trí. [227]

b.     Màu hồng của thể cảm dục và màu vàng của thể bồ-đề.

c.      Màu vàng cam của thể trí và màu xanh lục của atma.

Sự bí mật của tất cả các tương ứng này phải được khám phá bằng cách áp dụng các định luật của tham thiền huyền môn.

Các bạn có thể chuyển trọn dãy màu lên cao hơn nữa, và ở cấp Chân thần có sự tương ứng như sau:–

a.     Màu xanh lục của trạng thái thứ ba.

b.     Màu xanh tổng hợp hay màu chàm của trạng thái thứ hai.

c.      Màu đỏ của trạng thái thứ nhất.

Ở đây cần lưu ý rằng khi chúng ta trở về trung tâm cuộc tiến hóa của thái dương hệ, thì tên gọi của các màu này rất dễ gây nhầm lẫn. Ví dụ như màu đỏ không có gì giống với cái gọi là đỏ hay hồng ở cõi thấp. Màu đỏ, màu xanh lục, và màu chàm của cấp cao này hầu như đều là những màu mới, với sự mỹ lệ và trong trẻo không thể tưởng. Nếu được diễn giải đúng đắn, ở đây chúng ta sẽ có ngụ ý về sự tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.

Các màu ở ngoại giới có liên quan đến hình hài, sắc tướng. Các mãnh lực hay phẩm tính mà các màu này che giấu đều liên hệ đến sự sống đang tiến hóa trong các hình thể đó. Tham thiền giúp hình thành cầu nối hai phương diện vừa kể. Tham thiền là sự phát biểu của trí thông tuệ liên kết sự sống và hình thể, ngã và phi-ngã. Theo thời gian trong tam giới, tiến trình liên kết này rốt cuộc sẽ xảy ra trên cõi trí để nối liền thượng và hạ trí. Sự tương ứng này luôn luôn hoàn toàn. Vì thế, tham thiền mang lại kiến thức để thực hiện ba điều:–

1.     Cho biết thực nghĩa bên trong của màu sắc bên ngoài.

2.     Xác định những phẩm tính mà các màu sắc này che giấu. [228]

3.     Tạo sự chuyển hóa cần thiết của các màu, từ Phàm nhân đến Tam nguyên, và về sau từ Tam nguyên đến Chân thần.

Thể nguyên nhân đóng vai trò tổng hợp các màu sắc này trong cuộc sống của Chân nhân đang lâm phàm, cũng như cung tổng hợp hòa trộn mọi màu sắc trong cuộc biểu hiện của Thượng Đế. Hãy ghi nhớ rõ trong trí bạn . . . . . . rằng màu sắc là các phát biểu của mãnh lực hay phẩm tính. Chúng che giấu những phẩm tính trừu tượng của Thượng Đế. Những phẩm tính này được phản chiếu vào tiểu vũ trụ trong tam giới thành các đức hạnh hay khả năng. Vì thế, giống như bảy màu che giấu những phẩm tính của Thượng Đế, các đức hạnh cũng biểu lộ trong đời sống của phàm nhân, và nhờ hành thiền làm phát lộ ra bên ngoài. Do đó mỗi kiếp sống sẽ được xem như tương ứng với một màu. Hãy suy ngẫm kỹ điều này.

Các tương ứng căn bản.

Chính việc nghiên cứu những sự tương ứng này trong các ngành khác nhau của vũ trụ biểu hiện, và việc áp dụng các màu này vào phần đã được điều chỉnh của chúng, giúp chúng ta thấy được sự mỹ lệ của cái toàn thể tổng hợp và sự khai ngộ cho cuộc sống tiểu vũ trụ. Chúng ta hãy kể ra tổng quát thôi, còn chi tiết thì để cho các môn sinh hành thiền tự khám phá. Vào lúc này, tôi không thể nói nhiều hơn.

1.     Thái dương hệ tam phân.

Linh hồn cá nhân tam phân, đang tiến hóa.

Ba trạng thái của Thượng Đế.

Chân thần tam phân.

Tam nguyên tinh thần, Chân nhân.

Phàm nhân tam phân.

Tam giới, trường tiến hóa của nhân loại.

Ba ngôi của Thượng Đế. [229]

 

2.      Bốn Đấng Nghiệp quả Tinh quân.

Tứ Đại Thiên vương.

Phàm ngã tứ phân và tứ hạ thể.

3.     Năm cảnh giới tiến hóa của nhân loại.

Năm giác quan.

Năm phân ngành của Đức Văn minh Đại đế.

Năm giới trong thiên nhiên:            

a.     Giới khoáng vật.

b.     Giới thực vật.

c.      Giới động vật.

d.     Giới nhân loại.

e.      Giới tinh thần hay giới siêu nhân.

Nguyên khí thứ năm là trí tuệ (manas).

4.     Bảy cung hay bảy huyền giai.          

Bảy màu.

Bảy cảnh giới biểu hiện.

Bảy Đấng Thiên tôn (Kumara).

Bảy nguyên khí của con người.

Bảy luân xa.

Bảy hành tinh thánh thiện.

Bảy dãy hành tinh.

Bảy bầu hành tinh.

Bảy cuộc tuần hoàn.

Bảy căn chủng và phân chủng.

Bảy cuộc điểm đạo.

Tôi muốn nhấn mạnh trong bảng kê nói trên là vị Chân sư hoàn toàn hiểu được sự tương ứng của tất cả các điều đó và thấy nó hiện hữu trong phạm vi của tâm thức, của hình thể, và của trí thông tuệ. Có thể nói là Ngài hiểu sự tương ứng này trong phạm vi màu sắc khi nói về hình thể; trong phạm vi âm thanh khi nói về sự sống; và trong phạm vi sinh lực khi nói [230] về trí thông tuệ, hay trạng thái hoạt động. Lời phát biểu trên sẽ rất hữu ích nếu được suy ngẫm kỹ vì nó hàm chứa một sự kiện thực tế huyền môn. Các từ ngữ mô tả trên đây được sử dụng tùy theo ba đường lối cận tiến như đã đề cập trong bức thư trước.

Màu sắc trong tiểu vũ trụ và trong đại vũ trụ.

Phần này có nhiều điểm khó vì tiến trình thay đổi liên tục. Màu sắc trong tiểu vũ trụ thì tùy theo ba yếu tố:–

1.     Cung của Chân nhân.

2.     Cung của Phàm nhân.

3.     Trình độ tiến hóa.

Một điều ngụ ý có thể nói ở đây là ở mức tiến hóa thấp thì phần lớn màu sắc đều dựa vào phương diện hoạt động. Về sau, khi đã làm việc trong phương diện bác ái hay minh triết, sẽ có ba hiệu quả:–

a.     Loại khỏi các hạ thể những màu sắc vốn là các tàn tích của thái dương hệ trước, gồm việc loại bỏ những màu như nâu và xám.

b.     Chuyển hóa một số màu thành những màu ở cấp độ cao hơn.

c.      Hiệu quả của sự trong sáng, huy hoàng hay chói rạng của ánh sáng ẩn tàng, vốn là kết quả của độ tinh khiết cao hơn của các thể và kích thước ngày càng tăng của ngọn lửa nội tại.

4.     Cung, hay các cung được biểu hiện đang rút lui hoặc đang nhập cuộc. Tất nhiên các cung này ảnh hưởng đến các Chân nhân đang lâm phàm. Chúng làm thay đổi phần nào sự rung động hoặc do đó tạo sự biến đổi màu sắc hay phẩm tính. Ví dụ như một người thuộc Cung Khoa học chịu ảnh hưởng của cung nhập cuộc là Cung Điều hòa, thì tác dụng đối với khuynh hướng tư tưởng của y và hậu quả là đối với [231] màu sắc mà y biểu lộ, sẽ rất quan trọng. Tất cả các yếu tố này phối hợp, pha trộn và hòa lẫn vào nhau, khiến người nhìn từ quan điểm của tam giới sẽ thấy rất rắc rối khó khăn.

. . . . . . Tôi hiểu rằng các bạn cảm thấy những điều vừa nói có vẻ chỉ gây thắc mắc nhiều hơn. Nhưng nhờ kiên trì chú tâm vào vấn đề trước mắt, nhờ thường xuyên suy ngẫm và tham thiền về màu sắc, nhờ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa huyền bí và sự ứng dụng của màu sắc vào tiểu vũ trụ mà lần hồi các bạn sẽ nắm được đầu mối dẫn dắt ra khỏi sự rắc rối, để đi vào ánh sáng hiểu biết hoàn toàn. Vì thế hãy can đảm, hãy có quan điểm linh động rộng mở, và khả năng dè dặt, không phát biểu ý kiến cho đến khi có thêm những sự kiện mới đủ để chứng minh, và cũng để tránh những khẳng định võ đoán. Đây là các hướng dẫn viên tốt nhất cho các bạn ở những bước đầu tìm kiếm. Nhờ tham thiền và khả năng tiếp thu giáo huấn cao siêu mà nhiều người đã tìm được con đường từ Phòng Học tập đến Phòng Minh triết. Chỉ ở Phòng Minh triết, sự giải thích nội môn về các màu sắc mới được hiểu đúng. Qua tham thiền, người môn sinh chuẩn bị cho cuộc điểm đạo để mở cánh cửa giúp y bước vào Phòng này. Vì thế, hãy kiên trì hành thiền và giữ vững chủ đích, đừng ngập ngừng do dự.

Ngày 4-9-1920.

Hôm nay, chúng ta bàn đôi điều có ứng dụng thực tế về mặt tinh thần. Tôi đã trao cho các bạn nhiều chi tiết để suy tư và nghiền ngẫm. Tất cả đều hướng về sự phát triển thượng trí, và sự kích thích khả năng tưởng tượng cũng phần nào giúp phát triển trực giác. Nhiều điểm có tính cách tiên đoán, và đưa ra một lý tưởng mà sau này phải đạt. Chỉ bằng cách vạch ra mục tiêu và chuyên chú vào đó mới khiến [232] hành giả có nỗ lực cần thiết để tiến gần ít nhiều đến vị thế mong muốn. Nhưng hôm nay chúng ta đi vào cuộc sống thực tế và áp dụng cho phàm ngã một mức độ rung động nhất định bằng cách bàn đến điểm thứ ba nói về ảnh hưởng của màu sắc:–

a.     Trên các thể của môn sinh.

b.     Vào những nhóm mà y liên hệ.

c.      Vào môi trường chung quanh.

Điều tôi đặc biệt nhấn mạnh là phương diện sự sống chứ không phải phương diện hình thể của màu sắc. Trước tôi đã nói rằng màu sắc chỉ là hình thể được hiển thị do một loại mãnh lực, khi lực ấy đang vận chuyển ở một tầm mức nhất định, và khi sự tác động và vận hành của nó bị ngăn trở hay không bị ngăn trở do loại vật chất mà nó tác động xuyên qua đó. Trong câu này có chìa khóa giải quyết vấn đề tại sao màu sắc ở những cõi cao và những cõi thấp lại khác nhau. Mật độ tương đối và sức cản của vật chất đối với dòng mãnh lực của sự sống tuôn xuống là lý do của phần lớn sự khác biệt về màu sắc. Tất nhiên, một trong những khác biệt này có căn bản vũ trụ, nên khó hiểu cho con người sống trong không gian ba chiều của cuộc tuần hoàn thứ tư này. Nhưng người môn sinh có thể hiểu lý do cơ bản của sự dị biệt đến mức đủ để ý thức được sự tuyệt đối cần thiết phải liên tục tinh luyện các thể của y để mãnh lực có thể phóng rải xuyên qua dễ dàng hơn. Thế nên, trong ba cõi thấp đó là vấn đề của cuộc sống thực hành và là việc đặt cả ba hạ thể dưới những qui luật tinh luyện xác định.

Trong phạm vi phát triển tinh thần (và ở mức độ ít hơn, trong phạm vi hình thể), các mãnh lực này phát biểu thông qua những đức hạnh (như các bạn thường gọi), thông qua từ lực, thông qua sinh lực và trí thông minh. Nói vắn tắt là khi người môn sinh đã kiến tạo được một thể xác tinh khiết, một thể dĩ thái đã tinh luyện, khi y phát triển các đức hạnh [233] của thể tình cảm, và khi y điều hợp, mở mang thể trí, tức là y đang liên tục thay đổi tốc độ rung động của nó, đang thay đổi nhịp điệu của nó mà dưới mắt của nhà thần nhãn thì đây là sự thay đổi về màu sắc. Như các bạn đã biết, màu sắc thấy trong hào quang của người dã man và trong hào quang của người tiến hóa trung bình đã rất khác nhau rồi. Tại sao? Vì một người đang vận chuyển hay rung động một cách chậm chạp còn người kia đang rung động với tốc độ tăng cường rất lớn lao. Một người thì có tiết điệu chậm chạp, trì trệ và nặng nề, trong khi người kia đang chuyển động với vận tốc rất cao, và tất nhiên sẽ làm cho vật chất trong các thể của y hoạt động nhanh hơn.

Vì thế, khi toàn thể nhân loại đồng tiến lên như một đơn vị tập thể thì các Đấng thiêng liêng từ cõi cao nhìn xuống sẽ nhận ra được sự cải thiện đều đặn của các màu sắc, sự tinh khiết và trong sáng hơn rất nhiều trong hào quang của nhân loại, là tổng hợp các hào quang của mọi người. Ví dụ như hào quang của căn chủng Atlantis và của căn chủng Aryan (Ấn-Âu) thì rất dị biệt và trong cơ bản khác nhau. Thế nên, chúng ta đã giải rõ điểm đầu tiên là khi các cá nhân tiến hóa thì màu sắc thay đổi, do sự chuyển hóa cái gọi là tật xấu thành đức hạnh. Tật xấu là sự chi phối của đặc tính tiến hóa giáng hạ trong cùng một mãnh lực mà chính mãnh lực đó về sau sẽ biểu lộ thành đức hạnh.

Điểm thứ nhì là những ảnh hưởng này (biểu lộ thành màu sắc khi chúng tiếp xúc với vật chất) vận chuyển theo những chu kỳ có trật tự riêng biệt. Chúng ta mô tả những chu kỳ vừa kể là sự nhập cuộc hay ra đi của một cung. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này thường có bốn cung thay đổi nhau tác động trong bất cứ thời gian nào. Nói điều này là tôi muốn các bạn ghi nhớ rằng dù tất cả các cung đều biểu hiện trong thái dương hệ, nhưng ít nhiều gì cũng có những cung đồng thời nổi bật vào những giai đoạn biểu hiện nhất định.

Các cung, các mãnh lực, các ảnh hưởng, hay những phối hợp [234] các phẩm tính này khi được phát biểu trong phạm vi ánh sáng thì tô điểm những loại vật chất mà chúng chạm đến bằng một số màu sắc có thể nhận ra được. Các màu này mới phổ âm điệu vào cuộc sống của phàm nhân hay Chân nhân. Các bạn nhận thấy chúng là phẩm tính phức hợp, còn nhà nhãn thông thì thấy chúng là màu sắc.

Vì thế, đối với những nhóm gồm những người qui tụ lại do sự rung động tương tự nhau, chúng ta sẽ thấy hầu như họ có cùng một màu cơ bản, dù vẫn có các khác biệt nhỏ về màu sắc và âm điệu. Trước tôi có nói, màu sắc của đại khối quần chúng có thể đo lường và thẩm định được. Chính là theo cách này mà các nhân viên của Đ.Đ.C.G., đang chưởng quản cuộc tiến hóa trong tam giới, cân nhắc được giai đoạn đã trải qua và tiến bộ đã đạt được.

Các cung khác nhau nhập cuộc mang theo những phần tử có màu sắc của cung đó. Những cung ra đi cũng mang theo những phần tử với một màu cơ bản khác. Trong thời gian chuyển tiếp, sự pha trộn màu sắc hết sức phức tạp, nhưng cũng có tính tương trợ và giúp ích lẫn nhau. Mỗi cung đều truyền đạt ít nhiều cho các cung khác đang lâm phàm đồng thời, và mức độ tiết điệu cũng phần nào ảnh hưởng nhau. Nhìn theo quan điểm của hiện tại và của thời gian trong tam giới thì ảnh hưởng này hầu như rất ít ỏi, không thể đánh giá được. Nhưng nhờ sự thường xuyên gặp gỡ và tương tác của các mãnh lực và màu sắc, nhờ chúng luôn tác động và ảnh hưởng lẫn nhau mà có sự liên tục nâng cao chung, và sự rung động tương tự. Cho nên, các bạn sẽ thấy cách nào để đạt được sự tổng hợp vào cuối mỗi đại giai kỳ sinh hóa. Bảy cung thu vào ba và rốt cuộc hòa vào cung tổng hợp.

Trong tiểu vũ trụ thì ba cung của Chân thần, Chân nhân và Phàm nhân cũng sẽ chế ngự và hấp thu bảy cung, và cũng [235] đưa đến sự hòa hợp đúng lúc vào cung tổng hợp của Chân thần. Sự tương ứng này thật hoàn toàn.

Những mãnh lực hay đức hạnh, hoặc ảnh hưởng này (tôi lặp lại các thuật ngữ đồng nghĩa vì các bạn cần suy tư thật sáng tỏ) được thu nạp dần vào các hạ thể của phàm nhân ngày càng dễ dàng hơn và phát biểu đầy đủ hơn. Khi các thể được tinh luyện, chúng trở thành những phương tiện tốt hơn cho các mãnh lực lưu nhập. Và phẩm tính của một loại mãnh lực nào đó – hay nói ngược lại, mãnh lực của một phẩm tính nào đó – sẽ nhờ thế mà được phát biểu hoàn hảo hơn. Đây là công việc của người môn sinh hành thiền. Ở giai đoạn tiến hóa ban đầu, các mãnh lực này tác động vào và thông qua các thể của con người mà y chẳng nhận biết được bao nhiêu và ít có khả năng ích dụng được chúng. Nhưng thời gian qua, y ngày càng hiểu được giá trị của tất cả các thành quả và tìm cách ích dụng tất cả những phẩm tính của cuộc sống y. Đây là cơ hội. Nhờ thông hiểu phẩm tính, nhờ phấn đấu tập rèn đức hạnh, và nhờ kiến tạo các thuộc tính giống như Thượng Đế, y có thể ứng đáp với các mãnh lực này và giúp chúng dễ dàng tác động hơn. Khi suy ngẫm về các mãnh lực hay phẩm tính này, người môn sinh hành thiền tìm cách thu thái tinh hoa của chúng và thấu hiểu nguyên nghĩa tinh thần của chúng. Y ngẫm nghĩ về sự đáp ứng thiếu sót của mình. Y nhận thức được những khiếm khuyết trong các thể dùng làm phương tiện cho các mãnh lực này. Y nghiên cứu mức độ rung động tiết điệu của mình, rồi ra sức cố gắng tìm mọi cơ hội để đáp ứng nhu cầu cần thiết. Y chú tâm vào đức hạnh, và nếu y có thể biết được cung nào đang đến, hay cung nào đang chế ngự vào thời gian đó y sẽ nắm được thời cơ và hợp tác với mãnh lực đang có. Tất cả các việc này y thực hiện được qua những phương thức thiền huyền môn có trình tự và chân truyền.

Theo thời gian – vâng, tôi lại tiên đoán nữa – các đạo sinh [236] sẽ được chỉ dạy một số sự kiện về các cung đang chế ngự, để họ có thể nắm lấy cơ hội mà bất cứ cung nào mang lại.

Ảnh hưởng đối với Môi trường chung quanh.

Về điểm thứ ba, tức là ảnh hưởng của tất cả các điều kể trên vào môi trường chung quanh, nếu xem xét kỹ các bạn sẽ thấy rõ ngay rằng ảnh hưởng này rất đáng kể. Đặc biệt là vì nhân loại ngày càng ở dưới sự kiểm soát hữu thức của Chân ngã họ, và sống càng đúng theo định luật. Bấy giờ một số điều có thể xảy ra:–

a.     Sẽ có sự liên giao trực tiếp với trường tiến hoá thiên thần, dù việc ấy hiện nay chưa thể có, vì sự rung động của nhân loại chưa ổn định.

b.     Nhiều linh hồn tiến hóa rất cao sẽ đến, mà hiện tại họ bị trở ngại vì mức rung động chậm chạp, tạo nên những màu sắc u tối trong phần đông nhân loại. Trong thiên giới và ở cấp thượng thiên có một số linh hồn cao cả – mà các bạn không thể hiểu được – là những vị trong Huyền giai Sáng tạo thứ tư đang chờ cơ hội biểu hiện. Điều này giống như một số bạn đã chờ đợi một thời gian trong căn chủng Atlantis trước khi đầu thai. Khi độ rung động của phần đông nhân loại đã đạt một mức nhất định và khi màu sắc trong các hào quang phối hợp của các nhóm đạt một độ sáng nào đó, những vị này sẽ trở lại và đem đến cho địa cầu nhiều điều giá trị vượt khỏi tầm nhận thức của các bạn.

c.      Còn một điểm thú vị khác nữa mà chúng ta không có thời gian để bàn là tác dụng nhịp nhàng vào ngay cả hai giới thấp hơn nhân loại cũng sẽ biểu lộ ra ngoại giới. Nhà tiên tri của dân Do Thái đã nói không ngoa rằng “Con báo sẽ nằm bên cạnh con cừu” hay là “sa mạc sẽ bừng nở như đóa [237] hoa hồng.” Điều này sẽ xảy ra nhờ sự thống ngự của những rung động nhất định và nhờ mang lại một số màu sắc ẩn chứa những phẩm tính hay ảnh hưởng nhất định.

Ngày 7-9-1920.

Hôm nay chúng ta bàn đến sự ứng dụng của màu sắc. Nếu màu sắc chỉ là bức màn che giấu một ảnh hưởng, và nếu các bạn có thể dùng trực giác khám phá ra màu sắc nào bao hàm đức hạnh nào, thì các bạn sẽ nắm được chìa khóa của vấn đề đang bàn. Trong những bức thư này, các bạn nên lưu ý đến hai sự kiện nổi bật là:–

Vấn đề chúng ta đang bàn vốn rất rộng rãi nên chỉ có thể đưa ra những nét đại cương thôi.

Mỗi câu trong các bức thư này đều nhằm truyền đạt chính xác một tư tưởng đầy đủ, và có nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Tại sao tôi không bàn vấn đề với nhiều chi tiết hơn, và tại sao tôi không giải thích dài dòng bằng cách khai triển các câu thành những đoạn văn? Lý do duy nhất là nếu trong những năm hành thiền đã qua người môn sinh đã làm xong công việc ở bước đầu cần thiết, y sẽ tìm thấy trong những bức thư này đủ tài liệu giúp có thể phát triển tư tưởng trừu tượng, và mở rộng con đường thông đạt với trực giác. Tôi chỉ tìm cách gợi ý thôi. Mục tiêu của tôi là chỉ dẫn, còn lợi ích của các lời giáo huấn thì tùy theo trực giác của người môn sinh. Vì thế, khi tôi nói rằng màu sắc có những hiệu quả nhất định khi đem áp dụng tức là tôi muốn khuyên các bạn rằng cần phải giải thích điều đó trong phạm vi sự sống, trong phạm vi hình thể, và trong phạm vi trí tuệ.

Ứng dụng của màu sắc.

a.     Trong tham thiền.

b.     Trong việc chữa bệnh.

c.      Trong công tác kiến tạo. [238]

Màu sắc có thể được sử dụng nhiều cách, và ba cách trên không gồm trọn cả vấn đề. Ba cách này chỉ có tính trực tiếp và thực dụng đối với người môn sinh mà thôi. Màu sắc có thể được dùng để tiếp xúc với các giới tiến hóa khác, thấp hơn hay cao hơn nhân loại, hoặc trong công tác xác định nhằm tiêu hủy hay phá vỡ. Màu sắc cũng có thể được dùng phối hợp với những phương pháp khác như âm nhạc hay chuyển động, hoặc với các câu thần chú đặt sẵn để mang lại những kết quả nhất định. Nhưng tất cả các công dụng đó chúng ta không cần phải quan tâm đến trong loạt thư này. Sự phát triển của con người và khả năng phụng sự ngày càng tăng của y đều được thực hiện nhờ sử dụng thiền huyền môn một cách khôn ngoan, sáng suốt. Vậy chúng ta hãy xem xét điểm đầu tiên.

Sử dụng Màu sắc trong Tham thiền.

Tất cả màu sắc đều phát ra từ một nguồn hay từ một màu nguyên thủy – trong thái dương hệ này cung vũ trụ màu chàm hàm chứa nguồn bác ái hay minh triết vũ trụ, – và sau đó phân thành ba màu chính, rồi bốn màu phụ để thành bảy màu trong quang phổ. Các bạn có thể thấy hiệu quả tương tự trong cuộc sống cá nhân, vì bao giờ đại vũ trụ cũng ảnh hưởng đến tiểu vũ trụ. Màu nguyên thủy của cá nhân là cung Chân thần của y, kế đó biểu hiện thành ba màu của Tam nguyên và thành bốn màu của tứ hạ thể. Những màu này trên con đường phản bổn hoàn nguyên trở thành ba rồi lại thành một.

 Con đường biểu hiện hay phân hóa là con đường hoạch đắc. Đó là cái đồng nhất trở thành cái vạn thù, dị biệt. Đó là sự phân tách màu căn bản duy nhất thành nhiều màu phối hợp. Đó là phương diện sắc tướng, là sự phát biểu của những gì che giấu sự sống. Về phương diện sự sống, đó là sự phát triển từ một phẩm tính căn bản duy nhất thành nhiều đức hạnh cố hữu. Đó là khả năng ẩn tàng của Thiên tính phát [239] biểu thành nhiều thuộc tính thiêng liêng. Đó là sự sống duy nhất phát biểu những phẩm tính của Nó qua sắc tướng thiên hình vạn trạng. Đó là cái ngã có đủ khả năng tiềm tàng của Toàn Ngã, sử dụng các hình thể để phát biểu những mức độ hoàn thiện bao gồm tất cả. Về phương diện thông tuệ, đó là phương pháp để sự sống sử dụng hình thể và phát triển sự hiểu biết, khả năng phân tích và trí tuệ toàn vẹn của nó. Đó là mối liên hệ giữa sự sống và hình thể, giữa cái ngã và phingã, giữa tinh thần và vật chất thể hiện dưới mọi cách phát biểu để cho thiên tính ẩn nội áp đặt các đặc tính của nó vào phần vật chất dành cho nó sử dụng. Thượng Đế nội tâm phát biểu tất cả các thiên đức ẩn tàng của Ngài thông qua các hình thể, nhờ sử dụng sự hoạt động hay thông tuệ. Sự sống phô bày màu sắc, và hình thể làm hoàn hảo các màu sắc này khi phương diện thông tuệ (là liên kết truyền năng lượng) trở nên tăng tiến hơn và sự thông hiểu phát triển.

Trên đường trở về cội nguồn, qui luật là sự từ bỏ, ngược lại với phương pháp trước. Sự sống nội tại từ bỏ các hình thể mà từ trước đến giờ vẫn được xem là (và tất nhiên là) thiết yếu. Giờ đây nhờ sử dụng trí thông tuệ vốn đã liên kết các cặp đối cực, tinh thần và vật chất, tâm thức và hình thể, mà các hình tướng vật chất được kiến tạo nhờ trí thông tuệ sẽ lần hồi bị từ bỏ cũng bởi chính trí thông tuệ đó, hay khả năng suy luận đã được chuyển hóa thành minh triết. Hình thể bị bỏ đi nhưng sự sống vẫn còn. Các màu sắc dần dần bị tái hấp thu, nhưng các thiên đức vẫn tồn tại, giờ đây nhờ có kinh nghiệm nên rất vững bền và mãi mãi hữu dụng. Các thuộc tính thiêng liêng này không còn tiềm tàng mà đã được phát triển thành các quyền năng để sử dụng. Khả năng bẩm sinh trở thành những đặc tính tích cực, tăng lên đến lũy thừa bậc n. Các màn che lần lượt bị loại bỏ. Các thể bị bỏ rơi và thay thế. Các vận cụ bị tháo bỏ và những hình thể không còn cần thiết nữa, nhưng sự sống vẫn còn mãi và trở về với bản cung [240] đã sinh ra nó. Nó trở về điểm khởi thủy, có thêm khả năng hoạt động và phát biểu, thêm kinh nghiệm và khả năng biểu hiện. Nó cũng có thêm tất cả những sự khác biệt giữa một người dốt nát dã man và Đức Thái Dương Thượng Đế. Điều này đã được thực hiện hoàn tất nhờ sự sống sử dụng các hình thể, lấy trí thông tuệ làm phương tiện để sử dụng các hình thể đó như một phương cách học tập. Khi đã biểu hiện với tư cách một trạng thái của cung nguyên thủy này, khi qua nhiều kiếp luân hồi đã phân hóa cung này thành các bộ phận kết hợp, sau khi đã khoác lên mình cả bảy màu sắc của cung này, linh hồn cá nhân đang luân hồi bèn lên đường trở về, từ bảy trở thành ba và từ ba lại trở thành một.

Khi hành giả làm được điều này một cách hữu thức, khi với sự tự nguyện và thông hiểu những gì cần phải làm y cố gắng giải thoát sự sống bên trong khỏi các lớp màn che án và khỏi các lớp vỏ giam hãm, thì y khám phá ra rằng phương pháp mà y dùng để hoàn tất điều này là cuộc sống thiền huyền môn ở nội tâm và cuộc sống phụng sự ở ngoại cảnh. Trong phụng sự có sự từ bỏ, thế nên theo định luật huyền môn sự sống nội tâm tìm được sự giải thoát trong phụng sự và được tự do, khỏi vướng bận trong cuộc biểu hiện ở ngoại cảnh. Hãy suy ngẫm kỹ điều này vì trong ngôn từ có nhiều ẩn nghĩa.

Vì thế, về phương diện màu sắc người đạo sinh phải làm hai việc trong tham thiền.

1.     Khám phá ba màu chính yếu của y biểu lộ trong Phàm nhân, Chân nhân và Chân thần.

2.     Chuyển tứ hạ thể thành Tam nguyên, mà giai đoạn đầu là hữu ý thu vào Chân nhân để giảm dần sự chi phối của phàm tính. Người môn sinh bắt đầu thải trừ những màu sắc không thích hợp, loại các rung động thấp và thô để cuối cùng [241] tinh luyện các hiện thể đến mức ba màu chính yếu mà y biểu lộ tỏa chiếu một cách trong sáng hoàn toàn. Điều này đưa y đến mức điểm đạo lần thứ ba. Sau đó, y biến đổi ba màu thành một, cho đến khi từ các hạ thể y thu trọn cả tâm thức vào trong lớp áo của Chân thần.

Tôi không có ý định nói rõ về tác dụng của màu sắc vào các thể trong tham thiền như các bạn vẫn tưởng. Tôi chỉ tìm cách trao cho các bạn ý niệm về màu sắc là bức màn che mà cuối cùng phải loại bỏ. Với đề mục “Công dụng của màu sắc trong tương lai,” tôi có thể nói đến những điểm khiến các bạn quan tâm nhưng hiểu các điều căn bản thì vẫn tốt hơn là cho những công thức để các bạn thí nghiệm.

Ngày 10-9-1920.

Hôm nay chúng ta chỉ bàn sơ qua điểm thứ hai, là vấn đề ứng dụng màu sắc để chữa bệnh. Sở dĩ phải nói vắn tắt là vì muốn vận dụng vấn đề này một cách đúng đắn và nhờ đó mới an toàn thì cần phải nói đầy đủ chi tiết. Ở đây một câu tục ngữ xưa sẽ tỏ ra là đúng: “Sự hiểu biết thiếu sót là một điều nguy hiểm.” Ngày nào vấn đề chữa trị bằng màu sắc chưa được đề cập một cách đúng đắn, đầy đủ chi tiết cùng với kiến thức chuyên môn, thì các kết quả đạt được có thể cho thấý nhiều tai hại hơn là lợi ích. Sau này vấn đề sẽ được minh giải đầy đủ, nếu tương lai mang lại được những gì đã định. Trong thời gian chờ đợi, để giúp các bạn hiểu thêm, tôi có thể nói sơ lược một số đặc điểm của công việc này, nêu ra một số điều kiện để được thành công, và tiên đoán phần nào khuynh hướng khả dĩ có của vấn đề.

[242] Ứng dụng màu sắc để chữa bệnh.

Chúng ta đang bàn về vấn đề này theo quan điểm tham thiền. Trong tham thiền, việc trị liệu được thực hiện hoàn toàn trên bình diện trí tuệ. Việc vận dụng bất cứ loại mãnh lực nào được cung cấp cũng từ thể trí của bệnh nhân, và từ đó tác động vào thể xác, thông qua thể tình cảm.

Người hay nhóm đảm nhận việc trị liệu phải xác định được một số sự kiện. Hãy kể sơ lược ra đây để độc giả dễ hiểu hơn:–

1.     Phần lớn công việc có tính cách nội tại và sẽ xem xét các nguyên nhân chứ không chú trọng đến hiệu quả. Mục tiêu đầu tiên của nhóm trị liệu là khám phá ra nguyên nhân phát khởi căn bệnh. Khi đã định được nguyên nhân đó trong thể tình cảm hay thể trí, các thành viên của nhóm mới tiến hành xem xét hiệu quả biểu lộ trong thể xác hay thể dĩ thái. Nếu vấn đề hoàn toàn thuộc về thể xác, như trường hợp một loại tai nạn, hay một bệnh tật hoàn toàn do di truyền hoặc bẩm sinh, thì các phương pháp trị liệu cấp cao của khoa học thường thức ở cõi trần sẽ được áp dụng trước hết. Công việc của nhóm trị liệu sẽ là trợ giúp các phương pháp này bằng cách tập trung vào các thể thanh hơn. Điều vừa kể được áp dụng trong thời kỳ chuyển tiếp mà hiện nay nhân loại đang bước vào. Về sau, khi kiến thức về khoa trị liệu nội môn trở nên phổ biến hơn và những định luật chi phối các thể thanh được hiểu biết nhiều hơn thì khoa trị liệu ở cõi trần sẽ được thay thế bằng khoa phòng bệnh ở các cõi tế vi. Khoa này sẽ nhằm cung ứng những điều kiện đúng đắn và kiến tạo các thể để vừa tự bảo vệ vừa hóa giải được mọi sự tấn công của bệnh tật. Người ta sẽ thấy sự thấu hiểu luật rung động và ảnh [243] hưởng của một rung động vào một rung động khác, là chìa khóa của việc cải thiện điều kiện sống, và tạo nên những thể lành mạnh trên mọi cảnh giới.

Nhưng như hiện nay bệnh tật, những loại suy yếu khác và sự đau đớn trong tất cả các thể đang có khắp nơi, và khi những tình trạng đó đã được nhận thức, thì rất cần tìm phương tiện để trợ giúp. Điều này đưa chúng ta đến điểm kế tiếp:

2.     Nhóm trị liệu phải xác định đầy đủ các chi tiết về bệnh nhân, dựa theo những câu hỏi sau đây:–

a.     Bệnh nhân có những lối suy tư cơ bản nào?

b.     Chính yếu là những hình tư tưởng nào đang bao bọc quanh y?

c.      Màu sắc nào nổi bật trong thể tình cảm của bệnh nhân? Với mức độ rung động ra sao?

d.     Bệnh nhân có đang bị một xáo trộn bất ngờ khiến cho toàn bộ thể tình cảm của y bị rối loạn không?

e.      Y thường đề cập đến những vấn đề nào? Những quan tâm chính của y là gì?

f.       Y thường nghiên cứu những loại sách báo gì?

g.     thích theo đuổi những điều gì?

h.     Tình trạng các luân xa trong cơ thể của y ra sao? Những luân xa nào đã được đánh thức?

i.       Có luân xa nào đang quay trong phạm vi bề đo thứ tư không? Trong một trường hợp đặc biệt nào đó thì luân xa nào là chính yếu?

j.       Tình trạng thể dĩ thái của bệnh nhân ra sao?

      Nó có triệu chứng mất sinh lực hay bế tắc không?

       Bệnh nhân có thiếu sinh lực không?

 Ảnh hưởng từ lực của y đối với người khác như thế nào?

[244] Khi đã xem xét bệnh nhân theo tất cả các khía cạnh này rồi (chứ không sớm hơn), nhóm trị liệu mới quan sát chi tiết trong chính thể xác của y. Sau đó, khi đã có ý niệm về các tình trạng gây bệnh, nhóm sẽ nghiên cứu đến:–

a.     Tình trạng hệ thần kinh của bệnh nhân, đặc biệt lưu ý đến cột sống và tình trạng của luồng nội hỏa.

b.     Tình trạng của các cơ quan trong cơ thể, nhất là cơ quan hay những cơ quan đang gây bệnh.

c.      Cấu trúc cơ thể của bệnh nhân, xương, thịt và tình trạng của chất lỏng thiết yếu là máu.

Nhãn quan cao và sức khỏe.

Như các bạn có thể thấy, nhất thiết việc định bệnh này phải cần kiến thức khoa học trực tiếp, hoặc bằng cách khác là dùng nội nhãn thông để thấy được căn bệnh ở đâu, và có thể dùng nhãn thông quan sát toàn thân và các cơ quan, để định ngay được vị trí bệnh tật. Muốn có khả năng này cần phải phát triển các quyền năng nội tại để thu được kiến thức trong tam giới. Nhờ đó tránh được những sai lầm tai hại thường xảy ra trong việc thực hành y khoa hiện nay, gọi là thuật điều trị. Trong tương lai sẽ không còn nguy cơ sai lầm nhiều đến thế trong trị liệu. Thế nhưng, dù có thể tránh được các sai lầm này trong trường hợp điều trị thể xác, hãy còn lâu sự hiểu biết đầy đủ về thể tình cảm mới đến mức mà khoa học hiện đại đã đạt đối với thể xác. Việc chữa trị thể xác và sự hiểu biết hay nghiên cứu đúng đắn về thể xác có thể thực hiện được do một người có nội nhãn thông. Nhờ khả năng thấy được các cấp độ tình cảm, y có thể hợp tác với người [245] thầy thuốc sáng suốt hiện nay để giúp vị này khỏi bị sai lầm, xác định đúng tầm mức của cơn bệnh, nguyên nhân bệnh tật, phương tiện trợ giúp, và tiến độ trị liệu.

Bệnh tật của thể tình cảm biểu lộ trong thể xác, như phần lớn các bệnh thân xác của nhân loại hiện nay, thường có thể định bệnh và loại trừ được nhờ điều trị đúng. Nhưng đối với các bệnh ở thể tình cảm đã ăn sâu vào thể thanh này thì phải đối trị từ các cấp độ trí tuệ, vì thế phải cần người có nhãn thông thể trí để đối trị và tiêu trừ. Dĩ nhiên là tất cả những phương pháp này đều cần đến sự hợp tác hữu ý và tích cực của chính bệnh nhân.

Tương tự, bệnh tật của thể trí thì phải đối trị ngay từ cấp của thể nguyên nhân, cho nên cần sự trợ giúp của Chân nhân, và người đã có nhãn quan và tâm thức của thể này. Phương pháp sau cùng vừa kể và phần lớn các bệnh loại này còn lâu mới xảy ra cho nhân loại, nên ngày nay không mấy liên quan đến chúng ta. Tuy nhiên, việc trị liệu các bệnh của xác thân (bắt nguồn từ thể tình cảm) thì đã bắt đầu được biết và nghiên cứu đôi chút. Khi kết hợp nghiên cứu tâm lý học và thấu hiểu các loại bệnh thần kinh, y khoa sẽ tiến đến bước kế tiếp. Thể dĩ thái là thể nối liền thể tình cảm và thể xác. Bước kế tiếp là nghiên cứu thể dĩ thái theo hai lối, hoặc xem nó là bộ máy truyền dẫn prana, sức sống, sinh khí hay từ lực, hoặc là vận cụ nối liền bản tính tình cảm với xác thân. Thể xác triệt để tuân theo mệnh lệnh của bản tính này truyền qua thể dĩ thái.

Khi thành lập các nhóm trị liệu theo những điều kiện lý tưởng, vị trưởng nhóm phải là người có được tâm thức của thể nguyên nhân. Người này có thể đối trị được bất cứ bệnh tật nào trong thể trí, và có thể khảo sát được sự chỉnh hợp của [246] các thể với Chân nhân. Nhóm cũng sẽ bao gồm:–

a.     Một người hay nhiều người có nhãn thông, thấy được thể thanh là thể tình cảm.

b.     Một số người hiểu được phần nào các nguyên tắc căn bản của luật rung động. Họ có thể dùng quyền năng tư tưởng để áp dụng chính xác những sóng màu sắc trong một số cuộc trị liệu, và nhờ kiến thức khoa học mà đạt được những kết quả mong muốn.

c.      Một thành viên của nhóm là người của ngành y để trị bệnh xác thân, dưới sự chỉ đạo của các nhà nhãn thông hữu thức. Vị này sẽ nghiên cứu sức đề kháng của cơ thể, sẽ áp dụng một số dòng mãnh lực, màu sắc, và rung động có tác dụng trực tiếp vào thể xác. Nhờ sự hợp tác của toàn nhóm mà các kết quả đạt được sẽ đáng gọi là phép lạ.

d.     Trong nhóm cũng có một số người có khả năng thiền huyền môn, và nhờ năng lực tham thiền tạo nên đường dẫn hình phễu cần thiết để truyền các mãnh lực chữa trị của Chân ngã và Chân sư.

e.      Ngoài ra trong nhóm cũng có người có thể ghi chép một cách chính xác mọi việc xảy ra, để làm hồ sơ và tài liệu học tập cho trường phái y khoa mới.

Tôi đang nói đến nhóm trị liệu lý tưởng. Hiện tại nhóm này chưa thể nào có được. Nhưng có thể khởi đầu bằng cách sử dụng bất cứ kiến thức và quyền năng nào có được trong những người đang tìm cách phụng sự chủng tộc mình và Chân sư.

Từ các điều trên, ta thấy rằng màu sắc được áp dụng theo hai lối:–

[247]

1.     Trên các cõi cao nhờ quyền năng của tư tưởng, và

2.     Dùng các loại ánh sáng màu chiếu vào thể xác.

Với thể xác thì các màu thông thường sẽ được áp dụng, còn những màu huyền bí thì sẽ được dùng cho các thể thanh hơn. Thế nên, phần lớn công tác này nằm trong tay các môn sinh huyền bí học trên thế giới, họ làm việc trong những nhóm có tổ chức, dưới sự giám sát chuyên môn (cho đến khi kiến thức nội môn này trở thành ngoại môn).

Các bạn hỏi hiện nay các nhóm này có thể bắt đầu dùng màu sắc đến mức nào để làm việc? Hiện nay, vấn đề trước mắt cần nắm vững và thực hiện là phát triển kiến thức cần thiết về thể dĩ thái, luôn ghi nhớ việc kiến tạo các thể tinh khiết, và nghiên cứu ảnh hưởng của các màu sắc khác nhau đối với thể xác. Vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu nhiều. Các bạn sẽ thấy rằng những màu nhất định ảnh hưởng rõ rệt đến những loại bệnh nhất định, trị được một số bệnh thần kinh, xóa được một số khuynh hướng đau yếu trong thần kinh hệ, giúp tạo lập những mô mới, hoặc thiêu hủy các thối nát. Tất cả những điều này đều phải được nghiên cứu. Có thể thí nghiệm việc truyền sinh lực và từ lực, cả hai đều tác động trực tiếp vào thể dĩ thái, và bí ẩn này cũng thuộc luật rung động và màu sắc. Về sau . . . . . . . . chúng ta có thể bàn nhiều chi tiết hơn về công việc của các nhóm trị liệu này, khi họ được qui tụ để tham thiền. Ở đây tôi muốn nói thêm về các hiệu quả nhất định của một số màu, dù cho đến nay tôi chỉ có thể kể thêm ba màu và nói vắn tắt thôi:–

1.     Màu vàng cam kích thích hoạt động của thể dĩ thái, giải trừ những tắc nghẽn và tăng cường dòng sinh khí prana.

2.     Màu hồng tác động vào hệ thần kinh và có khuynh hướng làm sinh động, loại trừ trầm cảm và những [248] triệu chứng suy yếu, tăng cường ý chí muốn sống.

3.     Màu xanh lục có hiệu quả trị liệu tổng quát, có thể được sử dụng một cách an toàn trong các trường hợp bị viêm và sốt. Nhưng hiện nay hầu như không thể cho biết những điệu kiện đúng đắn để áp dụng màu này, hay độ đậm nhạt theo nhu cầu. Đây là một trong những màu căn bản rốt cuộc sẽ được dùng trong việc điều trị xác thân, và hiện là màu của âm điệu của Thiên nhiên.

Dường như các bạn thấy những lời này quá sơ sài và không đầy đủ? Vậy mà nó còn vượt khả năng hiểu biết của các bạn đó. Nhưng đừng quên điều tôi thường nói với các bạn là sau các lời ngụ ý ngắn ngủi này có sẵn con đường đưa đến nguồn cội của mọi tri thức.

Ngày 11-9-1920.

Giờ đây chúng ta đến phần cuối về việc sử dụng màu sắc trong tham thiền. Chúng ta đã bàn vấn đề theo cách mà nếu những ẩn ngữ rải rác trong những lời truyền đạt này được theo dõi đúng mức thì chúng sẽ là cơ bản cho những kết luận tất phải có. Rốt cuộc những kết luận này sẽ là những định đề mà các trường phái y khoa hay khoa học tương lai sẽ dựa vào để tiếp tục công việc của họ. Chúng ta có thể tóm lược các điều đã học như sau:–

1.     Các màu sắc căn bản của Phàm nhân phải được thăng hoa thành các màu của Tam nguyên hay là Tinh thần tam phân. Điều này được thực hiện nhờ tham thiền huyền môn đích thực.

2.     Những màu sắc mà người mới học khoa trị liệu cần quan tâm chính yếu là màu vàng cam, màu hồng và xanh lục.

3.     Cung màu tím giữ bí mật cho chu kỳ hiện tại. [249]

4.     Điểm kế tiếp phải hiểu biết thấu đáo sẽ là những định luật chi phối thể dĩ thái.

5.     Khi phát triển trực giác, con người sẽ nhận biết được các màu huyền bí mà các màu thông thường đang che giấu.

6.     Màu sắc là hiện tướng và sức mạnh của đức hạnh (hiểu theo nghĩa huyền bí) trong đời sống nội tâm.

Tôi đã tóm tắt các điểm thực dụng, cần được chú ý ngay để hiểu rõ thêm. Dùng những điều này làm căn bản để nghiên cứu, rốt cuộc người môn sinh có thể hy vọng thấy loại công việc của cả những trường y khoa và các phân khoa tâm lý sẽ hoàn toàn thay đổi. Các bạn có thể ghi nhận nơi đây đôi lời tiên đoán để giúp ích thế hệ mai sau.

Dự báo về tương lai.

1.     Cách giảng dạy trong các trường y khoa sẽ ngày càng dựa vào sự rung động, và được phát biểu trong phạm vi âm thanh và màu sắc.

2.     Giáo huấn tôn giáo trên thế giới và sự chú trọng đến đức hạnh cũng sẽ được truyền dạy trong phạm vi màu sắc. Rốt cuộc người ta sẽ được phân nhóm theo màu sắc của cung họ, và điều này có thể thực hiện khi nhân loại phát triển khả năng thấy các hào quang. Số những nhà nhãn thông hiện nay đã nhiều hơn con số chúng ta biết được, vì người có thần thông chân chính thường giữ im lặng.

3.     Khoa số học thực ra là khoa học về màu sắc và âm thanh cũng sẽ thay đổi chút ít về cách dụng ngữ, và cuối cùng màu sắc sẽ thay thế các con số.

4.     Một ngày kia những định luật chi phối việc xây dựng các công trình lớn và việc nâng những vật nặng sẽ [250] được hiểu trong phạm vi âm thanh. Khi chu kỳ trở lại và ngày giờ đến, chúng ta sẽ thấy sự tái hiện khả năng nâng các khối lớn cực nặng, của người Lemuria và người Atlantis nguyên thủy, – nhưng lần này ở trên vòng tiến hóa cao hơn. Việc dùng trí để thấu hiểu phương pháp này sẽ được phát triển. Các khối nặng này đã được nâng lên nhờ những nhà kiến tạo thời xưa có khả năng dùng âm thanh tạo được một khoảng chân không và dùng cho các mục đích riêng của họ.

5.     Cũng sẽ chứng tỏ rằng có thể vận dụng một số màu sắc kết hợp với âm thanh để tạo sự hủy diệt và những hiệu quả lớn lao sẽ được thực hiện theo lối này. Màu sắc có thể chữa trị cũng như có thể hủy diệt. Âm thanh có thể phá vỡ cũng như có thể tạo sự cố kết. Hai tư tưởng này bao hàm bước kế tiếp của khoa học trong tương lai gần đây. Những định luật về rung động sẽ được nghiên cứu và hiểu biết sâu rộng, và việc sử dụng kiến thức về sự rung động ở cõi trần sẽ mang lại nhiều phát triển thú vị. Các phát triển đó sẽ là một phần kết quả tự nhiên của việc nghiên cứu về chiến tranh và các ảnh hưởng của chiến tranh, về mặt tâm lý và các mặt khác. Ví dụ như âm thanh của những súng lớn lại có nhiều hậu quả hơn là tác động của quả đạn ở cõi trần. Các ảnh hưởng này phần lớn ở cấp dĩ thái và tình cảm nên hiện nay chúng ta chưa thực sự nhận biết được.

6.     Âm nhạc sẽ được sử dụng rộng rãi trong kiến tạo, và trong 100 năm nữa âm nhạc sẽ là một yếu tố trong một số công trình xây dựng. Đối với các bạn điều này dường như hoàn toàn không thể được, nhưng đó chỉ là việc sử dụng âm thanh có qui củ để đạt những mục tiêu nhất định.

[251] Các bạn sẽ hỏi, tất cả những điều đó có tác dụng gì trong loạt thư nói về tham thiền này? Đơn giản là phương pháp sử dụng màu sắc và âm thanh để chữa bệnh, để xúc tiến sự phát triển tinh thần, và để xây dựng ở cõi trần đều sẽ dựa vào các định luật chi phối thể trí, và sẽ là những hình thức tham thiền. Ngày nào nhân loại phát triển được những quyền năng mạnh mẽ và các thuộc tính của tư tưởng (các quyền năng này là sản phẩm của tham thiền đúng đắn), chừng ấy người ta mới có thể áp dụng được các định luật rung động vào những mục tiêu bên ngoài. Đừng nên nghĩ rằng chỉ có nhà thần bí hay người sùng tín trong tôn giáo, hoặc người thấm nhuần những gì chúng ta gọi là giáo huấn cao siêu mới là người giỏi về các quyền năng đạt được qua tham thiền. Tất cả các nhà đại tư bản, những thủ trưởng tối cao của ngành kinh tài, hoặc tổ chức thương mại đều là những kẻ nắm giữ các quyền năng tương tự. Họ là hiện thân của sự chuyên nhất theo một đường lối tư tưởng và họ tiến hóa song hành với nhà thần bí hay huyền bí gia. Tôi hết sức nhấn mạnh vào sự kiện này. Họ là những người tham thiền theo đường lối của Đức Văn minh Đại đế, là vị Chúa của Văn minh hay Văn hóa. Sự cực kỳ chuyên chú vào vấn đề trước mắt là bản tính đặc thù của con người họ, và trong nhiều phương diện họ đạt được những kết quả to tát hơn nhiều môn sinh hành thiền. Tất cả những gì họ cần phải làm là thăng hóa nguyên động lực ẩn trong công việc của họ, rồi ra họ sẽ thành tựu vượt hơn các môn sinh khác. Họ sẽ tiến đến một điểm tổng hợp, và sẽ dấn bước trên Con đường Dự bị.

Vì thế, Luật Rung động sẽ ngày càng được mọi người thấu đáo và chúng ta sẽ thấy nó chi phối sự hoạt động trong cả ba ngành của Đức Bàn cổ, Đức Chưởng giáo và Đức Văn minh. Luật này sẽ phát biểu cơ bản là qua màu sắc và âm thanh, với các thuật ngữ quen thuộc của hai lĩnh vực này. Sự xáo trộn tình cảm sẽ được xem như là âm thanh thiếu hài hòa. Trí tuệ [252] trì độn sẽ được gọi là sự rung động thấp, và bệnh tật thân xác sẽ được xem xét về mặt số học. Rốt cuộc, toàn bộ công tác kiến tạo sẽ được phát biểu trong phạm vi số học, màu sắc, và âm thanh.

Vấn đề này bàn bấy nhiêu là đủ, và giờ đây tôi không còn gì để nói thêm. Chủ đề này thật sâu xa khó hiểu và chỉ nhờ kiên trì suy ngẫm chúng ta mới soi sáng được sự tối tăm. Chỉ khi nào tia sáng trực giác chiếu xuyên qua bức màn tăm tối (tức là màn vô minh che án mọi hiểu biết) thì các hình tướng che giấu sự sống nội tại sẽ được soi sáng và thấu hiểu. Chỉ đến khi ánh sáng của lý luận mờ đi trước ngôi mặt trời minh triết huy hoàng, thì mọi sự vật sẽ được thấy đúng tỉ lệ của chúng, và người ta mới biết được tần số rung động và những màu sắc chính xác của các hình thể.

[253]

BỨC THƯ VIII

TIẾN ĐẾN CHÂN SƯ NHỜ THAM THIỀN.

1.                 Các Chân sư là ai?

2.                 Việc tiến đến Chân sư cần những gì:–

a.                 Về phần môn sinh?

b.                 Về phần Chân sư?

3.                 Những phương cách tiến đến Chân sư nhờ           tham thiền.

4.                 Hiệu quả của việc tiếp cận này trong tam giới.

[254]

[255]

[256]

BỨC THƯ VIII

TIẾN ĐẾN CHÂN SƯ NHỜ THAM THIỀN.

Ngày 12-09-1920.

Tìm kiếm mục tiêu.

Hôm nay chúng ta có thể đề cập đôi điều về các Chân sư, và cách đến gần các Ngài qua tham thiền. Tôi biết đây là một vấn đề thân thiết với tâm hồn các bạn, cũng như đối với những ai đang thiết tha đi theo ánh sáng nội tâm. Tôi tìm cách trình bày vấn đề sao cho khi đọc hết bức thư này các bạn sẽ thấy các Chân sư có thực hơn các bạn đã từng biết trước đây. Các bạn sẽ hiểu rõ hơn về thực nghĩa của việc tiến đến gần các Ngài và phương cách đến gần trở nên giản dị hơn. Hiệu quả của việc tiếp xúc với các Ngài sẽ tỏ rõ trong cuộc sống đến mức giúp hành giả hăng hái theo đuổi sự thành đạt có tính thực dụng và trực tiếp này. Vì vậy, chúng ta hãy chia vấn đề làm nhiều mục, như vẫn làm từ trước đến nay:–

1.     Các Chân sư là ai?

2.     Việc tiến đến Chân sư cần những gì:–

a.     Về phần môn sinh?

b.     Về phần Chân sư?

3.     Những phương cách tiến đến Chân sư bằng tham thiền.

4.     Hiệu quả của việc cận tiến này trên ba cõi thấp.

Ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng đều có sự thôi thúc con người tìm kiếm một vị nào đó mà đối với y là hiện thân cho lý tưởng. Ngay cả những người không chấp nhận sự hiện hữu của các Chân sư, họ cũng tìm kiếm một lý tưởng rồi hình dung lý tưởng ấy được thể hiện dưới một hình thức nào đó ở cõi trần. Có lẽ họ tự nghĩ mình là tiêu biểu cho hành động [257] lý tưởng. Hoặc họ hình dung ra một nhà từ thiện danh tiếng nào đó, một nhà khoa học xuất chúng, một họa sĩ hay nhạc sĩ tài danh và cho rằng vị ấy đang thể hiện được cái quan niệm tuyệt vời của họ. Con người, – vì vốn là một mảnh nhỏ (của Thượng Đế) và chưa hoàn thiện – nên đã luôn luôn có sự thôi thúc trong tâm, muốn tìm một bậc nào khác cao cả hơn y. Chính sự thôi thúc này đưa y trở về trung tâm của bản thể y, và cũng chính sự thôi thúc này khiến y phải theo con đường trở về với Toàn Ngã. Qua những kỳ gian vô lượng, bao giờ đứa Con đi hoang cũng trỗi dậy và quay về với Cha mình. Y luôn luôn âm thầm nhớ nhung Ngôi Nhà Cha và sự vinh quang ở đó. Nhưng vì cấu trúc của trí tuệ con người nên tất nhiên là cuộc tìm kiếm ánh sáng và lý tưởng này phải lâu dài và khó nhọc. “Hiện nay chúng ta đang nhìn xuyên qua một tấm kính màu đen, nhưng về sau chúng ta sẽ nhìn trực tiếp”. Giờ đây thỉnh thoảng nhìn qua những khung cửa sổ mà chúng ta lướt ngang khi leo lên những nấc thang tiến hóa, chúng ta thoáng thấy những vị khác và những Đấng cao cả hơn chúng ta. Các Ngài đang đưa tay trợ giúp chúng ta, và mạnh mẽ kêu gọi chúng ta hãy tiếp tục chiến đấu dũng cảm, nếu chúng ta muốn đến được vị thế của các Ngài hiện nay.

Chúng ta cảm được những sự mỹ lệ và huy hoàng bao quanh chúng ta mà từ trước đến giờ chúng ta chưa hề thưởng thức. Chúng thoáng vờn qua tầm mắt, và chúng ta chạm đến sự vinh quang trong giây phút tuyệt vời ngắn ngủi, rồi sự tiếp xúc qua mất, ta lại chìm vào sự tối tăm u ám bao quanh. Nhưng chúng ta biết được rằng ở bên ngoài và ở đằng xa kia có một điều gì đó đáng cho ta mong mỏi. Chúng ta cũng học được sự bí nhiệm là chỉ có thể tiếp xúc với điều kỳ diệu ở bên ngoài bằng cách đi sâu vào bên trong, cho đến khi tìm được trung tâm của ý thức. Trung tâm này hòa điệu với những điều kỳ diệu mà ta chỉ nhận thức được một cách lờ mờ, và với những linh hồn sáng chói mà các Ngài tự gọi là Huynh trưởng của chúng ta. Chỉ bằng cách phá vỡ những lớp vỏ cứng bên ngoài che giấu nội tâm, chúng ta mới đạt được mục tiêu và tìm thấy được những Đấng chúng ta đang tìm kiếm. Chỉ bằng cách chế ngự tất cả mọi hình tướng, và đặt chúng dưới sự ngự trị của Đấng Thượng Đế nội tâm, chúng ta mới tìm được Thượng Đế trong vạn vật. Vì chỉ có [258] những lớp vỏ chúng ta dùng để sinh hoạt mới che không cho ta thấy Đấng Thượng Đế ngự trong tâm, mới ngăn cách chúng ta với những Đấng mà Thượng Đế trong các Ngài vượt cao hơn mọi hình hài sắc tướng.

Một vị Điểm đạo đồ cao cấp có nói những lời chói ngời chân lý rằng: “Rồi chúng ta sẽ biết chính những điều mà hiện nay chúng ta được truyền dạy.” Đối với mỗi người và tất cả những ai phấn đấu đúng đắn, phụng sự vô kỷ và tham thiền huyền môn, tương lai hứa hẹn rằng họ sẽ biết được những Bậc đã có đầy đủ kiến thức của người chiến sĩ. Đó là niềm hy vọng của người môn sinh hành thiền. Khi y chiến đấu, khi y thất bại, khi y kiên trì, và khi y lặp lại một cách nhọc nhằn hết ngày này qua ngày khác, cái công việc khó khăn là định trí và kiểm soát tư tưởng, thì ở nội môn có các Đấng biết rõ y, các Ngài trông nom bước tiến của y với tấm lòng dồi dào thiện cảm.

Chúng ta đừng quên phần đầu trong những lời nhận xét của vị Điểm đạo đồ này, khi người chỉ con đường để dẹp tan hắc ám và đạt đến mức hiểu biết được các Đấng Cao cả. Người nhấn mạnh rằng chỉ nhờ tình thương chúng ta mới có thể dấn bước lên con đường của ánh sáng và tri thức. Tại sao lại phải chú trọng đến tình thương? Bởi vì mục tiêu cho tất cả là tình thương, và trong tình thương có sự hòa hợp. Tình thương thường khi chỉ là một xúc cảm mơ hồ, và chúng ta có thể phát biểu nó một cách khoa học như sau:– Chính nhờ đạt được sự rung động tương đồng với cung Bác ái-Minh triết (Cung Thiêng liêng) mà chúng ta tiếp xúc được với các Đấng Chúa tể

Bác ái, và biết được các Chân sư Từ ái. Bấy giờ khả năng nhập vào tâm thức của các Đấng Cao cả cùng tất cả các cấp huynh đệ của chúng ta mới trở thành hiện thực.

Đó là con đường mà mỗi người và tất cả mọi người đều phải đi qua, bằng phương pháp tham thiền. Mục tiêu là minh triết và tình thương hoàn hảo. Những bước tiến là vượt lên hết cõi phụ này đến cõi phụ khác trong tam giới. Phương pháp là phương pháp thiền huyền môn. Phần thưởng là sự [259] liên tục mở mang tâm thức, để cuối cùng giúp hành giả hòa hợp với Chân ngã của mình, với các Chân ngã khác, với vị Chân sư đang thiết tha mong đợi mà y được giao phó cho Ngài, với các bạn đồng môn và các vị Điểm đạo đồ cao cấp mà y có thể tiếp xúc được trong hào quang của Chân sư. Cho đến cuối cùng y tiếp xúc được với Đấng Điểm đạo Duy nhất, để Ngài nhận y vào trong Chốn Bí mật, và biết được bí nhiệm của chính tâm thức.

Ngày 14-9-1920.

Các Chân sư là ai?

Nên bắt đầu xem xét vấn đề tiến đến các Chân sư nhờ tham thiền qua một số phát biểu căn bản, về các Chân sư và vị trí của các Ngài trên thang tiến hóa. Vì thế chúng ta hãy đề cập đến điểm đầu tiên. Chúng ta sẽ nêu vài ý tưởng về địa vị của các Ngài, về sự phát triển toàn diện và những phương pháp làm việc của các Ngài. Khỏi phải nói trước rằng phần lớn những điều sau đây đều không có tầm quan trọng nào mới mẻ. Thế nhưng những gì liên quan mật thiết với chúng ta và những gì chúng ta quen thuộc nhất lại thường là những điều ta hay sơ sót và suy luận về chúng một cách mơ hồ.

Một Chân sư Minh triết là Vị đã được năm lần điểm đạo. Quả thực điều đó có nghĩa là tâm thức của Ngài đã mở mang đến mức bao gồm trường tiến hóa thứ năm hay là giới tinh thần. Ngài đã tự vạch lối đi qua bốn giới thấp:– khoáng vật, thực vật, động vật và nhân loại – và nhờ hành thiền và phụng sự mà tâm thức của Ngài đã triển khai đến mức bao gồm được cảnh giới tinh thần.

Một Chân sư Minh triết là Vị đã chuyển được sự phân cực từ ba nguyên tử trường tồn của đời sống phàm ngã – khi chúng được bao gồm trong thể nguyên nhân – vào ba nguyên tử của

Tam nguyên Tinh thần. Ngài là sự phối hợp hữu thức của tinh [260] thần-trực giác-trí tuệ trừu tượng, hay là atma-buddhi-manas. Và điều này không còn tiềm ẩn mà trở thành quyền năng đầy hiệu lực, được Ngài thực hiện qua kinh nghiệm. Như tôi đã nói, Ngài đạt được trạng thái này nhờ quá trình tham thiền.

Một Chân sư Minh triết là Vị không những đã tìm được hòa âm của Chân ngã, mà còn tìm được đầy đủ hòa âm của Chân thần. Vì thế Ngài có thể tùy ý phát ra tất cả những nốt khác nhau, từ nốt thấp nhất cho đến nốt của Chân thần. Điều này có ý nghĩa huyền bí là giờ đây Ngài đã phát triển được khả năng sáng tạo, có thể ngân lên âm điệu của mỗi cảnh giới và kiến tạo ở đó. Quyền năng này – một là khám phá ra các nốt trong hòa âm của Chân thần, và hai là sử dụng các nốt đó trong kiến tạo. Trước hết quyền năng này được nhận thức qua tham thiền huyền môn, được thực hiện và làm quân bình nhờ phụng sự trong tình thương.

Một Chân sư Minh triết là Vị có thể vận dụng định luật trong tam giới và có thể chế ngự tất cả những gì đang tiến hóa trong ba cõi đó. Nhờ học được các định luật của trí tuệ qua hành thiền, Ngài triển khai các định luật của trí tuệ cho đến mức chúng bao gồm các định luật của Trí tuệ Vũ trụ biểu lộ ở cấp thấp. Các định luật trí tuệ được thấu đáo trong tham thiền và được áp dụng trong cuộc sống phụng sự, vốn là thành quả hợp lý của chân tri thức.

Một Chân sư Minh triết là Vị đã đi qua Phòng Học tập và vào được Phòng Minh triết. Ngài đã vượt qua được năm cấp bậc của Phòng này và đã chuyển hóa hạ trí thành trí tuệ thuần khiết, đã chuyển hóa dục vọng thành trực giác, và đã chiếu sáng tâm thức Ngài bằng ánh sáng của Tinh thần thuần khiết. Sự tuân thủ các giới luật của tham thiền là phương cách duy nhất giúp công việc này thành tựu.

Một Chân sư Minh triết là Vị, nhờ kiến thức hoạch đắc qua năm giác quan, đã học biết rằng sự tổng hợp vốn có thực, [261] và đã hòa nhập ngũ quan vào hai quan năng tổng hợp. Đó là mức thành đạt của Ngài trong thái dương hệ. Nhờ tham thiền Ngài điều chỉnh được ý thức cân đối về phương diện hình học, nhận định rõ ý thức về giá trị, và nhờ sự điều chỉnh và nhận định này mà xóa tan ảo tưởng và biết được thực tại. Sự hành thiền và tập trung vào nội tâm đã làm cho tâm thức bừng tỉnh, và nhận biết giá trị cũng như công dụng đích thực của hình thể. Nhờ đó Ngài biết được thực tại và vượt hết mọi cạm bẫy trong tam giới.

Một Chân sư Minh triết là Vị đã biết được ý nghĩa của tâm thức, của sự sống, và tinh thần. Ngài có thể theo con đường ít trở ngại nhất mà đi thẳng vào “lòng của Cha Ngài ở trên Trời.” Cách tiến theo con đường trực tiếp, ít trở ngại nhất, được tìm thấy qua tham thiền.

Một Chân sư Minh triết là Vị đã tự biến đổi từ năm thành ba, và từ ba thành hai. Ngài đã trở thành ngôi sao năm cánh, và đến lúc ấy Ngài thấy ngôi sao này bừng chiếu trên Đấng Điểm đạo Duy nhất và nhận ra ngôi sao này trong những người có cùng địa vị như Ngài. Hiểu theo ý nghĩa huyền bí, Ngài đã thánh hoá Tứ hạ thể, và đã dùng chúng làm viên đá nền tảng để xây dựng Ngôi đền Solomon trên đó. Ngài đã tăng trưởng vượt cao hơn chính Ngôi đền ấy và đã nhận thấy đó là hạn chế. Ngài đã thoát ra khỏi các bức tường vây bọc của nó và đã nhập vào Tam nguyên. Luôn luôn Ngài thực hiện điều này bằng phương pháp huyền môn, tức là thực hiện một cách hữu thức và hiểu biết đầy đủ từng bước một. Ngài học được ý nghĩa của mỗi hình thể đang giới hạn. Bấy giờ Ngài kiểm soát và vận dụng được định luật trên cảnh giới phù hợp với hình thể đó. Rồi Ngài tăng trưởng lớn hơn hình thể, bỏ nó đi để lấy một hình thể khác cao khiết hơn. Cứ thế,

Ngài luôn luôn tiến tới bằng sự hy sinh và chết dứt của hình [262] thể. Luôn luôn chúng ta phải nhận thấy sự tù hãm của hình thể. Luôn luôn nó phải hy sinh và chết đi, để cho sự sống bên trong ngày càng tăng tiến và hướng thượng. Con đường phục sinh báo trước khổ hình thập tự và sự chết, rồi đưa hành giả đến Đỉnh núi để thực hiện sự Thăng thiên. Trong tham thiền, giá trị của sự sống và các giới hạn của hình thể được đánh giá và hiểu biết, và nhờ hiểu biết và phụng sự mà sự sống có thể giải thoát khỏi mọi hạn chế và chướng ngại.

Một Chân sư Minh triết là Vị đã tình nguyện ở lại Địa cầu để giúp các huynh đệ của Ngài. . . . Tất cả những Vị đã được điểm đạo lần thứ năm đều là những Chân sư Minh triết, nhưng không phải tất cả các Ngài đều ở lại để phụng sự nhân loại. Các Ngài chuyển sang công việc khác có tầm quan trọng bằng hay lớn hơn. Đối với công chúng thì điều này có nghĩa là các Ngài chọn việc ở lại và tự giới hạn vì nhân loại, là những người đang dấn bước trong trào lưu tiến hóa. Nhờ tham thiền mà Đấng Cao cả đạt được mục tiêu của Ngài, và (một điều thường không được hiểu là) nhờ tham thiền, hay vận dụng chất liệu tư tưởng, và nhờ tác động vào trí tuệ của nhân loại mà công việc được tiến hành để trợ giúp diễn trình tiến hóa.

Một Chân sư Minh triết là Vị đã được điểm đạo lần đầu liên kết Ngài với các Đấng Cao cả của hệ Sirius. Như tôi đã nói trước đây, Ngài là vị Điểm đạo đồ được điểm đạo lần thứ nhất trong Huyền giai vĩ đại này. Ngài đã đạt mức phát triển tâm thức giúp Ngài tiếp xúc với nhiều phân bộ của Thái dương hệ. Giờ đây, trước mắt Ngài là tầm phát triển bao la mà cuối cùng sẽ đưa Ngài vượt ra ngoài tâm thức Thái dương hệ để nhập vào những gì còn vĩ đại hơn và rộng lớn hơn nhiều. Ngài phải bắt đầu học những nguyên tắc cơ bản của tham thiền vũ trụ, để giúp Ngài nhập vào một trạng thái Tâm thức vượt ngoài tầm nhận biết và ước đoán của chúng ta. [263]

Một Chân sư Minh triết là Vị có thể hoạt động một cách hữu thức với tư cách là thành phần của Đấng Thiên đế mà Ngài thuộc về cơ thể của Đấng ấy. Ngài hiểu những định luật quản trị các nhóm và các linh hồn của nhóm. Chính Ngài cũng quản trị linh hồn của nhóm một cách hữu thức (một nhóm đang trên đường phản bổn hoàn nguyên và gồm sinh mệnh của nhiều người) và Ngài biết vị trí của mình trong cơ thể của Đức Thái Dương Thượng Đế. Ngài nhận biết được luân xa trong Cơ thể của Đấng Thiên Đế này để nhờ đó Ngài và nhóm của Ngài giữ được sự rung động hòa hợp, và xúc tiến mối quan hệ của Ngài với các nhóm khác (ở trong cùng Cơ thể ấy) theo một số định luật xác định. Tất cả các môn sinh suy ngẫm sâu xa sẽ nhận thức được giá trị của tham thiền là sự chuẩn bị cho hoạt động này. Vì tham thiền là phương tiện duy nhất để vượt khỏi ý thức chia rẽ, và hiểu được sự hợp nhất huyền bí với đồng loại.

Một Chân sư Minh triết là Vị đã được giao phó một số Quyền lực từ, vì công tác Ngài cần phải hoàn thành. Nhờ các linh từ này Ngài vận dụng được định luật quản trị các trường tiến hóa khác nhân loại, và qua các giới này Ngài cộng tác với trạng thái hoạt động của Thượng Đế. Bằng cách này Ngài hoà hợp tâm thức của Ngài với tâm thức của Thượng Đế Ngôi Ba. Dùng các linh từ này Ngài trợ giúp công cuộc kiến tạo và nỗ lực vận dụng kết hợp của Thượng Đế Ngôi Hai, và hiểu thấu tác động nội tại của định luật trọng trường (hay hấp dẫn và đối kháng). Luật này chi phối mọi hoạt động của Ngôi Hai Thượng Đế. Qua các Linh từ kể trên, Ngài hợp tác với công việc của Thượng Đế Ngôi Một, và học được ý nghĩa của Ý chí (Thiên ý) áp dụng trong thái dương hệ, khi Ngài được điểm đạo lần thứ sáu và thứ bảy (không phải luôn luôn vị Chân sư nào cũng làm thế). Các Linh từ này được khẩu truyền, và truyền qua khả năng nhãn thông, nhưng vị Điểm đạo đồ phải tự mình tìm ra bằng cách sử dụng atma và khi Ngài đạt được tâm thức niết-bàn. . . . Khi tâm thức niết-bàn phát triển nhờ [264] trực giác, vị Điểm đạo đồ có thể tiếp xúc với các kho tri thức sẵn có trong Chân thần và nhờ đó mà học được các Quyền lực từ. Khả năng này chỉ có sau khi Đức Chúa tể Hoàn cầu áp dụng Điểm đạo Thần trượng cho vị Điểm đạo đồ. Vì thế, nhờ các giai đoạn cao của thiền huyền môn mà vị Chân sư Minh triết ngày càng tăng thêm sự hiểu biết của Ngài. Tâm thức Ngài không tĩnh tại mà ngày càng bao gồm nhiều hơn. Mỗi ngày Ngài càng triển khai tâm thức rộng lớn hơn.

Một Chân sư Minh triết là Vị nhờ sự tương đồng rung động mà được quyền làm việc với các vị Lãnh đạo của Đ.Đ.C.G. địa cầu, và phối hợp với các vị Lãnh đạo tương ứng trên hai hành tinh khác liên kết với dãy hành tinh của chúng ta. Khi được điểm đạo cao hơn Ngài có thể tiếp xúc và hoạt động phối hợp với cả bảy vị Hành tinh Thượng đế, chứ không phải chỉ với ba vị đang điều khiển các dãy hành tinh liên kết này. Ngài có thể thấu đáo cả thái dương hệ và tâm thức Ngài đã triển khai đến mức có thể bao trùm cả thái dương hệ khách quan.

Tôi có thể kể ra nhiều định nghĩa khác nữa và giải rõ thêm vấn đề cho các bạn, nhưng hôm nay thế là đủ. Trình độ thành đạt của một vị Chân sư tuy cao thật, nhưng cũng chỉ tương đối thôi. Các bạn đừng quên rằng ở mức thành đạt ấy Ngài cũng thấy còn thấp khi so sánh với các viễn ảnh bao la trước mắt Ngài. Mỗi lần mở rộng tâm thức, mỗi lần bước lên một nấc thang cao hơn, trước mắt vị Điểm đạo đồ lại mở ra một phạm vi mới phải thấu đáo và một bước mới phải tiến thêm. Mỗi cuộc điểm đạo đạt được lại hé lộ cho ta thấy cần phải tiến đến những cuộc điểm đạo khác còn cao hơn nữa. Và không bao giờ có lúc mà người chí nguyện (dù đó là một người thường, một điểm đạo đồ, một Chân sư, một Đế quân hay một vị Phật) lại có thể ở trong tình trạng tĩnh tại, và không thể tiến xa hơn. Ngay cả Đức Thái Dương Thượng Đế Ngài cũng ước nguyện tiến lên, và chính Đấng mà Ngài ngưỡng vọng cũng đang hướng đến một Đấng cao cả hơn. [265]

Điều gì xảy ra trong thái dương hệ thì cũng xảy ra tương tự ở các cấp vũ trụ. Và những gì ta đã thấu đạt trong thái dương hệ hẳn phải được thấu đạt trên qui mô rộng lớn hơn trong vũ trụ. Tư tưởng này mang lại nguồn hứng khởi và sự phát triển chứ không làm chúng ta cảm thấy thất vọng và mệt mỏi. Phần thưởng kèm theo mỗi bước tiến tới và niềm vui thích của khả năng thông hiểu gia tăng là sự ban thưởng thích đáng cho người chí nguyện đang phấn đấu. . . . Ngày mai, chúng ta sẽ bàn đến khía cạnh thiết thực hơn, nói về người nào đang hướng đến tiếng gọi cao cả này.

Ngày 16-9-1920.

Điều kiện để đến gần Chân sư.

Hôm nay, chúng ta bàn đến điểm thứ hai của bức thư thứ tám. Chúng ta phải nhìn vấn đề theo hai hướng, về phần Chân sư chỉ bàn vắn tắt, còn về phần đệ tử thì nói nhiều hơn.

Trong các bức thư này, chúng ta đã phác họa tầm mức rộng lớn của công việc trước mắt những ai muốn thành đạt. Nhiều điều đã viết ra có lẽ không thú vị gì đối với người có trình độ phát triển trung bình, mà chính yếu là liên quan đến những người đã đạt một mức tiến hóa nhất định, và đang đi trên Đường Dự bị. Trong loạt thư đầu, tôi đã truyền đạt cho các bạn nhiều điều có thể nói về vấn đề này. Tôi không muốn nói lại các điều đó ở đây, mà sẽ bàn cụ thể hơn về mối liên quan nội tại giữa Chân sư và đệ tử.

Sự liên hệ này có bốn cấp bậc, và theo từng bậc người môn sinh ngày càng tiến gần Chân sư hơn. Bốn cấp bậc đó được kể sau đây từ giai đoạn người môn sinh được huấn luyện, cho đến lúc chính y trở thành một vị Chân sư. Đó là:–

a.     Giai đoạn y được thử thách. [266]

b.     Giai đoạn y là một đệ tử nhập môn.

c.      Giai đoạn y được xem là người thân cận của Chân sư, hoặc gọi theo danh từ nội môn là “Con của Chân sư.”

d.     Giai đoạn y được ba lần điểm đạo sau, và biết mình là một với Chân sư. Y được xếp vào hàng “Đệ tử thân yêu của Chân sư,” một địa vị tương tự như địa vị của Thánh John, người đệ tử thân yêu, trong câu chuyện Kinh thánh.

Tất cả các giai đoạn trên đều chịu sự chi phối của hai điều:–

a.     Sự tương đồng rung động.

b.     Nghiệp quả, và tất cả đều được bao gồm trong khả năng phát triển tâm thức tập thể nơi hành giả.

Trên các cấp thượng trí, ở cõi phụ thứ nhì, chúng ta thấy được phản ánh của những gì có trên cảnh giới cao nhất của thái dương hệ này. Trên các cảnh giới đó có gì? Có bảy Đấng Thiên đế, mỗi Đấng bao gồm các hồn nhóm (nói theo phương diện hình thể), – các hồn nhóm này được tạo thành bởi những đơn vị tâm thức của thiên thần và con người. Có thể nói rằng ở cõi phụ thứ hai của cõi trí có những nhóm thuộc về các Chân sư. Những nhóm này được phát động và làm sinh động từ cõi phụ nguyên tử là điểm trụ[1] của các Chân sư (khi các Ngài biểu hiện để trợ giúp nhân loại). Tương tự, nguồn cội của các Đấng Thiên đế đều phát khởi từ cảnh giới nguyên tử của Thái dương hệ, tức là cảnh giới thứ nhất mà chúng ta gọi là cõi adi. Các nhóm này được hình thành chung quanh một vị Chân sư, được hào quang của Ngài bao bọc, và là một thành phần của tâm thức Ngài. Các nhóm này gồm những người có cùng cung Chân ngã hay cung Chân thần với Ngài. [267]

Đó là hai hạng người:–

1.     Những người đang chuẩn bị để được điểm đạo lần thứ nhất hay thứ hai là những cuộc điểm đạo có liên quan đến cung của Chân nhân; và

2.     Những người đang chuẩn bị cho hai cuộc điểm đạo kế tiếp, liên quan đến cung của Chân thần. Ở đây, chúng ta thấy có một nguyên nhân khiến hành giả đổi từ cung này sang cung khác. Đó chỉ là sự thay đổi ở bề ngoài, dù rằng nó cũng đòi hỏi phải dời qua nhóm của một Chân sư khác. Điều này xảy ra sau cuộc điểm đạo thứ hai.

Ba mục tiêu của Người dự bị.

Trong suốt thời gian trên đường dự bị, người môn sinh cần phát triển ba điều:–

1.     Khả năng tiếp xúc với nhóm của y, hay nói cách khác là y phải cảm được sự rung động của nhóm mà tiêu điểm là một vị Chân sư. Lúc đầu sự tiếp xúc này ít khi xảy ra. Trong giai đoạn đầu của con đường dự bị, trong khi y được quan sát, y chỉ cảm nhận và giữ được sự rung động của nhóm (tức là sự rung động của Chân sư) trong những phút giây ngắn ngủi thôi. Khi tâm thức dâng cao, y liên kết được với Chân sư và với nhóm, và trọn cả bản thể y tràn ngập sự rung động cao thượng đó, và bừng lên màu sắc của nhóm y. Sau đó, y buông lơi, thối lui và không còn tiếp xúc được nữa. Các thể của y chưa được tinh luyện đúng mức và sự rung động của y chưa đủ vững bền để giữ được trạng thái này lâu.

Nhưng, thời gian qua (lâu hay mau là tùy sự tinh tấn của người môn sinh) sự tiếp xúc thường xảy ra hơn. Y có thể giữ được sự rung động khá lâu hơn, và không rơi trở lại mức tầm thường một cách dễ dàng như trước. Rồi đến lúc y có thể được tin cậy để giữ sự tiếp xúc khá vững vàng hơn. Đó là lúc y bước sang giai đoạn thứ hai. [268]

2.     Điều thứ hai mà y cần phát triển trên đường dự bị là khả năng suy tư trừu tượng hay năng lực tiếp xúc với thượng trí, thông qua thể nguyên nhân. Y phải học cách chỉ dùng hạ trí làm phương tiện để đạt đến thượng trí. Bằng cách đó y vượt cao hơn hạ trí cho đến mức trở nên phân cực trong thể nguyên nhân. Bấy giờ, nhờ trung gian của thể này, y liên kết được với các cấp độ trừu tượng. Ngày nào làm được như thế y mới có thể thực sự tiếp xúc với Chân sư. Bởi vì như các bạn đã biết người môn sinh phải tự tiến lên từ cảnh giới của mình (cõi thấp) đến cảnh giới của các Ngài (cõi cao).

Cả hai điểm này – khả năng tiếp xúc với Chân sư và nhóm của Ngài, và khả năng phân cực trong thể nguyên nhân và tiếp xúc với các cấp độ trừu tượng – nhất định là kết quả của tham thiền, đã được tôi giải rõ trong những bức thư các bạn đã nhận trước đây. Vì thế, tôi không cần lặp lại những điều đã nói, trừ việc chỉ cho các bạn thấy rõ rằng nhờ hành thiền cần mẫn và khả năng chuyên chú vào bổn phận đang làm (nói cho cùng khả năng này là kết quả của tham thiền thể hiện trong đời sống hàng ngày) mà chúng ta ngày càng thêm khả năng giữ vững các rung động cao. Tôi muốn lặp đi lặp lại mãi chân lý có vẻ đơn giản là chỉ có sự tương đồng rung động mới đưa hành giả đến nhóm của y ở cõi cao, đến với vị Chân sư (mà đối với y) là tiêu biểu cho Đấng Chủ tể của Cung Ngài, đến Đức Chưởng giáo là Đấng ban cho y các bí nhiệm, đến Đấng Điểm đạo Duy nhất, Người giúp y được sự giải thoát cuối cùng, và đến Trung tâm trong Đấng Thiên đế mà y ở trong mình của Ngài. Đó là sự vận hành của Luật Hấp dẫn và Đối kháng trên mọi cảnh giới. Luật này thu góp sự sống thiêng liêng ra khỏi giới khoáng vật, ra khỏi giới thực vật và động vật, đưa Thiên tính ẩn tàng ra khỏi các hạn chế của nhân loại và kết hợp hành giả vào [269] nhóm của y ở cõi thiêng liêng. Chính luật này giúp y giải thoát ra khỏi các thể thanh (những thể này cũng lại ràng buộc y), để hòa hợp y trở về với cội nguồn sinh động là Đấng Chủ tể của Cung mà Chân thần của y ở trong cơ thể Ngài. Cho nên công việc của người trên đường dự bị là cố gắng hòa hợp rung động của mình với rung động của Chân sư, là tinh luyện ba hạ thể của y sao cho chúng không gây trở ngại cho sự tiếp xúc đó, và chủ trị hạ trí thế nào để nó không còn là một chướng ngại cho dòng ánh sáng tuôn xuống từ Tinh thần tam phân. Nhờ thế, y được phép tiếp xúc với Tam nguyên và nhóm trên cõi phụ của cấp thượng trí mà y liên kết (vì y có quyền đó và do nghiệp quả). Tất cả những mục tiêu này đều nhờ tham thiền mang lại, chứ không thể đạt bằng phương tiện nào khác.

3.     Điều thứ ba mà người đệ tử dự bị phải làm là tự trang bị về mặt tình cảm và trí tuệ. Y phải thực hiện và tự chứng tỏ đã có một điều gì đó để mang lại cho nhóm mà y liên hệ về mặt nội môn. Hãy nghĩ kỹ điểm này: người ta thường chú trọng quá nhiều về những gì mà người môn sinh sẽ nhận được khi y trở thành một đệ tử dự bị hay đệ tử nhập môn. Ở đây, với tất cả tâm thành, tôi xin nói với các bạn rằng ngày nào người môn sinh chưa có phần nào để cho ra, và một điều gì để làm tăng vẻ đẹp của nhóm, chưa trở thành một khí cụ hữu dụng mà Chân sư tìm kiếm để trợ giúp nhân loại, và chưa làm cho màu sắc của nhóm được thêm phong phú thì ngày ấy y vẫn chưa đạt được những bước tiến mong muốn kể trên. Điều này có thể thực hiện bằng hai cách, tương tác với nhau:–

a.     Nhờ học hỏi và áp dụng mà trang bị nội dung của thể tình cảm và thể trí theo những điều kiện xác định.

b.     Dùng trang bị đó để phụng sự nhân loại ở cõi trần, bày tỏ dưới ánh mắt đang trông nom của Đ.Đ.C.G. rằng người môn sinh đã có một điều gì đó để cho ra. Y phải cho thấy rằng ý muốn duy nhất của y là giúp [270] ích và phụng sự, hơn là nhằm thu đạt cho riêng mình. Cuộc sống thu đạt nhằm mục đích cho ra phải được khích lệ bởi các lý tưởng tìm thấy trong tham thiền, và phải có nguồn cảm hứng tuôn xuống từ các cấp thượng trí và bồ-đề, vốn là kết quả của thiền huyền môn.

Khi đã đạt được ba kết quả này, và khi nguồn rung động cao được tiếp xúc thường xuyên và vững bền hơn, thì người đệ tử dự bị sẽ tiến lên bước kế tiếp và trở thành một đệ tử nhập môn.

Tư cách Đệ tử Nhập môn.

Có lẽ giai đoạn hai, giai đoạn của người đệ tử nhập môn, là một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong toàn bộ các kiếp sống của con người, và khó khăn trong nhiều phương diện:–

Rõ ràng y là một thành phần trong nhóm của Chân sư, luôn luôn ở trong tâm thức của Chân sư, và được giữ trong hào quang của Ngài. Điều này bao gồm việc giữ vững một rung động cao. Tôi muốn các bạn hãy suy ngẫm về hiệu quả của điều này. Bao giờ cũng khó giữ được một rung động cao. Cố gắng này thường cần phải tăng cường tất cả những gì có trong bản tính của hành giả, và có thể đưa đến những sự biểu lộ kỳ lạ (nhất là trong lúc đầu). Tuy nhiên, nếu hành giả muốn có thể giữ được thần lực là kết quả của việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng, thì y phải tỏ ra có khả năng làm được điều đó ở giai đoạn đầu, và có thể giữ mình vững vàng và tiến tới đều đặn khi chịu ảnh hưởng sự tăng cường rung động đến từ Chân sư.

Y phải tự giữ giới luật sao cho không có gì nhập vào tâm thức của y lại có thể gây hại cho nhóm của y theo lối nào đó, hoặc đối nghịch với rung động của Chân sư. Để các bạn có vài khái niệm về ý nghĩa của điều này, tôi có thể nói rằng khi lần [271] đầu y trở nên thành viên của nhóm được bao bọc trong hào quang của Chân sư thì y được giữ ở ngoại vi của hào quang này, cho đến khi nào y đã học được cách tự động ném bỏ và loại bỏ ngay tức khắc mọi tư tưởng và ham muốn không xứng đáng với Chân ngã và vì thế mà làm phương hại đến nhóm. Ngày nào chưa học được cách thực hiện điều này thì y không thể nào tiến đến quan hệ gần gũi hơn, và phải còn ở nơi mà y có thể tự động bị ngăn lại. Nhưng dần dần y tự tinh luyện nhiều hơn, dần dần phát triển tâm thức tập thể và suy tư trong phạm vi phụng sự tập thể, hào quang của y ngày càng có màu sắc hào quang của Chân sư y, cho đến khi y hòa hợp được và có quyền tiến đến gần Tâm của Chân sư hơn. Sau này khi bàn về công việc của Chân sư làm cho đệ tử, tôi sẽ giải thích ý nghĩa kỹ thuật của câu này. Có thể nói tạm đủ là khi thời kỳ “đệ tử nhập môn” tiến triển (và biến đổi trong nhiều trường hợp khác nhau) thì người đệ tử càng tiến đến gần tâm của nhóm hơn và tìm thấy vị trí và phận sự của mình trong cơ thể hợp nhất đó. Bí quyết là: tìm thấy vị trí của y, – không phải vị trí của y trên thang tiến hóa (vì điều đó được biết gần đúng) mà là vị trí của y trong phụng sự. Điều này còn quan trọng hơn là các bạn tưởng, vì nó bao gồm giai đoạn mà ở mức cuối sẽ cho thấy rõ rệt con đường nào hành giả sẽ đi theo, sau cuộc điểm đạo thứ năm.

Vị thế Con của Chân sư.

Giờ đây đã đến lúc người đệ tử tiến đến vị thế mà nhiều người mong mỏi là “Con của Chân sư.” Bấy giờ y luôn luôn là một thành phần hữu thức của tâm thức Chân sư. Sự tương tác giữa Chân sư và đệ tử được kiện toàn nhanh chóng, và lúc này người đệ tử có thể tùy ý liên kết với Chân sư một cách hữu thức và nhận rõ được các tư tưởng của Ngài. Y có thể [272] thấu hiểu các kế hoạch, ý muốn và quyết định của Ngài. Y có quyền làm điều này nhờ sự tương đồng rung động và vì tiến trình ngăn chặn (cần thiết lúc đầu do sự rung động thiếu hài hòa) đã thực sự được thay thế. Người đệ tử đã thanh luyện mình đến mức các tư tưởng và ý muốn của y không còn gây phiền phức cho Chân sư và không có sự rung động nào trái ngược với nhóm. Y đã được thử thách và người ta thấy rằng y không thiếu điều kiện. Cuộc sống phụng sự của y ở thế gian ngày càng tập trung và hoàn hảo hơn, và hằng ngày y phát triển năng lực cho ra và tăng cường trang bị. Tất cả những điều này đều thuộc về mối quan hệ của người đệ tử với một vị Chân sư và một linh hồn tập thể, chứ không phụ thuộc vào việc y được điểm đạo hay không. Điểm đạo là một vấn đề kỹ thuật và có thể diễn tả theo khoa nội môn. Một người có thể được điểm đạo mà không phải là “Con của một Chân sư.” Tư cách đệ tử là một quan hệ cá nhân, do nghiệp quả và mối liên kết chi phối, chứ không tùy thuộc vào vị trí của hành giả trong Huyền giai. Hãy ghi nhớ rõ điều này. Đã có những trường hợp nhờ tinh tấn chuyên cần mà hành giả đạt được những điều kiện kỹ thuật cần thiết để được điểm đạo trước khi trở nên thân thiết với một vị Chân sư.

Mối quan hệ này ở giai đoạn sau với tư cách “con” của một Chân sư có sự ngọt ngào riêng cùng với những đặc ân nhất định. Bấy giờ, người đệ tử có thể chia bớt một phần gánh nặng trên vai Chân sư, đảm đương cho Ngài một số trách nhiệm để Ngài rảnh tay thực hiện những công việc rộng lớn hơn. Bởi thế mà có chú trọng đến phụng sự, vì chỉ khi phụng sự hành giả mới tiến bộ. Đây là chủ âm của sự rung động ở cõi phụ trừu tượng thứ hai. Ở giai đoạn này Chân sư sẽ bàn bạc với “Con” của Ngài và trù liệu công việc phải làm trong quan điểm hợp nhất với nhau. Bằng cách này Ngài phát triển trí phân biện và phán đoán của đệ tử, và làm giảm nhẹ gánh nặng của Ngài theo một số chiều hướng, để Ngài rảnh tay đảm nhận công tác quan trọng khác. [273]

Giai đoạn cuối của những điều chúng ta đang bàn chỉ được đề cập chút ít thôi. Nó bao gồm thời kỳ hành giả tiến đến những đoạn cuối của Đường Đạo và ngày càng giao tiếp mật thiết hơn với nhóm và với Đ.Đ.C.G.. Giờ đây, không những y rung động hòa hợp được với nhóm và với Chân sư y, mà còn qui tụ một số người chung quanh y và lập nhóm của chính mình. Lúc đầu, nhóm này chỉ ở cõi trần, cõi tình cảm và hạ trí. Sau lần điểm đạo thứ năm, y sẽ bao bọc trong hào quang của y những nhóm và những Chân nhân của chính mình. Điều này không hề ngăn cản việc y hợp nhất với Chân sư và nhóm của y, mà phương pháp tương liên hòa hợp là một trong các bí mật của điểm đạo.

Tất cả những điều này cùng với những gì đã truyền đạt trước đây, sẽ cho các bạn một vài ý tưởng về các quyền hạn và năng lực đạt được trên Con đường Dự bị và Con đường Điểm đạo. Bao giờ phương tiện phát triển cũng giống nhau:– thiền huyền môn và phụng sự; cuộc sống tập trung ở nội tâm và cuộc sống thực hành ở bên ngoài; khả năng nội tâm giao tiếp với tầm mức cao siêu và năng lực phát biểu khả năng đó trong cuộc sống thánh thiện ở bên ngoài; sự phóng quang bên trong từ Tinh thần, và sự chói rạng bên ngoài trước mắt mọi người.

Ngày 17-9-1920.

. . . . . . Đề tài chúng ta nghiên cứu trong mấy ngày qua dù không có tính cách kỹ thuật như một số điều đã được truyền đạt trước đây, nhưng lại có sự rung động khiến cho bức thư thứ tám trở thành một trong những lời kêu gọi mạnh mẽ nhất trong loạt thư này. Chúng ta đã bàn đến sự kiện thực về các Chân sư, các Ngài là ai, vị trí của các Ngài trong Thiên cơ, và nói sơ qua về những điều kiện mà các đệ tử cần có khi muốn đến gần Chân sư. Chúng ta đã thấy rằng việc tiếp cận này là một diễn trình tuần tự và đưa hành giả từ sự thỉnh [274] thoảng tiếp xúc ở bên ngoài với Chân sư và nhóm của Ngài, đến vị trí thân thiết nhất, một vị thế đặt người môn đệ trong hào quang và kề cận với tâm của Sư phụ y. Hôm nay, chúng ta sẽ xem xét sơ qua về những gì mà sự thay đổi vị trí một cách tuần tự này cần ở Chân sư.

Mối liên hệ giữa Chân sư và đệ tử.

Như tôi thường nói với các bạn, một người hấp dẫn được sự chú ý của Chân sư là nhờ sự chói rạng của ánh sáng nội tâm. Khi ánh sáng ấy đạt đến cường độ nhất định, khi chất liệu của các thể đạt đến cấp độ nhất định, khi hào quang của y có được màu sắc nhất định, khi sự rung động của y đạt tần số nhất định, và khi cuộc sống của y bắt đầu phát ra âm thanh về mặt huyền bí trong tam giới (âm thanh này nghe được qua cuộc sống phụng sự), thì một vị Chân sư mới bắt đầu thử thách bằng cách áp đặt vào y một loại rung động cao hơn, và nghiên cứu phản ứng của y đối với sự rung động ấy. Việc Chân sư chọn đệ tử tùy theo nghiệp quả xưa, tùy theo mối quan hệ cũ, tùy theo cung mà cả Chân sư và đệ tử có thể cùng chung, và tùy theo nhu cầu của thời gian đó. Công việc của Chân sư (phần việc có thể đưa ra ngoại môn một cách thích hợp) thì thật là đa dạng và thú vị, và dựa vào sự thấu đáo bản tính của con người một cách khoa học. Chân sư phải làm gì với người đệ tử? Bằng cách kể ra những việc chính cần phải làm, chúng ta có thể phần nào ý niệm được phạm vi công việc của Ngài:–

Ngài phải tập cho đệ tử quen nâng cao tốc độ rung động của y, cho đến khi y có thể liên tục giữ được một mức rung động cao. Rồi lại giúp y cho đến khi sự rung động ấy trở thành một nhịp điệu vững bền trong các thể của y.

Ngài phải giúp đệ tử chuyển sự phân cực từ ba nguyên tử thấp của phàm nhân lên các nguyên tử cao của Tam nguyên Tinh thần.

[275] Ngài trông nom việc người đệ tử hoàn thành đường truyền giữa thượng và hạ trí, khi y kiến tạo và sử dụng đường truyền này (antahkarana). Cuối cùng đường dẫn này thay thế cho thể nguyên nhân để làm phương tiện truyền thông giữa thượng và hạ. Rốt cuộc thể nguyên nhân bị loại bỏ khi người đệ tử được điểm đạo lần thứ tư và có thể tự do tạo ra thể biểu hiện của mình.

Ngài giúp đệ tử làm sinh động rõ rệt các luân xa khác nhau và khơi hoạt chúng đúng cách. Về sau Ngài giúp y làm việc thông qua các luân xa này một cách ý thức và chuyển lửa từ luân xa chót xương sống lên luân xa đầu theo diễn tiến hình học đúng đắn.

Ngài giám sát công việc của người đệ tử trên nhiều cảnh giới khác nhau, ghi nhận tầm mức của công việc đã thành tựu và ảnh hưởng sâu rộng của những lời y thốt ra. Về mặt huyền môn thì đây là hiệu quả trên các cõi cao của âm điệu cuộc sống thường nhật của y.

Ngài giúp khai mở tâm thức của đệ tử bằng nhiều cách, và phát triển khả năng của y để có thể bao gồm và giao tiếp với những nhịp độ rung động khác hơn nhân loại, hiểu được tâm thức của các trường tiến hóa khác nhân loại, và di chuyển dễ dàng trong những bầu hành tinh khác ngoài địa cầu.

Mục tiêu trước mắt của Ngài khi làm việc với người đệ tử là chuẩn bị cho y được điểm đạo lần thứ nhất. Điều này xảy ra khi y phát triển được khả năng giữ một mức rung động nhất định trong một khoảng thời gian cụ thể. Đó là thời gian mà y phải đứng trước Đấng Chủ tể của hai cuộc điểm đạo đầu tiên. Điều này được thực hiện bằng cách tuần tự nâng cao sự rung động trong những thời khoảng ngắn định sẵn. Về sau thường xuyên nâng cao hơn, cho đến khi người đệ tử có thể rung động theo mức của Chân sư một cách dễ dàng, thoải mái và có thể [276] giữ mức rung động này càng lâu hơn nữa. Khi y đã giữ được sự rung động này lâu đúng mức (dĩ nhiên, độ lâu này là một trong các bí mật của cuộc điểm đạo thứ nhất) thì y được áp dụng một sự rung động còn cao hơn nữa để – khi giữ được – y có thể đứng trước Đấng Đại Chủ tể trong suốt thời gian đủ cho cuộc lễ điểm đạo. Bấy giờ, việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng có một số hiệu quả ổn cố sự rung động, giúp dễ dàng nâng lên nhịp rung động cao hơn của các cảnh giới ẩn vi.

Ngài giúp đệ tử phát triển khả năng làm việc trong hình thức tập thể. Ngài xem xét sự tác động và tương tác của y vào nhóm y liên kết. Ngài ảnh hưởng đến thể nguyên nhân của môn sinh, giúp nó mở mang, phát triển, và dạy cho y hiểu biết định luật trong chính cuộc sống của mình, để nhờ sự hiểu biết đó mà thấu đáo được đại vũ trụ.

Tất cả những khía cạnh này trong công việc của Chân sư (đây chỉ là một số ít điểm có thể xem xét được) có thể bàn rộng hơn và hẳn là độc giả sẽ thấy thú vị và sáng tỏ hơn. Tất cả những đoạn nói trên đều có thể được triển khai một cách thật hứng thú. Nhưng ở đây tôi muốn nêu điểm chính liên quan đến những giai đoạn đầu của công việc này, trước khi người đệ tử được phép bước vào những giai đoạn sau, thân cận với Chân sư hơn. Trong giai đoạn đầu, Ngài làm việc với đệ tử, chính yếu là:–

a.     Vào ban đêm, khi y ra khỏi xác thân.

b.     Trong những khi y thiền định.

Tùy mức y thành công trong tham thiền, tùy khả năng của y có thể đoạn tuyệt với phàm tính và giao tiếp với Chân ngã, mà Chân sư có cơ hội hoàn thành công việc xác định có tính [277] khoa học này, cần được Ngài lưu ý. Các môn sinh hành thiền hẳn sẽ ngạc nhiên và có lẽ thấy thất vọng, nếu họ nhận ra rằng rất ít khi họ làm đúng các điều kiện trong tham thiền, để vị Huấn sư đang trông nom họ có thể mang lại được một vài hiệu quả. Khi người môn sinh thường xuyên làm được điều này, thì đó là dấu hiệu tiến bộ, và y có thể chuyển sang một bước khác. Tôi nhấn mạnh điều này vì nó có tính khích lệ giúp các bạn chuyên cần và chăm chú áp dụng nhiều hơn. Nếu người đệ tử không làm được các điều kiện đúng đắn về phần y, thì Chân sư cũng đành bó tay và Ngài chỉ làm được chút ít thôi. Tự cố gắng là điều then chốt để tiến bộ, kèm theo sự chuyên chú đầy hiểu biết và ý thức vào công việc đã định. Khi người đệ tử bền lòng cố gắng, thì Chân sư mới có cơ hội thực hiện phần việc của Ngài.

Khi người đệ tử hành thiền huyền môn một cách đúng đắn, y sẽ chỉnh hợp được ba hạ thể và – tôi xin lặp lại và nhấn mạnh – chỉ khi có sự chỉnh hợp này thì Chân sư mới có thể làm việc với các thể của người đệ tử. Nếu khi được công bố mà không mang lại hiệu quả nào khác hơn là tăng cường ý muốn hành thiền một cách đúng đắn, thì các bức thư này sẽ đạt được phần lớn mục tiêu đã nhắm đến. Chính nỗ lực vừa kể mới mang lại những điều kiện thích hợp giữa Chân sư và đệ tử cùng mối tương giao đúng đắn giữa đôi bên. Các điều kiện này có được là nhờ hành thiền đúng phương pháp, chuẩn bị môi trường cho nỗ lực và phụng sự.

Chúng ta hãy xem xét khái quát những giai đoạn đã kể hôm qua về mối quan hệ của đệ tử với Chân sư.

Khi môn sinh ở trong giai đoạn dự bị và được giám sát . . . . . . . . . hầu như y được để tự do hoàn toàn và thỉnh thoảng trong những lúc hiếm hoi bất thường y mới biết được sự chú ý của Chân sư. Bộ óc hồng trần của y không thường cảm nhận được những cuộc giao tiếp cấp cao. Và dù Chân nhân y hoàn [278] toàn ý thức vị trí của mình trên Đường Đạo, nhưng bộ óc hồng trần chưa đủ điều kiện để biết được điều đó. Tuy nhiên, ở trình độ này không có qui luật khắt khe và cứng nhắc nào cả. Khi một người đã nhiều kiếp tiếp xúc với Chân nhân hay với Chân sư thì y có thể ý thức được điều vừa kể. Các cá nhân đều khác nhau nhiều đến đỗi không thể đặt ra một qui luật chung nào với từng chi tiết. Như các bạn biết, Chân sư tạo ra một hình thu nhỏ của người đệ tử dự bị, được giữ trong những trung tâm ngầm dưới đất, trong dãy Hy-mã-lạp-sơn. Hình tượng này được liên kết với người đệ tử dự bị bằng từ điện và phô bày tất cả những chuyển biến thăng trầm trong bản tính của y. Vì được tạo nên bằng chất liệu trí tuệ và tình cảm, nên nó rung động theo nhịp của các thể ấy. Nó phô bày những màu sắc nổi bật của các thể ấy, và khi nghiên cứu nó Chân sư có thể mau lẹ đo lường bước tiến đã đạt, và xét xem chừng nào người đệ tử dự bị được phép có mối quan hệ gần gũi hơn. Ngài xem xét hình này trong từng thời khoảng đã định, lúc đầu thì rất hiếm khi vì trong giai đoạn này y tiến tới không mau lắm. Nhưng khi người môn sinh hành thiền thấu hiểu vấn đề và cộng tác một cách hữu thức hơn thì Ngài càng xem xét thường hơn. Khi quan sát các hình này, Chân sư làm việc với chúng và thông qua chúng tạo được một số kết quả. Giống như về sau Điểm đạo Thần trượng được áp dụng vào các thể và các luân xa của điểm đạo đồ, trong những lúc nhất định Chân sư cũng tiếp xúc với các hình này và thông qua chúng mà kích thích các thể của người đệ tử.

Sẽ đến lúc Chân sư thấy (qua việc kiểm tra hình tượng ấy) rằng người đệ tử đã có thể giữ được nhịp độ rung động cần thiết, đã thải trừ được đúng mức, và đạt được sắc độ nhất định trong các thể. Ngài bèn đánh liều (quả thật là đánh liều) nhận người đệ tử dự bị vào bên trong chu vi hào quang của Ngài. Bấy giờ, y trở thành người đệ tử nhập môn.

[279] Trong suốt thời kỳ hành giả làm đệ tử nhập môn thì công việc Chân sư thực hiện thật rất thú vị. Y được cho vào những lớp học đặc biệt do các đệ tử cao cấp hơn hướng dẫn, dưới sự giám sát của Chân sư. Và dù y có thể tham dự những lớp chung, có tầm mức rộng rãi hơn, trong Đạo viện (tức là Phòng giáo huấn của Chân sư) y vẫn được huấn luyện chuyên sâu hơn . . . . . . . . . . Trong những giai đoạn đầu, Chân sư làm việc theo bốn lối chính:–

a.     Thỉnh thoảng, và khi người đệ tử tiến đến mức đủ điều kiện, Ngài mới “đem đệ tử vào Tâm Ngài.” Đây là một cách phát biểu nội môn nói về một kinh nghiệm rất thú vị mà người đệ tử sẽ có. Vào lúc kết thúc một lớp học trong đạo viện, hoặc trong một buổi tham thiền đặc biệt thành công (khi người đệ tử đạt nhịp rung động nhất định), Chân sư sẽ đưa y lại gần Ngài, từ ngoại vi hào quang của Ngài vào đến trung tâm ý thức của Ngài. Nhờ đó Ngài giúp y tạm thời triển khai tâm thức thật rộng lớn, và có thể rung động theo nhịp độ phi thường (đối với y).

Vì thế, cần phải tham thiền. Phần thưởng của kinh nghiệm đó còn quan trọng hơn bất cứ nỗ lực khó nhọc nào trong công việc.

b.     Chân sư dùng màu sắc để ảnh hưởng đến các thể của đệ tử, mang lại một số kết quả nơi chúng, để cho y có thể tiến bộ nhanh hơn. Giờ đây, các bạn sẽ thấy tại sao. . . . . . . tôi đã chú trọng rất nhiều đến màu sắc. Không chỉ vì màu sắc nắm giữ sự bí mật của hình thể và cuộc biểu hiện (sự bí mật mà huyền bí gia phải hiểu) mà tôi đã nhấn mạnh như thế để người đệ tử có thể cộng tác một cách hữu thức với Chân sư trong việc [280] Ngài làm cho các thể của y, và sáng suốt theo dõi được các hiệu quả mang lại. Hãy suy ngẫm kỹ điều này.

c.      Vào những thời khoảng định sẵn, Chân sư cho đệ tử tiếp xúc với các giới tiến hóa khác, như các đại thiên thần và thiên thần, những tiểu thần kiến tạo và các giới tiến hóa kém nhân loại. Nhờ hiệu quả bảo vệ của hào quang Chân sư người đệ tử mới có thể làm điều này một cách an toàn. Về sau, khi đã trở thành một điểm đạo đồ, y sẽ được dạy cách tự phòng ngự và tự mình tiếp xúc với các giới đó.

d.     Chân sư chủ trì công việc kích thích các luân xa trong các thể của đệ tử và khởi hoạt ngọn lửa nội tại. Ngài dạy y ý nghĩa của các luân xa và sự quay đúng đắn của chúng trong bề đo thứ tư. Đúng lúc Ngài sẽ giúp người đệ tử đến mức (nhờ hiểu biết đầy đủ về định luật) có thể dùng các luân xa một cách hữu thức để làm việc. Bấy giờ chúng đủ điều kiện để có thể được Điểm đạo Thần trượng kích thích một cách an toàn. Chưa có thể nói gì thêm về vấn đề này. . . . . .

Tôi chỉ nói thật vắn tắt đôi điều về những gì mà Chân sư phải làm cho đệ tử. Tôi không bàn đến những giai đoạn tiến bộ sau này của môn sinh. Chúng tôi hướng dẫn mọi người theo những bước đi tuần tự, và hiện nay ngay đến những đệ tử nhập môn cũng hãy còn hiếm có. Nếu nhờ tham thiền, phụng sự và tinh luyện các thể mà những người đang trên đường dự bị có thể được hướng dẫn để tiến bộ mau lẹ hơn, thì sẽ đến lúc phổ biến thêm những chi tiết mới. Có lợi gì khi đưa ra những sự kiện mà người môn sinh chưa có thể sử dụng được? Chúng tôi không phí thì giờ để làm hứng thú trí tuệ của những người mà chúng tôi muốn giúp đỡ. Khi người môn sinh đã tự trang bị, đã tự tinh luyện và đạt độ rung động thích hợp, thì không có gì mà y không được phép biết. Khi y [281] mở cửa tâm hồn và mở rộng đường truyền, thì ánh sáng và tri thức sẽ tuôn tràn vào.

Ngày mai, chúng ta sẽ đề cập đến điểm thứ ba, là phương pháp tiến đến Chân sư bằng tham thiền. Một số loại thiền sẽ được mở rộng thêm để giúp sự giao tiếp dễ dàng hơn, nhưng đừng quên cuộc sống phụng sự bên ngoài phải đi đôi với sự tăng trưởng ở nội tâm. Chỉ khi nào cả hai điều này đều có và được xác nhận thì người môn sinh mới được phép thực hiện những bước cần thiết để giao tiếp. Chân sư chỉ chú ý đến một người vì y hữu ích cho linh hồn của nhóm, và có khả năng giúp đỡ.

Ngày 19-9-1920.

Hôm nay, chúng ta bàn cùng một lúc hai điểm chót của vấn đề này về mặt thực hành. Tức là bàn đến những phương pháp để tiến đến Chân sư và những ảnh hưởng khách quan của cố gắng này trong ba cảnh giới tiến hóa của nhân loại. Một số điểm các bạn đã hiểu rõ rồi. Còn những điểm khác thì nói chung có thể là các bạn chưa quen thuộc. . . . . . . . Trong những bức thư này, chúng ta đã bàn về phần người môn sinh và những điều y phải cố gắng. Chúng ta cũng đã vạch ra mục tiêu của y và nói – rất sơ lược – về những hình thức và phương pháp để thành công. Chúng ta cũng bàn về các trợ giúp trong tham thiền như Thánh ngữ, Màu sắc và Âm thanh, và đã chỉ ra những gì (nếu được suy ngẫm trong im lặng) sẽ giúp người môn sinh khám phá ra đôi điều hữu ích cho y. Vừa rồi chúng ta đã cố gắng đưa các Chân sư và sự thật về các Ngài đến gần người môn sinh hơn, để tạo điều kiện dễ dàng cho y tiến đến các Ngài.

Vậy thì, giờ đây còn gì phải nói thêm? Tôi sẽ chỉ ra năm điểm mà người môn sinh có thể tìm kiếm một cách tin tưởng nếu y đã cố gắng sống theo những lời giáo huấn trong các bức thư này. Nếu người môn sinh hội đủ những điều kiện thích [282] hợp, nếu y tuân thủ những qui luật cần thiết, nếu y luôn luôn nhắm đến sự đều đặn, điềm tĩnh, và tập trung ở nội tâm (vốn hàm chứa bí nhiệm của những Chốn Cao siêu) thì sẽ có lúc y đạt được một số nhận thức xác định, ngày càng thường xuyên hơn. Những nhận thức này là sự công nhận ở bên ngoài về các kết quả ở bên trong, bảo đảm rằng y đi đúng đường. Nhưng ở đây tôi phải nói thêm rằng những kết quả này chỉ đạt được sau một thời gian thực hành lâu dài, phấn đấu gian nan, cần mẫn nghiêm trì giới luật của phàm nhân với ba hạ thể, và hiến mình phụng sự thế gian.

Các phương pháp tiếp cận và những hiệu quả đạt được.

Nói chung có ba phương pháp tiếp cận và chúng ta có thể kể ra năm hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp này. Ba phương pháp đó là:–

a.     Phụng sự thánh hóa.

b.     Bác ái biểu lộ qua minh triết.

c.      Áp dụng tri thức.

Cả ba chỉ là những phương pháp khác nhau để phát biểu cùng một điều duy nhất, – là sự nhất tâm tích cực, tự phát biểu trong việc phụng sự nhân loại qua bác ái và minh triết. Nhưng một số người phát biểu điều đó theo lối này, có những người lại phát biểu theo lối khác. Một số người mang dáng vẻ trí thức, một số khác biểu lộ tình thương. Dù vậy trước khi thành đạt trí thức phải dựa vào tình thương, và nếu tình thương mà không có sự mở mang trí tuệ và khả năng phân biện thì thường mất quân bình và thiếu khôn ngoan. Cả tình thương và trí tuệ phải được phát biểu trong phạm vi phụng sự, trước khi một trong hai phần này được hoàn thành viên mãn. Chúng ta hãy xét riêng từng phương pháp và chỉ cách tham thiền theo phương pháp ấy:–

Phụng sự thánh hóa. Đây là phương pháp của người vận dụng định luật, phương pháp của huyền bí gia, và những nguyên tắc cơ bản của phương pháp này được ấn định trong [283] khoa Raja Yoga. . . . . . . . . . . . . . Như các bạn hiểu, từ “thánh hóa” trong căn bản có nghĩa là hoàn toàn giao phó trọn cả bản thể cho đối tượng duy nhất, là Đấng Chí tôn hay Đấng Chủ tể. Tức là hiến dâng trọn vẹn cho Đấng mà người sùng tín ngưỡng vọng. Nó cũng có nghĩa là hiến trọn cả phàm nhân và ba thể vào công việc đang làm. Vì thế mà cần phải dồn hết thời gian và phàm ngã vào việc làm cho mỗi thể tuân phục Chân ngã và hoàn toàn chế ngự được từng cảnh giới, và từng cõi phụ. Điều này bao gồm sự thông hiểu về mỗi cuộc tiến hóa và hình thể của sự sống thiêng liêng trong các cảnh giới và cõi phụ kể trên, với mục tiêu duy nhất trước mắt là phụng hành kế hoạch của Đại đoàn Chưởng giáo Quang minh. Phương pháp phải theo là hết sức chăm chú làm cho các thể này phát triển đầy đủ và biến chúng thành những khí cụ thích hợp để phụng sự. Đây có lẽ là con đường khó đi nhất. Không khu vực nào của cuộc sống mà nó không chạm đến. Tất cả đều được thực hiện theo định luật. Vì thế, thể thức tham thiền này có ba phần:–

a.     Những định luật quản trị thể xác sẽ được nghiên cứu và suy ngẫm. Sự suy ngẫm này sẽ trở thành việc nghiêm trì giới luật đối với thể xác. Thể này được hoàn toàn dành cho phụng sự, và do đó phải trải qua một tiến trình điều hợp và phát triển nhanh chóng hơn.

b.     Thể cảm dục sẽ được nghiên cứu một cách khoa học và các định luật của nước (hiểu theo nghĩa huyền bí) sẽ được thấu đáo. Chúng ta hiểu ý nghĩa của thuật ngữ này là “sẽ không còn biển nữa.” Biển bão tố và dục vọng sẽ được thay thế bằng biển gương trong, không hề xao động, đổi đời, mà phản ánh được trực giác cao siêu và phản chiếu nó một cách hoàn toàn chính xác. [284] Thể tình cảm này sẽ được hoàn toàn dành cho phụng sự. Vị trí của nó trong tiểu vũ trụ tam phân sẽ được xem là tương ứng với vị trí ấy trong đại vũ trụ. Hành giả sẽ thấu hiểu ý nghĩa huyền bí của nó là đơn vị toàn vẹn duy nhất trong phàm tính tam phân và dùng sự kiện đó để tạo nên một số kết quả. Hãy suy ngẫm kỹ điều này.

c.      Hành giả sẽ nghiên cứu vị trí của hạ trí trong hệ thống và phát triển khả năng phân biện. Sự phân biện và lửa vốn liên kết nhau về mặt huyền bí, và giống như Thượng Đế nhờ lửa mà thử được loại công việc của mỗi người, thì ở tầm mức thấp hơn, tiểu vũ trụ cũng phải làm như thế. Giống như Đức Thượng Đế làm điều đó chính yếu là vào kỳ phán xét và phân tách của cuộc tuần hoàn thứ năm, thì ở qui mô nhỏ hơn, con người cũng làm như vậy trong giai đoạn tiến hóa cuối cùng của y, là thời kỳ thứ năm – đã được đề cập và mô tả trong những bức thư trước. Mọi năng lực của trí tuệ sẽ được tận dụng để phục vụ các kế hoạch tiến hóa. Trước là cho sự phát triển của chính hành giả, sau là môi trường hoạt động đặc biệt mà y tự phát biểu và cuối cùng là mối quan hệ của y với những người khác trong nhân loại, khi chính y trở thành người hướng dẫn và phụng sự họ.

Vậy các bạn có thấy được sự tổng hợp của vấn đề chăng? Trước hết, nỗ lực chuyên nhất là dấu hiệu của huyền bí gia được hòa hợp với bác ái và minh triết phản ánh từ cõi cao (qua tấm gương phản chiếu của thể tình cảm). Sau đó, tri thức bị buộc phải hành động như là tôi tớ của Chân nhân qua nỗ lực chuyên nhất nhờ bác ái và minh triết làm sinh động. Kết quả là hành giả trở thành một đạo gia (nhà yogi) chân chính.

Ở đây, tôi muốn nói rằng đạo gia chân chính là người sau khi đã thực hiện đúng các thể thức và giờ khắc tham thiền đã định bèn hòa lẫn cuộc tham thiền ấy vào đời sống hàng ngày, và cuối cùng giữ được tâm thái thiền ấy suốt cả ngày. [285] Tham thiền là phương tiện để tiếp xúc với tâm thức cao siêu. Khi sự giao tiếp trở nên liên tục thì tham thiền như các bạn hiểu hiện nay sẽ được thay thế. Trong phương pháp đầu tiên này, người môn sinh huyền bí làm việc từ ngoại vi vào trung tâm, từ khách thể đến chủ thể, từ hình tướng đến sự sống bên trong hình tướng. Vì thế, khi Raja Yoga chú trọng đến thể xác và việc kiểm soát nó một cách khôn ngoan, huyền bí gia nhận thức được sự trọng yếu của thể xác và sự vô dụng của tất cả những hiểu biết nào tách rời thể xác. Vì nhờ nó mà y có thể tự phát biểu và phụng sự nhân loại. Đây là đường lối của cung một, của các cung liên hệ và bổ túc với nó.

Bác ái và minh triết. Phương pháp này là con đường ít trở ngại nhất cho mọi người. Đây là cung phụ của cung tổng hợp có một sự rung động tương đồng mà thái dương hệ của chúng ta là biểu hiện khách quan của nó. Nhưng cần lưu ý rằng lòng bác ái đạt được bởi người môn sinh hành thiền theo đường lối này không phải là khái niệm xúc cảm mà chúng ta quá thường bàn đến. Đây không phải là tình thương thiếu phân biện, không thấy có giới hạn, không thừa nhận một sự lầm lỗi nào. Đây không phải là tình thương không tìm cách sửa đổi, và tự phát biểu trong thái độ khuyên bảo những người khác một cách sai lầm. Đây không phải là tình thương lôi cuốn tất cả mọi người vào việc phụng sự, dù điều đó có thích hợp hay không, và không thừa nhận sự khác biệt nào trong trình độ phát triển của mọi người. Có nhiều cái được gọi là tình thương, – nếu được thực hiện theo lý luận – thì rõ là đã bỏ qua chiếc thang tiến hóa và xếp mọi người đều ngang nhau. Trong tiềm năng, tất cả mọi người đều có giá trị như nhau, nhưng trong phạm vi phụng sự hiện tại thì không phải vậy.

Bác ái hay minh triết đích thực thì thấy rõ rệt sự khiếm khuyết trong bất cứ hình tướng nào, và dồn mọi nỗ lực để giúp sự sống ngự trong hình thể tự giải thoát khỏi các chướng ngại. Đó là sự khôn ngoan nhận ra những ai cần được giúp đỡ, và người nào không cần phải quan tâm. Nó nghe chính xác và thấy được tư tưởng trong tâm con người và tìm cách [286] hòa hợp tất cả những người phụng sự trên thế giới thành một toàn thể. Điều này không được thực hiện một cách mù quáng, mà bằng sự phân biện và minh triết, tách ra được những rung động trái nghịch và đặt chúng vào vị trí khác. Người ta đã chú trọng quá nhiều đến cái gọi là tình thương (do con người giải thích theo trình độ tiến hóa của họ hiện nay). Họ thiếu chú trọng đến minh triết vốn là tình thương tự phát biểu trong phụng sự, là phụng sự mà nhận thức được định luật huyền bí, ý nghĩa của thời cơ, và mục tiêu cần đạt.

Đây là đường lối của cung hai, của những cung liên hệ và bổ túc với nó. Về sau, nó là cung bao gồm tất cả, là dung môi và là tác nhân hấp thu. Người ta có thể đi theo cung này bằng đường lối của Raja Yoga hoặc khoa thần bí Thiên Chúa giáo, vì nó có ý nghĩa tổng hợp. . . .

Áp dụng tri thức. Ở đây thì thứ tự ngược lại. Người môn sinh thường vẫn phân cực trong thể trí, giờ đây phải học cách dùng nó để hiểu hai thể kia, để chế ngư, kiểm soát và sử dụng đến mức tối đa các quyền năng ẩn tàng trong phàm nhân với ba hạ thể. Có lẽ phương pháp này không đến đỗi quá khó khăn trong vài phương diện, nhưng môn sinh phải vượt qua được những giới hạn của nguyên khí thứ năm trước khi có thể tiến bộ thực sự. Những giới hạn này phần lớn là thành kiến (sự kết tinh) và cái gọi là sự kiêu căng. Người tiến theo con đường áp dụng tri thức phải xóa tan cả hai giới hạn này trước khi y có thể phụng sự nhân loại với nguyên động lực là tình thương và minh triết.

Y phải học giá trị của các tình cảm, và trong sự học hỏi này y phải thấu đáo hiệu quả của lửa trên nước (hiểu theo nghĩa huyền bí). Y phải học sự bí mật của cảnh giới mà khi biết được sẽ cho y chìa khóa để làm tuôn tràn ánh sáng khai ngộ từ Tam nguyên qua thể nguyên nhân, rồi đến thể tình cảm. Nó cũng giữ chìa khóa của cấp dĩ thái thứ tư. Bạn chưa [287] hiểu được điều này, nhưng đối với người môn sinh lời ngụ ý vừa kể có chứa nhiều điều giá trị.

Đây là đường lối của cung ba, và bốn cung phụ thuộc nó, là một đường lối hoạt động vĩ đại, biến đổi thường xuyên và biểu lộ trí tuệ tích cực trong các cõi thấp.

Chỉ khi nào người môn sinh tiến theo con đường áp dụng tri thức đã học được bí mật của cảnh giới thứ năm, y mới có thể sống cuộc đời phụng sự thánh hóa và hòa hợp được cả ba cung. Bao giờ cũng phải đạt cho được sự tổng hợp, nhưng luôn luôn màu sắc hay âm điệu căn bản vẫn tồn tại. Cuộc tuần hoàn thứ năm tức là cuộc tuần hoàn tới đây sẽ phô bày phương pháp này đến mức vĩ đại nhất. Đó là cuộc tuần hoàn phát triển trí tuệ tột đỉnh, và sẽ đưa những Chân thần đang tiến hóa trong cung này đến những đỉnh cao mà hiện tại chúng ta không thể nào mơ tưởng.

Cuộc tuần hoàn hiện tại là cao điểm của phương pháp thứ hai dùng tình thương và minh triết. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này, thể cảm dục đạt đến rung động cao độ, và có sự nối kết trực tiếp giữa các cảnh giới thứ tư của sự điều hòa, giữa thể tình cảm hay nguyên khí thứ tư, và tứ hạ thể với căn chủng thứ tư (dân Atlantis) là giống dân đã điều hợp thể cảm dục. Tôi đã cho các bạn nhiều điều để suy ngẫm trong các tương ứng này.

Ngày 21-9-1920.

Năm hiệu quả của Tham thiền trong tam giới.

Hôm nay, chúng ta bàn về năm hiệu quả trong ba hạ thể ở các cõi thấp mà người môn sinh hành thiền sẽ ý thức được nếu y theo đúng tiến trình đã vạch.

Đây không đặc biệt là những hiệu quả trong cuộc sống mà người đời nhìn vào thấy được, như tình thương rộng lớn hơn, [288] hay sự phát triển tinh thần, hoặc khả năng phụng sự. Những gì mà tôi muốn đề cập hôm nay là những biểu thị trong ý thức não bộ hồng trần của người môn sinh khi y đã làm được một số công việc cần thiết và đạt được phần nào mục tiêu mong muốn. Hãy lưu ý kỹ điều này. Tôi không tìm cách nói rõ tất cả các kết quả khác nhau đạt được do hành thiền huyền môn thành công. Ở đây tôi chỉ đề cập đến một phương diện của vấn đề thôi. Đó là sự nhận biết trong ý thức não bộ hồng trần về một số kết quả liên quan đến vấn đề đang bàn, – việc đến gần các Chân sư.

Điều này gom vấn đề của chúng ta vào sự nhận biết hữu thức về các Chân sư và về một vị Chân sư nào đó trong não bộ hồng trần của hành giả. Sự nhận thức này rất ít phụ thuộc vào vị trí của y trên Đường Đạo, và việc y sắp sửa hay còn lâu mới được điểm đạo. Một số Chân nhân tiến hóa rất cao có thể là đang cố gắng giải quyết vấn đề này, và dù họ thực sự rất gần Chân sư nhưng không thể đưa vào não bộ hồng trần của mình những sự kiện cụ thể để tự chứng minh sự thân cận đó. Một vài người biết được điều này sớm hơn những người khác. Điều này tùy theo loại thể xác đang được sử dụng và công việc đã làm trong những kiếp trước, tạo thành một thể xác đại diện khá đúng cho con người ở nội tâm. Thường thì hành giả có khả năng làm việc và thành đạt lớn lao trên các cõi cao hơn ở cõi trần. Rất nhiều người phụng sự nhiệt thành nhất của chúng ta, đặc biệt là trong nửa thế kỷ này đang trả quả xấu của họ bằng cách nhận những thể không thích hợp. Nhờ chuyên cần, áp dụng, nhờ cố gắng cao độ, và nhờ bền bỉ kiên trì theo đúng những qui luật đã vạch mà sẽ đến lúc người môn sinh bỗng nhiên ý thức được – ngay trong não bộ hồng trần – một số sự kiện bất ngờ, một sự khai ngộ hay thấy được những điều từ trước y chưa hề biết. Đó là một điều hết sức thực cho đến đỗi dù tạm thời nó làm cho y ngạc nhiên nhưng sau đó không sự [289] phủ nhận nào bên ngoài có thể làm cho y mất đi sự hiểu biết những gì mà y đã thấy, đã giao tiếp và đã cảm nhận.

Như tôi vẫn thường nói cùng các bạn, ở đây không thể làm gì hơn là chỉ nói tổng quát. Sáu mươi ngàn triệu linh hồn đang tiến hóa. Mỗi người theo những chu kỳ sống hoàn toàn khác nhau, trong một môi trường rộng rãi để chọn lựa, và không có hai kinh nghiệm nào hoàn toàn giống hệt nhau. Nhưng có thể nói khái quát là nên kể ra năm cách (trong số rất nhiều cách khác khả dĩ có) mà tương đối những sự kiện này thường xảy ra. Tất cả đều đã được truyền đạt theo lối gợi ý nhưng tôi có thể nói rộng thêm ít nhiều.

Nhìn thấy Chân sư và Chân ngã ở nơi sâu thẳm của luân xa tim. Như các bạn biết, người ta thường dạy môn sinh tự hình dung ra chính mình và Chân sư – kích thước khoảng 1/4 inch (0,64 cm) – ở bên trong luân xa tim dĩ thái. Y được dạy, khi gần kết thúc tham thiền, hình dung luân xa tim bằng chất dĩ thái, trong đó y tạo ra những hình nhỏ của Chân sư (là Đấng y hướng đến) và của chính y. Hằng ngày y thực hiện điều này một cách đúng đắn và cẩn trọng với khả năng tưởng tượng và nỗ lực yêu thương, cho đến khi đối với y các hình thể này trở nên rất thực và việc kiến tạo này hầu như thành tự động trong phương thức thiền của y. Rồi sẽ đến ngày (thường là khi những điều kiện chiêm tinh đã thích hợp và gần lúc trăng tròn) y trở nên ý thức được trong não bộ rằng những hình này không phải là những hình bù nhìn nhỏ bé như y tưởng mà y đang ở trong hình ảnh tượng trưng cho chính mình, và nói theo nghĩa đen thì quả thực là y đang đứng trước Chân sư. Lúc đầu điều này rất hiếm khi xảy ra, và thời gian giữ được ý thức này chỉ trong vài giây ngắn ngủi. Khi y tiến bộ hơn, và khi mỗi phương diện trong bản tính y, trong việc phụng sự của y đều phát triển, thì kinh nghiệm này sẽ [290] đến thường xuyên hơn trong những thời khoảng lâu hơn. Mọi sự tiếp diễn cho đến khi người môn sinh có thể liên kết với Chân sư của y theo lối này một cách dễ dàng như trước kia y đã tạo ra những hình thể đó.

Thực sự điều gì đã xảy ra? Người môn sinh đã thực hiện thành công ba việc:–

1.     Tự đồng hóa với hình ảnh trong luân xa tim và ngưỡng vọng đến Chân sư.

2.     Tạo một đường truyền rõ rệt giữa luân xa tim (nơi y đang cố gắng tập trung tâm thức) đến trung tâm tương ứng của nó ở đầu. Như các bạn biết, mỗi luân xa trong bảy luân xa đều có phần tương ứng của nó ở đầu. Chính sự liên kết luân xa này với phần tương ứng của nó ở đầu mang lại sự khai ngộ. Trong trường hợp này thì người môn sinh đã hoàn thành điều đó. Y đã nối kết luân xa tim với trung tâm của nó ở đầu.

3.     Không những y thành tựu hai điều trên, mà y còn tinh luyện được phần tương ứng của trung tâm ấy trong bộ não hồng trần đến mức nó có thể ứng đáp được với những rung động cao hơn cần có, và vì thế mà ghi nhận được những sự việc xảy ra một cách chính xác.

Nhận ra sự rung động. Trong trường hợp này, phương pháp không hoàn toàn giống như trên. Vào những lúc đạo tâm dâng cao nhất trong tham thiền, người môn sinh trở nên ý thức được một sự rung động hay cảm giác đặc biệt trong đầu. Cảm giác này có thể ở một trong ba vị trí sau:–

a.     Ở đầu cột sống.

b.     Ở trán.

c.      Ở đỉnh đầu.

Ở đây tôi không nói đến cảm giác nhận được khi quan năng thần thông phát triển, dù rằng điều đó cũng có liên quan, mà tôi chỉ nói đến một sự rung động rõ rệt kèm theo việc tiếp xúc với một trong các Đấng Cao cả. Lúc đầu người môn sinh chỉ ý thức được một cảm giác được nâng cao tạm thời dưới hình thức như có một cái gì gờn gợn hay vận chuyển trong đầu. Lúc đầu [291] y có thể thấy hơi khó chịu, nếu cảm thấy ở trán thì có thể làm chảy nước mắt hoặc khóc. Nếu ở đầu cột sống hay đáy sọ thì có trạng thái phấn khởi thậm chí hơi choáng váng, còn nếu ở đỉnh đầu thì có cảm giác mở rộng, sung mãn, chẳng khác nào xương sọ có vẻ quá chật hẹp tù túng. Khi được sử dụng nhiều hơn thì cảm giác này sẽ mất dần. Đó là do sự tiếp xúc (lúc đầu rất ngắn ngủi) với một vị Chân sư. Theo thời gian, người môn sinh sẽ nhận ra được sự rung động này và liên tưởng tới một Đấng Cao cả nào đó, vì mỗi Chân sư đều có sự rung động riêng và tạo ấn tượng nơi các đệ tử của Ngài theo một lối riêng. Phương pháp tiếp xúc này thường kèm theo mùi hương. Theo thời gian, người môn sinh sẽ học được cách nâng rung động của mình đến một cao độ nhất định. Khi làm được điều này y giữ vững sự rung động cho đến khi cảm được sự rung động ứng đáp hay là mùi hương của Chân sư. Rồi y cố gắng hòa lẫn tâm thức của mình với tâm thức của Ngài đến mức cao nhất theo khả năng, để biết chắc ý muốn của Chân sư và hiểu được những điều Ngài cần truyền đạt. Thời gian qua, khi sự ứng đáp của người đệ tử càng tăng tiến thì về phần Chân sư Ngài sẽ hấp dẫn sự chú ý của y hoặc tỏ dấu hiệu hài lòng y (như việc khơi dậy rung động này trong đầu y) . . . .

Ngày 23-9-1920.

. . . . . . Hôm nay chúng ta còn ba điểm phải bàn. Hai điểm đã nói về sự tiếp xúc với Chân sư ở nơi sâu thẳm của luân xa tim và nhận ra được sự rung động của Ngài. Còn ba lối nữa, (xin nhớ là trong rất nhiều lối) mà người môn sinh nhiệt tâm có thể ý thức được trong não bộ hồng trần việc y đã tiếp xúc với Chân sư y.

Đưa ký ức về đạo viên của Chân sư và những bài học đã được truyền dạy ở đó vào ý thức não bộ hồng trần. [292]

Khi người môn sinh kiên trì hành thiền, khi y ngày càng dễ dàng áp dụng nhịp rung động đúng đắn, thì y tạo ra một con đường (xin tạm gọi như thế) đưa y thẳng đến Chân sư. Đây là một câu nói đúng với sự kiện thực tế. Nhờ thiện hành mà cuối cùng người môn sinh được quyền tiếp xúc với Chân sư vào những thời khoảng định sẵn. Thiện hành là công tác tốt đẹp trong tham thiền kèm theo cố gắng tích cực phụng sự nhân loại. Những khoảnh khắc này lúc đầu rất hiếm hoi, nhưng ngày càng xảy ra thường xuyên hơn khi hành giả đạt được nhiều tiến bộ. Bấy giờ khi thức tỉnh trong xác thân, y nhớ lại và biết được sự tiếp xúc này. Y sẽ thấy phòng của Chân sư, và nhớ được các cộng sự của y trong công tác của lớp học. Y sẽ nhớ lại một số câu Ngài nói, và hồi tưởng được công việc Ngài đề nghị, hay lời Ngài khuyên bảo. Đây là một trong những phương pháp chỉ cho người môn sinh thấy rằng y đang thành công trong việc đến gần Chân sư, nhờ khả năng tăng dần trong tham thiền.

Đạt được phần nào ý thức của thể nguyên nhân. Điều này cho thấy rằng người môn sinh đã phát triển (có lẽ mức độ còn ít, nhưng cũng cảm nhận được rõ rệt) phần nào năng lực đi vào thế giới của các Ngài. Khả năng suy tư trừu tượng và chiêm ngưỡng (đại định), năng lực vượt khỏi các giới hạn của thời gian và không gian, là những quyền năng của thể chân nhân. Và, như trước tôi đã nói, vì tất cả mọi nhóm Chân nhân đều được một vị Chân sư kiểm soát, nên việc phát triển tâm thức của Chân ngã (khi nhận biết được một cách hữu thức) là dấu hiệu của sự tiếp xúc và đến gần Ngài. Nhiều người tiếp xúc được với Chân nhân của họ một cách vô thức và nhất thời có được những tia chớp của tâm thức Chân ngã. Nhưng chỉ khi nào người đệ tử có thể tự nâng cao một cách hữu thức, khi y thận trọng tăng cường sự rung động và chuyển sự phân cực của mình vào trong thể chân nhân dù chỉ trong phút giây ngắn ngủi, thì bấy giờ y hiểu được rằng trong phút giây ngắn ngủi ấy y đang rung động theo âm khóa của Chân sư của nhóm y.

Y đã tiếp xúc được với Ngài. Có thể lúc đầu bộ não hồng trần [293] của y không ghi nhớ được các chi tiết của cuộc tiếp xúc, có thể y không nhận ra được dung mạo của Chân sư hay những lời Ngài thốt ra. Nhưng vì y đã hữu ý tuân thủ qui luật, đã nhập vào sự im lặng của những chốn cao thâm, và định luật bao giờ cũng tác động, nên y đã tạo được sự tiếp xúc. Một số đệ tử hiểu biết thân cận với Chân sư của họ ở các nội giới và làm việc dưới sự hướng dẫn của Ngài, nhưng có khi phải qua rất nhiều kiếp họ mới hiểu được định luật và thận trọng tạo con đường tiếp cận Chân sư nhờ quyền năng phát triển trong tham thiền.

Theo thời gian, khả năng tiếp xúc này tăng thêm mãi cho đến mức người đệ tử có thể bất cứ lúc nào cũng thấy được ý muốn của Chân sư và tiếp cận với tâm Ngài.

Phương pháp thứ năm không thường thấy nhưng cũng có đối với một số bẩm tính của người đệ tử. Nhờ âm thanh mà hành giả biết được thành công. Y hành thiền theo thể thức thường ngày. Y kiên trì ngày này qua ngày khác và thực hiện công việc cần làm trong cả tam giới. Y liên tục nâng cao sự rung động và nguyện vọng tinh thần trong cố gắng cần thiết, kết hợp mọi nỗ lực ở nội tâm với cuộc sống phụng sự yêu thương ở bên ngoài. Rồi trong một lần tham thiền nào đó, y chợt nghe được một nốt nhạc, chừng như ngân lên trong đầu, hay từ luân xa tim phát ra. Nốt nhạc đó không trỗi lên do việc xướng Thánh ngữ (Thánh ngữ này khi được hành giả xướng lên theo một âm khóa nhất định thì có thể được Chân nhân đáp lại bằng một nốt nhạc), mà nó đến do thành quả của tham thiền và tiếng nhạc này ngân lên trong luân xa rõ rệt đến mức không bao giờ ta quên được. Đó cũng là một ấn chứng của thành công. Y đã được tiếp xúc với Chân sư và Ngài đã đáp ứng bằng cách ngân lên âm điệu của chính Chân ngã y. Đây quả thật là thông lệ căn bản mà vị thủ môn ứng đáp với người chí nguyện tương lai muốn biết các bí nhiệm của nhóm. Khi [294] công việc được thực hiện đúng đắn, người chí nguyện sẽ xướng lên lời xin gia nhập bằng âm khóa hay âm điệu của chính y, cố gắng chạm đến nốt nhạc có thể cảm ứng được Chân nhân.

Vị thủ môn sẽ đáp lại và ngân lên cùng âm điệu đó nhưng vang dội và đầy đủ hơn, để nhờ quyền năng của âm thanh mà liên kết người ấy với Chân sư trong các cuộc lễ sắp đến. Việc làm này giúp mỗi thành viên của nhóm liên hệ mật thiết với Chân sư – nhờ nỗ lực của chính y và nhờ nhân tố thứ ba là vị thủ môn. Theo thời gian người môn sinh sẽ thấu đáo điều này hơn và cố gắng giữ cho âm thanh vang dội giữa y và vị thủ môn. Khi đã thực hiện được hoàn hảo (điều mà ngay bây giờ chưa có thể làm được) thì đó là sự bảo vệ an toàn. Các nhóm được thành lập tùy theo sự hình thành tập thể các chân nhân và tùy mỗi Chân sư. Vị thủ môn sẽ được báo cho biết nốt của nhóm, và người nào không ngân được một nốt trong bát độ thấp hơn hoặc cao hơn nốt đó thì không được vào. Điều này áp dụng cho những nhóm đã hiến dâng cho công cuộc phát triển tinh thần nội tại, và những gì liên quan trực tiếp đến công việc của một Chân sư, với các môn sinh, các đệ tử hay những người dự bị của Ngài. Những nhóm khác được thành lập với những thành viên khác, thuộc những cung và những Chân sư khác nhau, sẽ giữ cửa vào bằng một phương pháp khác, sau này sẽ được tiết lộ.

Khi trong tham thiền người môn sinh nghe được nốt nhạc nội tâm này, y nên cố gắng ghi nhận nó và cố gắng vun bồi khả năng nhận ra nó và sử dụng nó. Lúc đầu việc này không dễ làm vì âm thanh phát ra vừa bất ngờ vừa ngắn ngủi. Nhưng thời gian qua, người môn sinh cứ tiếp tục nhận được sự đáp ứng tương tự hết lần này đến lần khác. Bấy giờ y có thể bắt đầu tìm ra phương pháp và trông chừng các nguyên nhân làm phát sinh sự rung động đó.

Như trước đây tôi đã nói, có rất nhiều phương pháp để người môn sinh ý thức được sự thành công của y trên đường tiến đến Chân sư. Trên đây tôi chỉ đề cập đến năm cách thôi. [295] Về sau, khi các trường tham thiền được tổ chức và được một vị Chân sư có tâm thức trong thể xác chăm sóc, thì những lần và những cách thức tiếp xúc sẽ được ghi nhận, nhờ vậy mà vấn đề này sẽ được sẽ hiểu biết nhiều hơn. Để kết luận, tôi muốn nêu ra rằng luôn luôn người môn sinh phải làm công việc kêu gọi sự đáp ứng. Thời điểm đáp ứng tùy theo nhiệt tâm của y trong công việc, tùy sự hiến dâng trong phụng sự và tùy nghiệp quả của y. Khi y xứng đáng được một sự ứng đáp nhất định, điều này sẽ được chỉ rõ trong lá số tử vi của y, mà không điều gì có thể ngăn cản hay làm chậm trễ được. Đồng thời cũng không có gì phải hấp tấp thực sự, nên người môn sinh không cần phí thì giờ để băn khoăn sầu muộn vì chưa được ứng đáp. Phần việc của y là tuân thủ các qui luật, là tuân hành các thể thức thiền đã vạch ra, là suy ngẫm và theo đúng những lời giáo huấn một cách khôn ngoan, là làm việc một cách dứt khoát, và nhiệt tình phụng sự chư huynh đệ. Khi y đã làm được tất cả những điều này, khi y đã sử dụng chất liệu có sự rung động cần thiết để kiến tạo ba hạ thể, khi y đã chỉnh hợp được ba thể này với thể Chân nhân (dù chỉ trong phút giây ngắn ngủi thôi) thì bỗng nhiên y có thể thấy, bỗng nhiên y có thể nghe, bỗng nhiên y có thể cảm nhận được một sự rung động. Từ đó về sau bao giờ y cũng có thể nói rằng lòng tin đã hòa lẫn với mắt thấy, và ước nguyện đã trở thành hiện thực.

 

[296]

BỨC THƯ IX

CÁC TRƯỜNG THAM THIỀN TRONG TƯƠNG LAI.

1.          Trường cơ bản duy nhất.

2.          Những chi nhánh ở các quốc gia.

3.          Vị trí, nhân sự, và các cơ sở của trường.

4.          Cấp bậc và khóa học.

[297]

BỨC THƯ IX

CÁC TRƯỜNG THAM THIỀN TRONG TƯƠ NG LAI.

Ngày 26-9-1920.

Hôm nay chúng ta nhận một loạt thư khác về tham thiền huyền môn, đề cập đến “Các Trường Tham thiền Tương lai.” Trong thư này tôi sẽ nói ít nhiều về cách áp dụng những lối phát triển và huấn luyện đã nêu trong những bức thư trước. Tôi cũng tiên đoán phần nào các việc xảy ra sau này, chứ không nói về những gì mà cho đến nay chúng ta có thể đạt bằng cách nào đó. Luôn luôn cần phải có những lý tưởng cao cả và bao giờ trí tuệ con người cũng phóng tới trước hướng đến một mục tiêu đã chọn. Nếu ở đây tôi phác họa ra những gì xem chừng viễn vông không thể có là chỉ vì tôi muốn nêu lên lý tưởng đó và đặt cho nhân loại một mục tiêu xứng đáng với nỗ lực cao nhất của họ.

Nhận xét sơ bộ.

Chúng ta hãy dừng lại trong giây lát và đưa ra một số định đề trong hiện tại để (gọi là) dọn đường cho hoạt động ở tương lai.

Giá trị của tham thiền đang ngày càng được thừa nhận ở khắp nơi. Các trường dạy định trí và những phương pháp phát triển trí tuệ thường được quảng cáo trên các nhật báo.

Người ta vẫn còn chưa hiểu được bao nhiêu về tham thiền đích thực. Sự tập trung tư tưởng chỉ là nền tảng cho công việc tương lai mà thôi.

Cho đến nay chưa thể xây dựng được cơ cấu tương lai, vì hai lý do chính yếu:– [298]

a.     Trong thời gian hiện nay, con người vẫn chưa có khả năng đạt đến cấp độ thể nguyên nhân và tâm thức của thể này.

b.     Chưa có được một vị Chân sư hiện diện trong thể xác, với khả năng và trang bị để truyền dạy cách phát triển có tính khoa học thực sự, là mục tiêu của chân tham thiền.

Tình trạng khó khăn của thế giới hiện tại cũng đủ gây chướng ngại khiến nói chung người ta không chấp nhận bất cứ sự rèn luyện nào hay việc phát triển các hạ thể một cách khoa học.

Tôi đặt những tiền đề này ở đây để làm khởi điểm cho chúng ta. Không thể phủ nhận rằng ở nơi này nơi khác đã có một số người đạt được mục đích, đã có những người nắm vững được phương thức Thiền Huyền môn và đã thực hiện được sự tiến bộ như mong muốn. Thế nhưng đây chỉ là số ít, quá ít so với đại khối nhân loại đang đầu thai đồng thời với họ. Họ thành công vì lẽ họ đã nỗ lực lâu đời, và bởi trong các kiếp trước họ đã bước trên Đường Đạo hay đã đến gần cửa Điểm đạo rồi. Nhưng ngay đến người có trí thông minh trung bình hiện nay – ví dụ như người hấp thụ nền văn minh Tây phương – cũng còn lâu mới sẵn sàng để được huấn luyện huyền môn. Hiện đang có những cuộc thí nghiệm (thường thì những người được thí nghiệm không hề hay biết) để xem một người được thúc đẩy qua kinh nghiệm và diễn trình tiến hóa thông thường, phải mất bao lâu mới đến mức có thể được huấn luyện nhiều hơn một cách an toàn. Dân chúng ở nhiều nước văn minh đang được giám sát và một phương pháp kích thích và tăng cường đang được áp dụng, nhằm mang lại cho các Đấng Cao cả một số dữ kiện có thể làm phương châm cho các Ngài dùng trợ giúp nhân loại sau này. Đặc biệt là các dân tộc ở Mỹ, Úc, Ấn Độ, Nga, Scotland và Hy Lạp đang được lưu ý. Một số người ở Bỉ, [299] Thụy Điển và Áo cũng đang được quan sát, và nếu đáp ứng được như kỳ vọng thì họ sẽ làm hạt nhân cho công cuộc phát triển rộng lớn hơn.

Các Trường Tham thiền Tương lai.

Như thường lệ, chúng ta chia vấn đề thành nhiều mục nhỏ:–

1.     Trường cơ bản duy nhất.

2.     Những chi nhánh ở các quốc gia.

3.     Vị trí, nhân sự, và các cơ sở của trường.

4.     Cấp bậc và khóa học.

Các bạn nên chú trọng đến sự kiện là tất cả những điều tôi sắp nói ra đây chỉ là một phần của một kế hoạch thử nghiệm nhằm đẩy nhanh sự tiến triển của thượng trí và chế ngự các thể của con người bằng quyền năng của Thượng Đế nội tâm. Kế hoạch này được vạch ra vì nhu cầu khẩn thiết của thế giới, trong đó trí tuệ con người phát triển không còn cân đối với sự thăng bằng của tình cảm và sự chuẩn bị ở xác thân. Bước tiến nhanh chóng của tri thức, sự mở mang hệ thống giáo dục để đưa sản phẩm của nhiều nhà trí thức vào cảnh sống của dân nghèo, khả năng đọc và viết của tất cả mọi người trong những nước như Hoa Kỳ hay các chủng tộc khác của giống dân Nhậtnhĩ-man (Anglo-Saxon) đã là nguyên nhân làm phát sinh vấn đề khó khăn thực sự (có thể nói là không ngờ) mà các Đấng Cao cả đang phải đối phó.

Mục tiêu của tất cả mọi người là phát triển trí tuệ song song với tình cảm ổn định và xác thân mạnh khỏe. Nhưng hiện nay các bạn thấy sự phát triển trí tuệ lại kèm theo thể cảm dục xáo động và một thể xác yếu đuối, thiếu dinh dưỡng, và nuôi nấng sai lầm. Cho nên mới có sự rối rắm, thiếu quân bình, thị kiến lờ mờ và lập luận thiên lệch. Thay vì hạ trí là phương tiện để đạt mục đích và lợi khí để sử dụng, nó lại sắp [300] trở thành kẻ cai trị độc đoán, ngăn cản tác động của trực giác và bưng bít trí tuệ trừu tượng.

Vì thế mà các Chân sư dự định tạo ra một phong trào (nếu bằng cách nào đó thành công được) nhằm kềm chế hạ trí bằng phương tiện của chính con người. Với mục tiêu trước mắt này, các Ngài đặt kế hoạch sử dụng cung sắp đến là Cung Định luật Nghi thức hay Tổ chức và dùng giai đoạn đồng thời hay kế theo sự lâm phàm của Đức Chưởng giáo để bắt đầu thiết lập các trường tham thiền kể trên (lúc đầu thì chưa lộ rõ, trong qui mô nhỏ) và giúp cho mọi người ở khắp nơi ý thức được bốn điều căn bản:–

a.     Lịch sử tiến hóa của con người về phương diện trí tuệ.

b.     Sự cấu tạo thất phân của đại vũ trụ và tiểu vũ trụ.

c.      Những định luật chi phối sự sống của con người.

d.     Phương pháp phát triển huyền môn.

Bước đầu đã được thực hiện . . . . . . . . qua các trường hiện nay vẫn còn tồn tại . . . . . . . . tất cả đều là khởi điểm của kế hoạch. Khi các trường này đã có cơ sở vững chắc, đã hoạt động điều hòa và được công chúng biết đến; khi các trường này với sự chú trọng về mặt nội tâm đã phần nào ảnh hưởng được người đời; khi các trường này đã đào tạo được những học giả, những người phụng sự, những nhà chính trị, những nhà khoa học và những nhà lãnh đạo giáo dục có thể ảnh hưởng được môi trường chung quanh họ; thì có lẽ bấy giờ mới đến lúc xây dựng được trường huyền môn đích thực ở ngoài đời. Điều này có nghĩa là nếu các trường và các phân viện đầu tiên hoàn tất được công việc của họ một cách thỏa đáng thì họ sẽ chứng tỏ cho người đời thấy rằng nội tâm chính là thực tại, và cái thấp chỉ là nấc thang để tiến đến cái cao hơn. Vì thế, khi thực tại nội tâm được mọi người đồng công nhận thì bấy giờ mới có thể thiết lập được một hệ thống các trường nội môn [301]  . . . sẽ được công chúng thừa nhận. Hệ thống này không bao giờ loại trừ sự cần thiết phải luôn luôn có một phân bộ nội giáo bí truyền, vì bao giờ cũng có một số chân lý và những sự kiện rất nguy hiểm nếu phổ biến cho người chưa được điểm đạo. Nhưng tôi muốn nêu rõ rằng rốt cuộc các bí nhiệm sẽ được thừa nhận là những sự kiện thực tế để mọi người đồng nhận thức, lấy đó làm mục tiêu chung. Họ sẽ được chuẩn bị để nhập học các trường có chuyên gia lão luyện hướng dẫn, đảm nhận công việc nhất định là huấn luyện những người sơ cơ để họ có thể hiểu được các bí nhiệm đó.

Những trường này trước đây đã có, và khi bánh xe tiến hóa quay thêm một vòng, chúng sẽ tái hiện.

Các bạn hỏi chừng nào việc này xảy ra? Điều đó còn tùy chính nhân loại và tùy theo công việc của tất cả các bạn là những người đang phụng sự với niềm tin và chí nguyện trong những bước đầu của kế hoạch.

H. P. B. đã đặt viên đá nền tảng cho trường đầu tiên trong tiểu chu kỳ đặc biệt này (tuy nhiên, lại là thời kỳ tương đối quan trọng, là thời gian lớn mạnh mau lẹ của căn chủng thứ năm, và là thời kỳ bừng nở của nguyên khí thứ năm). Đây là nền tảng chính yếu. Như trước tôi đã nói, công tác này tiến hành tạo lập những thiền viện khác nhau, và khoa học trí tuệ cũng góp phần vào đó. Công việc sẽ được xúc tiến như ý muốn, nếu mỗi người đang được huấn luyện huyền môn đều cố gắng hết sức và chuyên chú vào phần việc đang làm. Nếu tất cả các công tác có thể làm đều được thực hiện thì khi Đức Chưởng giáo lâm phàm với các Chân sư phụ tá Ngài công việc sẽ được thêm một sức thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Công cuộc này sẽ mở rộng và phát triển cho đến mức trở thành một sức mạnh trên thế giới. Bấy giờ mới đến ngày các trường huyền môn đảm nhận công việc rõ rệt là huấn luyện cho con người được điểm đạo.

Ngày 27-9-1920.

Hôm nay chúng ta bàn đến điểm đầu tiên, vì chỉ khi đặt được nền móng đúng đắn thì thượng tầng kiến trúc mới đạt yêu cầu.

[302]

1.     Trường cơ bản duy nhất.

Thế nên nhất thiết phải nhấn mạnh rằng dù cho các chi nhánh có thế nào, trường huyền môn căn bản vẫn bắt nguồn từ trung tâm linh thánh của địa cầu là Shamballa. Dưới sự giám sát của chính Đấng Điểm đạo Duy nhất là Đấng mà chúng ta ít khi biết được rằng Ngài là sự biểu lộ cao nhất của Cung Giáo dục trên Địa cầu, có tổ chức mệnh danh là cơ quan trung ương cho cuộc huấn luyện kỷ luật và giáo dục của Đ.Đ.C.G.. Ở đó có một vị Đế quân chịu trách nhiệm trực tiếp cho nhiều nỗ lực khác nhau, và các Chân sư thu đệ tử cũng như các vị Lãnh đạo của những trường huyền môn đều chịu trách nhiệm trực tiếp với Ngài. Tất cả đều tiến hành theo định luật và trật tự.

Một điều cần phải nhấn mạnh ở đây là Quang minh Chánh đạo, mà tiêu biểu là các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn, có đại diện ở nhiều nơi khác để thực hiện công tác cụ thể dưới sự giám sát thích hợp và đầy đủ. Nhiều nhà Thần triết thường cho rằng chỉ có họ là những người được ủy thác nền tôn giáo minh triết. Sự thực không phải vậy. Vào thời gian đặc biệt này (mà mục tiêu trước mắt là nhằm phát triển và tạo cơ hội thuận lợi cho phân chủng thứ năm) các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn là đường truyền chính yếu để mang lại nỗ lực, quyền năng và ánh sáng. Nhưng công việc cho những giống dân khác cũng tiến hành đồng thời, và nhiều kế hoạch khác nữa, tất cả đều phát xuất từ cơ quan trung ương ở Shamballa, cũng đang song hành với công việc của các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn. Hãy ghi nhớ rõ điều này vì đây là điều quan trọng. Trường phái và Phân bộ Hy-mã-lạp-sơn quan tâm chính yếu đến Tây phương và là trường phái duy nhất (không ngoại lệ) chuyên lo công việc và đào tạo các môn sinh huyền bí ở Tây phương.

Các môn sinh của trường không có gì phải cạnh tranh hay

[303] làm việc trùng hợp. Điều này không vì lợi ích của các huấn sư mà để bảo đảm an toàn cho họ. Những hiểm nguy ẩn nấp trên đường đi của người môn sinh huyền bí, và các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn biết đủ mọi cách để bảo vệ môn sinh của các Ngài. Miễn là họ vẫn ở trong phạm vi hào quang thống nhất của các Ngài chứ không đi thụ huấn ở các trường phái khác. Tất cả các trường huyền môn đích thực đều yêu cầu môn sinh tuân thủ điều này, và tất cả các Chân sư thực sự đều mong đệ tử của Ngài đừng thụ huấn nơi khác khi đang nhận giáo huấn từ các Ngài. Các Ngài không nói: “Chỉ có phương pháp của chúng tôi là đúng và thực,” mà bảo rằng: “Khi thụ huấn với chúng tôi thì đường lối khôn ngoan và an toàn là các bạn đừng thụ huấn với một trường phái khác hay Chân sư khác.” Còn nếu một môn sinh muốn làm điều đó thì y được hoàn toàn tự do chọn trường phái và huấn sư khác, nhưng trước hết y phải chấm dứt liên hệ với trường phái cũ.

Có thể nhận ra trường cơ bản duy nhất nhờ một số đặc trưng rõ rệt sau đây:–

Bởi đặc tính căn bản của những chân lý được truyền dạy, thể hiện trong các định đề sau:–

a.     Tính duy nhất của toàn bộ cuộc sống.

b.     Những bước phát triển tuần tự được nhận ra nơi hành giả, và học trình ngày càng nâng cao dần, để giúp hành giả mở mang tâm thức từ mức này đến mức khác, cho đến khi đạt được trình độ mà chúng ta gọi là hoàn thiện.

c.      Sự liên hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ và sự áp dụng bảy phương diện của mối liên hệ đó.

d.     Phương pháp phát triển và vị trí của tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ được tiết lộ nhờ nghiên cứu tính tuần hoàn của toàn cuộc biểu hiện và định luật cơ bản về nhân quả.

Bởi sự chú trọng vào việc lập hạnh và phát triển tinh thần, lấy đó làm nền tảng cho sự phát triển tất cả những khả [304] năng ẩn tàng trong tiểu vũ trụ.

Bởi sự đòi hỏi tất cả các môn sinh liên hệ (không ngoại lệ) phải có cuộc sống khai mở và phát triển nội tâm song hành với cuộc sống phụng sự bên ngoài.

Bởi những bước tuần tự mở mang tâm thức là kết quả của cuộc rèn luyện được chỉ dạy. Sự mở mang này đưa hành giả từng bước tiến lên đến mức tiếp xúc được với chân ngã y, với Chân sư y, với nhóm chân ngã của y, với Đấng Điểm đạo Đầu tiên, với Đấng Điểm đạo Tối cao, cho đến khi tiếp xúc với Đấng Chủ tể của Cung y và nhập vào lòng “Cha của y ở trên Trời.”

Đó là những đặc điểm nổi bật của Trường tham thiền thực sự cơ bản và duy nhất.

Trường cơ bản này có ba chi nhánh chính, chi nhánh thứ tư đang được hình thành và sẽ là bốn chi nhánh của cuộc tuần hoàn thứ tư hiện nay. Các chi nhánh này là:–

1.     Chi nhánh xuyên Hy-mã-lạp-sơn.

2.     Chi nhánh Nam Ấn Độ.

(đây là các Chi nhánh của giống dân Aryan)

3.     Một Chi nhánh dành cho căn chủng thứ tư do hai vị Chân sư của căn chủng này lãnh đạo.

4.     Một Chi nhánh đang được thành lập, sẽ có trụ sở chính ở phương Tây, nơi chốn chưa được tiết lộ. Mục tiêu chính của chi nhánh này là giáo hóa người của căn chủng thứ sáu sắp đến.

Những chi nhánh này đang và sẽ liên hệ mật thiết với nhau và sẽ cộng tác thật chặt chẽ. Tất cả đều được tập trung dưới quyền kiểm soát của vị Đế quân ở Shamballa. Các vị Huynh trưởng của mỗi chi nhánh đều thường xuyên liên lạc với nhau và thật sự giống như ban giáo sư của một viện đại học khổng lồ. Bốn trường phái này giống như các ngành lớn [305] khác nhau của cơ sở – như các phân khoa đại học. Cả bốn trường đều nhằm mục tiêu trợ giúp cuộc tiến hóa của nhân loại, đều có mục đích dẫn dắt tất cả mọi người đến trình độ có thể đứng trước Đấng Điểm đạo Duy nhất, đều sử dụng những phương pháp trong cơ bản giống nhau, dù khác nhau trong chi tiết. Đó là vì những chủng tính đặc thù của các giống dân và các mẫu người thụ huấn, và vì sự kiện là có những trường chính yếu dành cho một cung, trong khi những trường khác lại hoạt động cho một cung khác.

Trường phái xuyên Hy-mã-lạp-sơn có những Đấng trọn lành mà các bạn đã biết, còn những vị khác thì chưa.

Trường Nam Ấn có công tác đặc biệt với giới tiến hóa thiên thần và lo cho phân chủng thứ hai và thứ ba của giống dân Aryan.

Trường Hy-mã-lạp-sơn làm việc với phân chủng thứ nhất, thứ tư và thứ năm của giống dân này.

Chi nhánh dành cho căn chủng thứ tư ở dưới quyền của Đức Bàn cổ của giống dân này và vị Huynh đệ thuộc Cung Giáo dục của Ngài. Các trụ sở chánh của chi nhánh này đều ở Trung Quốc.

Chân sư R.– và một vị Chân sư người Anh, đang chăm lo từ từ hình thành chi nhánh thứ tư của trường, có sự trợ giúp của Chân sư Hilarion. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ các sự kiện kể trên, vì ý nghĩa của chúng có tầm quan trọng sâu sắc.

Ngày mai chúng ta sẽ bàn về tương lai. Hôm nay tôi chỉ nói đến những gì đã biểu lộ trong hiện tại.

Ngày 28-9-1920.

Hôm nay chúng ta xét đến điểm thứ hai và sẽ làm sáng tỏ bằng cách tiên đoán. Ở đây các bạn cần lưu ý rằng những gì được xem là sẽ có sau này không hẳn là luôn luôn có thể xảy ra đúng từng chi tiết như dự kiến. Tôi chỉ muốn trình bày cho các bạn những nét phác họa của kế hoạch lớn và tổng quát thôi. Sự thực hiện trong tương lai sẽ tùy theo trực giác hay [306] nhận thức cao độ của các nhà tư tưởng trong nhân loại và khả năng của các linh hồn nhập thế có biết nắm lấy những cơ hội và hoàn thành vận mệnh của họ hay không.

Hôm qua chúng ta đã bàn về trường cơ bản duy nhất với bốn chi nhánh. Nay tôi sẽ nói đến:–

2.     Các phân chi cấp quốc gia của Trường Duy nhất này.

Trước hết, cần lưu ý rằng không phải mọi nước trên thế giới đều có trường huyền môn. Chỉ khi thể nguyên nhân của tập thể toàn quốc gia đó đạt đến một mức độ rung động nhất định thì mới có thể lập ra các trường này. Chỉ khi công cuộc giáo dục của quốc gia đó được nâng cao đến trình độ nhất định mới có thể sử dụng trí năng của cả nước làm bàn đạp để mở mang rộng lớn hơn và dùng nó làm căn bản để phát triển trường huyền môn. Và cũng lạ là chỉ những quốc gia nào nguyên đã có trường huấn luyện các bí nhiệm (ngoại trừ ba nước) mới có lại những trường tham thiền ở quốc gia họ, trong những giai đoạn đầu tiên. Những nước ngoại lệ là:–

1.     Anh Quốc.

2.     Canada và Hoa Kỳ.

3.     Úc.

Ngay cả trong ba ngoại lệ này cũng xem như chỉ có một (trường hợp của Úc), vì hai trường hợp kia đã có những cơ sở huyền môn trong thời Atlantis, khi họ còn là một phần đất của châu lục này. Theo đà quay của bánh xe tiến hóa, quả đất tự nó cũng tái sinh. Những nơi đã qua thời kỳ ngơi nghỉ và đang đi vào cuộc biểu hiện vẫn còn giữ trong chúng những hạt giống để cuối cùng khi gặp sự rung động tương đồng sẽ làm tái hiện những cách phát biểu và những hình thể tương tự.

Sau này, khi những Trường Huyền môn được thành lập, các bạn sẽ thấy chúng tọa lạc ở những nơi còn vấn vương từ lực của thời xưa. Hoặc những nơi mà trong vài trường hợp [307] Thiên đoàn có trấn những linh phù cổ xưa, cũng nhằm mục đích này.

Các phân chi liên thuộc một trong bốn chi nhánh trung ương của tổ chức huyền môn duy nhất này sẽ được thiết lập ở các nước sau đây:

1.                      Ai Cập. Ở đây có một trong những trường sẽ được thành lập về sau, là một trường cấp cao, có tính huyền môn sâu sắc và liên hệ trực tiếp với các cấp đẳng nội môn. Việc này chúng ta sẽ bàn sau.

Hoa Kỳ sẽ có một trường dự bị ở phía nam của miền Trung Tây, và một trường huyền môn cao đẳng mở rộng ở California, nơi chốn sẽ được tiết lộ sau này. Đây là một trong những trường đầu tiên sẽ được mở ra khi Đức Chưởng giáo bắt đầu làm công việc của Ngài ở thế gian. Trong vòng năm năm tới trường này sẽ được đặt nền móng nếu các môn sinh biết được đúng những việc phải làm.

Sẽ có một trường cho các quốc gia La-tinh, có thể ở Ý hay miền Nam nước Pháp, nhưng điều này tùy thuộc rất nhiều vào công cuộc giáo dục và chính trị ở đó trong vòng mười năm tới.

2.                      Anh Quốc. Tại một địa điểm từ lực mạnh hoặc ở Scotland hay xứ Wales, không bao lâu nữa một chi nhánh huấn luyện huyền môn sẽ được phát khởi, để đặt nền móng và bao gồm chương trình huấn luyện các cấp đầu. Sau khi trường này được thành lập trong vài năm và đã tỏ ra hữu hiệu trong công tác huấn luyện, và sau khi Ireland đang bị lộn xộn đã điều chỉnh các khó khăn nội bộ của xứ này, thì một trường cao cấp hơn sẽ được mở ra để dạy các bí nhiệm, ở một địa điểm từ lực mạnh thuộc Ireland. Đây nhất định sẽ là trường chuẩn bị cho môn sinh được nhận một trong các cuộc điểm đạo chính yếu, và ở dưới sự trông nom của Đức Di Lạc Bồ-tát, chuẩn bị cho các môn sinh thuộc cung hai được điểm đạo. Trường đầu tiên ở Ai Cập sẽ dành cho các ứng viên điểm đạo thuộc cung một ở Tây phương.

[308] Các ứng viên điểm đạo theo con đường của Đức Văn minh Đại đế, hay thuộc cung ba, sẽ được điểm đạo tại trường huyền môn cao cấp ở Ý. Theo lối này, phương Tây sẽ có một trung tâm, nơi có thể truyền dạy các giáo huấn tích cực theo ba con đường tiếp cận và cũng sẽ là nơi chuẩn bị cho các môn sinh được thọ truyền các bí nhiệm nội môn.

Một trường huyền môn cấp dự bị cũng sẽ được thành lập ở Thụy Điển, cho những người tìm đạo ở Bắc Âu và thuộc các chủng tộc Đức. Khi nó đã tồn tại được một thời gian thì lúc đó nước Nga có thể được chọn để đặt trụ sở chính cho một trường cấp cao, liên kết với trường dự bị ở Thụy Điển. Liên kết với trường cấp cao ở Ai Cập thì có trường dự bị ở Hy Lạp hay Syria.

Vì thế, các bạn sẽ có các trường tham thiền như sau đây và phải nhớ rằng trường dự bị dành cho các cấp sơ đẳng thì được thiết lập trước và hiện đang được thiết lập, hay sẽ được thiết lập trong thời gian ngay trước khi Đức Chưởng giáo lâm phàm. Việc thiết lập các thiền viện khác, chắc chắn là do thành quả công trình của Ngài và của các Chân sư phụ tá Ngài, và cũng tùy sự quyết định của các Ngài đối với sự thành công của cố gắng trước đó.

Các cấp dự bị  

 Trường cấp cao

1

Hy Lạp hay Syria dẫn đến ……………………..

Ai Cập

2

Trung Tây, Hoa Kỳ ..…………………………..

California

3

Miền Nam nước Pháp ………………………...

Ý

4

Scotland hay xứ Wales ……………………….

Ireland

5

Thụy Điển …………………………………….

Nga

6

New Zealand ………………………………….

Úc

 

[309] Cũng có một trường dự bị được trù định cho các Chân nhân tiến hóa của căn chủng thứ tư. Trường sẽ ở dưới sự trông nom của Đức Bàn cổ của giống dân này và được đặt ở Nhật Bản, với chi nhánh nội môn của nó ở miền tây Trung Quốc. Đây là trường thứ bảy trong nhóm trường được dự trù.

Chưa có dự định lập các chi nhánh ở miền Nam châu Phi và Nam Mỹ. Chưa đến lúc thành lập các chi nhánh này mà phải đợi đến chu kỳ sau.

Cần đặc biệt lưu ý rằng các trường này chỉ là những khởi điểm nhỏ bé, và lúc đầu sẽ không có vẻ gì là hệ trọng, đáng lưu ý. Bước đầu sẽ bao gồm những thành viên của các trường nội môn khác, như các phân bộ bí giáo của phong trào Thần triết và các nhóm khác nữa. Công việc ở Anh, Mỹ và Úc đã được khởi sự, còn ở Thụy Điển thì sắp sửa tiến hành. Những nơi khác cũng sẽ tiếp theo trong những ngày rất gần đây.

Phần kế hoạch được công bố đến mức này là nhằm để khích lệ tất cả các bạn nghiên cứu với nguồn hứng khởi lớn hơn và làm việc với sự áp dụng cần mẫn hơn. Mỗi người và tất cả mọi người đều có vị trí trong kế hoạch này nếu họ tỏ ra xứng đáng bằng cách làm công việc cần thiết. Công việc cần phải là:–

Cố gắng nhận ra sự sống Thiêng liêng trong chính mình. Bằng cách này mà sự vâng lời (đúng nghĩa huyền môn) là điều thiết yếu trong toàn cuộc huấn luyện huyền môn sẽ được bồi dưỡng và phát triển. Sự tuân hành này không như thường thấy là dựa vào phàm nhân, mà dựa vào sự nhận thức trong bản năng về một vị Chân sư. Người đạo sinh sẵn sàng tuân hành do thừa nhận những quyền năng của Ngài, sự thanh khiết trong đời sống, trong các mục tiêu của Ngài, và kiến thức uyên thâm của Ngài.

Cố gắng suy tư trong phạm vi của nhóm và tự nhận định một cách độc lập và minh bạch, không dựa vào lời lẽ của kẻ khác để biện minh.

[310] Cố gắng tinh luyện và lọc sạch tất cả các thể, khiến chúng trở thành những tôi tớ đáng tin cậy hơn.

Cố gắng trang bị thể trí thật toàn diện và tích lũy trong đó các sự kiện cần thiết để đặt căn bản cho sự phát triển tri thức sâu rộng hơn.

Nếu hành giả thực hiện được các điều này thì ngày cơ hội trọng đại sẽ đến.

Ngày 2-10-1920.

Nếu vẫn nghiêm trì giới luật thì cuối cùng các bạn sẽ đến mức hoàn thiện. Đối với người đệ tử thì không có gì là nhỏ nhặt không cần lưu ý thực hiện, bởi vì khi nghiêm nhặt điều chỉnh các chi tiết trong đời sống phàm nhân cuối cùng hành giả sẽ đạt được mục đích. Khi đến gần Cửa Đạo, cuộc sống của người đệ tử không trở nên dễ dàng hơn, mà luôn luôn phải đề cao cảnh giác. Luôn luôn phải hành động đúng đắn mà không bận tâm đến kết quả và bao giờ cũng phải vật lộn với từng hạ thể và chế ngự nó trong tất cả các chi tiết liên hệ. Chỉ khi hoàn toàn hiểu rõ câu châm ngôn “Hãy tự biết mình” hành giả mới có đủ hiểu biết để vận dụng định luật và thấu đáo sự vận hành nội tại trong trọn cả bản thể của mình, từ trung tâm đến ngoại biên. Phấn đấu, nỗ lực, trì giới, và hân hoan phụng sự mà không nhận phần thưởng nào khác hơn là sự hiểu lầm và bôi nhọ của những kẻ đi sau – đó là vai trò của người đệ tử.

Hôm nay chúng ta bàn đến điểm thứ ba.

3.     Vị trí, nhân sự và cơ sở của thiền viện huyền môn.

Ở đây, xin lưu ý các bạn rằng về vấn đề này có nhiều điều tôi có thể nói được nhưng vẫn còn chưa nói, vì các bạn thiếu khả năng lãnh hội. Tôi có thể đưa ra một số qui tắc gần đúng và gợi ý một số điểm căn bản cần thiết cho sự thực [311] hiện sau cùng. Tôi không đặt ra qui tắc nào để buộc các bạn phải tuân thủ. Đó không phải là định luật huyền môn. Trong việc thành lập các trường huyền môn này ở hai trình độ dự bị và cao cấp tại những trung tâm khác nhau đã chọn, dưới sự kiểm soát của một trong bốn chi nhánh Trường Huyền môn căn bản duy nhất, công việc sẽ bắt đầu một cách kín đáo. Vì thế, những môn sinh và Chân nhân tiến hóa cao nhận công tác thực hiện các bước đầu cần thiết phải tự họ tìm ra phương pháp, địa điểm và thể thức. Tất cả đều phải thực hiện trong lò luyện của cố gắng và thí nghiệm mà người ta phải trả giá rất cao. Nhưng chỉ bằng cách đó mới có mức thặng dư hay hạt nhân để làm nền tảng cho công cuộc lớn lao hơn. Nếu có lỗi lầm thì cũng không thành vấn đề vì chỉ có phàm nhân vô thường là phải chịu đau khổ. Điều đáng nói là thiếu nguyện vọng tinh thần, không có khả năng rán thử, và không chịu học bài học qua thất bại. Khi thất bại được xem là những bài học đáng giá, khi một lỗi lầm được xem chỉ là tín hiệu cảnh báo giúp tránh khỏi tai ương, và khi người đệ tử không phí thời gian vô ích trong tâm trạng thất vọng hay mặc cảm tự ti, thì bấy giờ các Huấn sư hằng trông nom nhân loại biết rằng công việc mà Chân nhân tìm cách thực hiện qua mỗi sự phát biểu trong các cõi thấp đang tiến triển như ý, và chắc chắn sẽ đạt được thành công. Chúng ta hãy đi vào vấn đề kể trên, trong từng chi tiết.

Vị trí. Đây là một vấn đề thật rất quan trọng, nhưng thay đổi tùy theo nhu cầu tìm vị trí để xây dựng một thiền viện dự bị hay cấp cao. Nói chung (vì các yêu cầu của mỗi quốc gia khác nhau rất nhiều) thiền viện dự bị sẽ ở không xa lắm những trung tâm hay thành phố lớn, còn thiền viện cấp cao sẽ có địa điểm biệt lập hơn và không dễ tìm đến được.

Chúng ta hãy xem xét vấn đề này trong vài phút. Một trong những điều cơ bản là kẻ sơ cơ phải học cách tìm được [312] tâm điểm bên trong chính mình, độc lập đối với hoàn cảnh chung quanh, và đáng cho y mến thích dù hoàn cảnh chung quanh có thế nào. Y phải tìm được tâm điểm đó đến mức khả quan trước khi có thể tiến lên những cấp cao hơn và làm việc trong thiền viện thứ hai. Trên hết mọi sự, thiền viện dự bị chú trọng vào việc phát triển phàm nhân với ba hạ thể và huấn luyện y trong phụng sự. Thiền viện cấp cao chuẩn bị rõ rệt cho Điểm đạo, và quan tâm đến kiến thức huyền môn, đến việc truyền đạt chân lý cấp vũ trụ, đến sự phát triển về mặt trừu tượng của môn sinh, và đến công việc phải làm ở các tầm mức thể nguyên nhân. Một giai đoạn thì có thành tựu tốt đẹp trong thế giới loài người và qua sự tiếp xúc với thế gian. Giai đoạn kia đòi hỏi cần có một môi trường sống tương đối ẩn dật và không bị quấy rầy. Có thể nói:– Các cấp dự bị lo mở mang Thiên giới ở trong tâm, còn thiền viện cao cấp thì mở rộng cuộc huấn luyện đó đến mức bao gồm cả Thiên giới ở bên ngoài. Vì thế mà thiền viện dự bị sẽ ở trong sinh hoạt bình thường của nhân loại, để nhờ các phản ứng, các tương tác trong quan hệ với họ, trong phụng sự và phấn đấu, mà người môn sinh có thể học cách tự biết mình. Thiền viện kia sẽ dành cho những người đã phần nào thực hiện được các điều này, và sẵn sàng để học thêm về các giới tiến hóa khác và về vũ trụ. Nếu hành giả chưa tự chủ đến mức khả quan thì y không thể làm việc an toàn, chẳng hạn như đối với giới tiến hóa của các đẳng cấp thiên thần. Ở thiền viện dự bị, y học cách chế ngự này. Ở thiền viện cấp cao y có thể được tín nhiệm để tiếp xúc với các giới tiến hóa ngoài nhân loại.

Trong cả hai trường, giáo huấn căn bản là tham thiền ở tất cả mọi cấp độ. Tại sao? Bởi vì ở các thiền viện huyền môn người ta không bao giờ đưa ra những kiến thức, những hướng dẫn rõ ràng, hay một khối toàn thể các sự kiện, hoặc sử dụng các phương pháp trong sách giáo khoa công truyền. Trọn cả mục tiêu là chỉ nhằm đặt người môn sinh trong đường lối tự [313] tìm ra cho mình những kiến thức cần thiết. Bằng cách nào? Bằng cách phát triển trực giác qua tham thiền, và bằng cách đạt được sự kiểm soát trí tuệ khiến cho minh triết của Tam nguyên có thể tuôn xuống não bộ hồng trần, qua thể nguyên nhân. Vì thế, trong trường dự bị người ta chú trọng vào tham thiền liên quan đến thể trí, và các giáo huấn trong sách này có thể được áp dụng. Trường cần ở trong khu vực có thể tiếp xúc với nhiều hạng người khác nhau, và nơi dễ dàng thu thập kiến thức cụ thể của thế giới loài người (như âm nhạc, thư viện, các cuộc hội thảo, diễn thuyết). Lý do là vì khi chuẩn bị cho cuộc huấn luyện huyền môn đích thực thì sự trang bị thể tình cảm và thể trí của môn sinh là một trong những điều phải xem xét đầu tiên. Khi việc này đã hoàn tất được phần nào, và khi vị hiệu trưởng có nhãn thông của trường thấy rằng sự nở nang của noãn hào quang thấp đã đến mức như ý, bấy giờ người môn sinh sẽ được chuyển vào thiền viện cấp cao. Y sẽ được dạy cách tiến từ trung tâm vững vàng của mình đến tiếp xúc với trung tâm vũ trụ, và từ khởi điểm trong y mở rộng tâm thức cho đến ngoại biên của hệ thống đại vũ trụ, và bao trùm tất cả mọi loài đang sống – sống hiểu theo nghĩa huyền môn. Điều này cần cuộc sống tương đối ẩn dật ở các thiền viện cấp cao trong suốt thời gian huấn luyện. Cho nên thiền viện dự bị sẽ ở gần một thành phố lớn, tốt hơn là gần biển hay một vùng trời nước mênh mông, nhưng không bao giờ ở bên trong thành phố. Thiền viện này sẽ ở gần phạm vi các trung tâm học tập của thành phố, để mọi người có thể đến dễ dàng. Thiền viện cấp cao sẽ ở xa nơi đông dân cư và tốt hơn là ở vùng rừng núi. Bởi vì núi non có ảnh hưởng trực tiếp đến người môn sinh huyền bí, và truyền cho y phẩm tính mạnh mẽ và bền bỉ vốn là đặc trưng rõ rệt của chúng mà huyền bí gia cũng phải có. Biển cả hay vùng trời nước mênh [314] mông ở gần thiền viện dự bị sẽ luôn luôn nhắc nhở người môn sinh sự tinh luyện, vốn là việc hệ trọng nhất của y. Trong khi núi non giúp người đạo sinh cấp cao thấm nhuần nguồn sức mạnh vũ trụ và liên tục nêu cao trước mắt y cái ý tưởng về Đỉnh núi Điểm đạo mà y nhằm sớm được đặt chân.

Đến mai chúng ta sẽ bàn về yếu tố quan trọng nói về nhân sự, ban giảng huấn của thiền viện và các loại trường sở.

Ngày 7-10-1920.

Hôm nay, chúng ta bàn đến phần thứ ba của bức thư nói về “Các Trường Tham thiền Tương lai,” tức là vấn đề Nhân sự của Nhà trường.

Từ ngữ này bao gồm cả những người giám sát và những người chịu sự giám sát, và vấn đề này tất nhiên là rộng rãi. Như tôi đã nói ở phần đầu của bức thư này, dù ở bất cứ đâu, các thiền viện cũng có hai phân bộ:–

a.     Trường dự bị dành cho các cấp đầu trong giáo huấn huyền môn và tốt hơn là nên toạ lạc ở gần một vùng trời nước mênh mông và gần một thành phố lớn.

b.     Trường cấp cao, dành cho những trình độ sau, có mục đích rõ rệt là chuẩn bị cho các môn sinh được điểm đạo và huấn luyện họ về các kiến thức huyền môn.

Do đó các bạn sẽ thấy rằng phần nhân sự của cả hai trường nhất thiết phải khác nhau, và chương trình học cũng vậy. Chúng ta sẽ bàn riêng từng loại thiền viện, và nêu ra một số điểm căn bản mà các giảng viên và các khóa sinh phải có.

Trường Huyền môn Dự bị. Đối với người đời bên ngoài, thiền viện này không có vẻ gì khác hơn là một trường cao đẳng thông thường. Ban đầu mới đến, một người thường sẽ không nhận thấy được những gì khác lạ, dù các dị biệt vẫn có và sẽ tự biểu lộ trong công việc học tập đối với các môn sinh, và trên các cảnh giới nội tại. Về phần giảng viên cần có những điều căn bản sau đây:– [315]

Vị Hiệu trưởng phải là một đệ tử nhập môn. Điều này là thiết yếu để vị Chân sư ẩn sau sinh hoạt của trường luôn luôn có thể tiếp xúc với tâm thức của cả trường hội tụ thông qua đệ tử của Ngài. Vị Hiệu trưởng này sẽ có khả năng đóng vai trò trung gian trong việc truyền thông giữa các môn sinh và Chân sư, và là tụ điểm để thần lực của Ngài qua đó tuôn xuống cho họ. Vị Hiệu trưởng phải có khả năng hoạt động hữu thức trên cõi tình cảm vào ban đêm, và đem tri thức này đến não bộ hồng trần. Vì vị này có một phần công việc phải làm với các môn sinh ở cõi tình cảm, có những lúc phải hướng dẫn họ đến đạo viện của Chân sư vì những công việc chuyên biệt. Người cũng phải huấn luyện họ trong hoạt động hữu thức này.

Dưới vị Hiệu trưởng là sáu giảng viên, trong đó ít nhất một vị phải có nhãn thông hữu thức, có thể giúp đỡ vị Hiệu trưởng bằng cách báo cáo cho người biết sự phát triển hào quang của các môn sinh. Vị này phải có khả năng thẩm định các màu sắc và sự tăng trưởng các thể của môn sinh, và hợp tác với vị Hiệu trưởng để giúp mở mang và hoà hợp những thể đó. Các giảng viên này phải đang đi trên Đường Dự bị, nhất quyết dấn thân vào việc trợ giúp cơ tiến hóa và hiến mình cho công cuộc phụng sự của một vị Chân sư. Các vị này phải được chọn lựa cẩn thận để họ có thể bổ sung và bổ túc lẫn nhau. Trong trường họ hợp thành một huyền giai thu hẹp, cho thấy một phản ánh bé nhỏ ở cõi trần của kiểu mẫu huyền môn. Vì phần lớn công việc của họ là giúp phát triển hạ trí của môn sinh và liên kết nó với tâm thức cao siêu, và cũng vì trọng tâm nỗ lực của họ là mau chóng kiến tạo thể nguyên nhân nên họ sẽ là những người có kiến thức uyên bác, bắt nguồn từ những hiểu biết trong Phòng Học tập, có khả năng giảng huấn và đủ tư cách ngang với các giảng viên chuyên môn của các trường đại học trên thế giới. [316]

Ở mỗi trường công việc của bảy nhân viên thành thạo này sẽ được sự trợ giúp của ba nữ nhân viên. Họ được chọn vì có khả năng giảng huấn, vì có trực giác phát triển và vì ảnh hưởng tinh thần và lòng sùng tín mà họ mang lại cho cuộc sống của các môn sinh. Mười vị huấn sư này được ủy thác công việc giúp môn sinh nắm vững những điều chính yếu quan trọng, trông nom sự thu hoạch các nguyên lý cơ bản của kiến thức khoa học huyền bí và giúp môn sinh phát triển thần thông cấp cao. Mười vị này phải là những vị đã hành thiền sâu sắc, có khả năng trông nom và chỉ dạy môn sinh về các cương yếu của thiền huyền môn ví dụ như những điều đã dạy trong sách này. Họ sẽ truyền đạt cho môn sinh những sự kiện huyền bí và các định luật căn bản mà ở trường cấp cao sẽ là chủ đề thực tập xác định của các điểm đạo đồ tương lai. Những bài tập thần giao cách cảm, việc truyền thông bằng thể nguyên nhân, sự nhớ lại những công việc đã thực hiện trong giấc ngủ và hồi ức các tiền kiếp qua một số tiến trình trí tuệ, tất cả sẽ được họ giảng dạy, – vì chính họ đã thành thạo các kỹ thuật này.

Như được trình bày ở đây, các giảng viên nói trên sẽ chăm lo cuộc huấn luyện xác định và sự phát triển nội tại của phàm nhân tam phân.

Dưới họ còn có những huấn sư khác, trông nom những phần việc khác trong cuộc sống của môn sinh. Những huấn sư đầy đủ năng lực sẽ giảng dạy và thực tập khoa học ngoại môn và giúp phát triển hạ trí càng nhiều càng tốt, với sự kiểm soát của mười vị giảng viên kia sao cho sự phát triển được cân đối và các môn sinh có khả năng hành thiền đúng đắn.

Song hành với sinh hoạt này là cuộc sống phụng sự thế gian, mà mỗi môn sinh và tất cả các môn sinh đều phải có. Cuộc sống phụng sự này sẽ được trông nom cẩn thận và ghi chép đầy đủ. Một điểm cần lưu ý ở đây là không có sự bắt buộc nào cả. Mỗi môn sinh đều biết người ta trông cậy nơi y [317] những gì và y phải làm gì nếu y muốn tiến lên những trường cao cấp hơn. Các đồ biểu ở trường (ghi nhận tình trạng các thể, sự tiến bộ và khả năng phụng sự của y) cũng sẽ sẵn sàng cho chính y xem xét, chứ không cho ai khác. Y sẽ biết rõ chỗ đứng của mình, y phải làm gì và những gì còn phải làm. Lúc đó y sẽ quyết định xem có nên hợp tác với công việc một cách hết sức chặt chẽ hay không. Có một số điểm phải thận trọng khi thu nhận các môn sinh nhập học, để sau họ khỏi bị loại vì thiếu khả năng hay thiếu hứng thú, nhưng điều này tôi sẽ bàn sau, khi đề cập đến trình độ và khóa học.

Thế là, nhà trường có mười vị giảng viên giám sát, gồm bảy nam và ba nữ, gồm cả vị Hiệu trưởng là một đệ tử nhập môn. Dưới họ là một số huấn sư mà phần lớn công việc là lo mở mang hạ trí, lo trang bị thể tình cảm, thể xác và thể trí của môn sinh, để giúp y tiến lên trường cấp cao trong điều kiện ích dụng được các giáo huấn ở đó. Ở đây, xin các bạn lưu ý là tôi đặt kế hoạch cho một trường lý tưởng và phác họa thiền viện mà người ta hy vọng sẽ có sau này. Nhưng trong mọi cuộc phát triển huyền môn, lúc khởi đầu đều nhỏ bé và bề ngoài không có vẻ gì quan trọng. Ngày mai chúng ta sẽ nói về các qui luật thu nhận môn sinh và nhân sự của thiền viện cấp cao.

Ngày 16-10-1920.

. . . . . . Hôm nay chúng ta bàn về:–

Nhân sự của thiền viện cao cấp, và những qui luật thu nhận môn sinh cả ở hai thiền viện dự bị và cao cấp. Phần sau này sẽ hầu như thuộc về kỹ thuật.

Điểm đầu tiên tôi muốn nói là số thiền viện cấp cao sẽ rất ít, rất lâu sau này mới có, và số nhân sự trong viện này cũng [318] sẽ tương đối ít . . . . Vị Hiệu trưởng luôn luôn là một Điểm đạo đồ được một hay hai lần điểm đạo, và mục tiêu của trường là chuẩn bị cho các đạo sinh được điểm đạo lần thứ nhất. Vì thế mà vị Hiệu trưởng cần phải là người đã được điểm đạo. Vị này được vị Chân sư trông nom trường chính thức bổ nhiệm, và trong phạm vi của trường vị này sẽ là phán quan duy nhất, có toàn quyền quyết định. Những nguy cơ của cuộc huấn luyện huyền môn thật quá to lớn nên không thể xem thường, và tất cả những gì vị Hiệu trưởng đòi hỏi phải được nhất nhất tuân theo. Thế nhưng, sự vâng lời này vẫn không bắt buộc mà là tự nguyện. Vì mỗi đạo sinh sẽ nhận thức được sự cần thiết này, và tuân hành do sự thừa nhận từ trong tinh thần của họ. Như đã nói trước đây, các trường huyền môn này thực tế là những trường của các cung khác nhau, thế nên các nhân viên giảng huấn phải ở cùng cung đó hay cung bổ túc, và các môn sinh cũng vậy. Ví dụ như nếu một trường thuộc cung hai – như thiền viện định lập ở Ireland – thì giảng viên và các khóa sinh sẽ thuộc cung hai, bốn và sáu. Ở mỗi thiền viện huyền môn ít nhất cũng có một giảng viên thuộc cung năm. Nếu đó là thiền viện thuộc cung một, thì các giảng viên và đạo sinh sẽ thuộc cung một, ba, và bảy và trong các giảng viên cũng có một vị thuộc cung năm.

Dưới vị Hiệu trưởng đã được điểm đạo có hai giảng viên là đệ tử nhập môn. Và mọi môn sinh dưới quyền họ đều phải đã học qua trường dự bị, và đã tốt nghiệp mọi cấp dưới. Rất có thể toàn ban giảng huấn chỉ gồm ba vị này, vì số khóa sinh dưới quyền họ cũng tương đối ít, và công việc của giảng viên thiên về giám sát hơn là giảng dạy, vì huyền bí gia luôn luôn tự huấn luyện về mặt nội môn.

Phần nhiều công việc của ba vị này được làm trên các cõi cao và họ thường làm việc âm thầm trong các phòng riêng của họ hơn là giảng ở lớp với các môn sinh. Các môn [319] sinh đều được xem như là đã sẵn sàng tự mình làm việc và tự tìm đường đi đến cửa điểm đạo. Công việc của giảng viên sẽ có tính cách cố vấn, và họ sẵn sàng trả lời các câu hỏi hay giám sát công việc do chính môn sinh tự đề ra, chứ không do giảng viên bắt buộc. Kích thích sự rung động, chỉnh hợp các thể, trông nom công việc thực hiện ở các nội giới, ban rải thần lực cho môn sinh, che chở cho họ khỏi bị nguy hiểm bằng những phương pháp huyền môn, cũng như giám sát việc hành thiền chính xác và cần mẫn của họ, đó là một phần công việc của các giảng viên. Có những lúc, các vị dắt các môn sinh đến gặp Chân sư, báo cáo với Ngài về việc họ đang tiến sang các cấp khác trên đường đệ tử. Đôi khi các vị cũng phúc trình cho Ngài về phẩm chất cuộc sống phụng sự của họ và giúp họ kiến tạo thể bồ-đề, là thể phải bắt đầu được phát triển khi họ được điểm đạo lần thứ nhất. Các giảng viên cũng giám sát việc thực hành những phần lý thuyết về giới tiến hóa thiên thần, đã được đưa ra trong các trường dự bị. Các vị trông nom việc môn sinh vận dụng vật chất và chứng minh những định luật kiến tạo. Các vị cũng bảo vệ môn sinh đúng mức khi y tiếp xúc với các giới tiến hóa hạ đẳng và siêu nhân loại, dạy y cách vận dụng định luật và cách vượt khỏi nghiệp quả. Nhờ các vị chỉ dạy mà y có thể phục hồi sự hiểu biết các tiền kiếp và xem được các tiên thiên ký ảnh. Nhưng về sau các bạn sẽ thấy, trong trường này chính môn sinh là người duy nhất khởi xướng và thực hiện công việc (được các giảng viên trông nom và bảo vệ). Sự tiến bộ và thời gian y lưu học trong trường tùy theo nỗ lực và khả năng khởi xướng của chính y.

Những qui luật thu nhận đạo sinh vào trường dự bị thì đại khái như sau, nhưng tôi chỉ nói đến những điều có thể xảy ra chứ không phải những sự kiện chắc chắn và nhất định:–

[320]

1.     Người môn sinh phải trả sạch các định nghiệp và có thể thụ huấn mà không bỏ bê các bổn phận khác và những mối quan hệ của gia đình.

2.     Sẽ không có học phí hoặc đòi hỏi hay thương lượng về tiền bạc. Người môn sinh phải phần nào tự túc, và phải có phương tiện sinh sống trong khi lưu học. Các trường ở cả hai cấp sẽ được tài trợ nhờ sự tự nguyện đóng góp của mọi người, và nhờ sự hiểu biết các định luật cung và cầu diễn giải theo ý nghĩa huyền môn.

3.     Người môn sinh phải đạt tiêu chuẩn học vấn trung bình của thế hệ và thời đại y và phải tỏ ra có năng lực suy tư theo một đường lối nào đó.

4.     Y phải được xem xét qua nhãn thông, nếu người ta thấy rằng y đã điều hợp và chỉnh hợp đúng mức và thể nguyên nhân đã đạt được một cấp độ hay phẩm tính nhất định thì y mới được thu nhận. Các huấn sư huyền môn không mất thì giờ cho những người chưa chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ khi ánh sáng nội tâm chói rạng, khi thể nguyên nhân của môn sinh đã có dung lượng nhất định, bấy giờ y mới có thể hưởng được lợi ích của chương trình học. Vì thế vị Hiệu trưởng có quyết định tối hậu để thu nhận người môn sinh hay không. Quyết định đó là tối hậu và sẽ được thông qua sau khi người môn sinh được vị Hiệu trưởng dùng nhãn thông và linh thị của thể nguyên nhân để xem xét đúng mức cũng như tham khảo ý kiến vị Chân sư của chính y.

5.     Người môn sinh phải tỏ ra rằng trong thời gian phụng sự đã qua y có khả năng làm việc trong hình thức tập thể và suy tư trong phạm vi của những người khác.

[321]

6.     Một số tiền kiếp của môn sinh cũng cần được nghiên cứu và những chi tiết trong đó sẽ hướng dẫn vị Hiệu trưởng khi đưa ra quyết định sau cùng.

7.     Môn sinh phải trên hai mươi mốt và dưới bốn mươi hai tuổi.

8.     Thể dĩ thái của y phải ở trong tình trạng tốt và truyền dẫn sinh lực dễ dàng. Thể xác y phải vô bệnh và không bị dị dạng hay khuyết tật.

Đây là những qui luật cơ bản có thể đưa ra hiện nay. Còn có những qui luật khác nữa, và vấn đề chọn lựa cũng có thể phần nào khó khăn hơn.

Các qui luật thu nhận đạo sinh vào thiền viện cấp cao thì ít hơn và có tính huyền bí hơn nhiều. Các khóa sinh ở đây được chọn từ trường dự bị, sau khi đã vượt qua các trình độ. Nhưng sự chọn lựa này không tùy theo sự phát triển trí tuệ và đồng hóa kiến thức cụ thể, mà tùy khả năng thấu hiểu ở nội tâm và sự thông hiểu về mặt huyền bí của môn sinh, tùy theo phẩm tính âm điệu của cuộc sống y khi nó ngân vang ở nội giới, tùy mức chói rạng của ánh sáng nội tàng, và tùy năng lực của y trong phụng sự.

Hôm nay như thế là đủ. Ngày mai chúng ta sẽ bàn phần cuối của điểm thứ ba là các cơ sở của trường.

Ngày 17-10-1920.

Hôm nay, bàn về cơ sở của hai loại trường huyền môn, tôi không thể nói nhiều mà chỉ phác họa tổng quát thôi. Những điều kiện khí hậu và kích cỡ của các trường này sẽ khác nhau rất nhiều và tất nhiên cây cối ở đó cũng khác nhau . . . . . .

Cơ sở của trường dự bị sẽ không khác bao nhiêu với các cơ sở của một trường cao đẳng thường thấy ngoài đời. Chỉ có [322] qui luật là mỗi môn sinh đều cần phải có phòng riêng biệt của mình. Trường sở theo kiểu nào cũng được, miễn là hội đủ những điều kiện trên. Các phòng không thông nhau, mà chỉ thông với hành lang ở trung tâm. Mỗi phòng phải có ba phần, tất nhiên là nhỏ nhưng phân biệt. Một phần để đạo sinh sinh hoạt và học tập, một phần để tắm rửa, và phần thứ ba là nơi y tham thiền, có những bức ảnh của các Đấng Cao cả và phủ rèm thích hợp. Phần thứ ba chỉ có mục đích là để tham thiền, không chứa gì nhiều ngoài tấm thảm để y ngồi, một chiếc trường kỷ để y ngơi nghỉ xác thân trong những bài tập nhất định, và một ghế đẩu nhỏ đặt trước các bức ảnh của Chân sư, trên có để lư hương và một lọ cắm hoa dâng cúng.

Các giảng viên nội trú sẽ cùng cư ngụ với các đạo sinh. Các nữ giảng viên thì chịu trách nhiệm trông nom các nữ đạo sinh, còn các nam giảng viên thì cư ngụ cùng với các đạo sinh nam. Vị Hiệu trưởng sẽ ở một mình trong một ngôi nhà riêng biệt. Ngoài các phòng để sinh hoạt bình thường còn có một phòng khách nhỏ để người tiếp xúc với các cá nhân, và một phòng lớn hơn để làm việc với đông người hơn. Ngoài ra còn có một phòng thánh đường để nhóm họp toàn thể các đạo sinh.

Các cơ sở của trường cấp cao dù chưa liên quan mật thiết với chúng ta nhưng trong cách kiến trúc có nhiều ý nghĩa huyền bí đối với những người có mắt thấy được. Đặc điểm chính của trường huyền môn cấp cao sẽ là một ngôi đền trung ương hình tròn, trong đó mỗi khóa sinh (xin nhớ là số khóa sinh ở đây không nhiều) được cấp một liêu phòng riêng, đi vào từ phía sau qua một khung cửa khép kín. Có một bức màn che giữa phòng này và thánh điện lớn ở trung tâm, nơi tổ chức những cuộc nhóm họp tập thể.

[323] Thánh điện trung tâm rộng lớn này có một sân lát gạch, trên có vẽ hình tam giác. Toàn nhóm sẽ ngồi trong hình tam giác này. Ba khoảng ở ngoài có đặt những chiếc bàn, trên có các biểu tượng khác nhau và một số sách căn bản về biểu tượng và những bảng lớn vẽ các biểu tượng vũ trụ.

Màu sắc của thánh điện này sẽ tùy theo cung mà nó tiêu biểu. Các màn ngăn cách cũng nhuộm màu của cung đó, còn bức màn ở mỗi liêu phòng cá nhân thì có mang thiên tượng lúc y sinh ra đời – chòm sao bổn mạng của y, cung nhật xuất và các hành tinh chi phối. Các bức màn này là của riêng [324] người đạo sinh, cũng như tấm thảm trong phòng sẽ mang biểu tượng cung chân ngã và cung phàm ngã của y.

Trên bức tường lớn bao quanh hành lang tròn có vẽ các chòm sao trong vòng Hoàng đạo, bốn ngõ vào tượng trưng cho tứ Đại Thiên vương.

Một bức tường vuông bao bọc toàn thể, trong có khu vườn để các đạo sinh tự chăm sóc. Tường này chỉ có một cổng vào ở phía Bắc. Bên ngoài là những ngôi nhà nhỏ, chứa không quá ba đạo sinh, và một ngôi nhà dành cho ba giảng viên cư ngụ. Vị Hiệu trưởng điểm đạo đồ cũng có nơi cư ngụ riêng, được phân biệt nhờ một chiếc tháp mái tròn ở một bên. Tháp mái tròn này có hai mục đích:– Đó là nơi dạy về thiên văn và chiêm tinh học, có các thiết bị khoa học mới nhất để học về các hành tinh và đời sống tiểu vũ trụ. Đây cũng là nơi trú ngụ an toàn cho những đạo sinh có thể hữu thức rời thân xác và hoạt động ở một nơi khác trên cõi hồng trần.

Trên đây là tất cả những gì hiện nay tôi có thể nói. Hãy ghi nhận, trông chừng và chờ đợi đến ngày giờ lý tưởng trở thành hiện thực.

Ngày 29-10-1920.

Hôm nay chúng ta xét đến điểm thứ tư. Trong khi bàn tôi sẽ nói phần nào đến thiền viện dự bị và ít nói đến thiền viện cấp cao. Điểm này đề cập đến các cấp bậc và các khóa học.

4.     Các cấp bậc và khóa học.

Trong một bức thư trước chúng ta đã đề cập đến chương trình học của các trường dự bị. Chương trình kể trên chú trọng nhiều đến sự phát triển hạ trí, đến việc đặt nền móng [325] cho công việc sau này, và việc minh định, nghiên cứu và ghi nhớ các lý thuyết và các định luật huyền môn mà về sau nhà huyền bí chân chính sẽ lấy đó làm căn bản để thực hành. Chúng ta cũng đã thấy rằng nhiều điểm được truyền dạy nhất thiết phải kết hợp chặt chẽ với giáo huấn công truyền của thế gian. Thế nên thiền viện phải rất gần gũi các trung tâm tư tưởng hiện đại. Hôm nay tôi sẽ nêu lên một số điều trong chương trình học tập của môn sinh, và trình bày phương pháp từ từ hướng dẫn y tiến tới, cho đến mức đủ điều kiện chuyển sang thiền viện cấp cao. Như thường lệ, chúng ta sẽ chia vấn đề thành ba mục:–

a.     Thời gian học tập.

b.     Các loại công việc.

c.      Biến đổi khả năng tiềm ẩn thành các quyền năng tích cực, qua thực hành.

a.  Thời gian học tập.

Toàn bộ công việc của nhà trường đều dựa vào kiến thức huyền môn về thời cơ và mùa tiết và có hai điều phải được thận trọng tuân thủ:–

1.     Năm học sẽ được chia làm hai phần, một phần là thời gian để môn sinh chuyên cần hoạch đắc tri thức, đó là thời khoảng mặt trời tiến về phía bắc hay là nửa năm đầu. Phần sau – cách phần đầu một khoảng sáu tuần – để y đồng hóa và thực hành những điều đã được truyền dạy trước đó. Trong các tháng đầu năm, y trải qua một chương trình tiếp thu khó khăn, nghiên cứu và học tập gian khổ, tích lũy các sự kiện và kiến thức cụ thể. Y dự nghe các buổi giảng, đọc các sách khó, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, dùng kính [326] hiển vi và viễn vọng để nới rộng tầm mắt và tích trữ trong thể trí y một kho tàng dồi dào các dữ liệu khoa học.

Trong thời gian nghỉ hè sáu tuần, y nên để cho trí tuệ nghỉ ngơi hoàn toàn, trừ những gì liên quan đến việc hành thiền huyền môn mà y đã được truyền thụ. Về mặt trí tuệ, y theo chu kỳ và tạm thời đi vào trạng thái ngơi nghỉ. Khi thời gian sáu tuần chấm dứt, y trở lại làm việc với mục tiêu trước mắt là hệ thống hóa khối lượng thông tin đã thu thập, và hoàn chỉnh sự hiểu biết của y về các sự kiện đã học, là thực tập phần kiến thức huyền môn được cho phép, để trở nên thành thạo và khám phá ra những nhược điểm của mình. Trong “thời kỳ tối” của năm, y viết về các chủ đề và các bài khảo luận, viết sách hay các tập kỷ yếu để thể hiện sản phẩm của kiến thức đã được đồng hóa. Những cuốn sách hay nhất sẽ được trường ấn hành mỗi năm để cho công chúng sử dụng. Bằng cách này y phụng sự thời đại và thế hệ của y và giúp nhân loại có được tri thức cao hơn.

2.     Theo cùng cách này, việc học tập của người đạo sinh mỗi tháng cũng được sắp xếp sao cho phần khó hơn (liên quan đến thượng trí) sẽ được học trong thời gian gọi là nửa tháng sáng. Còn công việc trong nửa tối sẽ thiên về những điều liên quan đến hạ trí và cố gắng giữ lại những gì đã đạt được trong các tuần trước. Mỗi ngày cũng được chia thành những thời khoảng nhất định, những giờ trong nửa ngày đầu được dành để học các dữ liệu trừu tượng và huyền bí. Thời gian còn lại trong ngày được dùng cho loại công tác có tính thực hành nhiều hơn.

Căn bản của toàn bộ cuộc tăng trưởng huyền bí là tham thiền, hay là những thời gian phát triển âm thầm, trong đó linh hồn tăng trưởng trong im lặng. Vì thế, trong trường hằng ngày mỗi đạo sinh có ba thời gian hành thiền – lúc mặt trời mọc, giữa trưa và lúc mặt trời lặn. Trong giai đoạn đầu theo học ở thiền viện người môn sinh tham thiền mỗi [327] lần ba mươi phút. Về sau y sẽ hành thiền huyền môn mỗi lần một giờ, ngày ba lần, và trong năm cuối người ta hy vọng y sẽ hành thiền mỗi ngày năm giờ. Khi đã đến mức đó và đạt kết quả, y có thể tiến lên học ở thiền viện cấp cao. Đó là một sự thử thách lớn lao, là dấu hiệu cho thấy rằng người đạo sinh đã sẵn sàng.

Giờ làm việc của thiền viện bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và chấm dứt lúc mặt trời lặn. Sau khi mặt trời lặn và trong một giờ sau mỗi buổi thiền kia, người đạo sinh được phép nghỉ ngơi, dùng bữa và giải trí. Tất cả các đạo sinh đều được yêu cầu đi ngủ vào lúc mười giờ đêm, sau ba mươi phút cẩn thận kiểm điểm những việc làm trong ngày, và điền vào một số đồ biểu để bổ túc hồ sơ của y ở trường.

Thời gian người đạo sinh lưu học trong thiền viện hoàn toàn tùy theo sự tiến bộ mà y đạt được, tùy năng lực đồng hóa kiến thức ở nội tâm, và cuộc sống phụng sự bên ngoài. Vì thế, thời gian này tùy theo trình độ tiến hóa của y khi vào trường. Những người mới vào Con đường Dự bị sẽ học ở đó từ năm đến bảy năm, và có khi còn lâu hơn. Những đệ tử lâu năm và những người đã được điểm đạo trong các kiếp trước chỉ lưu học ở đó một thời gian ngắn, mau chóng vượt qua học trình, và chỉ học cách đưa ra sử dụng những kiến thức trước đã tích lũy. Thời gian họ lưu học trong khoảng từ một đến năm năm, thường thì khoảng ba năm. Tri thức bẩm sinh của họ sẽ được phát triển nhờ khuyến khích họ giáo huấn các đạo sinh đàn em. Đạo sinh tốt nghiệp ra trường không phải do kết quả một cuộc thi như bên ngoài, mà chỉ do lời phê của vị Hiệu trưởng. Người quyết định căn cứ vào những kết quả trong các thể của đạo sinh về mặt nội môn, vào độ trong sáng của màu sắc trong hào quang, âm điệu của cuộc sống, và âm khóa rung động của y.

[328]

b.  Các loại công việc.

Đầu tiên và quan trọng nhất là công phu hành thiền như đã đề ra trong các bức thư này, và có thể do vị Hiệu trưởng chỉ dạy. Mỗi năm một hay hai lần vị Hiệu trưởng điểm đạo đồ của trường cao cấp mà trường dự bị liên hệ sẽ duyệt xét các đạo sinh, và sau khi bàn thảo với vị Hiệu trưởng trường dự bị, người sẽ ấn định phương pháp thiền cụ thể điều chỉnh theo nhu cầu của mỗi đạo sinh. Mỗi năm một lần, vị Chân sư trông nom cả hai trường cũng sẽ duyệt xét các đạo sinh và thông báo cho vị Hiệu trưởng những sự điều chỉnh cần thiết. (Tôi cũng xin nhắc các bạn rằng mối quan hệ của Chân sư với đệ tử có tính cách riêng tư, và dù Ngài có thể thường xuyên tiếp xúc riêng với đệ tử của Ngài, điều này vẫn không ảnh hưởng gì đến việc Ngài chính thức duyệt xét các hào quang kết hợp của cả trường.)

Thứ hai là việc tuần tự nghiên cứu tiểu vũ trụ, gồm những chủ đề sau đây, đạo sinh dùng kính hiển vi khi cần:– Tiểu vũ trụ.

a.     Giải phẫu học, sinh lý học, sinh học sơ cấp.

b.     Dân tộc học.

c.      Nghiên cứu thể dĩ thái và các vấn đề liên hệ là sinh lực và từ lực.

d.     Nghiên cứu địa chất; thảo mộc hay thực vật; và động vật.

e.      Nghiên cứu lịch sử con người và sự phát triển của khoa học.

f.       Nghiên cứu các định luật của cơ thể tiểu vũ trụ.

Đại vũ trụ.

a.     Nghiên cứu những định luật về điện, vũ trụ lực (fohat), sinh lực (prana), và ánh sáng tinh giới.

[329]

b.     Nghiên cứu thiên văn học và chiêm tinh học.

c.      Nghiên cứu vũ trụ khởi nguyên học nội môn.

d.     Nghiên cứu các đẳng cấp nhân loại.

e.      Nghiên cứu trường tiến hóa thiên thần.

f.       Nghiên cứu các định luật của thái dương hệ.

g.     Nghiên cứu thần giao cách cảm, sự sáng tạo của trí tuệ và khoa trắc lượng tâm lý.

Trí tuệ.

a.     Nghiên cứu cõi trí.

b.     Nghiên cứu các định luật về lửa.

c.      Nghiên cứu thể nguyên nhân.

d.     Nghiên cứu nguyên khí thứ năm.

e.      Nghiên cứu màu sắc và âm thanh.

Tổng hợp.

a.     Nghiên cứu tinh thần-vật chất-trí tuệ.

b.     Nghiên cứu số học và biểu tượng học.

c.      Nghiên cứu toán học cao cấp.

d.     Nghiên cứu các luật hợp nhất.

e.      Nghiên cứu các luật giới tính.

Phát triển thần thông.

a.     Nghiên cứu huyền bí học thực hành.

b.     Nghiên cứu các quan năng thần thông.

c.      Nghiên cứu ánh sáng tinh giới và tiên thiên ký ảnh.

d.     Nghiên cứu khoa đồng cốt và nguồn cảm hứng.

e.      Nghiên cứu các tiền kiếp.

f.       Nghiên cứu các trung tâm lực của đại vũ trụ và tiểu vũ trụ.

Công tác thực hành.

a.     Phụng sự nhân loại.

b.     Nghiên cứu công tác tập thể.

c.      Tự kiểm điểm.

[330]

d.     Những việc làm cho các thể thanh, nhằm tạo tâm thức liên tục.

e.      Nghiên cứu về chánh thuật.

f.       Nghiên cứu về cung bảy.

Các bạn sẽ thấy rằng khi người môn sinh đã hoàn tất chương trình học kể trên tức là y đã có đủ tiềm năng của một nhà chánh thuật, và tương lai sẽ là một nhân viên của Huyền môn Chánh đạo. Y sẽ được trang bị đầy đủ và sẵn sàng tiến lên học trường cao cấp. Ở đó y sẽ được huấn luyện để sử dụng kiến thức đã thu đạt. Ở đó các luân xa của y sẽ được phát triển một cách khoa học để y trở thành một nhà thần thông hữu thức với trí năng cao. Ở đó y sẽ được huấn luyện để tiếp xúc và kiểm soát các giới tiến hóa hạ đẳng và hợp tác với các trường tiến hóa khác như giới thiên thần. Và ở đó tất cả các thể của y được điều chỉnh và chỉnh hợp sao cho đến cuối giai đoạn thụ huấn – trong khoảng từ hai đến ba năm – y sẽ sẵn sàng để đứng trước Đấng Điểm đạo.

c.   Tiềm năng trở thành quyền năng.

Loại công tác thứ ba này dựa vào chương trình học kể trên và hoàn toàn dành cho sự phát triển cá nhân, bao gồm các vấn đề sau:–

a.     Chỉnh hợp các thể để giao tiếp với Chân nhân.

b.     Lập cầu antahkarana và phát triển thượng trí.

c.      Phát triển trực giác, và sự thức tỉnh tinh thần rõ rệt trong môn sinh.

d.     Nghiên cứu sự rung động, cung, màu sắc và âm điệu của môn sinh.

e.      Tinh luyện tất cả các thể một cách ý thức, bắt đầu từ thể xác.

[331] Khi tất cả các vấn đề này được nghiên cứu một cách thích đáng và tất cả các kiến thức đã thu hoạch đều được đem ra thực hành, thì các quyền năng cố hữu của linh hồn sẽ trở thành những quyền năng hữu thức. Trên hết mọi sự, cần nhấn mạnh sự kiện rằng nhà chánh thuật là người sử dụng tất cả quyền năng và hiểu biết của mình để phụng sự nhân loại. Sự phát triển của nội tâm y phải được phát biểu trong phụng sự, trước khi y được phép chuyển vào học ở trường cấp cao.

Tôi đã trao cho các bạn nhiều điều đáng quan tâm suy ngẫm.

 

[332]

 BỨC THƯ X

SỰ TINH LUYỆN CÁC HẠ THỂ.

1.     Thể xác.

2.     Thể tình cảm.

3.     Thể trí.

[333]

BỨC THƯ X

SỰ TINH LUYỆN CÁC HẠ THỂ.

Ngày 7-11-1920.

Hiện nay đang cần có những khí cụ đã được trắc nghiệm. Khi các Đấng hướng dẫn cuộc tiến hóa nhân loại vào thời gian này để mắt tìm kiếm những khí cụ như thế trong nhân loại, thì các Ngài thấy rằng ít có người nào đủ điều kiện để phụng sự công việc cần thiết. Thế nhưng đồng thời các Ngài cũng thấy một số người, nếu được huấn luyện đến trình độ nhất định, họ sẽ đáp ứng được nhu cầu này khá đầy đủ.

Khi cuộc tiến hóa tiếp diễn, sự phân cực của nhân loại cũng thay đổi. Hiện nay mọi người đang phân cực chính yếu trong thể cảm dục của họ. Những cảm xúc, dục vọng, những mối bận tâm về phàm ngã đang làm cho họ điên đảo, quay cuồng. Thể cảm dục là điểm hội tụ của phàm ngã. Nó là nơi thanh toán tất cả những gì liên quan đến nó và là cầu nối giữa phàm ngã và Chân ngã. Nó giống như một ga xe lửa đầu mối, tấp nập nhận đủ thứ hàng hóa từ bốn phương về và phân phối hết cho thành phố lớn tức là cuộc sống của phàm nhân ở cõi trần. Sau đó, theo đà tiến bộ, hiện trường lại chuyển lên tầm mức cao hơn, và thể trí trở thành tụ điểm. Về sau, thể nguyên nhân trở thành đơn vị quan trọng và sau cùng còn phải hy sinh ngay cả thể này, cho đến khi con người thản nhiên trước tất cả những rung động của ba cõi thấp. Tất cả những gì thuộc về cuộc sống phàm nhân đều đã qua đi, – không còn gì lưu lại, ngoại trừ Sự sống Tinh thần và chí nguyện hiến dâng sự sống đó để giúp đỡ thế gian.

Trong khi đẩy nhanh cuộc tiến hóa, mỗi người phải thực hiện được một số việc trước khi y có thể được dùng như một khí cụ đáng tin cậy, trung thành như thép đã tôi, để giúp đỡ giống nòi. Đừng quên rằng thường thì (khi đã được thử thách và trắc nghiệm) một người trở nên khí cụ thật tốt vì y hoàn [334] toàn thấu hiểu tâm thức của nhân loại, vì y dấn thân giải quyết những vấn đề khó khăn hiện thời một cách thành thạo hơn là một Chân nhân mới tiến những bước đầu. Vì thế mà các Chân sư muốn dùng những ai trong các bạn đang sống ở cõi trần để hàn gắn những vết thương của thế hệ đang đau khổ hiện nay. Vậy thì giờ đây chúng ta phải làm gì? Vấn đề tôi sắp nói đây không có gì là bất bình thường, mà chỉ gồm các tư tưởng để thẩm xét dành cho những người nào muốn trợ giúp. . . . . . . . Trong việc chuẩn bị một linh hồn phụng sự, các vị Hướng đạo nhân loại phải chăm sóc cho từng hạ thể:–

Rèn luyện thể xác.

Việc này gồm một số điều kiện cần thiết:–

Thu nạp vào thể xác vật chất của những cõi phụ cao và loại trừ những chất thô của các cõi phụ thấp. Điều này cần thiết bởi vì người có các thể thô không thể tiếp xúc được với các rung động cao. Chân nhân không thể nào chuyển tri thức và sự hướng dẫn từ cõi cao xuyên qua một thể xác thô kệch. Những dòng tư tưởng cao cả không thể nào ảnh hưởng đến bộ não hồng trần kém tiến hóa. Vì thế mà việc tinh luyện thể xác là điều thiết yếu. Thể xác được ảnh hưởng bằng nhiều lối khác nhau, tất cả đều hợp lý và thực dụng.

Thực phẩm tinh khiết. Đây có nghĩa là ăn chay, chọn lựa thực phẩm với sự phân biện khôn ngoan. Thể xác chỉ cần ăn những thứ rau quả tăng cường sinh lực. Tất cả những điều người đệ tử cần làm là xem xét cẩn thận khi chọn lựa thực phẩm, sáng suốt tránh những thức ăn nặng nề khó tiêu, một ít thức ăn lành và tinh khiết được tiêu hóa hoàn toàn, thế là đủ. Các bạn hỏi đó là những thức ăn nào? Sữa, mật ong, bánh mì lức (làm bằng bột mì lức), tất cả những loại rau trồng ngoài nắng, các loại cam chanh (nhất là cam), chuối, nho khô, những hạt có chất béo, khoai tây, gạo lức, và tôi xin lặp lại là chỉ cần [335] bao nhiêu thứ đó cũng đủ bảo đảm cho sự hoạt động của người đạo sinh.

Sự sạch sẽ. Dùng nhiều nước để gội rửa bên ngoài và bên trong cơ thể, là điều rất cần thiết.

Giấc ngủ. Nên luôn luôn ngủ từ mười giờ đêm đến năm giờ sáng, càng ngủ ngoài trời nhiều càng tốt.

Ánh nắng. Rất cần nên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vì các tia nắng mang lại sinh lực cho cơ thể. Ánh nắng diệt các loại vi trùng và giúp ngăn ngừa bệnh tật.

Khi bốn yêu cầu này được chú tâm thực hiện đầy đủ thì một tiến trình thải trừ rõ rệt sẽ tiếp diễn, và trong vòng vài năm toàn bộ xác thân sẽ từ từ chuyển sự phân cực lên cao hơn để rốt cuộc chúng ta có được một thể xác cấu tạo bằng vật chất của cõi phụ nguyên tử. . . . . . Việc này có thể cần nhiều kiếp sống, nhưng các bạn nên nhớ rằng cứ mỗi lần đầu thai lại thì mỗi thể vẫn giữ đúng y phẩm chất (xin tạm gọi như thế) của cơ thể trước kia đã bị thải bỏ khi chết. Vì vậy, thời gian dùng để kiến tạo không hề bị mất. Cuối cùng còn có hai phương pháp khác có thể dùng để tinh luyện mau có hiệu quả hơn:–

Dùng ánh sáng màu. Những loại ánh sáng này được chiếu vào cơ thể của người đệ tử, tạo tiến trình thải bỏ tạp chất và đồng thời kích thích các nguyên tử. Việc này chỉ có thể được thực hiện khi có thêm kiến thức về các Cung. Khi đã biết được cung của hành giả thì có thể kích thích y bằng cách dùng màu sắc của chính y, dùng màu bổ túc của y để thu nạp những chất mới, và dùng màu tương khắc để thải bỏ những chất bất hảo. Về sau sự hiểu biết này sẽ được truyền đạt cho những đoàn thể lớn có phận sự giữ gìn các [336] Bí nhiệm, là Giáo hội và các Hội Tam điểm. Các bạn hãy chờ đợi, vì chưa đến lúc. Khi các Bí nhiệm được phục hồi thì một số kiến thức loại này sẽ được giao cho hai đoàn thể vừa kể.

Sự kích thích bằng âm nhạc. Một số âm thanh có thể làm tan rã và đổ vỡ. Một số âm thanh khác lại kích thích và hấp dẫn. Khi biết được âm khóa của cuộc sống hành giả, biết được âm thanh mà y ứng đáp, thì có thể dùng âm thanh để tinh luyện. Hiện nay, tất cả những gì người phụng sự có thể làm là chú tâm vào những điều chính yếu nói trên và tìm cách tiếp xúc với những rung động thanh cao.

Tôi muốn nói thêm một điểm nữa là sự vận dụng điện lực có ẩn bí quyết làm sinh động các thể, đặc biệt là đối với thể dĩ thái hiện nay. Công dụng chính của mặt trời là làm sinh động thể dĩ thái. Sức nóng của mặt trời là điện lực đã được chuyển hóa thích ứng cho nhu cầu của đại đa số các sinh vật trung bình trong mọi giới của thiên nhiên. Khi người đạo sinh càng tiến bộ thì mãnh lực này càng được tăng cường theo từng trường hợp cá nhân. Đây cũng là một bí mật điểm đạo. Ngày xưa, Điểm đạo Thần trượng thực sự có tác dụng như vật truyền dẫn mãnh lực này vào các luân xa của điểm đạo đồ. Vì thế Thần trượng phải được cấu tạo cách nào để đáp ứng được mục đích này. Hiện nay, nhân loại đang ở trên vòng tiến hóa cao hơn. Thế nên, muốn phục vụ chính nhu cầu và mục đích đó thì cần phải đổi khác phương pháp áp dụng, vì sự phân cực của nhân loại đã thay đổi. Hiện nay sự phân cực không còn ở thể xác nữa mà ở thể tình cảm hay thể trí. Phương pháp áp dụng cho mỗi thể đều khác nhau, nên phải bảo toàn sự bí mật này và giữ kín điều bí nhiệm. [337]

Tinh luyện thể dĩ thái.

Việc thanh lọc này trùng hợp với việc thanh lọc thể xác. Phương pháp chính yếu là sinh hoạt trong ánh nắng, giữ cơ thể cho khỏi lạnh, và uống vài loại sinh tố tổng hợp mà chẳng bao lâu nữa sẽ được đưa ra cho nhân loại dùng. Sẽ có công thức kết hợp các loại sinh tố này chế thành viên thuốc với tác dụng trực tiếp vào thể dĩ thái. Việc này chỉ có được khi khoa học thừa nhận thể dĩ thái và đưa nó vào chương trình huấn luyện của y khoa. Rồi đây việc nghiên cứu các bệnh thể dĩ thái (chứng suy nhược và bế tắc) sẽ được thừa nhận, và sẽ đưa đến các công thức và những cách trị liệu đích xác. Như trước tôi đã nói, tất cả những gì hiện nay bạn có thể làm cho thể hồng trần nhị phân (thể xác và thể dĩ thái) trở nên nhạy bén là theo đúng các qui luật trên, và để cho thời gian hoàn tất những gì còn lại.

Tinh luyện thể tình cảm.

Với thể này cách tiến hành lại khác. Thể tình cảm chỉ là một tấm gương phản chiếu rất quan trọng. Nó thu nhận màu sắc và hoạt động của môi trường xung quanh. Nó nhận ấn tượng của mỗi dục vọng thoáng qua. Nó tiếp xúc với mọi diễn biến và đột biến của hoàn cảnh. Mỗi dòng năng lực đều làm cho nó chuyển động. Mỗi âm thanh đều làm cho nó dao động, trừ khi người chí nguyện ngăn cản các tình trạng này và huấn luyện nó chỉ thu và ghi nhận những ấn tượng đến từ cõi bồ-đề xuyên qua Chân ngã, và vì thế mà thông qua cõi phụ nguyên tử. Do đó mục tiêu của người chí nguyện là huấn luyện sao cho thể tình cảm trở nên yên lặng và trong sáng như một tấm gương, để nó có thể phản chiếu một cách hoàn hảo. Y nên làm thế nào để nó chỉ phản ánh thể nguyên nhân, chỉ biểu lộ những màu sắc phù hợp với Đại luật, chỉ vận chuyển theo một chiều hướng xác định, chứ không nổi [338] lên những luồng gió của tư tưởng, hay những triều sóng của dục vọng. Nên dùng những từ ngữ nào để diễn tả thể tình cảm? Đó là những từ: an tĩnh, trong lành, trầm tĩnh, yên lặng, bình ổn, trong suốt và trong sáng, có tính phản chiếu như tấm gương, có bề mặt phẳng lặng, vật phản chiếu trong trẻo, – là trạm truyền chuyển chính xác những mong muốn, ước vọng, nguyện vọng của Chân nhân chứ không phải của phàm nhân. Làm sao thực hiện được điều này? Có nhiều cách, một số về phần người chí nguyện, và một số về phần Chân sư.

a.     Thường xuyên trông chừng mọi sự ham muốn, động lực nội tâm, và ước vọng nổi lên hàng ngày trong tâm thức, và sau đó chú trọng vào những gì cao cả và chế ngự những gì thấp hèn.

b.     Hằng ngày liên tục cố gắng giao tiếp với Chân nhân, phản ánh ước muốn của Chân nhân trong cuộc sống. Lúc đầu sẽ có nhầm lẫn, nhưng từng bước việc kiến tạo bằng những chất thanh được tiến hành và sự phân cực trong thể tình cảm chuyển dần lên từng cõi phụ cho đến khi đạt đến cõi phụ nguyên tử.

c.      Hằng ngày dùng những thời khoảng nhất định để bình ổn thể tình cảm. Chúng ta đã chú trọng nhiều đến việc định trí trong tham thiền, nhưng các bạn nên nhớ rằng việc ổn định cảm dục tính là bước đầu của định trí. Bước này nối tiếp bước kia, nên người khôn ngoan thì bắt đầu leo thang từ bậc thấp nhất. Mỗi người chí nguyện phải tự khám phá ra trong trường hợp nào y dễ nhượng bộ nhất cho những rung động mãnh liệt như là sợ hãi, lo âu, một loại dục vọng nào đó của phàm ngã, tình thương của phàm nhân đối với một người hay vật nào, sự nản lòng, hoặc quá dễ bị dư luận lung lạc. Rồi y phải khắc phục sự rung động đó bằng cách áp đặt lên đó một nhịp điệu mới có tính loại trừ và kiến tạo rõ rệt. [339]

d.     Công việc thực hiện trên thể tình cảm trong giấc ngủ ban đêm, với sự hướng dẫn của những Chân nhân tiến hóa hơn, dưới sự chỉ đạo của Chân sư. Kích thích một sự rung động hay loại bỏ một sự rung động đều nhờ việc áp dụng những màu sắc và âm thanh nhất định. Riêng trong thời gian này, có hai màu đang được áp dụng cho nhiều người với mục đích cụ thể nhằm kích thích luân xa cổ họng, và luân xa đỉnh đầu, đó là màu tím và màu vàng chói (violet and gold).

Các bạn nên nhớ rằng công việc phải tiến hành tuần tự. Khi sự phân cực chuyển lên cao thì lúc chuyển tiếp từ cõi phụ này lên cõi phụ khác được đánh dấu bằng một số cuộc trắc nghiệm áp dụng trong giấc ngủ ban đêm, gọi là một loạt các cuộc điểm đạo nhỏ. Cuối cùng sẽ tổng kết thành cuộc điểm đạo lớn thứ hai, đánh dấu mức hoàn toàn kiểm soát thể tình cảm.

Bốn cuộc điểm đạo nhỏ sẽ thành tựu trong chính cuộc điểm đạo lớn này. Đây là những cuộc điểm đạo trên cõi tình cảm được gọi theo thứ tự là các cuộc điểm đạo của đất, lửa, nước và không khí. Chúng đến mức viên mãn trong cuộc điểm đạo lớn thứ hai. Cuộc điểm đạo thứ nhất đánh dấu mức thành đạt tương tự ở cõi hồng trần. Mỗi cuộc điểm đạo đánh dấu sự đạt được một tỉ lệ vật chất nguyên tử nhất định trong các thể. Bốn cuộc điểm đạo trước quả vị Chân sư lần lượt đánh dấu tỉ lệ đạt được, ví dụ như:– Lần điểm đạo thứ nhất đạt một phần tư vật chất nguyên tử, lần thứ hai đạt một nửa số lượng vật chất nguyên tử và cứ thế cho đến mức hoàn toàn. Trực giác (hay bồ-đề) là nguyên khí thống nhất nên nó kết hợp tất cả. Vào cuộc điểm đạo thứ tư các hạ thể bị loại bỏ, vị Chân sư ở trong thể trực giác và từ đó tạo ra thể biểu hiện của Ngài. [340]

Tinh luyện thể trí.

Đây là kết quả của một công trình khó nhọc và sự phân biện. Cần phải làm được ba điều trước khi đạt đến cõi của hạ trí và trước khi đạt được tâm thức của thể nguyên nhân (tâm thức đầy đủ của Chân nhân):–

Suy tư sáng tỏ, không chỉ trong những vấn đề làm các bạn hứng thú, mà trong tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến nhân loại. Nó gồm sự kiến tạo bằng chất liệu tư tưởng một cách chính xác, minh bạch, và khả năng định nghĩa. Tức là khả năng dùng chất liệu tư tưởng để tạo hình tư tưởng, và sử dụng các hình tư tưởng đó để giúp đỡ công chúng. Người nào không thể suy tư sáng tỏ, có thể trí kém phát triển đều đang sống trong sương mù, và người ở trong sương mù thì chỉ là kẻ tối mắt lãnh đạo những người mù.

Khả năng định trí, nhờ đó mà các tư tưởng từ cấp độ trừu tượng và từ cõi trực giác có được một bức màn thụ cảm để ghi ấn tượng lên đó. Vấn đề này đã được giải rõ trong nhiều sách nói về định trí và tham thiền, nên tôi không cần phải nói rõ hơn. Đây là kết quả của công phu thực hành khó nhọc trong nhiều năm trường.

Một tiến trình rõ rệt do Chân sư thực hiện, có sự đồng ý của người đệ tử, để kết hợp những nỗ lực và những kết quả đạt được một cách khó nhọc trong nhiều năm thành một thể cách trường cửu. Vào mỗi lần điểm đạo, điện lực hay từ lực được áp dụng đều có hiệu quả ổn cố. Nó làm cho những kết quả mà người đệ tử đã đạt được trở nên bền bỉ. Như người thợ làm đồ gốm đúc và nắn đất sét rồi dùng lửa nung cứng, người chí nguyện cũng nắn, đúc, kiến tạo và chuẩn bị để lửa thiêu cho cứng rắn. Cuộc điểm đạo đánh dấu một mức thành đạt trường cửu và phát khởi một chu kỳ cố gắng mới.

Trên hết mọi sự, nên chú trọng đến hai điều:–

[341]

1.     Sự kiên trì bền bỉ không hề lay chuyển, không quản gì thời gian lâu dài và chướng ngại mà cứ tiếp tục đi tới mãi. Khả năng kiên trì này cho thấy tại sao lắm khi một người không có gì đặc biệt lại được điểm đạo trước bậc siêu tài, và trước những người nổi bật hơn y. Khả năng làm việc cần mẫn siêng năng là điều rất đáng nên mong muốn.

2.     Chỉ có tiến bộ khi không còn tự phân tích quá đáng. Bạn đừng tự nhổ cả gốc rễ mình lên để xem có tăng trưởng hay chăng. Làm thế chỉ mất thời gian quí báu. Hãy quên đi sự tiến bộ của bạn trong việc tuân thủ các qui luật và trong sự giúp đỡ người khác. Khi làm được như vậy, ánh sáng giác ngộ có thể đến bất ngờ và bạn chợt nhận thức được rằng đã đến lúc Đấng Đại giác có thể gọi bạn đến trước Ngài để giúp bạn được điểm đạo. Nhờ công khó, nhờ tuân thủ Định luật một cách đúng đắn và yêu thương tất cả mọi người, mọi vật, bạn đã thu được những chất liệu tinh anh để kiến tạo các thể, khiến bạn có thể đứng trước Ngài. Luật Hấp dẫn vĩ đại đưa bạn về với Ngài, và không có gì ngăn cản được.

[342]

BỨC THƯ XI CUỘC SỐNG PHỤNG SỰ HIỆU QUA.

1.                 Động cơ phụng sự.

2.                 Phương pháp phụng sự.

3.                 Thái độ sau khi hành động.

[343]

BỨC THƯ XI

CUỘC SỐNG PHỤNG SỰ HIỆU QUẢ.

Ngày 16-9-1920.

Để kết thúc loạt thư này, hôm nay tôi bàn về đôi điều có ứng dụng phổ thông. Đó là vấn đề phụng sự và cách phụng sự hoàn hảo. Những gì tôi nói với các bạn về vấn đề này có thể có công dụng rất quan trọng. Các bạn cần luôn nhớ rằng nếu một cá nhân được trao thêm nhiều hiểu biết mà không truyền đạt cho người khác với sự phân biện khôn ngoan, thì kiến thức ấy sẽ gây ứ đọng, chướng ngại, không tiêu hóa và đau khổ. Thực phẩm mà thể xác thu vào, nếu không được đồng hóa phân phối khắp cơ thể thì cũng gây nên tình trạng như trên. Sự so sánh tương đồng này rất đúng. Hiện nay, có nhiều giáo huấn đến với nhiều người, nhưng là để dùng cho nhu cầu của thế gian, chứ không phải để họ chiếm riêng hưởng lợi. Trong phụng sự có ba điều quan trọng:–

1.          Động cơ thúc đẩy.

2.          Phương pháp.

3.          Thái độ sau khi hành động.

Tôi không bàn về những động cơ và phương pháp sai lầm. Các bạn đều biết cả rồi. Tôi chỉ nói đến cái đúng, và nhờ điều chỉnh cuộc sống phụng sự theo những lời chỉ dẫn này bạn sẽ làm đúng và có được nguồn hứng khởi. Hiện nay, có nhiều người đang bắt đầu cuộc sống phụng sự tích cực, vậy tất cả các bạn hãy xét xem cuộc sống phụng sự này khởi đầu có đúng hay không. Một sự khởi đầu đúng đắn có thể đưa đến những bước kế tiếp đúng đắn, và giúp rất nhiều cho nỗ lực của hành giả. Nếu trong trường hợp đó có thất bại thì tất cả những điều cần làm là cứ điều chỉnh trở lại. Khi khởi đầu sai lầm khiến cho thất bại (đó là việc đương nhiên) thì cần phải đổi mới những nguồn lực bên trong hành động ấy.

[344]

1.     Động cơ phụng sự.

Các động lực này có ba loại, mức độ quan trọng xếp theo thứ tự:–

a.     Nhận thức được Thiên cơ tiến hóa, cảm nhận được nhu cầu bức thiết của thế gian, hiểu được mức thành đạt hiện tại của thế giới, và do đó dồn hết tất cả những gì mình có để góp phần xúc tiến mục tiêu của Thiên cơ.

b.     Một mục đích xác định mà cá nhân muốn đạt được, một lý tưởng cao cả – chẳng hạn như sự thánh thiện trong tâm tính – khiến cho linh hồn mãi mãi tinh tấn. Hoặc sự nhận biết thực tế về các Chân sư Minh triết, và trong tâm có ý quyết mạnh mẽ muốn yêu thương, phụng sự và đến với các Ngài bằng mọi giá. Khi bạn đã dùng trí hiểu rõ được Thiên cơ, kèm theo quyết tâm muốn phụng sự các Đấng Cao cả, thì điều này sẽ được thực hiện trong những hoạt động ở cõi trần.

c.      Kế đến là nhận thức được những khả năng bẩm sinh hay những khả năng tự mình tạo được và dùng các khả năng đó để đáp ứng một nhu cầu đã được cân nhắc, và đánh giá kỹ. Phụng sự có muôn ngàn lối. Những ai phụng sự một cách khôn ngoan, những ai tìm kiếm môi trường phụng sự đặc biệt thích hợp với mình và khi tìm được họ bèn vui vẻ nỗ lực để mang lợi lạc cho tất cả, những người đó sẽ phát triển đều đặn liên tục. Tuy nhiên, mục tiêu tiến bộ cá nhân vẫn là phụ thuộc.

2.     Phương pháp phụng sự.

Có nhiều phương pháp khác nhau. Tôi chỉ nói đến những phương pháp quan trọng nhất.

Đầu tiên và quan trọng nhất là khả năng phân biện. Người nào tự cho rằng mình có thể làm tất cả mọi việc, không đắn đo về bất cứ việc gì y gặp, ngông cuồng lao vào nơi mà người khôn ngoan hơn phải dè dặt, hoặc cho rằng mình có khả năng đối phó với mọi việc phát sinh, hoặc tuy có rất [345] nhiều nhiệt tâm nhưng không chịu học hỏi để vận dụng sự hiểu biết vào phụng sự mà chỉ phung phí sức lực, người như thế thường gây tai hại. Y làm mất thời gian của những người khôn ngoan hơn và cao cả hơn y trong việc sửa chữa những lỗi lầm (do ý định tốt) của y, mà thực ra y chỉ phục vụ cho những ham muốn của chính mình chứ không cho mục tiêu nào cả. Do ý định tốt ấy y có thể được phần thưởng, nhưng thường thì bù lại y cũng phải trả quả của những hành động điên rồ. Người phụng sự với trí phân biện thì khôn ngoan nhận biết được vị trí thích hợp của mình trong công việc chung, dù đó là chỗ cao hay thấp. Y thận trọng và tỉnh táo ước lượng khả năng trí tuệ và hiểu biết của mình, tính chất tình cảm và khả năng thể xác của mình, rồi dùng tất cả các khả năng đó để làm tròn bổn phận trong vị thế của mình.

Người phụng sự có phân biện sẽ xét đoán tính chất và tầm mức của công việc y cần giải quyết, với sự trợ giúp của Chân ngã y và của Chân sư. Y không theo những lời đề nghị, yêu cầu hay đòi hỏi đầy hảo ý (nhưng thường thiếu phán đoán) của các bạn phụng sự viên.

Người phụng sự có phân biện nhận thức được tính thực tiễn của yếu tố thời gian. Y biết rằng mỗi ngày chỉ có hai mươi bốn giờ và khả năng của y chỉ là dùng năng lực đến mức nào đó chứ không nhiều hơn, khéo biết điều chỉnh khả năng và thời gian có được cho phù hợp với nhau.

Kế đến là kiểm soát thể xác một cách khôn ngoan. Người phụng sự giỏi không làm cho Chân sư phải lo âu về các khó khăn do thể chất y gây ra. Y có thể được tin cậy vì biết gìn giữ và tiết kiệm sức mạnh thể chất của mình để luôn luôn sẵn sàng thực hiện những gì Chân sư cần. Y không thất bại vì thể chất bất lực. Y trông nom để cho hạ thể này được nghỉ ngơi đầy đủ và ngủ đúng mức. Y thức dậy sớm và ngủ đúng lúc. Y cũng giải trí lúc nào có thể được. Y ăn những thực phẩm lành và thích hợp, và tránh các thức nặng nề khó tiêu. Một ít thực phẩm khéo chọn và nhai kỹ, sẽ tốt hơn là [346] một bữa ăn quá no. Hiện nay, nhân loại đã quen ăn nhiều gấp bốn lần lượng thức ăn cần thiết. Y biết ngưng công việc khi (do tai nạn hay sự tái phát của bệnh chứng di truyền) mà thể xác không chịu hoạt động và có triệu chứng cần lưu ý. Lúc đó y phải nghỉ ngơi, ngủ đầy đủ, cẩn thận chế độ ăn uống và chú ý dùng thuốc men cần thiết. Y vâng theo mọi lời chỉ dẫn khôn ngoan để chờ bình phục.

Bước kế tiếp là thường xuyên trông nom và kiểm soát thể tình cảm. Ai cũng biết rằng trong ba thể nó là thể khó chăm sóc nhất. Đừng để nó có mối xúc động nào thái quá, dù những dòng năng lượng mạnh mẽ của bác ái đối với cả chúng sinh lại được cho phóng rải xuyên qua nó. Bác ái vốn là định luật của thái dương hệ, nên có tính xây dựng và làm ổn định, giúp tất cả theo đúng Thiên luật. Người chí quyết phụng sự tất cả không để cho bất cứ mối sợ hãi, âu lo hay phiền muộn nào làm xao động thể tình cảm của mình. Y vun bồi sự điềm tĩnh, vững vàng và an tâm đặt trọn niềm tin vào Thiên luật. Một lòng tin tưởng tươi vui là đặc tính của thái độ mà y thường có. Y không hề dung dưỡng sự ganh ghét, chán nản ảm đạm, tham vọng hay tự thương thân xót phận. Nhờ nhận thức rằng mọi người đều là anh em ruột thịt và cả chúng sinh đều sống vì nhau nên y điềm nhiên tiếp tục lên đường.

Rồi đến việc mở mang thể trí. Trong khi kiểm soát thể tình cảm, người phụng sự nên có thái độ thải trừ. Mục tiêu của y là huấn luyện thể tình cảm sao cho nó trở thành vô sắc, có rung động êm dịu, trong sáng như mặt hồ trong ngày hè êm ả. Y phải hành động ngược lại khi làm cho thể trí thích ứng với công tác phụng sư. Y phải thu nhập thông tin, cung ứng cho thể trí kiến thức và các sự kiện, rèn luyện nó về phương diện tri thức và khoa học để theo thời gian nó trở thành một nền tảng vững chắc cho minh triết thiêng liêng. Minh triết sẽ thay thế cho kiến thức, nhưng kiến thức là bước đầu cần thiết. Các bạn nên nhớ rằng người phụng sự phải đi [347] qua Phòng Học tập trước khi vào Phòng Minh triết. Thế nên trong việc rèn luyện trí tuệ, y lần lượt tìm cách thu đạt kiến thức, bổ túc những gì thiếu sót, tuần tự hoạch đắc khả năng trí tuệ bẩm sinh đã tích lũy từ các kiếp trước, và cuối cùng củng cố hạ trí sao cho thượng trí có thể chế ngự nó và khả năng sáng tạo của tư tưởng có thể chiếu rọi xuyên qua hạ trí yên lặng. Từ trong sự Yên lặng của Đấng Tuyệt đối, vũ trụ được phóng chiếu thành hình. Từ trong bóng tối phát sinh ánh sáng, từ cái chủ quan (nội tâm vô hình) phát xuất cái khách quan (ngoại cảnh hữu hình). Sự tĩnh lặng tiêu cực của thể tình cảm khiến nó thụ cảm đối với ấn tượng từ trên cao xuống. Sự yên lặng tích cực của thể trí đưa đến nguồn cảm hứng cao siêu hơn.

Khi đã tìm cách kiểm soát và sử dụng được ba thể phàm nhân của mình một cách khôn ngoan, người yêu thương nhân loại cố gắng hành động thật hoàn thiện. Không ước mơ lớn lao nào muốn làm thánh tử đạo, không ước vọng hão huyền nào dù vinh quang nhưng thoáng qua về cuộc phụng sự được nhiều người ưa chuộng lại khiến y quan tâm, mà y chỉ cố gắng theo lối áp dụng ngay tất cả mọi năng lực của mình vào bổn phận kế tiếp. Y biết rằng sự hoàn thiện trong các vấn đề trước mắt của cuộc sống y và trong những chi tiết của công việc y làm cho chung quanh, cũng sẽ tạo sự chính xác trong nội tâm y nữa, và kết thành bức tranh toàn vẹn với vẻ đẹp hiếm có. Cuộc đời tiến từng bước ngắn nhưng mỗi bước đều đúng lúc, mỗi thời khoảng đều được sử dụng khôn ngoan, sẽ đưa hành giả đi rất xa và đó là một cuộc đời đáng sống. Những vị Hướng đạo nhân loại thường thử thách tất cả các ứng viên phụng sự trong từng chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống hàng ngày. Người nào tỏ lòng trung thành, tận tụy khi làm việc có vẻ không thiết yếu sẽ được chuyển vào lĩnh vực có tầm quan trọng lớn hơn. Làm sao trong cơn cấp bách hay khủng hoảng các Ngài có thể tin cậy được người làm công việc hằng ngày một cách luộm thuộm và thiếu suy xét?

Một phương pháp phụng sự khác là khả năng thích ứng.

[348] Điều này bao gồm sự sẵn sàng rút lui khi người khác hay người quan trọng hơn được gửi đến để thế chỗ mà y đang giữ. Mặt khác, đây cũng là khả năng rời nhiệm sở để làm công tác quan trọng hơn khi một người phụng sự khác tuy ít khả năng hơn nhưng có thể thi hành nhiệm vụ này cũng dễ dàng và phán đoán giỏi như y. Tất cả những người phụng sự có phần nào minh triết đều không đánh giá mình quá cao hay quá thấp. Khi một chức vụ được giao cho người không đủ điều kiện thì kết quả sẽ tệ hại. Thế nhưng cũng là sự hoang phí thời gian và năng lực khi những người phụng sự thành thạo lại giữ vị trí mà kỹ năng của họ không được tận dụng, nhiệm vụ mà những người ít khả năng hơn vẫn có thể làm tròn. Vì thế, hỡi những người phụng sự, hãy sẵn sàng sống cuộc đời với phận sự ít được ai để ý và có vẻ không quan trọng, vì đó có thể là vận mệnh của bạn và là nơi bạn có thể phụng sự hữu hiệu nhất. Nhưng bạn hãy sẵn sàng nhận công việc bề ngoài có vẻ giá trị hơn khi Chân sư cho biết, và khi hoàn cảnh – chứ không do sắp xếp của người phụng sự – cho thấy rằng đã đến lúc làm việc đó. Hãy suy ngẫm kỹ câu sau cùng này.

3.     Thái độ sau khi hành động.

Nên có thái độ như thế nào? Hoàn toàn điềm tĩnh, hoàn toàn quên mình, và hoàn toàn chú tâm vào bước kế tiếp phải làm. Người phụng sự hoàn hảo là người cố gắng hết khả năng mình để làm những gì mà y tin rằng đó là ý muốn của Chân sư, và đó là phần việc mà y phải làm để hợp tác với Thiên cơ. Khi đã làm xong phận sự, y tiến lên làm công tác tiếp tục, và không bận tâm đến kết quả của việc đã làm. Y biết rằng có những cặp mắt khôn ngoan hơn y đã thấy được kết cuộc ngay từ lúc khởi đầu. Đức thông tuệ đó, sâu thẳm và đầy tình thương hơn y, đang cân lường thành quả phụng sự của y. Trí phán đoán ấy sâu sắc hơn y, đang trắc nghiệm cường độ và tầm ảnh hưởng của sự rung động đã phát khởi, và đang điều chỉnh sức mạnh ấy theo động lực nội tâm y. Y không bị dày vò bởi lòng kiêu hãnh về những việc đã làm, cũng [349] không chán nản vô lối vì công việc không thành tựu. Lúc nào y cũng làm hết khả năng mình, không phí thì giờ bận tâm về quá khứ, mà vững bước tiến đều để hoàn thành nhiệm vụ kế tiếp. Băn khoăn về những hành động đã qua và nghĩ về những thành tích cũ là đặc tính thoái hóa, mà người phụng sự lại cố gắng làm việc theo luật tiến hóa. Đây là một điểm quan trọng cần ghi nhớ. Người phụng sự khôn ngoan, sau khi hành động, không để ý đến những lời bàn tán của các bạn đồng sự, miễn sao các thượng cấp của y (là những người nam hay nữ ở cõi trần hay chính các Đấng Cao cả) tỏ vẻ bằng lòng hay im lặng. Y không bận tâm vì kết quả không được như dự kiến, nếu y đã trung kiên thực hiện điều cao cả nhất mà y biết. Y không phiền muộn khi bị trách cứ hay bị nhục mạ một cách phũ phàng, nếu lương tâm y vẫn an tịnh và không cắn rứt. Y không bận tâm khi bị mất bạn bè, thân thuộc, con cái, sự mến chuộng trước đây y đã có được, hay sự tán thành của những người cộng sự quanh y, nếu trong tâm y cảm thấy sự liên giao với các Đấng Hướng đạo vẫn còn nguyên vẹn. Y không hề bận lòng khi dường như y đang làm việc trong bóng tối và chỉ thấy chút ít kết quả từ những việc làm khó nhọc của mình, miễn sao ánh sáng nội tâm ngày càng tỏ rạng và lương tâm y yên ổn.

Để tổng kết:–

Động lực phụng sự có thể nói vắn tắt là:– Sự hy sinh tư ngã cho phúc lợi của Đại ngã Duy nhất.

Phương pháp phụng sự có thể nói gọn là:– Khôn ngoan kiểm soát phàm ngã và phân biện trong công việc và cách dùng thời gian.

Thái độ sau đó sẽ là:– Hoàn toàn điềm tĩnh, và ngày càng yêu mến sự thật và những gì không biểu hiện.

Tất cả sẽ được thành tựu viên mãn nhờ hành Thiền huyền môn một cách kiên trì đều đặn.

ĐẠI THỈNH NGUYỆN

Từ nguồn Ánh sáng trong Trí Thượng Đế
Cầu xin Ánh sáng tuôn rải vào trí con người.
Cầu xin Ánh sáng giáng xuống Trần gian.

Từ nguồn Tình thương trong Tâm Thượng Đế
Cầu xin Tình thương tuôn rải vào tâm con người.
Cầu mong Đức Chưởng Giáo trở lại Trần gian.

Từ trung tâm biết được Ý chí Thượng Đế
Cầu xin Thiên ý hướng dẫn ý chí nhỏ bé của con người —
Thiên ý mà các Chân sư đều biết và phụng sự.

Từ trung tâm chúng ta gọi là nhân loại
Cầu xin Thiên cơ Tình thương và Ánh sáng thực thi
Và cầu mong Thiên cơ đóng kín cửa vào nẻo ác.

Cầu xin Ánh sáng và Tình thương và Quyền năng
phục hồi Thiên cơ trên Trần gian.

“Lời Thỉnh nguyện hay Cầu nguyện trên đây không thuộc về bất cứ người nào hay đoàn nhóm nào, mà thuộc về toàn nhân loại. Vẻ đẹp và sức mạnh của Đại Thỉnh nguyện nằm trong tính đơn giản, và do nó phát biểu một số chân lý trọng tâm mà tất cả mọi người bình thường đều chấp nhận một cách hồn nhiên:

-   Chân lý nói rằng vốn có một Đức Thông tuệ nền tảng mà chúng ta gọi với danh xưng mơ hồ là Thượng Đế;

-   Chân lý nói rằng ẩn trong toàn cuộc biểu hiện có quyền năng phát động vũ trụ, là Tình thương;

-   Chân lý nói rằng có một Đấng Cao cả đã đến thế gian, mà người Thiên Chúa giáo gọi là Đức Christ, Ngài đã thể hiện tình thương đó để chúng ta có thể hiểu được;

-   Chân lý nói rằng cả Tình thương và Thông tuệ đều là những hiệu quả của Ý chí Thượng Đế; và cuối cùng là

-   Chân lý hiển nhiên rằng chỉ thông qua chính nhân loại Thiên cơ mới có thể thực thi.”

Alice A. BAiley

 

THE GREAT INVOCATION

From the point of Light within the Mind of God
Let light stream forth into the minds of men.
Let Light descend on Earth.

From the point of Love within the Heart of God
Let love stream forth into the hearts of men.
May Christ return to Earth.

From the centre where the Will of God is known
Let purpose guide the little wills of men —
The purpose which the Masters know and serve.

From the centre which we call the race of men
Let the Plan of Love and Light work out
And may it seal the door where evil dwells.

Let Light and Love and Power restore the Plan on Earth.

TRƯỜNG ARCANE

Cung ứng cuộc huấn luyện trên
Đường Đạo trong Kỷ nguyên Mới.

Các nguyên lý của nền Minh triết
Ngàn đời được trình bày thông
qua tham thiền nội môn, học hỏi,
nghiên cứu và phụng sự,
như một lối sống.

Cần thêm chi tiết xin liên lạc với
nhà xuất bản hoặc đến viếng

Website: www.lucistrust.org

[350]

NGỮ GIẢI

Antahkarana. Con đường, hay cầu nối, giữa thượng trí và hạ trí, dùng làm phương tiện truyền thông giữa hai bên. Nó được kiến tạo do chính người chí nguyện, bằng vật chất cõi trí.

Ảo ảnh (Maya). Từ Bắc Phạn nghĩa là “Ảo tưởng.” Thuộc về nguyên lý của sắc tướng hay giới hạn. Kết quả của sự biểu hiện. Thường được dùng theo nghĩa tương đối cho các hiện tượng hay những dáng vẻ bề ngoài do trí tuệ tạo nên.

Atlantis. Lục địa đã bị nhận chìm dưới Đại Tây Dương, theo giáo huấn huyền bí và Plato. Châu Atlantis là nơi sản sinh Căn chủng thứ tư, nay chúng ta gọi là dân Atlantis.

Atma. Tinh thần Đại đồng; Chân thần thiêng liêng; Nguyên khí thứ bảy; được gọi như thế trong sự cấu tạo thất phân của con người. (Xem sơ đồ trong phần Giới thiệu.)

Bàn cổ (Đức) (Manu). Danh hiệu tượng trưng của Đấng cao cả là Nhà cai trị, tổ phụ nguyên thủy và là vị lãnh đạo nhân loại. Từ này theo ngữ căn Bắc Phạn là “man” – suy tư.

Bản chất (Prakriti). Sở dĩ có tên này do chức năng của nó là nguyên nhân vật chất của cuộc tiến hóa đầu tiên của vũ trụ. Có thể nói từ này gồm hai ngữ căn, “pra” là biểu hiện, và “krita” là khiến cho; có nghĩa là cái đã khiến cho vũ trụ tự biểu hiện.

Bản sơ (Adi). Cái đầu tiên; cái nguyên thủy; cõi nguyên tử của thái dương hệ; cõi cao nhất trong bảy cõi; tối đại niết-bàn.

Bồ-đề (Buddhi). Linh hồn hay Trí tuệ đại đồng. Đó là linh hồn tinh thần nơi con người (Nguyên khí thứ sáu), và do đó là vận cụ của Atma, nguyên khí thứ bảy, tức là Tinh thần.

Bồ-tát (Bodhisattva). Nghĩa đen, người mà tâm thức đã trở thành thông tuệ, hay bồ-đề. Những vị chỉ cần thêm một lần lâm phàm để trở thành vị Phật trọn lành. Như được dùng trong các sách này, Đức Bồ-tát là danh xưng chỉ chức vụ hiện do Đức Di Lạc giữ. Ở Tây phương Ngài được biết là Đức Christ. Có thể gọi chức vụ này là Chưởng giáo Thế gian. Đức Bồ-tát là Chưởng giáo của tất cả các tôn giáo trên thế giới, là Chân sư của các Chân sư và Huấn sư của các thiên thần và loài người.

Căn chủng (Root Race). Một trong bảy giống người tiến hóa trên một hành tinh trong chu kỳ hiện tồn vĩ đại của hành tinh đó. Chu kỳ này gọi là một thời kỳ thế giới. Căn chủng Aryan, gồm người Ấn, người Âu, và các dân tộc Châu Mỹ hiện nay, là căn chủng thứ năm. Người Hoa và người Nhật thuộc về căn chủng thứ tư.

Chân ngã tinh thần (Purusha). Cái ngã được hiện thể. Từ này có nghĩa đen là “Người ở trong thành phố” – tức là ở trong cơ thể. Nó do từ Bắc Phạn “Pura” nghĩa là thành phố hay cơ thể, và “usha” phái sinh từ động từ “vas,” là ở.

Chân sư (Adept). Một vị Chân sư, hay một người đã vượt qua con đường tiến hóa, và tiến đến giai đoạn cuối của Đường Đạo, là Con Đường Điểm đạo, đã được năm lần Điểm đạo, và do đó đã nhập vào giới thứ Năm, hay là giới Tinh thần, chỉ còn phải nhận thêm hai cuộc Điểm đạo nữa.

Chân thần (Monad). Đơn nguyên Duy nhất. Tinh thần tam phân trên cõi của mình. Trong huyền bí học, từ này

thường có nghĩa là tam nguyên hợp nhất – Atma, Buddhi, Manas; Ý chí tinh thần, Trực giác và Thượng trí – hay là phần bất tử của con người, luân hồi trong các giới thấp và tiến bộ dần qua các giới này, đến nhân loại và từ đó đạt được mục đích cuối cùng.

Cõi phụ nguyên tử (Atomic subplane). Vật chất của thái dương hệ được các huyền bí gia phân thành bảy cảnh giới, cõi, hay trạng thái, cõi cao nhất là cõi nguyên tử. Tương tự, mỗi một trong bảy cảnh giới được chia thành bảy cõi phụ, cõi phụ cao nhất gọi là cõi phụ nguyên tử. Như vậy, có bốn mươi chín cõi phụ, trong đó có bảy cõi phụ nguyên tử.

Cung (Ray). Một trong bảy dòng mãnh lực của Thượng Đế; bảy nguồn ánh sáng vĩ đại. Mỗi nguồn sáng thể hiện một thực thể vĩ đại cấp vũ trụ. Bảy Cung có thể phân thành ba Cung Trạng thái và bốn Cung Thuộc tính, như sau:

Các Cung Trạng thái

1.     Cung Ý chí, hay Quyền lực.

  1. Cung Bác ái-Minh triết.
  2. Cung Hoạt động hay Thích nghi.

Các Cung Thuộc tính

1.     Cung Điều hòa, Mỹ lệ, Nghệ thuật, hay Hợp nhất.

2.     Cung Kiến thức Cụ thể hay Khoa học.

3.     Cung Lý tưởng Trừu tượng hay Sùng tín.

4.     Cung Pháp môn Nghi lễ, hay Định luật.

Các tên kể trên chỉ là một số được chọn trong nhiều tên gọi, và thể hiện các trạng thái khác nhau của mãnh lực mà Đức Thượng Đế dùng để biểu hiện.

Đại đoàn Chưởng giáo (Đ.Đ.C.G., Hierarchy). Tập thể các Đấng tinh thần trên các cảnh giới nội tại của thái dương hệ, là các mãnh lực thông minh trong thiên nhiên, điều khiển các diễn trình tiến hóa. Chính các Ngài được phân thành mười hai Huyền giai. Trong hệ hành tinh chúng ta, là hệ địa cầu, có phản ánh của Huyền giai này, mà huyền bí gia gọi là Đ.Đ.C.G. Huyền môn. Đ.Đ.C.G. gồm các vị Đế quân, các Chân sư, và các điểm đạo đồ, hoạt động trên thế giới nhờ phương tiện và thông qua đệ tử của các Ngài.

Đại giai kỳ sinh hóa (Mahamanvantara). Thời kỳ rất lâu dài của toàn bộ một thái dương hệ. Từ này thường được áp dụng cho các chu kỳ thái dương vĩ đại hơn. Nó có hàm nghĩa một thời kỳ hoạt động của vũ trụ.

Đại vũ trụ (Macrocosm). Nghĩa đen là vũ trụ lớn; hay Thượng Đế biểu hiện qua cơ thể của Ngài là thái dương hệ.

Đạo viện (Ashram). Trung tâm mà Chân sư qui tụ các đệ tử và những người chí nguyện vào đó để giáo huấn từng cá nhân.

Đế quân (Chohan). Vị Chúa, Chân sư, Lãnh đạo. Trong sách này Đế quân là vị Chân sư đã tiến tới và được điểm đạo lần thứ sáu.

Điểm đạo đồ (Initiate). Theo ngữ căn La-tinh có nghĩa là những nguyên lý đầu tiên của một ngành khoa học. Người thấu nhập các bí nhiệm của khoa học về Chân ngã, về cái Ngã duy nhất trong mọi cái ngã. Con đường Điểm đạo là giai đoạn cuối của con đường tiến hóa mà nhân loại đi theo, được chia thành năm giai đoạn, gọi là Năm cuộc Điểm đạo.

Fohat. Điện lực vũ trụ; ánh sáng nguyên thủy; điện năng hằng hữu; mãnh lực thiết yếu thúc đẩy vũ trụ; năng lực không ngừng hủy diệt và tạo thành; tổng hợp của nhiều dạng hiện tượng điện.

Giai kỳ sinh hóa (Manvantara). Một thời kỳ hoạt động, đối lại với thời kỳ ngơi nghỉ, không kể là chu kỳ dài hay ngắn. Thường được dùng để chỉ một thời kỳ hoạt động của hành tinh và bảy giống dân trên đó.

Hành tinh Thượng Đế (Đức) (Planetary Logos). Từ này thông thường được áp dụng cho bảy Đấng Cao cả nhất tương ứng với bảy vị đại thiên thần của người Thiên Chúa giáo. Tất cả các Ngài đều đã trải qua giai đoạn nhân loại và hiện đang biểu hiện qua một hành tinh và các trường tiến hóa trên hành tinh đó, theo cách giống như con người biểu hiện qua thể hồng trần của y. Đấng cao cả nhất của hành tinh hoạt động qua một bầu hành tinh nào đó thì thực sự là Thượng Đế của hành tinh ấy.

Hào quang (Aura). Tinh hoa hay lưu chất tế vi và vô hình phát ra từ các thể của con người và động vật, và thậm chí từ đồ vật. Đó là sự phóng phát tâm linh, có đặc tính vừa trí tuệ vừa thể chất. Nó vừa thuộc về sinh lực điện vừa là trí tuệ điện.

Hoả đức Tinh quân (Agni). Như đã ghi trong Kinh Vệ-đà. Vị thần cổ xưa nhất và được tôn kính nhất trong các vị thần ở Ấn Độ. Một trong ba vị thần là Agni, Vayu và Surya, và cũng là cả ba vị này, vì Ngài là trạng thái tam phân của lửa; lửa là tinh hoa của thái dương hệ. Trong Kinh Thánh có nói: “Đấng Thượng Đế của chúng ta là ngọn lửa đang thiêu hủy.” Đây cũng là biểu tượng của cõi trí mà Agni là chúa tể tối cao của cõi này.

Hoả thần (Agnichaitans). Một nhóm hoả thần ở cõi hồng trần.

Hoả Tinh quân (Lords of the Flame). Một trong những Huyền giai vĩ đại gồm các Đấng tinh thần đang chỉ đạo thái dương hệ. Các Ngài cầm quyền điều hành cuộc tiến hóa của nhân loại trên hành tinh này cách đây khoảng 18 triệu năm, vào giữa căn chủng thứ ba, giống dân Lemuria.

Jiva. Chân thần, một đơn vị tâm thức riêng biệt.

Kumaras. Bảy Đấng hữu ngã thức cao cả nhất trong thái dương hệ. Bảy vị Kumara này biểu hiện thông qua một hệ hành tinh theo cách giống như một con người biểu hiện qua thể xác. Ngoài những danh xưng khác, người Ấn giáo còn gọi các Ngài là “những người con của Brahma sinh ra từ trí tuệ.” Các Ngài là tổng thể của thông tuệ và minh triết. Bên trong hệ hành tinh, chúng ta thấy có phản ánh những đẳng cấp thái dương hệ. Đứng đầu cuộc tiến hóa của thế giới chúng ta có vị Đệ nhất Kumara với sự trợ giúp của sáu vị Kumara khác, ba vị ngoại môn và ba vị nội môn, các Ngài là những tụ điểm để phân phối mãnh lực của các vị Kumara thái dương hệ.

Lemuria. Một thuật ngữ hiện đại, trước hết được một số nhà tự nhiên học sử dụng, và nay được các nhà Thần triết chọn dùng để chỉ một lục địa mà theo Giáo lý Bí nhiệm của Đông phương thì có trước Châu Atlantis. Đó là nơi cư ngụ của căn chủng thứ ba.

Luồng hoả hậu (Kundalini). Quyền năng của Sự Sống: một trong các mãnh lực của thiên nhiên. Chỉ những người nào thực hành định trí theo yoga mới biết được quyền năng này. Nó được tập trung bên trong cột sống.

Mayavi Rupa. Từ Bắc Phạn, có nghĩa là “Thể ảo.” Đó là thể biểu hiện do vị Chân sư tạo nên, bằng tác động của ý chí, để sử dụng trong tam giới. Nó không liên kết về mặt vật chất với thể xác. Nó thuộc về tinh thần, siêu phàm, và đi khắp nơi không trở ngại. Nó được kiến tạo bởi quyền năng của hạ trí, bằng loại vật chất cảm dục cao nhất.

Nghiệp (Karma). Hành động ở cõi trần. Theo siêu hình học, là định luật báo phục, luật nhân quả hay nguyên tắc nhân quả theo đạo đức. Có nghiệp quả của hành động tốt và nghiệp quả của hành động xấu. Đó là quyền năng kiểm soát mọi sự, hậu quả của hành động đạo đức, hay là hiệu quả về mặt đạo đức của một việc được thực hiện để đạt một điều gì làm thỏa mãn ham muốn cá nhân.

Ngôi Lời (Logos). Thượng Đế biểu hiện thông qua mọi quốc gia và dân tộc. Sự biểu lộ ra ngoài, hay là hiệu quả của nguyên nhân mãi mãi tiềm ẩn. Do thế, lời nói là biểu hiện của tư tưởng, và vì vậy được chuyển dịch một cách thích hợp là “lời nói” và “linh từ” theo ý nghĩa siêu hình của nó. (Xem John I : 1-3.)

Nguyên khí thứ Năm (Fifth Principle). Nguyên khí trí tuệ; khả năng này nơi con người là nguyên khí suy tư thông minh, phân biệt con người với loài vật.

Nguyên tử trường tồn (Permanent atom). Năm hạt nguyên tử, cùng với nguyên tử trường tồn hạ trí, mỗi nguyên tử trên một trong năm cõi tiến hóa của nhân loại (nguyên tử trường tồn hạ trí cũng ở trên cõi trí) được Chân thần thu dụng cho các mục đích biểu hiện. Chúng hình thành một trung tâm ổn định và tương đối trường tồn. Chung quanh chúng, các lớp áo hay các thể được kiến tạo. Chúng thực sự là những trung tâm lực nhỏ.

Nhóm Chân nhân (Egoic Groups). Trên cõi phụ thứ ba của cảnh giới thứ năm, tức là cõi trí, có những thể nguyên nhân của các cá nhân nam, nữ. Các thể này, là sự biểu lộ của Chân nhân, hay của ngã thức cá nhân hóa, được qui tụ lại thành từng nhóm tùy theo cung hay phẩm tính đặc biệt mỗi Chân nhân.

Noãn hào quang (Auric egg). Một tên gọi thể nguyên nhân, do nó có hình trứng.

Phật (Đức) (Buddha). Danh hiệu chỉ về Đức Gautama. Ngài sinh ở Ấn Độ vào khoảng năm 621 trước Công nguyên và viên thành quả Phật vào năm 592 trước Công nguyên. Đức Phật là “Đấng Giác ngộ,” và đã đạt trình độ kiến thức cao nhất khả dĩ có được cho con người trong thái dương hệ này.

Raja Yoga. Hệ thống thực sự để phát triển các quyền năng tâm thông và tinh thần, và hợp nhất với Chân ngã hay Chân nhân của mỗi người; gồm việc rèn luyện, điều hòa, và tập trung tư tưởng.

Senzar (Tiếng) (Sensa hay Senzar). Tên gọi ngôn ngữ bí mật của giới tăng lữ, hay là “tiếng nói bí nhiệm” của các bậc đắc đạo trên khắp thế giới. Đó là một ngôn ngữ đại đồng, và phần lớn là các mật mã tượng hình.

Shamballa. Thành phố của các vị Thần, ở phía Tây đối với một số quốc gia, ở phía Đông đối với các nước khác, ở phía Bắc hay phía Nam đối với các quốc gia khác nữa. Đó là thánh đảo ở trong sa mạc Gobi, là quê hương của khoa thần bí và Giáo lý Bí nhiệm.

Sinh lực (Prana). Nguyên khí của Sự Sống, hơi thở của Sự Sống. Huyền bí gia tin tưởng vào lời phát biểu sau: “Sự Sống mà chúng ta xem là một thể tồn tại duy nhất, biểu hiện trong cái gọi là vật chất, hoặc là những gì mà, do phân tách sai lầm, chúng ta gọi là Tinh thần, Linh hồn, và Vật chất trong con người. Vật chất là thể biểu hiện của linh hồn trên cõi đời này; linh hồn là thể biểu hiện của tinh thần, và cả ba là tam vị nhất thể được Sự Sống tổng hợp và thấm nhuần tất cả.”

Tam nguyên (Triad). Con người Tinh thần; sự biểu hiện của Chân thần. Đó là tinh thần còn phôi thai chứa đựng các tiềm năng của thiên tính. Các tiềm năng này sẽ được khai mở trong suốt cuộc tiến hóa. Tam nguyên này tạo thành cái ngã riêng biệt hay cá nhân hóa, hay Chân nhân.

Thần (hay Thiên thần) (Deva hay Angel). Một vị thần. Tiếng Bắc Phạn có nghĩa là một vị thần hào quang rực rỡ. Thần là một sinh linh thuộc thiên giới, có thể tốt, xấu hay vô hại. Thiên thần được chia thành nhiều nhóm, không những được gọi là các thiên thần và đại thiên thần, mà còn được gọi là các thần kiến tạo cấp cao hay thấp.

Thần chú (Mantrams). Các câu lấy từ Kinh Vệ-đà. Theo nghĩa ngoại môn thì một câu thần chú (hay là khả năng, quyền năng thần thông truyền đạt nhận thức hoặc tư tưởng) là phần cổ xưa hơn của Kinh Vệ-đà, phần thứ nhì là các Kinh Brahmanas. Trong ngữ thức nội môn thì thần chú là linh từ được cụ thể hóa, hoặc làm cho biểu lộ khách quan nhờ pháp thuật thiêng liêng. Một hình thức ngôn từ hay các âm vận được sắp xếp có tiết điệu, để khi xướng lên thì phát ra những rung động nhất định.

Thể dĩ thái (Etheric body, Etheric double). Theo giáo huấn huyền môn, thể hồng trần của con người gồm hai phần, thể xác thô đặc và thể dĩ thái. Thể xác gồm vật chất của ba cõi phụ thấp của cõi trần. Thể dĩ thái gồm bốn cõi phụ cao nhất hay cõi phụ dĩ thái của cõi trần.

Thể nguyên nhân (Causal Body). Theo điều kiện cõi trần thì đây không phải là một thể, không thuộc chủ quan hay khách quan. Tuy nhiên, nó là trung tâm của tâm thức Chân nhân, và được hình thành do sự kết hợp của bồ-đề và trí tuệ. Thể này tương đối trường cửu, tồn tại trong suốt chu kỳ các kiếp luân hồi, và chỉ bị làm tan rã sau cuộc điểm đạo thứ tư, khi về phần con người không còn nhu cầu phải tái sinh thêm.

Thiên vương (Raja Lord). Từ “Raja” chỉ có nghĩa là Vua hay Ông Hoàng; từ này đã được áp dụng cho các đại thiên thần hay những Đấng phú linh cho bảy cảnh giới. Đây là các đại thiên thần là tổng thể và là sự thông tuệ chế ngự một cảnh giới.

Thời đại Hắc ám (Kali Yuga). “Yuga” là một thời đại hay chu kỳ. Theo triết học Ấn Độ, cuộc tiến hóa của chúng ta được chia thành bốn thời đại hay chu kỳ. “Thời đại Hắc ám” là thời đại hiện nay, kéo dài 432.000 năm.

Tiểu vũ trụ (Microcosm). Vũ trụ nhỏ, hay là con người biểu hiện qua cơ thể của mình, thể hồng trần.

Tinh linh (Elementals). Các sinh vật của bốn giới hay là các đại nguyên tố, Địa, Thủy, Hoả, Phong. Ngoại trừ một ít vị cấp cao và các tổng lãnh, họ là những mãnh lực trong thiên nhiên hơn là những người nam, nữ ở trong thể dĩ thái.

Tôn sư (Guru). Vị Huấn sư Tinh thần. Một vị tinh thông các giáo lý đạo đức và siêu hình.

Trí tuệ, hay nguyên khí trí tuệ (Manas, Manasic Principle). Nghĩa đen là trí tuệ, trí năng; điều phân biệt giữa con người với tình trạng chỉ là con vật. Đó là nguyên khí cá nhân hóa; nguyên khí giúp con người có thể biết rằng y hiện hữu, cảm giác, và hiểu biết. Trong một số trường phái, nó được chia làm hai phần, thượng trí hay trí trừu tượng, hạ trí hay trí cụ thể.

Tứ hạ thể (Quaternary). Phàm ngã tứ phân, hay là con người, trong tam giới. Vấn đề này có nhiều cách phân chia, nhưng có lẽ cách tốt nhất cho mục đích của chúng ta là kể ra bốn phần này như sau:

1.     Hạ trí.

2.     Thể tình cảm hay cảm dục.

3.     Sinh lực (prana), hay Nguyên khí Sự sống.

4.     Thể dĩ thái, hay là phần cao nhất của thể hồng trần nhị phân.

Ứng thân (Vị) (Nirmanakaya). Các Đấng trọn lành từ khước Niết-bàn (trạng thái chân phúc tinh thần cao siêu nhất) và chọn cuộc đời tự hy sinh, trở nên thành viên của một đoàn quân vô hình, mãi mãi bảo vệ nhân loại trong các giới hạn nghiệp quả.

Văn minh Đại đế (Đức) (Lord of Civilisation, Mahachohan). Vị Trưởng ngành chính đại thứ ba của Đ.Đ.C.G.. Đấng Cao cả này là vị Chúa của Văn minh, và là sự bừng nở của nguyên khí thông tuệ. Ngài là hiện thân trên hành tinh này của trạng thái thứ ba hay là trạng thái thông tuệ của thiêng liêng, trong năm lĩnh vực hoạt động thiêng liêng.

Viveka. Từ Bắc Phạn nghĩa là “phân biện.” Chính bước đầu tiên trên đường huyền bí học . . . là phân biện giữa sự thật và không thật, giữa thực chất và hiện tượng, giữa Ngã và Phi-ngã, giữa tinh thần và vật chất.

Vòng hạn định (Ring-pass-not). Giới hạn này ở tại chu vi của thái dương hệ được biểu hiện, và là phạm vi ảnh hưởng của mặt trời, hiểu theo nghĩa vừa nội môn vừa ngoại môn. Giới hạn phạm vi hoạt động của mãnh lực sự sống trung ương.

Wesak. Một cuộc lễ diễn ra trong dãy Hi-mã-lạp-sơn vào lúc trăng tròn tháng Năm dương lịch (Kỳ Kim ngưu). Người ta nói rằng trong cuộc lễ này, tất cả các nhân viên của Đ.Đ.C.G. đều có mặt, và trong một thời khoảng ngắn, Đức Phật tiếp tục mối liên giao và kết hợp của Ngài với công tác của hành tinh chúng ta.

Yoga. 1. Một trong sáu trường phái của Ấn Độ, được cho là do Patanjali sáng lập, nhưng thực ra có nguồn gốc xưa hơn nhiều. 2. Việc thực hành tham thiền như một phương tiện đưa đến sự giải thoát tinh thần.

Ghi chú: Phần ngữ giải này không được xem là giải thích đầy đủ tất cả các thuật ngữ kể trên. Đây chỉ là một cố gắng nhằm chuyển dịch sang tiếng Anh (và sang tiếng Việt, ND) một số từ dùng trong sách này, nhờ thế độc giả có thể hiểu được nghĩa rộng của chúng. Đa số các định nghĩa ở đây đều được chọn từ Ngữ giải Thần triết, Giáo lý Bí nhiệm, và Tiếng nói Im lặng.

 

* Ghi chú của người dịch:

Trang ‘Đại Thỉnh nguyện’: Đức Chưởng giáo là là Đấng cao cả mà toàn thế giới đang mong đợi. Ngài trở lại để khai sáng thêm con đường Chân lý, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề khó khăn, và tiến xa hơn trong cố gắng thể hiện ChânThiện-Mỹ. Ngài là Đức Christ của Thiên Chúa giáo; là Đức Maitreya (Tiếng Sanskrit), Metteyya (Tiếng Pali), Jampa (Tiếng Tây Tạng) hay Di Lạc Bồ-tát của Phật giáo; là Đấng Hoá thân Kalki của Vishnu trong Ấn giáo; là Đức Imam Madhi của Hồi giáo; là Đức Sosiosh, Đấng Cứu thế của Hoả giáo; và Ngài cũng được tôn xưng trong các tôn giáo khác . . .

Các số ở kế bên lề trái là số trang bản gốc tiếng Anh để độc giả tiện tham khảo.

* Mong được độc giả góp ý và nhận xét.

Xin cám ơn.

Thư từ liên lạc:

E-mail: giadinhphanle@yahoo.com



[1] Từ năm 1920, đã có những thay đổi lớn. Hiện nay (năm 1949) điểm trụ này đã chuyển lên Cõi Bồ-đề. (A.A.B.)