DẤU HIỆU SONG NGƯ

Giới Thiệu: Đây là quyển sách nhỏ (khoảng 70 trang) viết về dấu hiệu hoàng đạo Song ngư của Douglas Baker. Ông viết trên quan điểm nội môn và qua các chiêm nghiệm của Ông.

Chúng tôi dịch để các bạn tham khảo thêm về một cái nhìn khác về Chiêm Tinh Học Nội Môn 

Bạn có thể download hai phiên bản pdf của quyển sách: Song ngữ Tiếng Việt

Cover

Table of Contents

Table of Contents 2

TÍNH CÁCH VÀ TÂM LÝ 6

Đứa trẻ Song Ngư 11

CÁC CHỈ DẪN VỀ SỨC KHOẺ CHO SONG NGƯ 13

The Tissue Salts—Các Muối Mô 13

Song Ngư và các Phương Thuốc Hoa 15

NGƯỜI SONG NGƯ TIẾN HOÁ 22

Genius in Pisces—Thiên Tài trong Song Ngư 23

CỐT YẾU CỦA SONG NGƯ: BẢN CHẤT VÀ HÌNH THÁI 27

CON ĐƯỜNG CỦA SONG NGƯ 39

Dòng Sông và Sợi Dây 43

SONG NGƯ TRÊN ĐIỂM MỌC 44

Từ Khóa và Cụm Từ cho Dấu hiệu Mọc Song Ngư 50

PLUTO: CHỦ TINH NỘI MÔN CỦA SONG NGƯ 50

Ý nghĩa Chủ chốt và Phẩm tính của Sao Diêm Vương 58

Sao Diêm Vương bị xung khắc 58

Sao Diêm Vương Nghịch Hành 59

Từ khóa cho Sao Diêm Vương Nghịch Hành 61

00001.jpeg

TÍNH CÁCH VÀ TÂM LÝ

Kẻ có tội nằm ở trung tâm của Kitô giáo… Không ai am tường bằng kẻ có tội trong các vấn đề của Kitô giáo. Không ai, ngoại trừ một vị thánh .—Charles Péguy, Những Chân Lý Căn Bản.

Mặt Trời đi qua dấu hiệu Song Ngư trong khoảng từ 20 tháng Hai đến 20 tháng Ba. Điều quan trọng đối với những người mới tìm hiểu chiêm tinh là nhận ra rằng Mặt Trời ở Song Ngư chỉ là một trong nhiều cách mà dấu hiệu này có thể in dấu lên chúng ta. Tất cả chúng ta đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của Song Ngư, đặc biệt khi có một nhóm hành tinh tụ về dấu hiệu này, hoặc khi Song Ngư ở vị trí điểm Mọc. Những nhận xét sau nhằm mô tả kiểu người Song Ngư nói chung.

Song Ngư thuộc hành thuỷ, như biểu tượng đôi cá của nó gợi ý. Là dấu hiệu hành thủy “cuối cùng” của hoàng đạo, đi sau Cự Giải và Hổ Cáp, Song Ngư thường kết thúc sự việc, không phải bằng cái chết hay sự quên lãng mà bằng sự hoàn tất một chu kỳ nào đó, như trong một buổi lễ nhà thờ hay một pha cảm xúc, v.v. Cự Giải, một dấu hiệu chủ yếu, có phẩm chất khởi xướng, tiếp năng lượng; trong khi Hổ Cáp, một dấu hiệu cố định, sở hữu một ý chí bất lay chuyển. Song Ngư, một dấu hiệu biến đổi, không có những phẩm chất như vậy; sức mạnh của nó dường như nằm ở tính linh động và khả năng thích ứng.

Ba dấu hiệu hành thủy có thể biểu hiện mọi biến thái của cảm xúc và tình cảm. Khi có góc hợp thuận lợi, các dấu hiệu này sẽ mang lại sự viên mãn nội tâm, hoan lạc và sáng tạo lớn; nhưng khi bị bất lợi, chúng có thể dễ dàng dẫn đến trầm uất, tiêu cực và thất bại. Ở Song Ngư, bản tính cảm xúc được nhạy hóa cao độ và trong trạng thái này, nó đáp ứng tức thời trước mọi kích thích bên ngoài. Tính biến đổi và nhạy cảm như thế thường khiến người Song Ngư bộc lộ những thái cực của hành vi, hoặc vươn lên tột đỉnh, hoặc chìm xuống đáy sâu.

Khả năng chuyển nhanh từ tâm trạng cao nhất xuống thấp nhất, không báo trước, có thể làm các bạn đồng hành cố định hơn của họ chao đảo. Họ có khả năng cần được giúp đỡ cũng như giúp người khác như nhau, và thường thiếu cảm thức trách nhiệm, hoang phí, thiếu phương pháp và thiếu lương tri thường nghiệm. Ông Micawber, nhân vật trong tiểu thuyết David Copperfield của Dickens, phóng túng và phi thực tế, dành phần lớn thời gian chìm trong những giấc mơ và suy đoán vô vọng, chẳng liên hệ gì đến thực tại. Giống Micawber, nhiều người Song Ngư tin chắc rằng “rồi sẽ có cái gì đó xuất hiện” để giải quyết mọi vấn đề của họ.

Ở mặt tốt nhất, họ có bản tính cảm thông và trắc ẩn, và sẽ luôn cố làm vơi bớt khổ đau, bất hạnh và túng quẫn của những người xung quanh. Bẩm sinh nhân hậu, họ có thể có lòng nhân ái và khả năng hi sinh mà không dấu hiệu nào sánh kịp. Nhiều người Song Ngư bị cuốn hút về phía những người khốn khó, người bệnh và tất cả những ai lạc lối trong đời, và thường được thấy làm việc trong các cơ sở như bệnh viện, nhà thương điên và nhà tù. Điều này không chỉ làm vơi khổ đau của người khác mà còn củng cố họ qua cảm thức thuộc về điều gì đó lớn hơn chính mình.

Giống Xử Nữ, dấu hiệu đối nghịch hay bổ túc của họ, người Song Ngư cảm thấy bị thôi thúc phụng sự nhân loại theo cách nào đó. Người Xử Nữ củng cố bản ngã mình qua việc phục vụ người khác, nhưng người Song Ngư lại thích mở rộng và khuếch tán phàm ngã trong việc tận hiến cho một đại sự lớn hơn chính họ. Họ hạnh phúc nhất khi có thể toàn tâm toàn ý dâng hiến theo cách này, nếu không họ có thể trôi dạt trong đại dương tự thương hại và thờ ơ. Tìm được công việc hay vị trí đúng đắn trong đời có thể mang lại cho người Song Ngư một thái độ hoàn toàn mới; và nếu tìm được cảm thức tự-mục đích này, họ có thể đạt những điều lớn lao trong đời. Hi sinh là chủ âm của dấu hiệu này và người Song Ngư đích thực sẽ dâng trọn cho những ai thật sự cần sự giúp đỡ của họ, nhất là trong bối cảnh các tổ chức như Oxfam, Cancer Research hay Salvation Army.

Người Song Ngư dễ đặt niềm tin nơi người khác, đến mức dễ cả tin. Họ tin rằng ai cũng có thể được cứu chuộc, và họ nổi tiếng bởi khả năng thấy điều thiện nơi cả những kẻ vị kỷ nhất. Gần như không thể nói “không” với người cần giúp, họ thường tự trói mình trong đủ loại tình huống “mờ ám” và rắc rối. Tất cả người Song Ngư đều cần học phân biện (Xử Nữ) và sử dụng nhạy cảm của mình một cách kiến tạo, làm việc tích cực với bản tính cảm xúc mạnh mẽ thay vì bị nó lấn át.

Patricia Hearst, nữ thừa kế người Mỹ sinh cung Song Ngư, bị tổ chức khủng bố Symbionese Liberation Army bắt cóc năm 1974. Theo kiểu Song Ngư, Bà đã ôm lấy chính nghĩa của họ đến mức sau đó bị bắt khi tham gia một vụ cướp ngân hàng để gây quỹ cho họ. Người Song Ngư có thể dao động dễ dàng giữa vai vị thánh và kẻ có tội, giữa cái siêu phàm và cái nực cười. Nhân vật quỷ quyệt Fagin, thủ lĩnh băng đảng và kẻ móc túi của thế giới tội phạm ngầm trong Oliver Twist của Charles Dickens, phản chiếu điều này, khi độc giả cố quyết định liệu y là một ác nhân hay một nhân vật bi kịch. Tất nhiên, Dickens viết về nước Anh thời Victoria, và Song Ngư cùng nhà thứ mười hai là biểu hiện của thời đại ấy.

Năng lực sáng tạo và tưởng tượng có thể rất mạnh ở Song Ngư, như ở tất cả các dấu hiệu hành thủy, và nhiều người Song Ngư có thể dành phần lớn đời mình trong một thế giới lý tưởng hay viễn kiến hơn là thế giới thực. Họ thường có khuynh hướng nghệ thuật mạnh, và có thể chọn một hay nhiều vai như nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ hay vũ công. Là họa sĩ, gam màu của họ thường rực rỡ và tương phản. Tài văn chương của họ mạnh ở văn xuôi và thi ca, đôi khi gần như mang dáng dấp tráng ca. Tình yêu và cảm thụ cái đẹp là một đặc trưng nền tảng của những con người nhạy cảm này. Nếu họ không tìm được một tôn giáo đủ sức thấm hút cảm xúc của mình, họ sẽ làm đẹp hành tinh như họ từng làm đẹp các thánh đường.

Đời sống của người Song Ngư thường dính dáng đến khổ đau; hoặc họ tự chịu khổ, hoặc liên can đến khổ đau của người khác. Nữ thi sĩ Elizabeth Barrett Browning, sinh ở Song Ngư, cho thấy nhiều đặc điểm của dấu hiệu này. Bà lâm bệnh khi mười lăm tuổi, và sau đó, sau cái chết do đuối nước của người em trai, trở nên ẩn dật, mang một nỗi sợ bệnh hoạn khi gặp bất kỳ ai ngoại trừ một vòng thân tín nhỏ. Người cha độc đoán của Bà gần như giam lỏng Bà trong nhà, và Bà sống nhiều năm như một bệnh nhân kinh niên, bị giam trong phòng và bị coi là bất khả cứu chữa. Đấng cứu rỗi của Bà đến dưới hình thức Robert Browning; cuộc tình của họ diễn ra trong bí mật, và họ kết hôn mà cha Bà không hay biết, rồi trốn sang Ý. Về sau Bà quan tâm đến thần linh học và huyền bí học.

Rất thường khi ở người Song Ngư có một dòng ngầm khó dò; một đời sống nội tâm chẳng ai thấu triệt. Như loài cá mà họ tượng trưng, họ có thể lẩn tránh và khó nắm bắt; ở nhiều phương diện, họ có thể là người khó hiểu nhất trong hoàng đạo, mặc dù khi vượt lên khỏi tự thương hại, họ lại là những người thấu hiểu người khác nhất. Trừ khi sự phát triển tinh thần thật sự thấm nhuần đời họ, thái độ của họ có xu hướng thuần cá nhân và cảm xúc.

Rất trực giác, họ nhanh chóng hình thành ấn tượng về ai đó họ gặp, nhưng sẽ không thể đưa ra lời giải thích duy lý về cách họ đi đến nhận định như vậy. Người Song Ngư trung bình hiếm khi dừng lại để lý luận và đánh giá sự việc mà sẽ nhảy vào trước đã. Như Alexander Pope từng viết: “Kẻ dại nhào vào nơi thiên sứ còn e sợ đặt chân.” (Bài luận về Phê bình). Rất phù hợp, Song Ngư cai quản đôi chân.

Nhà thứ mười hai của hoàng đạo, do Song Ngư cai quản, là nhà của khổ đau và tự phá hoại—những từ, theo nhiều cách, là câu văn bia cho tôn giáo Kitô, vốn phản chiếu Kỷ nguyên Song Ngư:

Thánh ý

Và ưng thuận cao cả của trời cai quản hết thảy

Đã để mặc hắn theo những mưu đồ tăm tối của mình,

Để bằng những tội ác lặp đi lặp lại hắn có thể

Chồng chất trên mình sự trầm luân.

—John Milton, Thiên Đường Đã Mất

Ở nhiều phương diện, Kỷ nguyên này gắn với nhà tù, bệnh viện và các thiết chế, đặc biệt những nơi liên quan đến sự hạn chế tư tưởng và tự do. Quả vậy, người Song Ngư thường được thấy làm việc trong những nơi ẩn náu hay quản thúc, như tu viện hay nhà tù. Nhiều người có bản tính rất tôn giáo và sẽ vun trồng các phẩm tính trinh khiết, khiêm nhu, từ bỏ và đời sống tu viện.

Nhiều phẩm chất tích cực của Song Ngư, được nâng đỡ bởi ước muốn phụng sự từ Xử Nữ, được thể hiện trong giáo huấn của Kitô giáo. Biểu hiện tiêu cực của dấu hiệu này thấy ở tính chia rẽ và sự khăng khăng giáo điều và tín điều, vốn thường xuyên biểu lộ qua Giáo hội Kitô và các tôn giáo của Kỷ nguyên Song Ngư, đặc biệt là tôn giáo đã sản sinh ra Tòa Dị giáo.

Năng lượng Song Ngư có thể rất dễ trở nên quá nhiệt thành và biến chính nghĩa thành các cuộc thập tự chinh, trong đó dùng đến những phương sách ám muội và lật đổ. Khước từ sử dụng lý luận chín chắn, người Song Ngư sẽ viện mọi phương tiện để đạt mục đích. Nhiều giáo phái tôn giáo bộc lộ những phẩm tính Song Ngư tiêu cực qua sự đòi hỏi tận hiến tuyệt đối, kèm theo một hào quang bí mật và các phương pháp tuyển mộ đáng ngờ, thậm chí có cả bắt cóc. Nhiều giáo phái vướng vào các vụ bê bối đủ loại; dễ gợi nhớ Giáo hội Scientology, có nhà sáng lập L. Ron Hubbard sinh ở Song Ngư, cũng như những kẻ tuyên truyền Đức Quốc Xã đi ủng đã che giấu vụ bê bối lớn nhất: tội ác diệt chủng. Hitler tin rằng lời dối trá, khi có thể dùng, để hiệu quả thì phải là một lời nói dối lớn.

Trái lại, nhà lãnh đạo Song Ngư và cựu Chủ tịch Liên Xô, Mikhail Gorbachev, đã khởi xướng chính sách “glasnost”, hay cởi mở, dẫn đến tự do biểu đạt và tranh luận lớn hơn trong Liên Xô, và giảm bớt các hạn chế về dòng chảy thông tin ra vào thế giới bên ngoài. Ông cũng đưa ra các biện pháp hạn chế bán rượu và giảm mức độ nghiện rượu—cả hai đều do Song Ngư cai quản. Ông còn—rất hợp với Song Ngư, dấu hiệu cai quản cả rượu vang lẫn tì vết—có một bớt rượu vang rất rõ trên đầu.

Người Song Ngư tích cực hơn thích thủ vai đấng cứu rỗi theo cách nào đó, trong khi người yếu và tiêu cực hơn sẽ quay sang vai kẻ phạm tội. Người Song Ngư thường tỏ ra là kẻ thù tệ hại nhất của chính mình; dẫu hiếm khi bạo lực hay tàn nhẫn, họ thừa khả năng tự dối mình cũng như dối người. Họ có thể giả hình đáng ngạc nhiên, nhất là trong các vấn đề tôn giáo; bất lương trí thức là một trong những thói xấu của dấu hiệu này.

Tom Keating, một người Song Ngư và là họa sĩ tài năng, sở hữu năng lực đáng kinh ngạc trong việc tái tạo các tác phẩm của những bậc thầy vĩ đại, đã bực bội trước lòng tham và chủ nghĩa vật chất của thị trường nghệ thuật. Nhiều năm liền ông đã qua mặt các chuyên gia bằng những tác phẩm giả thường khó phân biệt với đồ thật. Nhiều người Song Ngư thấy khó phân biệt giữa cái thực, điều kỳ diệu và thứ gian trá trắng trợn.

Cảnh sát, gián điệp và mọi điều gì bí mật hay hoạt động chìm đều thuộc phạm vi Song Ngư. Người sinh dưới dấu hiệu này có thể trở thành những thám tử tuyệt vời, kết hợp các phẩm chất của dấu hiệu bổ túc, Xử Nữ, dấu hiệu đem lại sự phụng sự qua lao động cần cù và chú ý chi tiết, trong khi Song Ngư đem lại trực giác để lần đến tận cùng những bí ẩn sâu nhất. Ralph Nader, luật sư Mỹ nhiều tranh cãi và nhà hoạt động vì quyền lợi người tiêu dùng, có Mặt Trời, Hỏa Tinh và Thủy Tinh ở Song Ngư, đã tỏ ra không mệt mỏi trong việc phơi bày các nguồn gốc tham nhũng trong kinh doanh và chính trị.

Nhiều hành tinh ở nhà thứ mười hai hàm ý một dharma rộng lớn. Với từ dharma, tôi muốn nói đến những nghĩa vụ mà chúng ta đã gánh trong đời này hay đời trước, và phải được ghi nhận và chu toàn, như với bạn đời, gia đình và nhân loại nói chung. Bà Annie Besant định nghĩa nó là “Bản chất nội tại của một sự vật vào bất kỳ giai đoạn tiến hóa nào, và là định luật của giai đoạn kế tiếp trong sự khai mở của nó.” Sự tự phá hoại xảy ra khi dharma bị khước từ, và tất cả người Song Ngư nên ghi nhớ điều này. Họ cũng nên học cách để những người họ thương yêu tự giải quyết nghiệp quả của riêng họ, thay vì luôn tìm cách che chở họ khỏi điều đó, vì Sao Thổ, hành tinh cai quản nghiệp quả, là bất khuất và luôn đảm bảo rằng cá nhân sẽ chịu điều phải chịu. Sao Thổ ở Song Ngư có thể khiến bất kỳ ai quỳ gối trước Thượng đế:

Từ vực sâu con đã kêu lên cùng Ngài, lạy Chúa; lạy Chúa, xin lắng nghe tiếng con .—Thánh Vịnh 129, câu 1.

Những người có Mặt Trời ở nhà thứ mười hai trong lá số sinh thường dành nhiều phần đời trong ẩn khuất. Họ có thể cảm thấy “tu phòng” hoặc tìm kiếm một kiểu sống mang tính thiết chế nào đó, nơi họ có thể ẩn mình. Một số người Song Ngư bị hấp dẫn bởi các cơ sở thuộc nhiều loại vì họ thiếu ý thức về các việc thường nhật và thích sống ở nơi những việc như vậy được lo liệu cho họ. Không phải họ ngu dốt mà là họ không có kiểu trí óc tò mò, thực tiễn, thích đặt câu hỏi và thấu hiểu sự vật như Xử Nữ thích làm. Ở phương diện này, họ giữ ưu thế trẻ thơ của bán cầu não phải, và sự ngây thơ như vậy có thể là một phẩm tính tinh thần quan trọng không nên bị xem nhẹ:

Quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi không hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ, các ngươi sẽ chẳng vào được Thiên giới .—Matthêu 18:3.

Người Song Ngư đích thực thích không lý tính hóa hay dùng lôgic. Họ thích sống theo các khẩu hiệu hay câu nói ưa thích, đặc biệt nếu chúng mang tính Kitô giáo hay tôn giáo. Hơn hết, nhiều người trong số này thích được bảo phải làm gì, hơn là phải vật lộn để đi đến một quyết định. Họ có thể quanh co né tránh và giả vờ như không gặp khó khăn, nhưng họ thật sự cần sự hướng dẫn. Họ có thể non trải, giáo dục kém hoặc gặp khó khăn trong học tập. Do đó nhiều người thích gắn bó với ai đó hiểu đời hơn, từng trải hơn họ. Tôi đã gặp nhiều người kiểu Song Ngư nói với tôi theo nhiều cách: “Douglas, đừng cho tôi lý do, chỉ cho tôi phải làm gì; ông muốn tôi làm điều gì?” Thái độ như vậy là điển hình của Song Ngư, người thích đi theo hướng mà một vị lãnh đạo vạch ra hơn là chất vấn ông ta.

Nhiều người Song Ngư không quá tham vọng; họ không thích căng thẳng và áp lực quá mức, thường ưa làm con cá lớn trong ao nhỏ. Khi họ thành công trong thế gian, họ có thể gây tranh cãi. Ông trùm báo chí và truyền thông Rupert Murdoch sinh ở Song Ngư. Công thức quốc tế của ông cho một tờ báo thành công bộc lộ một vài nét Song Ngư tiêu cực: nhấn mạnh tội phạm, bê bối, khỏa thân, tít đậm cỡ lớn và xã luận giáo điều. Tạp chí Private Eye đặt cho ông biệt danh “kẻ đào bới bẩn thỉu”. Nỗ lực của ông nhằm giải phóng báo chí Anh khỏi các công đoàn in ấn đã thể chế hóa kéo theo những cuộc phản đối ồn ào và bạo lực, đặt các văn phòng mới của ông ở Wapping vào tình trạng bị công đoàn bao vây, với sự hiện diện dày đặc của cảnh sát.

Bản thân đây không phải là một dấu hiệu duy vật. Người Song Ngư thích kiếm tìm sự giàu có và an ninh cảm xúc, của cải tinh thần; theo bản năng, họ biết, như Đức Jesus chỉ ra, rằng “Thiên Giới ở trong các ngươi.” (Luca 17:21). Họ có thể cảm nhận điều mắt không thấy, trực tri điều chưa biết. Bản tính nhạy cảm và dễ bị ấn tượng của họ thường đưa họ rút khỏi thế gian về một chốn yên tĩnh, nơi họ có thể tự bồi dưỡng theo chiều chủ quan. Cầu nguyện và tham thiền đến với người Song Ngư một cách tự nhiên; họ thích tạo ra một chốn tĩnh lặng và thiêng liêng dành riêng cho mục đích này. Sau cùng, tham thiền là thực hành tốt nhất cho họ, vì điều đó sẽ giúp nâng điểm tập trung của họ từ cõi cảm xúc lên cõi trí, trong khi cầu nguyện thường giữ họ ở cõi cảm xúc và khiến họ dễ mắc vào nhiều ảo tưởng gắn với cõi ấy.

Song Ngư có những phẩm chất có thể đưa linh hồn lên những đỉnh cao siêu việt của kinh nghiệm tôn giáo hoặc ném nó xuống những vực thẳm tuyệt vọng sâu nhất. Nó đã ảnh hưởng đến các vị thánh và những nhà thần bí vĩ đại của mọi thời, và cả những đại điểm đạo đồ, như Đức Christ và Đức Phật, đôi khi được gọi là “các Bậc Thầy của Lòng Từ Bi”. Ở thái cực kia là một số kẻ lạc hậu của nhân loại, những phế tích nhân sinh trôi giạt theo dòng và có vẻ bất lực trong việc lèo lái một lộ trình ổn định theo bất cứ hướng nào. Trong khi không nghi ngờ gì dấu hiệu này đã sản sinh ra một vài nhân vật tinh thần nhất của lịch sử, nó cũng chịu trách nhiệm cho một số hoạt động đen tối: tên tội phạm chiến tranh Quốc Xã khét tiếng Adolf Eichmann sinh ở Song Ngư và đã tận tụy giám sát việc giam cầm và tiêu diệt hàng triệu người Do Thái.

Song Ngư có thể biểu hiện một tính hai mặt đậm nét như dấu hiệu biến đổi “đồng hành” của nó, Song Tử. Một số người Song Ngư sẽ thoải mái đội lốt thánh nhân trong khi lén làm điều bất hảo:

Và thế là ta khoác lên sự trần trụi tà tâm

Bằng những mảnh vụn cũ kỹ chôm từ Thánh thư,

Và trông như thánh khi ta đóng vai quỷ dữ nhiều nhất.

—William Shakespeare, Richard III

Nghiện rượu và ma túy có thể là hố sụp cho nhiều người thuộc dấu hiệu này, vì cá dễ mắc câu và rất dễ bị ảo tưởng về sự an lành mà chúng đem lại. Elizabeth Taylor và Liza Minnelli, hai người Song Ngư nổi bật và tài năng, đã vật lộn với sự lệ thuộc ma tuý. Các ngôi sao nhạc pop Andy Gibb của Bee Gees và Brian Jones của Rolling Stones là hai người Song Ngư đã kết thúc cuộc đời vì vướng sâu vào ma túy. Một người Song Ngư như thế khác là Jack Kerouac, nhà thơ và tiểu thuyết gia Mỹ gắn với phong trào “beat” và viết về lối sống nghèo khó và tự do của nó; ông chết trẻ và là một người nghiện rượu.

Người ta nói cơn khát rượu chỉ là biểu lộ bên ngoài của một thôi thúc bên trong muốn hợp nhất tinh thần với Tự Ngã. Để minh chứng, Carl Jung chỉ ra rằng tiếng Latinh của rượu là “spiritus”, và nó đồng nhất với chính từ ấy trong tiếng Latinh dùng cho kinh nghiệm tôn giáo cao hơn. Ông cũng nói: “Ở bình diện thấp, cơn thèm rượu tương đương với cơn khát tinh thần của bản thể chúng ta về tính toàn vẹn, diễn đạt bằng ngôn ngữ thời trung cổ: hợp nhất với Thượng đế.” Trong tất cả các dấu hiệu của hoàng đạo, chính Song Ngư là dấu hiệu dễ bị cám dỗ nhất để chọn một lối đi dễ dãi và thường tự hủy hoại nhằm đạt trải nghiệm thần linh, dù là qua chất gây ảo giác, nhịn ăn, quất roi vào thân xác đến trầy xước, hay lang bạt trong hoang mạc.

Kẻo chúng ta phóng đại những điểm yếu của Song Ngư, đừng quên rằng đây là dấu hiệu của các Kitô hữu đầu tiên, những người đã đối mặt với bão tố dữ dội trên thuyền đánh cá, những người đối diện sư tử nơi đấu trường như cái giá của đức tin, hoặc tử đạo bằng cách này hay cách khác vì xác tín của mình. Song Ngư sở hữu những chiều sâu ẩn tàng có thể không trồi lên cho đến khi giờ khốn khó điểm đến. Lòng tận hiến của người Song Ngư với lý tưởng của họ trước áp lực và đối kháng ghê gớm luôn là nguồn ngạc nhiên thường trực cho những người thuộc các dấu hiệu khác.

Đứa trẻ Song Ngư

Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta,

đừng ngăn cấm chúng: vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.

—Mác 10:14

Thế giới nội tâm có thể quan trọng và giàu thâm nghĩa hơn đối với trẻ Song Ngư so với thế giới bên ngoài mà các em thường thấy khắc nghiệt và giam hãm. Thích sống trong cõi mộng và mơ màng, các em yêu chơi trò giả vờ, hay bất cứ điều gì, ở bất cứ nơi đâu, nơi các em có thể tạo ra một không gian huyền ảo và nhiệm mầu trong đó mọi điều đều khả hữu. Các em rất thích những câu chuyện khơi dậy trí tưởng tượng sống động và sáng tạo của mình, gợi lên thế giới của hình ảnh và biểu tượng hơn là các sự kiện và cái cụ thể.

Đó là lý do những câu chuyện như Peter Pan của J. M. Barrie và Alice ở Xứ Thần Tiên của Lewis Carroll cuốn hút các em. Một số sẽ bị hấp dẫn bởi dụ ngôn hay những câu chuyện chứa đựng thông điệp hay ý nghĩa đánh thức cảm quan trắc ẩn và lý tưởng của các em. Những em khác có thể ưa các truyện như của Sherlock Holmes, chẳng hạn Con chó săn nhà Baskervilles, vốn đề cập đến một thế giới tội ác hắc ám, bí ẩn và mưu mô.

Những đứa trẻ này thích bất kỳ hoạt động nào cho phép bộc lộ các năng khiếu trực giác và sáng tạo. Các trò chơi liên quan đến điều ẩn giấu, bí mật hay điệp vụ, như bịt mắt bắt dê, trốn tìm, giả làm điệp viên, thám tử, cảnh sát và kẻ cướp, hay lập hội kín với lời thề và mật khẩu, đều đến với các em rất tự nhiên. Chơi trong hay gần nước cũng là một niềm vui; các em sẽ lững thững mãn nguyện dọc bờ sông, ngồi yên hàng giờ với cần câu hay đơn giản là nặn bánh bùn. Bơi lội và mọi hình thức thể thao dưới nước hấp dẫn các em, và nhất là các em có một mối tương giao sâu xa với biển, dễ dàng say mê nhặt nhạnh dọc bãi, bơi lội và lặn ống thở, với nhiều em tỏ ra là những thợ lặn và thủy thủ bẩm sinh. Hoặc các em có thể tạo một ao nhỏ trong vườn hay nuôi một bể cá; các em sẽ hạnh phúc hàng giờ liền với đủ trò nghịch nước dưới mọi hình thức.

Các tổ chức và thiết chế nêu cao một lý tưởng để giữ gìn, như Hướng đạo sinh, Nữ Hướng đạo (Robert Baden-Powell, người sáng lập phong trào hướng đạo, bản thân là một Song Ngư) hay lớp giáo lý Chủ nhật của nhà thờ địa phương, rất hấp dẫn với các em và đáp ứng nhu cầu thuộc về điều gì đó. Các em hạnh phúc trong hào quang của điều bí mật và thích làm người giữ kín thông tin hay cất giấu bí mật. Theo cách riêng, bất kỳ em nào cũng có thể là một Joseph Goebbels tuyệt hảo. Goebbels, kẻ tuyên truyền của Đức Quốc Xã, là bậc thầy của “lời nói dối lớn”.

Trẻ Song Ngư sẽ là những người bạn tận tụy và thành viên trung thành của băng nhóm hay tập thể. Rất vui khi được giao phó một bí mật, các em luôn sẵn sàng bao che cho bạn khi gặp rắc rối. Tuy trung thành, sự nhạy cảm khiến các em dễ bị tổn thương; khi bị bạn làm đau, một số trẻ thuộc dấu hiệu biến đổi này sẽ trở mặt với người bạn đó khá dễ dàng, “trả đũa” bằng mọi cách ám muội có thể, như tung tin dối trá và bôi nhọ thanh danh.

Gia đình có thể giống như một thiết chế đối với các em, và các em là những đứa con trìu mến, biết nghĩ cho người khác, sẽ cố gắng hết sức để làm vui lòng cha mẹ. Đại gia đình Kennedy, với ngôi nhà và khu đất ở Boston, là một ví dụ điển hình—và lại là người Công giáo nữa. Nhiều em có thể không thích nề nếp và kỷ luật vốn là phần cần thiết của thế giới khách quan, và cần một bậc phụ huynh tinh tế để đảm bảo đứa trẻ Song Ngư của họ đến trường đúng giờ, với bài tập đã hoàn thành. Những đứa trẻ này dễ cảm thấy bị giam hãm và bị đối xử bất công bởi những kỷ luật cần thiết ấy, vốn nên được áp dụng một cách kiên quyết nhưng tế nhị, với nhiều khích lệ tích cực.

Trẻ Song Ngư sẽ tôn trọng uy quyền miễn là nó không quá khách quan, giam hãm và vô cảm, và nhất là nếu uy quyền đó biết cách chạm đến bản tính sùng tín và lý tưởng của các em. Nếu uy quyền thật sự chặn đường, các em sẽ không thích đối đầu, như Bạch Dương sẽ làm, mà thích đạt được điều mình muốn bằng các sách lược lẩn tránh và lắt léo, thường thực hiện một cách bí mật và ngấm ngầm. Việc hơi dối trá một chút không làm các em bận tâm, và không nên phạt quá nặng khi các em nói dối, vì các em có thể chưa có một hiểu biết rõ ràng về sự thật thực sự là gì; các em không thấy hại gì ở một lời nói dối thỉnh thoảng, nếu nó bảo đảm cho các em điều mình cần và không ai bị tổn thương. Các em cũng dễ bị người khác lừa gạt; thường quá tin, ngây thơ và cả tin trong thái độ, các em cần được dạy sự thận trọng, lương tri thường nghiệm với tiền bạc, những điều sơ đẳng của nhạy bén kinh doanh, và nhất là phân biệt mộng tưởng với hiện thực.

Khác phần lớn trẻ em, các em không quá gắn bó với đồ chơi và của cải, trừ những món có giá trị tình cảm với các em. Quả vậy, những đứa trẻ nhân hậu này, khi nghe một câu chuyện bất hạnh, sẽ dễ bị thuyết phục mà rời bỏ những vật quý giá của mình hay tiền tiêu vặt, hoặc bị lừa mất tiền ăn trưa ở trường.

Các em có bản tính cảm xúc mạnh, và sự dễ dàng bị cuốn trôi bởi các dòng chảy cảm xúc có thể là điều làm hỏng các em. Dễ rơi vào những tâm trạng bí ẩn, sẽ giúp các em giữ cân bằng nếu có thể thỉnh thoảng rút khỏi thế giới đến một nơi bí mật của riêng mình, nơi các em có thể tìm bình yên và tĩnh lặng, và bậc phụ huynh khôn ngoan nên đảm bảo điều này luôn khả hữu với các em. Một ngôi nhà trên cây, một chỗ ở tầng hầm hay trên gác mái có thể là chốn ẩn náu được trẻ Song Ngư vô cùng yêu thích. Sự nhạy cảm khiến các em khó đương đầu với căng thẳng kéo dài, hoặc chịu đựng xung đột cảm xúc trong thời gian dài. Khi đối mặt với cảnh giận dữ hay bạo lực, các em sẽ lặng lẽ lẩn đi đến một chốn trú thân nào đó. Tuy nhiên, đừng quên rằng những chú cá nhỏ này có thể hóa thành cá piranha khi một lý tưởng quý của các em bị đe dọa, và khi ấy nước quanh các em sủi bọt vì phẫn nộ.

Đứa trẻ Song Ngư có thể vừa là đứa trẻ đáng yêu bậc nhất vừa là đứa trẻ làm phát cáu nhất trong các dấu hiệu hoàng đạo; bình thường thì duyên dáng và hiền hòa, em rất nhạy với nỗi đau và khó khăn của người khác, và sốt sắng giúp đỡ, làm hài lòng, dù phải chịu phần thiệt. Dẫu vậy, nếu thế giới không làm em hài lòng và đời sống quá khó, em có thể nhanh chóng chìm vào trạng thái thờ ơ và tự thương hại, đổ lỗi người khác vì bất hạnh của mình. Khi đời trở nên quá khắc nghiệt, em có thể vin vào bệnh tật như một cái cớ để rút lui và tìm nơi trú ẩn, và cha mẹ nên cảnh giác điều này, vì đứa trẻ Song Ngư sẽ rất dễ chạy trốn khỏi điều gì em không thích hay thấy quá khó chịu. “Giả bệnh để trốn việc” có thể trở thành lối sống đối với những kiểu Song Ngư kịch tính hơn.

Không chắc chắn về năng lực và khả năng của mình, đứa trẻ này cần một lượng quan tâm, ghi nhận và khích lệ lành mạnh, nhưng không bao giờ nên nuông chiều quá mức hay làm hư. Em cần được dẫn dắt nhẹ nhàng nhưng kiên quyết để học đứng trên đôi chân mình và thiết lập cảm thức căn cước riêng. Gieo trồng các đức hạnh tự kỷ luật và độc lập sẽ giúp em hướng dẫn và biểu đạt các xung lực cảm xúc theo cách kiến tạo. Không xây dựng được những phẩm tính này, em có thể trôi qua đời mà chẳng đạt được điều gì, trở thành nạn nhân của chính sự thiếu động lực của mình.

Nhiều trẻ Song Ngư ưa sự nâng đỡ của một thiết chế nào đó, điều đem lại cho các em cảm thức căn cước và một trọng tâm cho bản tính lý tưởng. Những em hạnh phúc ở trường sẽ là học sinh tận tụy, gương mẫu, nêu tấm gương xuất sắc cho bạn bè. Tuy nhiên, các em có cách học riêng, không nhất thiết trùng với phương pháp dùng ở trường. Các em có thể bị kìm hãm trong một cơ sở không cho phép và khuyến khích năng lực chủ quan và sáng tạo. Bị hút về phía nghệ thuật hơn là khoa học, các em sẽ tìm thấy biểu đạt hạnh phúc trong lĩnh vực này; vẽ, vẽ phác, âm nhạc, thơ ca, kịch và múa đều là những lối tự nhiên với các em, và các em có thể xuất sắc ở những môn này nếu được đưa ra khỏi chỗ ẩn và được thầy cô giỏi dìu dắt.

Không có những lối thoát như vậy, và khi bị ép vào một nền giáo dục quá khách quan và khuôn phép nghiêm ngặt, các em có thể rất dễ trở nên sầu muộn, bất mãn và hiểm độc. Trẻ Song Ngư bất hạnh và không vừa ý có thể bị cám dỗ bước vào hành vi trộm vặt, ăn cắp vặt trong cửa hàng, chặn cướp ở sân trường, và những hoạt động “thế giới ngầm” tương tự để thỏa mãn những cảm xúc và năng lực bị dồn nén; ở đây có thể khởi đầu cho một đời sống dính dáng thường xuyên đến cảnh sát và nhà giam. Hoặc các em có thể rút vào, như nhân vật trung tâm trong Billy Liar của Keith Waterhouse, một thế giới mộng tưởng và mơ màng, mà về sau có thể được “tô đậm” bằng những chuyến phiêu lưu vào rượu và ma túy. Bậc cha mẹ khôn ngoan sẽ đưa đứa trẻ Song Ngư của mình nhập môn một cách thận trọng vào việc sử dụng rượu có kỷ luật, thay vì để em bị bạn bè “làm lễ nhập môn”, rồi sa vào thái quá. Đứa trẻ như vậy cũng cần được cho biết về tính gây nghiện của các chất khác mà thanh thiếu niên thường thử nghiệm, vì đây là một điểm yếu đặc biệt của em.

Trẻ Song Ngư phải có một lối thoát cho năng lượng và mộng tưởng cảm xúc của mình; các em cần dâng hiến cho một điều gì đó, đặc biệt nếu điều đó lớn hơn chính các em. Một số có thể quay về tôn giáo, và một số em dễ bị ảnh hưởng đã bị lôi kéo và tẩy não bởi các giáo phái tôn giáo đầy tính sùng tín và hiểm ác, đến mức cha mẹ lo lắng phải bắt cóc các em về và “giải lập trình”. Sự thất bại của các giáo hội truyền thống trong việc thu hút giới trẻ đã dẫn đến việc nhiều giáo hội áp dụng những biện pháp ngày càng sáng tạo thậm chí tuyệt vọng, nhưng mấy khi thành công. Với sự lâm cận của Kỷ nguyên Bảo Bình, trẻ Song Ngư ngày càng bị hấp dẫn bởi các nghĩa vụ tập thể như “Cứu cá voi”, và gây quỹ cho người khốn khó qua các buổi hòa nhạc quốc tế như Band Aid, biểu lộ các xung lực sùng tín và trắc ẩn ở một bình diện vô ngã hơn nhiều.

CÁC CHỈ DẪN VỀ SỨC KHOẺ CHO SONG NGƯ

The Tissue Salts—Các Muối Mô

Chúa đã tạo ra các dược phẩm từ đất; ai khôn ngoan sẽ không khinh bỉ chúng. — Apocrypha, Huấn Ca 38:4

Nghiên cứu nội môn cho thấy có mười hai “muối mô” căn bản cần được bổ sung khi thân thể chịu căng thẳng. Bình thường, các tế bào cơ thể có thể ứng phó với những đòi hỏi của đời sống hằng ngày, nhưng việc tiêu hao năng lượng ở các mức độ khắc nghiệt hơn và bền bỉ hơn đòi hỏi sự bổ sung muối tế bào vượt quá điều có thể cung cấp từ các kho dự trữ của cơ thể, và sự bổ sung như vậy phải ở trạng thái “dĩ thái” tinh luyện để có thể di chuyển nhanh ra khỏi dịch mô, xuyên qua màng tế bào, đến các điểm tiêu hao năng lượng. Thật ra, sẽ đúng hơn nếu liên hệ chúng với trạng thái lượng tử, nơi các hạt (của muối) có thể hành xử như sóng.

Mười hai muối mô, như Bác sĩ W. H. Schuessler triển khai, không chỉ cung cấp các thiếu hụt tức thời của một tế bào đang chịu căng thẳng, mà còn khơi dậy và kích thích các mãnh lực hồi phục tự nhiên của toàn thân. Chúng không can thiệp vào liệu pháp của y sĩ chính thống, liệu pháp nên được tiếp tục khi đã được chỉ định. Năm 1832, một bài báo y học tuyên bố rằng “Tất cả các thành phần thiết yếu của cơ thể con người đều là những phương dược vĩ đại.” Các muối mô đều là thành phần của cơ thể và, vì thế, là những phương dược tự nhiên.

Mười hai muối mô đã được liên hệ với các dấu hiệu của hoàng đạo, để nhà chiêm tinh thiện nghệ có thể phát hiện bất kỳ yếu điểm tiềm ẩn nào trong thể chất xét theo các muối, và đánh giá, dự báo những thời kỳ chu kỳ khi các yếu điểm này dễ biểu lộ nhất. Muối mô cần thiết thường được chỉ thị bởi dấu hiệu Mặt Trời hoặc dấu hiệu Mọc.

Mười hai Muối và các Dấu hiệu Hoàng đạo:

• Bạch Dương: Kali phosphat

• Kim Ngưu: Natri Sunfat

• Song Tử: Kali Sunfat

• Cự Giải: Canxi Sunfat

• Sư Tử: Silic

• Xử Nữ: Natri Phosphat

• Thiên Bình: Canxi Fluorua

• Hổ Cáp: Kali Clorua

• Nhân Mã: Magie Phosphat

• Ma Kết: Canxi Phosphat

• Bảo Bình: Natri Clorua

• Song Ngư: Sắt Phosphat

Những tương ứng trên áp dụng cho con người trên con đường tinh thần, và có phần khác với các diễn giải chính thống, nhưng cũng có thể chuyển trao cho bất kỳ ai khao khát đảm nhận một vai trò nhạy cảm và có trách nhiệm tinh thần trong đời.

Dấu hiệu Song Ngư tương ứng với muối tế bào Sắt Phosphat, thường được các nhà hoá sinh gọi là Ferr. Phos. Muối này có ái lực lớn với oxy và chính là phương tiện để oxy đi vào dòng máu. Thực vật chuyển các yếu tố sắt vô cơ từ đất lên lá, nơi chúng hình thành diệp lục; sắt và diệp lục tạo thành huyết sắc tố của các hồng cầu. Sắt trong sắc tố máu và trong các tế bào thân thể là một bộ thâu nhận mạnh mẽ đối với mãnh lực sự sống, đặc biệt nơi người Song Ngư.

Không có sắt, chức năng hô hấp sẽ không còn giá trị sinh lý, và chuyển hoá sẽ không thể diễn ra; do đó sẽ không có sự đồng hoá các dưỡng chất từ thực phẩm đã tiêu hoá. Thiếu sắt trong hệ thống có thể dẫn tới huyết áp thấp, thiếu máu, các tình trạng viêm, viêm dạ dày, viêm thận, thấp khớp, suy nhược thần kinh, trĩ xuất huyết, xuất huyết nội và băng kinh.

Vì vậy, người Song Ngư nên bảo đảm khẩu phần có một tỷ lệ thực phẩm chứa sắt; những thực phẩm này giá trị hơn nếu ăn sống, vì nấu chín thường làm giảm sắt trừ khi được xử lý rất cẩn trọng. Họ cũng nên dùng Ferr. Phos. khi cần, dù người Song Ngư vốn may mắn khi có khá nhiều loại thực phẩm chứa muối tế bào của mình, gồm những thứ sau:

• Đậu Hà Lan, các loại đậu và rau lá xanh như rau chân vịt, xà lách.

• Trái cây khô như nho khô, chà là, vả và mận khô.

• Các loại hạt, ngũ cốc, rau củ và tất cả trái cây tươi.

Song Ngư và các Phương Thuốc Hoa

Các phương thuốc bằng hoa, do Bác sĩ Edward Bach soạn, từ lâu đã được các nhà trị liệu huyền môn biết đến và trân trọng vì hiệu năng trị vào nguyên nhân nằm dưới của bệnh tật, chứ không chỉ các triệu chứng bề mặt. Chúng hoàn toàn an toàn khi sử dụng và là bổ trợ lý tưởng cho các trị liệu chính thống. Chỉ số cho thấy mức độ phổ biến ngày càng tăng của chúng là nay dễ dàng tìm thấy trong nhiều cửa hàng thực phẩm dưỡng sinh và các trung tâm chữa lành. Tôi có thể đặc biệt khuyến nghị bốn phương thuốc cho kiểu Song Ngư: Heather, Hornbeam, Beech và Vine:

Cây Nho

Thoạt nhìn, người ta khó mà mong đợi loại hình Cây Nho lại thuộc về dấu hiệu Song Ngư, vốn chúng ta thường gắn với các phẩm tính của Cung Hai là Bác Ái–Minh Triết và các phẩm tính của Cung Sáu là Sùng Tín và Lý Tưởng. Loại hình Cây Nho điển hình thì khắc nghiệt, đã kết tinh, nhất tâm, thẳng thừng và trực tiếp. Thể trí được kiểm soát tốt, thường là với cái giá phải trả là con tim. Có đầy dẫy ý chí và quyền lực, công lý được thực thi mà không mấy khoan dung, và sức mạnh được biểu lộ vốn hiếm khi đi đôi với sự đúng đắn.

Đây là những người hữu dụng trong lúc khẩn cấp: họ nắm quyền chỉ huy, lập lại trật tự và duy trì nó. Nhưng đôi khi họ miễn cưỡng rời ghế nhiệm kỳ và tiếp tục lập ra bạo quyền với cơn khát quyền lực không chịu chùn trước những tế nhị như phong nhã, khéo léo, chơi đẹp và đồng cảm. Họ áp đặt chế độ của riêng mình lên tất thảy mọi người xung quanh.

Nếu họ giao phó, như họ thường phải làm, họ sẽ chắc chắn rằng mọi việc phải được thực hiện theo cách của họ: “Tôi không quan tâm bạn làm thế nào miễn là bạn làm theo cách của tôi!” Họ đã đủ khó để làm việc cùng, ngay cả khi có tài năng và học thức. Tuy nhiên, nếu thiếu hai phẩm tính này, họ có thể trở thành những kẻ thúc ép nô lệ thực sự và những bạo chúa không thể chịu đựng nổi. Sự chuyên chế có thể nằm ở nơi một bậc cha mẹ khiến cho con cái bị thúc ép phải học tập, ăn mặc và phục tùng những kỷ luật mà người ta còn ngần ngại áp đặt ngay cả với một người trưởng thành. Họ cứng rắn và họ thừa nhận điều đó; họ cứng nhắc và không hối tiếc vì điều đó.

Một minh hoạ tuyệt hảo về họ nằm trong bức chân dung Bá tước Shaftesbury trong Absalom and Achitophel, của thi sĩ John Dryden:

Thông tuệ, táo bạo, trí tuệ đầy sóng gió;

Bất an, vô định về nguyên tắc lẫn vị trí,

Trong quyền lực thì chẳng vừa lòng, lại khó chịu khi bị hạ nhục;

Một linh hồn rực lửa, tự mở đường đi của chính nó,

Gặm mòn thân xác tí hon đến suy tàn:

Và làm tràn ngập ngôi nhà bằng đất sét ấy.

Một hoa tiêu liều lĩnh giữa cùng cực hiểm nguy;

Khoái cảm với hiểm nạn, khi sóng vỗ cao

Y tìm giông bão; còn với sự lặng yên thì không hợp,

Sẽ lái quá gần bãi cát để khoe sự tài trí của mình.

Trí tuệ lớn thường gần kề với cuồng nộ,

Chỉ một bức vách mỏng phân chia hai cõi.

Bằng không, sao y, được phú cho của cải và vinh dự ,

Lại khước từ tuổi già những giờ nghỉ cần thiết?

Hành hạ một thân xác mà y chẳng thể vừa lòng;

Khánh kiệt sinh mệnh, mà lại phung phí an nhàn . . . ?

. . . Trong tình bạn thì tráo trở, trong hận thù thì bất khả dung tha,

Quyết chí hoặc là hủy diệt, hoặc là cai trị Quốc gia.

Manh mối chiêm tinh cho kiểu Cây Nho là Sao Diêm Vương, chủ tinh của Song Ngư, tự nó là một hành tinh biểu tượng cho năng lượng của Cung một về Ý Chí và Quyền lực, nhưng trong trường hợp này lại được dẫn truyền qua một phàm ngã yếu và mất quân bình: yếu theo nghĩa phàm ngã là thiếu sự tổng hợp giữa tình thương và ý chí, quyền lực và minh triết . . . yếu theo nghĩa phô bày những nét cá tính mang phẩm chất thất thường và gần như núi lửa. Với vai trò là chủ tinh nhà thứ mười hai, Sao Diêm Vương dễ mang xu hướng làm bại hoại, giống như quyền lực vốn làm bại hoại.

How to Grow and Care for Tricolor Beech

Cây Dẻ Gai

Thoạt nhìn, sự cứng nhắc của Cây Dẻ Gai phảng phất Cung Năm về Tri thức Cụ thể và Khoa học Phân tích, và thật vậy, nó chứa đựng nhiều phẩm tính trí tuệ tiêu cực đến mức dường như Song Ngư chẳng hề phù hợp ở đây. Thực ra, Cây Dẻ Gai gắn liền với những phẩm tính mạnh mẽ của Cung Sáu, nơi mà sự sùng tín và lý tưởng được biểu lộ trong những rãnh hẹp nhất. Chính giáo điều của Song Ngư đã mang lại sự cứng nhắc cho loại hình Cây Dẻ Gai.

Y tìm lỗi lầm nơi người khác không ngừng nghỉ và chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ hội ngồi vào ghế xét đoán, xét không chỉ một lần mà nhiều lần cùng một lỗi ấy. Thiếu khiêm cung và lòng trắc ẩn. Rất hiếm khi gặp trải nghiệm rộng và học vấn sâu nơi những kiểu người này. Họ quy tâm vào một tiếp cận hẹp đối với tính thiêng liêng và một cái nhìn còn hẹp hơn với đời sống. Ai không chịu nhập hàng và thờ cùng một Thượng đế hay cùng những lý tưởng mà kiểu Dẻ Gai đề xướng hay tán trợ thì trở thành bia công kích.

Song Ngư có nhiều phẩm tính Cung hai, bao gồm năng lực đồng cảm, nhưng điều này lại thiếu nơi kiểu Beech, người đơn giản là không thể đặt mình vào hoàn cảnh của kẻ khác. Khi phê phán, họ ngước mắt lên trời, không hẳn để biểu thị sự bất đồng, mà như ngụ ý rằng sự bất đồng của họ được hậu thuẫn bởi những nguồn tối thượng. Có một kiêu hãnh tinh thần len vào mọi cõi, biểu lộ trên bình diện trí tuệ như ngạo mạn, trên bình diện cảm xúc như giáo điều, và trên bình diện thể xác như năng lượng buông thả và sai hướng.

Những tư tưởng và cảm xúc có hại do các kiểu Beech phóng thích sẽ quay trở lại với họ bằng vô số cách, tạo nên dị ứng da, bừng đỏ, cảm giác đầy trướng, căng thẳng tiền kinh và các dấu hiệu, triệu chứng “bốc hoả” khác. Kiểu Beech tự tạo cho mình một vùng đầm lầy của những điều bực dọc, và lạ thay là họ vẫn qua được những bãi lầy do chính họ gây ra.

Nếu điều này nghe có vẻ gay gắt, chúng ta hãy ngay lập tức làm dịu phát biểu bằng lời nhắc rằng các kiểu Beech có thể đổi thay đột ngột và hết sức đáng kể để biểu lộ những thuộc tính của Cung Bác Ái – Minh Triết, điều mà họ sẽ thừa hưởng trong những cảnh huống thuận lợi hơn. Năng lượng của họ đang bị dồn nén dưới cơ hoành ở luân xa tùng thái dương, trong khi lẽ ra phải không ngừng được hướng về trung tâm tim, học cách chuyển tình yêu vị kỷ thành tình yêu vô kỷ, phân ly thành bao gồm, thiếu phân biện thành phân biện nhạy bén giữa cái thực và cái hư, nhạy cảm với bản ngã thành nhạy cảm với Chân Ngã.

Kiểu Beech cần thực hành áp dụng tình thương một cách minh triết và phổ truyền minh triết bằng tình thương trong đời sống hằng ngày. Y cần đưa má bên kia và học đặt mình vào cùng hoàn cảnh như y thấy nơi người khác. Ở mức tốt nhất, kiểu Beech là người lính chân chính của lương tâm, đem sự nâng đỡ bằng tình thương, tính bao gồm, lòng bi mẫn, hài hước và công chính đến với những lý tưởng mà y giữ gìn.

Hornbeam (Carpinus betulus) bare root hedging plants and tree saplings

Cây Đoạn

Có người nói rằng việc làm chẳng giết ai. Điều đó có thể đúng, nhưng chẳng còn nghi ngờ gì là kiệt sức có thể giết. Thân thể có những cách riêng để bày tỏ oán hờn khi bị lạm dụng, và kiệt sức là một cách nó cố gắng phát đi tín hiệu cảnh báo rằng các nguồn lực của nó, thường là nguồn trí tuệ, đang gần tới giới hạn.

Cũng như thân thể con người xây dựng phản ứng khước từ với những điều thuộc vật chất như trong phản ứng dị ứng, thì thể trí của y cũng phát động sự khước từ, ngay cả đối với những điều không ngờ nhất, và thường chỉ sau nhiều năm trôi qua. Trong đa số trường hợp, khước từ trí tuệ biểu lộ ra ngoài như sự thiếu năng lượng, mệt mỏi hay kiệt quệ thần kinh.

Một số trầm cảm bắt nguồn từ thất bại trong việc tự biểu đạt, số khác từ việc quá nhấn mạnh không ngừng vào tự biểu đạt. Tất cả đều có thể đem lại những triệu chứng thể xác của mệt mỏi. Chúng ta có thể chết vì kiệt quệ từ nỗi khổ thuần trí não hoặc từ nỗi đau cảm xúc của một trái tim tan vỡ. Trị Liệu Huyền Môn dạy giá trị của sự thay đổi, của việc đảm nhận những công việc nhỏ, thú vị hay những cuộc dạo chơi để làm nhẹ bớt những đòi hỏi nặng nề của công việc hay phụng sự. Ngay cả y học chính thống cũng coi trọng việc thay đổi phong cảnh hay thậm chí thay đổi nghề nghiệp khi các dấu hiệu kiệt sức hay mệt mỏi dai dẳng xuất hiện.

Kiểu Hornbeam thường quá tổ chức hoá. Lối sống đặt quá nhiều đòi hỏi lên sự chú ý của người ấy, hơn là quá nhiều trách nhiệm. Chú tâm đến chi tiết, gìn giữ trật tự, phong cách “bóng loáng chỉn chu”, v.v., có thể làm phàm ngã được vỗ về, nhưng hiếm khi làm thoả mãn Linh hồn, đấng chủ tể ở bên trong. Và khi “không thấy rừng vì cây”, kiệt sức sẽ kéo đến, hoặc như Kinh Thánh nói, “Không có khải tượng, dân sự bèn bại vong.” (Châm ngôn 29:18).

Sự kiệt sức nơi kiểu Hornbeam không phải là kết quả của một biến cố cụ thể nào, như một cơn bệnh hay một cú thụt lùi (mà gọi tới Olive và/hoặc Gentian). Hornbeam thường là kết quả của một tiến trình phát triển qua năm này sang năm khác. Mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi lời nói và gần như mọi việc làm đối với Hornbeam đều tuỳ thuộc vào việc y có đủ khoẻ, đủ nghỉ ngơi cho nó hay không.

Khi nghĩ về trạng thái Hornbeam, hiện lên hình ảnh một đứa trẻ hay một con vật bị một chiếc gai cắm sâu trong gan bàn chân, và y luôn bị nhắc nhở về nó mỗi khi cần nỗ lực, cơn đau ấy rút năng lượng khỏi hào quang.

Kiểu Hornbeam tích cực học cách phối hợp thời gian với nỗ lực, sử dụng cả hai theo chu kỳ, luôn ghi nhớ chừa chỗ cho nỗ lực, và trên hết, biết dùng năng lượng của hoan hỷ trong mọi việc y làm. Châm ngôn huyền môn thích đáng ở đây là “Hoan hỷ là minh triết, và minh triết là năng lượng”, hàm ý những phẩm tính Cung hai, Bác ái – Minh triết, của Song Ngư.

Heather tree | Flickr - Photo Sharing!

Cây Thạch Nam

Khó khăn chính ở đây là sự bận tâm vô tận với bản thân. Loại hình Thạch Nam muốn tên mình luôn ở trên môi mọi người, muốn trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn. Bà ta muốn có một thính giả bị cuốn hút luôn hiện diện để có thể làm vui thích bằng những khúc ca trữ tình và những câu chuyện ca ngợi về chính mình. Mọi đề tài đều bị lái về hướng đó… bạn nêu lên bất kỳ điều gì và bà ta đều có giai thoại riêng cho nó, được chọn từ vô số ký ức về chính mình. Những nhận xét của bạn trở nên không quan trọng trước dòng chảy ào ạt và sự thành thạo của những câu chuyện cá nhân của bà ta.

Các kiểu Heather rút năng lượng của những ai bị “cầm chân”, đặc biệt là các kiểu Mimulus. Họ phàn nàn gay gắt khi không nhận được phản hồi, khi không có thính giả, hoặc khi chỉ còn những bạn đồng hành kiệt quệ. Họ không thể chịu được cô độc, và nếu có điều gì trục trặc, họ phải giao tiếp với ai đó . . . thường là qua điện thoại nếu không có nạn nhân tức thời.

Tất cả chúng ta đều có một nhành Heather trong cấu trúc của mình và biết cảm giác ức chế khi có tin quan trọng (về mình hay người khác) khiến ta dường như vỡ tung nếu không nói ra. Các kiểu Heather không thể xử lý vấn đề của chính họ nếu không có người tâm sự. Trong thế giới huyền bí, những nhà thông linh lang bạt trở thành mục tiêu cho họ, và họ sẵn sàng trả hậu để được lắng nghe. Liệu pháp dành cho họ không chỉ là phương thuốc hoa Heather, mà họ còn cần được buộc phải lắng nghe—mà không đáp lời—suốt hàng giờ liền, các vấn đề của người khác.

Kiểu Heather tích cực là chiến binh lão luyện của khổ đau và của các chiến dịch vì nhân loại. Y vẫn giữ kỷ luật, nhưng gác lại gánh nặng riêng để giúp kẻ khác lên đường . . . không bằng sự mềm yếu hay lời khuyên cảm tính, mà bằng gương sáng kiên định và sự chăm sóc yêu thương. Đó là vai diễn điển hình của nam tài tử Mỹ Richard Widmark: một cựu binh trận mạc bị tàn phá nghiệt ngã nơi tiền tuyến, chẳng ảo tưởng hay ảo cảm gì về những gì chờ đợi các tân binh mà y được giao huấn luyện khi đưa về hậu cứ. Y là người cha đối với họ, nhưng không phải vú nuôi. Y chỉ đường và cung cấp công lý thô mộc cùng sự nghiêm khắc đầy bi mẫn để đưa đội ngũ mình vào khuôn phép. Y phải gác lại sự nghiệp quân ngũ của riêng mình cho những phận sự nơi vùng nước xoáy hậu cứ . . . y đặt vấn đề của mình sang một bên và chăm lo nhiệm vụ khẩn thiết hơn là chuẩn bị cho người khác; rèn luyện các em trai của mình để đừng lặp lại những lỗi lầm y từng phạm.

NGƯỜI SONG NGƯ TIẾN HOÁ

Lối xuống Âm ty thì dễ: đêm cũng như ngày, cửa Hades đen ngòm luôn mở; nhưng để lần theo bước chân mình và tìm đường trở lên vùng không khí sáng, đó mới là công khó .—Virgil, Aeneid

Nước của Song Ngư là nước của đại dương; vô biên, sâu thẳm khôn cùng, với muôn dòng hải lưu ẩn tàng, phần lớn vô kiến vô tri. Ở Cự Giải, cảm xúc được nuôi dưỡng; ở Hổ Cáp, chúng được tăng cường. Ở Song Ngư, chúng được đưa xuống những vực sâu lớn; dấu hiệu này bao trùm cả những đỉnh cao lẫn những vực thẳm của cảm xúc con người. Là dấu hiệu cuối của hoàng đạo, khởi từ Bạch Dương, Song Ngư có thể được xem như tổng số của kinh nghiệm tập thể của tất cả các dấu hiệu khác.

Vì thế, Con Cá chẳng những phải biết tìm hướng nơi vùng nước nông, nơi có ánh sáng, mà còn phải biết bơi xuống những độ sâu lớn, nơi tăm tối hoàn toàn. Ở đây, trực giác là phương tiện định hướng duy nhất của y. Cái vô kiến hay vô tri vẫn có thể được trực nhận bằng các giác quan nội tâm. Song Ngư biết rằng thấu hiểu và minh triết không phải là quả trái của riêng trí năng; như nhà triết học thâm tín Blaise Pascal từng viết: “Con tim có lý lẽ riêng mà lý trí không hề biết.” (Pensées). Khi Song Ngư học chuyển hoá các năng lượng cảm xúc của luân xa tùng thái dương lên trung tâm tim, y sẽ đạt được những năng lực trực giác như thế.

Hãy nhớ rằng thân thể chúng ta có thành phần nước lớn, chúng ta cũng nên nhớ các giáo huấn thuở đầu Kitô giáo của Đức Jesus về người đánh lưới người. Như cá sống trong nước, con người sống trong một trường liên tục liên kết y với mọi sinh mệnh khác, và qua trường liên tục này y có thể vươn tới mọi sự. Trong tham thiền, mối liên kết vô hình ấy trở nên hiện thực và có thể được dùng để chạm tới bất kỳ ai hay bất cứ điều gì. Tiền đề thứ tư của Minh Triết Ngàn Đời, như đã mô tả trong cuốn sách của tôi, thích đáng ở đây:

Có một trường liên tục liên kết mọi sinh vật lại với nhau đến nỗi một tế bào nhỏ nhất cũng không thể rung động mà không làm cho hiệu ứng của nó được cảm nhận ở tận cùng mé hệ mặt trời.

Ẩn cư có thể giữ vai trò quan trọng trong đời người Song Ngư, nhưng người con chân chính của dấu hiệu này không bao giờ cô độc, vì y có năng lực bẩm sinh để cảm thấy hợp nhất với mọi vật. Ý thức về tự ngã của y được khuếch tán, và mở rộng để bao gồm không chỉ những người quanh mình mà cả toàn thể tạo hoá. Vì thế, Từ Bi và vô tổn hại là hai phẩm chất nền tảng của người Song Ngư đã tiến hoá, đặc biệt khi luân xa tim của họ được khởi hoạt và toả rạng. Họ có khả năng cảm cùng nỗi đau và khổ nạn của tha nhân trong khi vẫn giữ được sự tách biệt cảm xúc rất cần thiết.

Người Song Ngư có thể trở thành các nhà tham vấn tuyệt hảo, nhất là khi họ có thể làm việc ở cấp độ trực giác và nghệ thuật, sử dụng biểu tượng và hình ảnh, và khai thông những hồ chứa sâu thẳm của năng lượng mà các phương tiện ấy mở ra. Những kỹ thuật như vậy được dùng trong tổng hợp tâm lý, do nhà tâm lý học và nhà bí truyền học Roberto Assagioli, chính ông sinh ở Song Ngư, sáng lập. Theo đúng nghĩa, tổng hợp tâm lý là phá vỡ cấu trúc hiện hữu của phàm ngã và tái kiến tạo nó quanh một điểm cao hơn, linh hồn hay Chân Ngã. Như chép trong Luca 22:42: “Dầu vậy, không theo ý con, mà theo ý Cha.”

Trên nhiều phương diện, Song Ngư rất thích hợp với công việc như vậy. Phẩm tính sùng tín nâng đỡ y khi những người khác đã ngã bên đường. Hoặc ngược lại, với những ai lạc khỏi đạo trình, một loại tự huỷ hoại nào đó như rượu, ma tuý, tội phạm và tù đầy có thể đưa y trần trụi trở về trước mặt Thượng đế. Biểu tượng của sự đóng đinh gợi ý cái chết của phàm ngã, vốn là điều kiện tất yếu cho sự tái sinh vào Chân Ngã; sự thăng hoa phàm ngã vào điều gì đó bao la và siêu vượt hơn là một tiến trình tự nhiên của Song Ngư. Là dấu hiệu của đấng cứu rỗi, Song Ngư gợi lần đóng đinh cuối cùng trước khi chuyển hoá vào giới siêu nhân loại, yoga hay sự hợp nhất với Thượng đế.

Sự nhấn mạnh mà Assagioli đặt vào việc tu dưỡng ý chí có thể đem lại lợi ích lớn cho người Song Ngư, vì đây là phẩm chất họ thường thiếu. Khi họ học được cách trở nên phân cực trí tuệ hơn, chế ngự và điều hướng bản chất cảm dục hùng hậu của mình, họ có thể trở thành một lực tái sinh đầy uy lực cho điều thiện trong thế gian, học cách áp dụng tình thương một cách minh triết và truyền trao minh triết bằng tình thương.

Khi ấy họ có thể đem vào thực hành tất cả năng lực tưởng tượng và lý tưởng cao đẹp của mình trong những lĩnh vực như nghệ thuật và phụng sự vô kỷ trong chữa lành hoặc đời sống tôn giáo. Vượt lên tình yêu cá nhân, họ có thể chuyển hoá các năng lượng cảm xúc từ tính phân ly, vị kỷ và bám chấp thành năng lực yêu thương phổ quát và bao gồm, với mối quan tâm vô kỷ và nhân hậu cho toàn nhân loại và khổ nạn của nó, truyền cảm hứng cho những người quanh mình bằng đức tin mạnh mẽ, nhiệt huyết và chiều sâu thấu hiểu.

Người Song Ngư, vì quá say mê các lý tưởng tinh thần, đôi khi thiếu khả năng xử lý các vấn đề vật chất, nhưng những người đã tiến hoá thì biết dựa vào tính thực dụng hành thổ của dấu hiệu bổ trợ là Xử Nữ, và trở thành những người theo đuổi sự hoàn thiện theo nghĩa hết sức thiết thực. Với sự hỗ trợ của Xử Nữ, người Song Ngư có thể tu dưỡng một năng lực phân biện sinh tử, chọn nâng đỡ chỉ những gì họ biết đích thực xứng đáng và đáng công sức. Điều này cho phép họ nhìn thấu kẻ giả trá và bất lương mà vẫn giữ được cảm thức về điều nhiệm mầu và thiêng liêng:

Lại nữa, thiên quốc giống như một mẻ lưới thả xuống biển, bắt đủ mọi thứ cá:

Khi lưới đầy rồi, người ta kéo lên bờ, ngồi xuống mà lựa, thứ tốt thì bỏ vào thùng, còn thứ xấu thì quăng đi. —Ma-thi-ơ 13:47–48

Genius in Pisces—Thiên Tài trong Song Ngư

Không lạ gì khi Song Ngư có thể trội vượt trong bất kỳ lĩnh vực nghệ thuật nào, và các tâm hồn lớn sinh vào dấu hiệu này đều phô bày một yếu tố Song Ngư nào đó trong đời và tác phẩm của họ. Thi sĩ La Mã Ovid, sinh vào Song Ngư, được nhớ đến với những thi phẩm như Ars Amatoria (Nghệ thuật Tình yêu, một luận thuyết xuất sắc về nghệ thuật quyến dụ và mưu lược) và Metamorphoses. Sự sa sút của ông xảy ra vì những cáo buộc vô đạo đức không công bố (thuộc tính Song Ngư) khi ông bị lưu đày tới một góc xa xôi của Hắc Hải. Ông trở thành nguồn cảm hứng lớn cho thời Phục Hưng.

Michelangelo – An Outstanding Talent of The World’s Painting - Nguyen ...

 

Famous Paintings Of Michelangelo

Một người Song Ngư khác, và là nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng của Phục Hưng, là Michelangelo, hoạ sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư và thi sĩ Ý thế kỷ mười lăm, người đã gây ảnh hưởng không ai sánh kịp lên sự phát triển của nghệ thuật phương Tây. Bức tượng David khoả thân của ông đặt ra chuẩn mực mới trong điêu khắc. Phong cách dáng hình hùng tráng của ông được chuyển dịch vào chuỗi bích hoạ nổi tiếng trên trần và phần tường cao của Nhà nguyện Sistine. Những công trình khác ở Rôma gồm mái vòm của Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô. Nhiều dự án ông từng hình dung thậm chí chưa bao giờ được hiện hình hay hoàn tất. Tuy vậy, thành tựu của ông đến mức người ta xem ông đã nâng vị thế của nghệ thuật lên đến độ có thể gọi ông là “il divino Michelangelo”.

Nhiều nhạc sĩ danh tiếng sinh dưới Song Ngư, và một trong những người đáng kể nhất là Handel, nhà soạn nhạc thời hậu Baroque, được nhớ đặc biệt với các opera, oratorio và các tác phẩm khí nhạc, bao gồm oratorio nổi tiếng nhất—Đấng Cứu Thế (Messiah)—và những tác phẩm khác như Âm nhạc Trên Nước (Water Music) và Âm nhạc cho Pháo hoa Hoàng gia (Music for the Royal Fireworks) (tất cả các tựa này đều mang sắc thái Song Ngư). Ông từng nói: “Khi tôi viết Điệp khúc Hallelujah, tôi nghĩ mình đã nhìn thấy cả Thiên Đàng trước mặt, và chính Thượng đế Vĩ Đại.” Trong Đấng Cứu Thế, ông chọn chủ đề biểu tượng chủ chốt của Kitô giáo, khẳng định ơn cứu chuộc và lối thông vào sự sống vĩnh hằng: “Ta biết Đấng Cứu Chuộc ta hằng sống.” Tấm lòng bác ái và các hoạt động từ thiện khiến ông trở nên một nhân vật rất được mến mộ ở Anh quốc.

Một người Song Ngư kiệt xuất khác và cũng là nhạc sĩ là Chopin, nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm Ba Lan của trường phái lãng mạn, được một số người xem là nhà soạn nhạc piano vĩ đại nhất và là một trong những thi sĩ âm thanh vĩ đại nhất của âm nhạc, với trí tưởng tượng siêu phàm và tay nghề âm nhạc kỹ lưỡng. Âm nhạc của ông, lãng mạn và trữ tình, đặc trưng bởi giai điệu tuyệt mỹ đầy độc đáo, hoà âm tinh luyện, nhịp điệu tinh tế và vẻ đẹp thơ mộng.

Hai trong số những vũ công nổi tiếng nhất là người Song Ngư. Vũ đạo vốn thuộc về Song Tử, nhưng Song Ngư chia sẻ tính biến đổi với dấu hiệu này, và có thể biểu lộ tính linh động tuyệt vời trong chuyển động. Vaslav Nijinsky, vũ công ba-lê Nga, được nhiều người xem là vũ công vĩ đại nhất từng sống, dù sự nghiệp của ông bị bi kịch cắt ngắn bởi chứng loạn trí và ông kết thúc đời mình trong một cơ sở điều dưỡng. Rudolf Nureyev, cũng sinh dưới Song Ngư, là vũ công nam xuất chúng và lôi cuốn nhất của thế hệ ông.

Tác phẩm đồ sộ của người Song Ngư Victor Hugo, thi sĩ, tiểu thuyết gia và soạn kịch Pháp, đã cung cấp cú hích lớn nhất cho phong trào lãng mạn, phong trào đặt nhấn mạnh vào cảm xúc hơn là cấu trúc. Trong tiếng Anh, ông được biết đến nhiều nhất qua Thằng gù Nhà thờ Đức Bà Những Người Khốn Khổ, nơi ông khắc hoạ nỗi khổ của nhân loại với lòng trắc ẩn và sức mạnh lớn lao. Về sau, ông trở thành chính khách và cây bút chính trị, khẳng quyết rằng trong Bánh Xe Hoàng Đạo, Song Ngư nằm kề Bạch Dương, dấu hiệu của chính trị và ngoại giao.

Người Song Ngư Maxim Gorky là nhà văn Nga đầu tiên viết với hiểu biết và thương cảm về những kẻ bị đè nén và những hạng người như du thủ du thực và trộm cắp, nhấn mạnh cuộc chiến dũng cảm của họ trước những hoàn cảnh nghiêng lệch. Vở kịch nổi tiếng nhất của ông là Những Tầng Đáy, mô tả những con người bị đẩy xuống độ sâu cùng cực của sa đoạ (Song Ngư) mà vẫn giữ được những phẩm chất tích cực.

Song Ngư cũng đã tạo ảnh hưởng của mình trong thế giới khoa học. Nicolaus Copernicus, một giáo sĩ và nhà thiên văn học người Ba Lan, người đã chỉ ra rằng Mặt Trời, chứ không phải Trái Đất, mới ở trung tâm của Hệ Mặt Trời, là một người Song Ngư có đủ can đảm để thách thức giáo điều Ki-tô giáo đương thời. Bất chấp sự đàn áp thuyết Copernicus do cuộc xét xử giáo hội và việc giam cầm Galileo vào năm 1633 gây ra, một số triết gia Dòng Tên vẫn bí mật là những người đi theo Copernicus, điều đó cho thấy ảnh hưởng của ông lớn đến mức nào.

Albert Einstein, nhà vật lý người Đức nhập tịch Mỹ và là người đoạt giải Nobel, một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời, cũng sinh dưới Song Ngư. Có lẽ là nhà khoa học nổi tiếng nhất thế kỷ 20, thuyết tương đối của ông đã cách mạng hoá tư tưởng khoa học. Nổi tiếng với thiên tài và trí thông minh phi quy ước, ông cũng là người mộ đạo sâu sắc. Như ông từng nói: “Khoa học không có tôn giáo thì què quặt, tôn giáo không có khoa học thì mù loà” (Khoa học, Triết học và Tôn giáo: một chuyên khảo). Einstein là một trong vài nhà vật lý kiệt xuất đã tiên liệu rằng Đức có thể chế tạo một dạng vũ khí hạt nhân trong Thế chiến II. Là người chủ hoà nhiệt thành, ông đã được thuyết phục để viết thư cho Tổng thống Roosevelt cảnh báo rằng Đức có tiềm năng chế tạo bom nguyên tử (xem chương về Sao Diêm Vương).

Nhà bí truyền học nổi tiếng Rudolf Steiner là một người Song Ngư vĩ đại khác và là nhà nhân đạo. Người có thông nhãn, nghệ sĩ, nhà khoa học và biên tập viên, ông đã hình thành giáo lý thần bí và tinh thần của riêng mình, gọi là nhân linh học (anthroposophy). Học thuyết này trình bày thực tại của một thế giới tinh thần, nhấn mạnh rằng thế giới ấy chỉ thật sự khả tri đối với những ai phân cực trí tuệ và đã bẻ gãy mọi bám chấp vật chất. Steiner cũng nổi tiếng với các trường học do ông sáng lập, với trọng tâm vào kịch nghệ, ngôn xướng, hội hoạ, điêu khắc và eurhythmy (một nghệ thuật vận động trong lời nói và âm nhạc). Phương pháp của ông cũng tỏ ra hữu hiệu với trẻ em có khó khăn trong học tập.

Một nhà huyền bí Song Ngư khác là Merwan Sheriar Irani, người lấy tên Meher Baba (“Người Cha Bi mẫn”) sau khi có một mặc khải lúc còn trẻ rằng ông được định phó thác một sứ mệnh thiêng. Mục đích của ông, như ông nói, không phải khởi lập một tôn giáo mới, mà là “tái sinh khí mọi tôn giáo và giáo phái, và kết chúng lại với nhau như những hạt châu trên một sợi dây”.

Edgar Cayce, nhà chữa bệnh bằng đức tin và nhà thông linh người Mỹ nổi tiếng, cũng sinh trong dấu hiệu này. Trong trạng thái xuất thần, ông có thể chẩn đoán bệnh của chính mình và của người khác, mô tả các đời sống trước của con người và dự báo tương lai. Mộ đạo sâu sắc và đọc Kinh Thánh hằng ngày, ông tin rằng mình chỉ là khí cụ mà Đấng Toàn Năng dùng để truyền dẫn tri thức vũ trụ của Ngài.

Nhiệt huyết truyền giáo của Song Ngư có thể khiến y thực hiện những công việc khó tin nhất. Người Song Ngư David Livingstone, bác sĩ truyền giáo và nhà thám hiểm người Scotland, đã mở ra lục địa Phi châu tối tăm, huyền bí cho thế giới Victoria. Một Kitô hữu tận hiến, nhà thám hiểm can trường và nhà vận động chống nô lệ nhiệt thành, Livingstone được xem là một trong những nhà thám hiểm cận đại vĩ đại nhất của Phi châu và là người tiên phong trong việc bãi bỏ buôn bán nô lệ.

CỐT YẾU CỦA SONG NGƯ: BẢN CHẤT VÀ HÌNH THÁI

. . . Ai sẽ dám bằng đôi chân lang thang

Lao vào vực tối bất đáy vô biên

Và xuyên qua mù mịt sờ chạm được để tìm ra

Con đường hoang lạ của mình.

—John Milton, Thiên Đường Đã Mất

Hình thái học là nghiên cứu về hình tướng. Đó là khoa học liên hệ hình dạng của một vật với chức năng của nó. Một ví dụ trong sinh học thực vật cho thấy tính dẹt của chiếc lá là dạng tối ưu để tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và không khí, việc hấp thu hai thứ này là chức năng của lá. Có thể khẳng định rằng các mãnh lực chiêm tinh là một yếu tố đóng góp chính vào cấu trúc của các hình tướng trên Trái Đất. Mặt trời cung cấp sinh lực cơ bản nhưng các chức năng biệt hoá của nó tìm thấy biểu hiện trong các hành tinh và bị điều kiện hoá bởi các dấu hiệu. Những hoán vị luôn biến đổi của chúng ngưng kết nên sự đa dạng phong phú của các hình tướng mà Sự sống Duy Nhất khoác lấy trong thế giới tự nhiên. Theo đó, chiêm tinh là hệ thống bao quát nhất để phân loại chúng. Trong ví dụ trên, tính dẹt của chiếc lá sẽ được xếp loại dưới hình thái học của dấu hiệu Thiên Bình.

Một khảo sát các ký hiệu của chiêm tinh học sẽ luôn hé lộ những chỉ báo hình thái học nói cho chúng ta nhiều điều về bản chất của các dấu hiệu và hành tinh. Chúng không được chọn một cách tuỳ tiện mà được tạo hình để biểu tượng hoá các nguyên lý vũ trụ mà chúng đại diện. Là hệ quả của định luật tương ứng, được diễn tả bằng mệnh đề “trên sao, dưới vậy”, các nguyên lý trừu tượng này biểu lộ trong thế giới hình tướng, và rất thường là trong các dáng hình đặc trưng của ký hiệu. Trở lại ví dụ của chúng ta, nguyên mẫu của Thiên Bình biểu lộ qua những gì dẹt, và tính dẹt được hàm ý bởi ký hiệu Thiên Bình. Nó tựa như mặt cắt của chiếc lá, với nếp gấp gợi đường gân chạy giữa.

00002.jpeg

Song Ngư có thể là một dấu hiệu khó thấu hiểu. Nó mang tất cả tính lẩn tránh của loài cá đại diện cho mình. Đôi khi nó bị gọi là “thùng rác của hoàng đạo” chỉ vì một số nhà chiêm tinh, không biết đặt một phẩm chất hay một nét tính cách nào đó vào đâu về mặt chiêm tinh, đã tuyệt vọng quẳng nó vào Song Ngư. Khó khăn như vậy nảy sinh với Song Ngư bởi vì nó cai quản cái ẩn tàng hay vô tri. Với dấu hiệu này, chúng ta nên nghĩ đến những gì ở dưới lòng đất, trong vực thẳm, hay dưới sâu lòng biển. Nó gắn với những điều sâu kín, huyền nhiệm, thậm chí diệu kỳ, và không thể hiểu được:

. . . và tối tăm ở trên mặt vực sâu. Thần của Thượng Đế vận hành trên mặt nước. —Sáng thế ký 1:1

Vì vậy, không ngạc nhiên khi hình thái học của Song Ngư không hiển lộ rõ như một số dấu hiệu khác của hoàng đạo. Ngay cả vài yếu tố đời thường nhất của đời sống hiện đại cũng có thể gợi lên điều gì đó về tự tính của dấu hiệu phi phàm này. Trong các chuyến thuyết giảng, tôi thường đi về phía bắc theo xa lộ M1 từ London tới Sheffield, nơi tôi không bao giờ không bị ấn tượng bởi những tháp giải nhiệt khổng lồ của các nhà máy điện dọc theo con đường ấy. Hình dáng của chúng tạo nên ký hiệu Song Ngư—hai đường cong ôm theo hai hướng đối nghịch.

00003.jpeg

Thực ra, người ta dùng nước trong các tháp làm mát này. Song Ngư cũng là hình của những sườn núi uốn cong hai bên của miệng núi lửa, vốn thuộc Sao Diêm Vương, hành tinh cai quản Song Ngư. Vậy nên không lạ khi Song Ngư gợi những gì nằm sâu dưới bề mặt, ẩn giấu và vô hình.

Ký hiệu cũng gợi kiểu túi cũ làm bằng da hay vải với một vòng dây cột quanh phần giữa để buộc lại. Điểm ở đây là tiền bạc, của quý hay các vật khác được giữ kín trong túi. Thực vậy, bất kỳ hang động, khoang rỗng, túi áo, bao tải hay chiếc túi nào, nơi đồ đạc được che giấu, đều thuộc dấu hiệu bí nhiệm và huyền hoặc này.

Vì vậy, bất cứ điều gì chưa biết đều thuộc Song Ngư, kể cả những lắt léo thường nhật đơn giản như không biết đường đến ga hay mấy giờ rồi. Không biết một điều gì không có nghĩa là thông tin ấy không tồn tại, mà là nó đang bị che màn hay bị giấu kín. Trong thần thoại và truyền thuyết, Song Ngư thường được biểu trưng bằng hình tượng “kẻ ngây dại”, ngây thơ và vô tội nhưng có phẩm tính đặc biệt là mở lòng trước điều kỳ diệu, như nhân vật Parsifal trong truyền thuyết về Chén Thánh.

Yếu tố vô minh cứ lặp đi lặp lại nơi Song Ngư phản chiếu trong ký hiệu của nó, rất giống chữ X. Đây là biểu tượng thường dùng cho một số hay đại lượng chưa biết trong đại số, hoặc cho một người bí ẩn mà ta gọi là “Ông X”, người có căn tính được giữ kín. X cũng có thể chỉ nhiều thứ khác, như dấu của người không biết viết, hoặc dấu chỉ một câu trả lời sai.

Giữ kín một phần đời mình, giấu khỏi mọi người khác, là thói quen phổ biến nơi người Song Ngư. Dấu hiệu này gợi nên bầu khí, hay tinh thần của những nơi chốn hoặc hoạt động bí mật, ẩn tàng. Sao Hỏa ở Song Ngư gợi ý đến các thực hành tính dục che giấu, vốn thường đi kèm với mặc cảm tội lỗi mạnh mẽ hay tự ghê tởm, là những đặc điểm khác của dấu hiệu này. Những ai được nhồi vào đức tin Công giáo La Mã hoặc xuất thân từ các nền tảng rất sùng giáo tương tự thậm chí cảm thấy tội lỗi với những hành vi tính dục vô tội như thủ dâm.

Ít ai trong chúng ta chưa từng trải qua cảm giác tội lỗi, điều mà ta thường muốn giấu đi khỏi mọi người, trừ, có lẽ, lương tâm hay Thượng đế. Cảm giác kinh hoàng vì đã phạm một tội ác ghê gớm, và không sao rũ bỏ được nó, được minh họa điển hình nơi Lady Macbeth, người mà tham vọng tàn nhẫn đã khiến Bà khích lệ chồng bước vào một sự nghiệp bí mật, đẫm máu của những vụ sát hại. Khía cạnh chiêm tinh cho điều này sẽ là Sao Thổ ở Song Ngư tại nhà tám. Lady Macbeth không thể rũ sạch vết nhơ (Song Ngư) của tội lỗi: “Biến đi, vết nhơ đáng nguyền rủa! Ta bảo, Hãy biến đi!”

Song Ngư cai quản bất cứ thứ gì bị lấm bẩn hay hoen ố, nhơ nhuốc hay bị chà nhoè. Những thứ gây ô uế, không hẳn do vi trùng, mà do ô nhiễm, thuộc dấu hiệu này. Nó gợi đến rác bẩn, bùn nhơ và ô uế, và những gì bị làm nhục, ô tạp, hay bị nhiễm bẩn. Nó cai quản con heo và lợn rừng, những loài thích đào bới và đầm mình trong bùn. Song Ngư cũng là sự bôi nhọ một ai đó và sự cầm tù họ tiếp theo. Đó là kẻ tội nhân cảm thấy y đã làm ô uế linh hồn mình.

Tuy vậy, đây cũng là dấu hiệu của sự cứu rỗi, nhất là qua đức tin và sự sám hối. Việc xưng tội được linh mục lắng nghe và tha tội được ban. Mặt Trời ở Song Ngư có thể là sự ân xá hoàng gia, tức sự tha thứ đến qua một sắc chỉ hoàng gia. Đôi khi, tuy nhiên, ân xá hoàng gia lại che chở cho kẻ có tội.

Hoài nghi và những việc đáng ngờ thuộc dấu hiệu này, như thám tử và công việc điều tra. Bất cứ điều gì lật đổ đều liên hệ ở đây, cũng như vấn đề gián điệp, ở một mức độ nào đó. Ngày nay gián điệp phổ biến trong lĩnh vực công nghiệp hơn là trong các vấn đề quốc tế. Ma Kết ở nhà mười hai, hoặc Song Ngư ở nhà mười, sẽ gợi ý đến gián điệp công nghiệp, một yếu tố lớn thời nay, khi các công ty lớn tranh đấu để giữ kín công thức hay phát triển mới nhất của họ khỏi đối thủ. “Mật vụ khiêu khích” là một nhân vật khét tiếng vào cuối thế kỷ trước: bị cài vào một nhà máy, y sẽ gieo rắc đủ thứ lời lẽ nhơ bẩn nhằm phá hoại tinh thần, dẫn đến những cuộc phản kháng ầm ĩ và bạo lực của Sao Diêm Vương nghịch hành (xem chương bảy), khiến toàn bộ tương lai của nhà máy bị đặt vào hiểm nguy.

Bất cứ điều gì bị che đậy, bí mật, kín bưng, đáng ngờ, thủ đoạn, giấu giếm hay mưu đồ đều áp vào Song Ngư, thế nên chẳng lạ khi dấu hiệu này mang tiếng như vậy. Song Ngư gợi những thứ còn tiềm ẩn, bị che khuất và chưa biểu hiện. Đây cũng là dấu hiệu của kẻ thù bí mật; những kẻ ôm ấp hằn thù kín đáo với bạn và mưu hại bạn, còn bạn thì không hay biết.

Thật bất ngờ là bao nhiêu kẻ thù bí mật dần bị lộ diện khi bạn lớn tuổi hơn; bạn có thể nghe về họ theo cách vòng vo, hoặc khi họ qua đời, họ để lại thứ gì đó bộc lộ rằng họ đã từng tích cực chống lại bạn theo một cách nào đó. Mới gần đây thôi, ở Đông Đức cộng sản cũ, hàng ngàn đứa trẻ theo dõi cha mẹ mình, và người ta thậm chí báo cáo về bạn đời của họ cho cảnh sát mật. Bởi vậy, mọi dạng mật vụ đều thuộc Song Ngư, cũng như các hội kín như Hội Tam điểm.

Bất cứ thứ gì tối tăm, không có ánh sáng, trong bóng râm, hay không nhìn thấy, đều thuộc Song Ngư, nhất là khi dấu hiệu này bị chắn trong lá số, cho hình ảnh, về mặt hình thái, như một chiếc áo choàng che chắn hay che giấu ai đó hay điều gì đó.

00004.jpeg

Với cách cục này, mọi chuyện đều bị “choàng áo”, che đậy và còn lén lút, kín đáo hơn mức thường thấy ở dấu hiệu này. Nó gợi sự lẩn trốn của kẻ đào tẩu, ẩn náu ở một nơi tối tăm. Những kẻ cướp giật và những hành lang đen tối rùng rợn nơi chúng ẩn mình cũng thuộc Song Ngư, nhất là khi những kẻ cướp ấy là người da đen. Tôi phải nói thêm rằng tôi không hề có ý bóng gió phân biệt chủng tộc ở đây, mà chỉ đang trình bày vài phẩm tính điển hình của dấu hiệu này. Màu đen từng là một màu bị sợ hãi lớn trong thời trước, vì nó gợi đến vô thức và điều chưa biết. Những chiếc áo choàng đen trùm đầu của giới giáo sĩ xưa kia từng khơi dậy sự kính nể, thậm chí nỗi sợ, nơi dân chúng, cũng như những áo đen của phong trào phát xít thập niên 1930. Chủ nghĩa phát xít cũng được liên hệ với Sao Diêm Vương, như chúng ta sẽ thấy sau.

Sự đen tối của Song Ngư là bóng tối của âm phủ, ẩn dưới lòng đất, nơi không ánh sáng nào xuyên thấu và chẳng thấy trần hay trời, như Dylan Thomas mô tả trong Under Milk Wood: “… bầu trời không sao và đen kịt như Kinh Thánh”. Còn bóng đen của đêm, thuộc về Sao Hải Vương và Cự Giải, vì hình dạng mơ hồ của mây hay sao vẫn luôn nhìn thấy được.

Song Ngư cai quản tội phạm và thế giới ngầm tội ác, cùng những thứ bất hợp pháp và trộm cắp, những điều không ngay thẳng, xiêu vẹo hay “cong quẹo”, nhất là theo nghĩa tội phạm. Trộm cắp, cướp bóc và gian ác đều thuộc dấu hiệu này. Chiếc bao và chiến lợi phẩm bị bọn trộm đêm, bọn buôn lậu hay hải tặc khuân đi, kẻ tiêu thụ đồ gian cũng thuộc Song Ngư. Đây là dấu hiệu của hình phạt, của kẻ tội đồ, tù nhân, nhà giam, ngục thất, của mọi cơ sở giam giữ. Nó cũng gợi ngành hình phạt học, tức việc nghiên cứu về trừng phạt; xem một tội phạm bị trừng phạt thế nào, và tác động của hình phạt ấy lên y ra sao, là lành hay độc hại.

Khẩu súng lục, hay khẩu shotgun cưa nòng dễ giấu dưới áo khoác và được thành phần tội phạm ưa dùng, thuộc Song Ngư. Loại súng này thường được dùng trong các vụ cướp bóc và từng gắn với câu “Giơ tay lên!” Súng trường nòng dài thích hợp hơn đặt dưới Nhân Mã, dấu hiệu cai quản những thứ kéo dài và bắn xa khoảng cách lớn.

Bằng cách bí nhiệm của mình, Song Ngư ôm trọn nhị nguyên của cả thấp nhất lẫn cao nhất trong đời sống, của tội ác và Kitô giáo, của thánh nhân và tội nhân, của thiện và ác (Đức Jesus, dĩ nhiên, được nói là đã bị đóng đinh ngang hai kẻ tội phạm):

Nơi nào Đức Christ lập Hội Thánh của Ngài, quỷ dữ trong cùng nghĩa trang ấy sẽ có ngôi nguyện đường của nó .—Richard Bancroft

Kitô giáo, đức tin, sùng tín, tin tưởng, tôn kính và thờ phượng đều thuộc Song Ngư, dấu hiệu của Đấng Mê-si-a và Đấng Cứu Thế. Đặc biệt, đây là dấu hiệu của tôn giáo sùng tín Công giáo La Mã, trong khi Xử Nữ, dấu hiệu bổ túc của nó, là dấu hiệu của Kháng Cách, vốn trỗi dậy từ nỗi ghê tởm trước sự suy đồi và ô uế của đức tin vào thời Cải cách. Hồi giáo cũng thuộc Xử Nữ, và những người cực đoan của tôn giáo này biểu lộ sự cuồng nhiệt và sùng tín rất Song Ngư đối với tín niệm của họ. Vụ tắm máu mới đây do những kẻ khủng bố Hồi giáo cực đoan gây ra tại Luxor ở Ai Cập chỉ làm tăng thêm những tội ác kinh hoàng đã được nhân danh tôn giáo.

Bất cứ khi nào vấn đề tôn giáo nổi lên trong việc luận giải lá số, bạn có thể chắc rằng Sao Diêm Vương, Song Ngư hoặc nhà mười hai sẽ liên can. Song Ngư cũng là dấu hiệu của đời sống tu viện, của nhà sư và sự tự giam mình trong phòng tu hay tu viện. Vị tu sĩ trùm mũ, mặt mày che khuất và hình ảnh toát ra hào quang sùng tín và huyền nhiệm là một biểu tượng mạnh mẽ cho dấu hiệu này.

Từ “mặt nạ” là quan trọng cần ghi nhớ với Song Ngư. Dấu hiệu này gợi nên dạ hội hóa trang hay vũ hội đeo mặt nạ nơi ai cũng xuất hiện trong cải trang, ẩn sau chiếc mặt nạ. Những người ngoài hành tinh và các vật thể bay không xác định, thực ra, là một mặt nạ đằng sau đó một số yếu tố của tâm lý con người đang biểu lộ, và hiện tượng này, do đó, có thể đặt dưới Song Ngư và sự suy tàn của Kitô giáo khi chúng ta đang rời Kỷ nguyên Song Ngư.

Thiên niên kỷ mới đã mở ra bằng một kiểu vũ hội hóa trang được diễn trong các phim như Heaven’s Gate; loạt phim truyền hình rất đúng tên The X-Files; những người nghiên cứu vật thể bay không xác định khăng khăng rằng các cuộc điều tra của họ đang bị che đậy hay kiểm duyệt; và còn đen tối hơn, chủ nghĩa khủng bố của những nhóm như giáo phái “OM” của Nhật dùng hơi độc trong hệ thống tàu điện ngầm; IRA; những người ly khai xứ Basque; Mafia Ý; vân vân. Các hiện tượng bí ẩn như “vòng tròn đồng ruộng” (Xử Nữ cai quản ngũ cốc) tiếp tục gây tranh cãi. Có cái đã chứng minh là trò lừa bịp, trong khi những cái khác vẫn chưa có lời giải thích hiển nhiên.

Thần linh học cũng thuộc Song Ngư, cũng như người đồng tử thường trùm khăn hay ẩn sau tấm màn, và chính buổi gọi hồn thường được tiến hành trong nơi tối tăm, kín đáo. Từ những ngày đầu, Thần linh học luôn bị đeo bám bởi những đồng tử gian dối, thậm chí lưu manh, họ thường mang đến ngờ vực và tai tiếng cho một tổ chức vốn dĩ đáng kính.

Ở mức tinh tế nhất, Song Ngư là dấu hiệu của huyền bí, vốn từng có nghĩa là những giáo huấn được che kín, bí truyền, hoặc chỉ dạy cho số ít được chọn. Trong số các Kitô hữu thuở sơ khai, giáo huấn chân thực được dành cho người được điểm đạo, còn vỏ trấu, tức hiện thể bên ngoài, được trao cho quần chúng. “Còn các con,” Đức Jesus bảo với các môn đồ, “thì được ban cho biết các mầu nhiệm Nước Trời; còn đối với những kẻ ở ngoài, mọi sự đều được nói bằng dụ ngôn.” (Mark 4:11). Nay khi chúng ta đang tiến gần Kỷ nguyên Bảo Bình, những giáo huấn ấy không còn bị che giấu mà đang được đưa ra, để tri thức từng chỉ giới hạn cho số ít nay trở nên sẵn có cho tất cả. Giờ đây chúng ta dùng từ huyền bí theo nghĩa tinh thần, chỉ những gì là bên trong, hay khởi phát từ nội tâm, điều này cũng là Song Ngư.

Song Ngư có cảm thức mạnh mẽ về điều kỳ diệu và phép mầu và thích tin vào huyền thuật, vào sự can dự của các lực thiêng liêng. Đây là dấu hiệu của sự mặc khải, của những điều thiêng liêng, thánh thiện và kỳ diệu, của sự tôn kính và những điều được chúc phúc. Nó gắn với những điều lạ lùng khiến ta sững sờ kinh ngạc, nhất là khi chúng có hàm ý tôn giáo. Trong dấu hiệu này xuất hiện những trạng thái siêu thăng nhất, như cực lạc, hoan lạc của kinh nghiệm tôn giáo và hợp nhất với Thiêng Liêng.

Đây là dấu hiệu của thị kiến và phép lạ, và mọi đáp ứng mà trải nghiệm một phép lạ khơi dậy. Nó gợi những phép lạ Kinh Thánh như Môi-se dùng gậy đập đá làm trào ra nước bị che giấu; giấc mơ của Gia-cốp về chiếc thang bắc lên trời; chuyện nuôi năm nghìn người bằng hai con cá và năm chiếc bánh, vân vân. Đó là cái khiến người ta không thể tin; vì đây là dấu hiệu của “Tôi tin”, và mọi lời lẽ gắn với Kitô giáo suốt các thế kỷ. Nó là điều bất khả thuyết, không thể mô tả và không thể biểu đạt. Ngay cả những điều tầm thường hay phổ tục nhất cũng có thể hiện ra linh thiêng đối với người Song Ngư, trong hoàn cảnh thích hợp. Như nhà thơ siêu hình John Donne từng viết: “Không có gì mà Thượng đế đã thiết lập trong dòng chảy thường hằng của tự nhiên, và vì thế xảy ra hằng ngày, lại không có vẻ là một Phép Lạ và khơi dậy lòng thán phục của chúng ta, nếu như nó chỉ xảy ra một lần.” (Sermons). Với người thầy của huyền bí học, ít có gì kỳ diệu hơn việc có một tín đồ Song Ngư chân chất mà chưa được thông tin theo làm học trò. Không phải ai cũng là ứng viên thích hợp để tiếp nhận điều nhiệm mầu, nhưng những ai thích hợp thì chắc chắn có thể trải nghiệm điều kỳ diệu.

Thường nơi Song Ngư, điều có vẻ như phép lạ thực chất chỉ là trò lừa. Nếu ta lộn trong ra ngoài ký hiệu của Song Ngư, nó cho ta đường viền của một chiếc thuyền. Theo một cách đọc Cựu Ước, con tàu của Nô-ê được nói là đã cập bến sau trận hồng thủy trên triền núi Ararat. Đường viền phần còn lại được cho là của con thuyền, hiện ra như một huy hiệu Song Ngư lộn ngược, rõ ràng cho mọi người thấy, đã được quân đội Thổ Nhĩ Kỳ khảo sát trên cao Ararat. Người ta nói toàn bộ sự việc là một trò bịp (Song Ngư) do một nhóm người cuồng tín Kitô giáo dàn dựng, nóng lòng muốn xác nhận các chân lý của Kinh Thánh, nhưng tranh cãi vẫn tiếp diễn với tiết lộ gần đây rằng CIA đã giữ một hồ sơ mật về hiện tượng này suốt gần năm mươi năm.

Khi đoạn này được viết, và tôi đang chiêm ngưỡng biểu tượng Con Tàu của Nô-ê, một con bồ câu bay vào cành thấp nhất của cái cây gần nhà tôi và ngồi chải chuốt mình trong nắng tàn: “Buổi chiều, chim bồ câu trở về với ông, và kìa, trong miệng nó có một chiếc lá ô-liu vừa bứt: thế là Nô-ê biết rằng nước đã rút khỏi mặt đất.” (Genesis 8:11). Với tác giả, một sự trùng hợp ý nghĩa như thế, khi một loài chim biểu tượng cao như bồ câu bay đến đậu vào một thời khắc quá thích đáng, gần nơi minh triết đang được gỡ rối, là một phép lạ nhỏ, và vì vậy thuộc Song Ngư.

Một phép lạ hay một thị kiến thường đã hoán cải kẻ không tin. Thánh Phao-lô, từng là người hăng hái bách hại các Kitô hữu đầu tiên, đã được hoán cải trên đường đến Damascus bởi một thị kiến về Đức Christ, điều dẫn Ngài trở thành nhà truyền giáo vĩ đại nhất của Kitô giáo. Hoàng đế La Mã Constantine là một ví dụ tương tự. Đêm trước trận chiến với đối thủ Maxentius, Ngài mộng thấy Đức Christ hiện ra bảo Ngài khắc hai chữ cái đầu trong danh Ngài bằng tiếng Hy Lạp—X (chi), và P (rho)—lên khiên của quân lính. Biểu tượng này, về sau gọi là Labarum, thật hợp lẽ khi kết hợp cả ký hiệu của Song Ngư và của chủ tinh của nó, Sao Diêm Vương:

00005.jpeg

Hôm sau Constantine thấy một cây thập giá chồng lên mặt trời và những lời “Bằng dấu này ngươi sẽ chiến thắng”. Ngài sau đó đánh bại Maxentius và được tung hô là đấng cứu rỗi dân La Mã. Trước kia là người thờ mặt trời ngoại giáo, thị kiến và thành công tiếp theo đã dẫn Ngài đến với đức tin Kitô giáo. Ngài lấy Labarum làm cờ hiệu đế quốc, và là vị hoàng đế đầu tiên trị vì nhân danh Đức Christ, Ngài là một nhân vật chủ chốt trong nền tảng của châu Âu Kitô giáo thời trung cổ.

Labarum, thực ra, là một biểu tượng rất cổ từng được người Canh-đê dùng. Sau khi Constantine sử dụng, nó được Kitô hữu tiếp nhận như ký hiệu chi-rho, được dùng làm biểu tượng cho Đức Christ và cho Kitô giáo nói chung. Nó trở thành một yếu tố trang trí phổ biến trong nghệ thuật Kitô giáo sơ kỳ và Byzantine, và được trưng trên những cờ phướn giáo đường mang trong các cuộc rước, cũng như trên mọi chuẩn mực hay chỉ nam luân lý.

Một biểu tượng cổ khác trở thành huy hiệu của Đức Christ là con cá, vốn, dĩ nhiên, cũng tượng trưng cho Song Ngư. Những bữa ăn cá và sự hiến tế từng được long trọng cử hành trong nghi lễ thờ phượng các vị thần âm phủ. Cùng với bánh và rượu (Song Ngư), chúng là những bữa tiệc bí tích của các tôn giáo huyền bí và, về sau, của Kitô giáo. Một số học giả cũng gợi ý rằng biểu tượng này được tiếp nhận vì điểm xuân phân đang chuyển vào dấu hiệu của đôi cá, mở ra thời đại Song Ngư.

Hai con cá của Song Ngư thường được vẽ đầu nối đuôi, hoặc bơi ngược chiều nhau, phản chiếu năng lực của dấu hiệu này trong việc tạo ra những biểu hiện cực đoan và đối nghịch, thậm chí tự chống lại mình để tự chuốc lấy diệt vong. Song Ngư có thể bơi từ cực thái này sang cực thái kia, từ cái cao diệu đến cái nực cười. Thường hai con cá được vẽ với một dây nối buộc chúng lại, như những tù nhân của nhau.

Trong Kitô giáo, cá tượng trưng cho các môn đồ đang bơi trong dòng nước của sự sống. Chúng liên hệ với phép rửa, sự phục sinh và bất tử, biểu trưng cho lần điểm đạo thứ hai. Phép rửa tại sông Gio-đan là một nghi lễ hằng ngày khắp các tu viện Ê-xê-nê ở sa mạc Pa-lét-tin. Nó tượng trưng cả sự thanh tẩy (Xử Nữ) và sự tái sinh nghi lễ. Các Kitô hữu đã chịu phép rửa tự xem mình là những con cá mới sinh trong nước của phép rửa. Các Giáo phụ Kitô giáo sơ kỳ gọi tín hữu là pisciculi, và các Tông đồ, những môn đồ được chọn của Đức Jesus, người được sai đi rao giảng phúc âm, được xem là những kẻ lưới người: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con thành người lưới người.” (Matthew, 4:19). Con cá cũng là một biểu tượng bí mật cho chính Đức Jesus, và từ Hy Lạp chỉ cá (ichthys) được diễn giải như một chữ đầu câu của các từ Iesous Christos Theou Huios Soter (Jesus Christ, Con của Thượng đế, Đấng Cứu Rỗi). Nhiều phép lạ của Đức Jesus liên quan đến cá và nước. Các Phúc Âm ghi lại những sự kiện như thả lưới bắt cá; Đức Jesus đi trên mặt nước; biến nước thành rượu.

Chúng ta cũng thấy rắn có liên hệ với Song Ngư. Vào thời Kinh Thánh, con rắn được gắn với điều ác, dẫu không phải lúc nào cũng thế; trong truyền thống huyền bí, chúng từ lâu là biểu tượng của minh triết và tính chu kỳ của sự sống. Rắn, dĩ nhiên, ẩn náu trong hang hốc. Hang động thuộc sự cai quản của Song Ngư; những ngõ ngách sâu và tối của chúng, đôi khi bị niêm kín, thường chứa đựng minh triết, hoặc những vật có tính tôn giáo ẩn giấu trong đó, như các Cuộn sách Biển Chết của Ê-xê-nê, nằm ẩn trong 2.000 năm và chỉ mới được phát hiện gần đây.

Trong nghệ thuật của Chính Thống giáo Đông phương, sự giáng sinh của Đức Christ gần như luôn được mô tả diễn ra trong một hang động (điều mà, ở Pa-lét-tin, thường là chuồng súc vật): “Trời cao, hãy rơi móc xuống, và mây hãy mưa đức công chính; đất hãy mở ra, và một Đấng Cứu Rỗi trỗi dậy.” (Isaiah 45:8) Hình họa hang động như một vết nứt trên đất đôi khi tượng trưng tử cung. Về giải phẫu, Song Ngư cai quản tử cung phụ nữ, vốn có hình hang, và cửa vào “hang” ấy là cổ tử cung, một nơi chủ yếu của những rối loạn ẩn kín. Trong thai kỳ, cổ tử cung bịt kín lối ra bằng một nút nhầy để bảo vệ sự sống đang hình thành bên trong. Tại đây, phép mầu của sinh nở xuất hiện. Ở cấp độ cao hơn, Song Ngư cũng tượng trưng cho bào thai tinh thần đang lớn lên trong lòng người đệ tử, con người trên Thánh Đạo, sau phép rửa bởi lửa của Tinh thần.

Thi hài Đức Jesus, dĩ nhiên, đã được đặt trong một hang động sau cuộc đóng đinh và trước phép lạ phục sinh tiếp theo. Tất cả chúng ta, ở một nghĩa nào đó, đều “chết” và chưa thật sự thức tỉnh cho đến khi đạt được sự nhận biết Chân Ngã của mình, điều mà theo thuật ngữ Kitô giáo là Đức Christ bên trong. Đây, dĩ nhiên, là ý nghĩa thực sự hay ẩn giấu của phục sinh, vốn không có nghĩa là các mồ mả của người chết sẽ mở ra theo nghĩa đen và mọi xác chết sống lại. Đúng hơn, nó hàm ý rằng cái chết chỉ là sự chuyển tiếp vào một trạng thái hiện hữu khác.

Hang động là biểu tượng có tính cao trong thần thoại và truyền thuyết. Người xưa tôn kính chúng như những nơi chốn nơi chư thần, anh hùng, đấng cứu thế, các thần linh và quỷ quái sinh ra, sống hay chết. Gấu, một loài khác do Song Ngư cai quản, thích ẩn mình trong hang. Hang động thường được xem là biểu tượng của âm phủ và là lối vào cõi người chết. Song Ngư cai quản mồ mả và nhiều nền văn hóa chôn người chết trong những hang động như mê cung—Hầm mộ Rô-ma cất giữ di hài của nhiều vị tử đạo Kitô giáo sơ kỳ.

Người xưa cũng liên hệ hang động với minh triết nội tại huyền bí bị che giấu và xem chúng là nơi gặp gỡ của thần linh và con người, là nơi hợp nhất giữa Tự Ngã và phàm ngã. Do đó, không có gì lạ khi chúng đóng vai trò quan trọng trong các nghi lễ điểm đạo như các Mầu nhiệm Eleusis, những nghi lễ thiêng từng là lễ hội tôn giáo quan trọng nhất ở Hy Lạp cổ đại. Đúng với Song Ngư, bản chất và mục đích của các nghi lễ này vẫn còn phủ màn bí ẩn. Người ta tin rằng câu chuyện Demeter tìm kiếm con gái Persephone trong âm phủ, người bị Sao Diêm Vương bắt cóc (xem chương bảy), đã được tái hiện trong lễ điểm đạo, và liên quan đến sự tìm kiếm bất tử và hạnh phúc trong một thế giới tương lai. Trong những nghi lễ như vậy, một cái chết hay sự kết thúc mang tính biểu tượng diễn ra trước khi tái sinh và soi sáng.

Ẩn dụ nổi tiếng về hang động của Plato trong The Republic mô tả trạng thái vô minh tinh thần mà phần lớn chúng ta đang sống. Ông miêu tả những cá nhân bị giam cầm (Song Ngư) sâu trong ngõ ngách của một hang động. Bị xiềng xích đến mức tầm nhìn bị hạn chế, họ không thể thấy nhau. Điều duy nhất nhìn thấy là bức tường hang nơi bóng hình xuất hiện, do các mô hình hay tượng thú vật và đồ vật được đưa qua trước một ngọn lửa cháy sáng. Phá xiềng, một người thoát ra khỏi hang để bước vào ánh sáng ban ngày. Với sự trợ giúp của mặt trời, lần đầu tiên y thấy thế giới thật và trở về hang mang thông điệp rằng những thứ họ từng thấy chỉ là bóng và bề ngoài, và rằng thế giới thật đang đợi họ nếu họ chịu đấu tranh để thoát khỏi xiềng xích.

Môi trường u tối của hang tượng trưng đối với Plato thế giới vật chất của bề ngoài. Thoát ra không gian tràn nắng ngoài hang biểu thị sự chuyển tiếp đến thế giới thật, thế giới nội tâm của tồn tại đầy đủ và hoàn hảo. Như Robert Browning viết trong bài thơ Paracelsus:

Sự thật ở trong chính ta; nó không khởi lên

Từ ngoại vật, dẫu ngươi có tin thế nào.

Có một trung tâm thâm vi trong mỗi chúng ta,

Nơi sự thật cư ngụ trọn vẹn; và chung quanh,

Tường lớp này lớp khác, xác phàm thô kệch bao vây nó,

Sự tri giác hoàn hảo, trong sáng này—ấy là chân lý.

Một mạng lưới xác thịt rối rắm và xuyên tạc

Trói buộc nó, và tạo ra mọi sai lầm: và hiểu biết,

Đúng hơn là mở ra một lối

Từ đó vẻ huy hoàng bị giam cầm có thể thoát ra,

Hơn là tìm cách đưa vào một nguồn sáng

Được cho là từ bên ngoài.

Cụm từ “vẻ huy hoàng bị giam cầm” rất mang sắc thái Song Ngư; Song Ngư cai quản nhà tù và những gì rực rỡ, kỳ diệu, lạ lùng, tuyệt mỹ. Nó cũng gợi khái niệm huyền bí về “bức màn Ảo lực”, trong đó tinh thần được xem là bị vật chất che phủ. Tất cả chúng ta đều bị bức màn duy vật này cầm tù, và chỉ những ai có thể, như người tù của Plato, chối bỏ nó và tìm kiếm điều cao hơn, mới có thể thấy chân lý.

Với tư cách là những nơi điểm đạo, hang động là những nơi bí mật, và trong thần thoại lẫn truyền thuyết, lối vào của chúng được canh giữ khỏi phàm nhân bởi một mê cung hay lối đi nguy hiểm, hoặc bởi một quái vật hay nhân vật siêu nhiên nào đó. Trong thần thoại Hy Lạp, đó là con chó nhiều đầu, Cerberus. Con chó là một biểu tượng khác của Song Ngư và thời xưa, chó được coi là người giữ ranh giới giữa thế giới này và thế giới bên kia, hay là vệ binh của âm phủ. Con chó cũng đại diện cho những phẩm tính mạnh mẽ rất Song Ngư là lòng trung tín, sùng tín, trung thành và vâng phục, vì Cung sáu của Tình thương và Sùng tín rất nổi bật trong dấu hiệu này.

Tính e dè của chó rừng, sự quyết chí của chó sói, sự ranh mãnh của linh cẩu và lòng tận tụy của thú cưng trong nhà—tất cả thuộc về Song Ngư, và chủ tinh của nó, Sao Diêm Vương. Con người về mặt tâm lý có thể mang tất cả, hoặc ít nhất một phần, những đặc tính này. Trong nghề chính trị vốn đa đoan, Winston Churchill, “chú chó bulldog”, đã gọi Mussolini, kẻ rỉa rói quanh xác chết nước Pháp bại trận, là một con chó rừng.

Con chó cũng có thể gợi đến các lực của vô thức và sự bùng vỡ của chúng vào tâm thức hay sự rút đi khỏi tâm thức. Trong những năm bị thất sủng chính trị, trước khi Thế chiến II bùng nổ, khi dường như chỉ còn một mình ông lên tiếng chống lại mối đe dọa Đức quốc xã đang dâng lên, Winston Churchill bị hành hạ bởi những cơn trầm cảm định kỳ, mà ông gọi là “con chó đen” của mình. John Milton mô tả nỗi giày vò tương tự trong ‘L’Allegro’, bằng một ngôn ngữ đầy những thuật ngữ sắc thái Song Ngư:

Hãy cút đi, đáng-ghét Nỗi U Sầu,

Sinh từ Cerberus, và Đêm Đen nhất,

Trong hang động Stygia hiu quạnh

’ Giữa những hình thù kinh khủng, những tiếng thét và cảnh tượng phạm thánh .

Cerberus là con chó canh cửa cảnh giác, canh giữ lối vào âm phủ của Sao Diêm Vương. Theo Hesiod, Cerberus có năm mươi đầu, dẫu các nhà thần thoại khác nói y có ba đầu. Cerberus ngăn người sống bước vào cõi u minh và ngăn kẻ chết thoát khỏi chốn giam cầm. Khi bị tấn công và một cái đầu bị chặt, nhiều cái đầu khác lại mọc lên thay. Những anh hùng viếng thăm vương quốc của Sao Diêm Vương thường phải xoa dịu những cái miệng sủa của Cerberus bằng bánh bột và mật ong, nhắc chúng ta rằng việc thám hiểm vào vô thức phải được tiến hành với sự tôn kính và chuẩn bị xứng đáng.

Cerberus vì thế có thể xem là biểu tượng của kiểm duyệt, của vô thức từ chối cho tâm trí tỉnh thức tiếp cận các chất liệu, thường vì phàm ngã ý thức còn quá mong manh để đương đầu với chúng. Chẳng hạn, trong tư vấn chiêm tinh, đôi khi hóa ra loạn luân (là một biểu hiện của Sao Hỏa ở Cự Giải bị tổn hại hay Sao Hỏa ở nhà bốn) hiện rất rõ trong lá số của ai đó, nhưng người này có thể không thể nào chấp nhận rằng trong gia đình y có, hoặc từng có, loạn luân.

Khi Song Ngư ở nhà bảy của hôn nhân, người phối ngẫu, một cách bí ẩn, có thể kiểm duyệt những gì vợ hay chồng làm. Chữ X, do Song Ngư cai quản, cũng là một biểu tượng của kiểm duyệt; theo hệ thống kiểm duyệt phim cũ, các phim xếp hạng X bị cấm cho người dưới mười tám tuổi, thường vì chúng có cảnh khỏa thân (Song Ngư) và nội dung bị xem là đồi bại, tục tĩu hoặc gây hư hỏng.

Song Ngư là dấu hiệu của khỏa thân, nhất là khỏa thân trước mặt Thượng đế. Trần truồng gợi cảm thức tự do, không chỉ khỏi quần áo mà cả khỏi những ràng buộc trần thế, với cảm giác giải thoát hệ quả. Chúng ta trần truồng đến với đời và trần truồng rời khỏi đời. Khỏa thân thường được xem là biểu tượng của vô tội. Adam và Eva, khi phạm lỗi, trở nên ý thức về sự trần truồng và che thân; họ trở thành có tội. Những ai trải nghiệm vẻ huy hoàng của Thượng đế tự khắc cảm thấy trần trụi và khiêm hạ, bất kể thành công hay địa vị vật chất. Sau cùng, tất cả chúng ta phải đứng trần truồng trước Thượng đế; không có gì ta có thể che giấu khỏi Chân Ngã. Ở biểu hiện cao nhất, khỏa thân là biểu tượng của sự thẳng thắn, của sự hiển lộ trọn vẹn các khiếm khuyết của mình trước Tự Ngã.

Các thánh nhân, vốn rất đông, được đặt dưới Song Ngư, cũng như các tội nhân làm đối xứng với họ. Song Ngư là dấu hiệu của tự hủy, khi cá nhân là nguyên nhân của chính sự sụp đổ của mình: “Giờ hãy xem ta sẽ tự hủy mình ra sao.” (Richard II). Dấu hiệu này cũng gợi yếu tố nghiệp phận chưa giải, hay những trách nhiệm và bổn phận mà tất cả chúng ta, theo cách này hay khác, đều có và phải xử lý. Nếu bỏ bê, chúng có thể thường dẫn đến tự hủy hoại.

Song Ngư cũng được liên hệ với thời Victoria, nổi tiếng vì cường độ tôn giáo và sự khắc kỷ kỳ lạ, trong đó ngay cả chân ghế cũng phải che khỏi tầm nhìn, vì sự trần trụi của chúng bị xem là hơi thô tục và bất nhã. Đồng thời, tuy nhiên, đúng kiểu Song Ngư, tội phạm và mại dâm lại nở rộ song hành với chủ nghĩa Thanh giáo như thế.

Song Ngư, chủ quản nhà mười hai, căn nhà cuối cùng hay “kết” của hoàng đạo, gợi sự hoàn tất của một chu kỳ, vì bánh xe lớn của hoàng đạo có thể được nhìn như tạo nên một tính chu kỳ như thế. Điều này cần định nghĩa cẩn trọng, vì kết thúc một chu kỳ không nhất thiết là cái chết của một điều gì. Sao Hải Vương và Cự Giải cai quản cái chết, điển hình do bệnh tật hay tuổi già. Hổ Cáp gợi cái chết bạo lực. Song Ngư gợi cái chết hay một kết thúc theo nghĩa nó là cái cuối trong một chuỗi của chu kỳ. Chuyến tàu cuối ngày, cuộc đua cuối cùng tại một kỳ họp như Epsom, hay “chai rượu cuối cùng của mùa hè” đều thuộc Song Ngư theo nghĩa này. Mặt Trời ở Song Ngư hoặc Song Ngư ở nhà năm cũng gợi tiền kiếp, hay một đời trước.

Khi Sao Hỏa ở Song Ngư, ta thấy người có năng lực tiến bước đến sự cứu rỗi của mình (đôi khi, trớ trêu thay, qua một hành vi phạm tội), hay theo một sứ mệnh đưa họ đến những giờ khắc cuối, hay đến tận cùng. Đó là các Hiệp sĩ Chén Thánh, Jeanne d’Arc, các cuộc Thập tự chinh, Tòa án Dị giáo, hay Dòng Đền; nhiều viễn cảnh trong số này đã kết thúc trong ác mộng.

Song Ngư là dấu hiệu của bị luận phạt và của tà thuyết và kẻ dị giáo, vốn thường đối mặt cái chết. Nó cũng là dấu hiệu của vị tử đạo, người kết thúc đời mình nhân danh đức tin. Tử đạo bao giờ cũng nằm trong mắt người nhìn. Sự hy sinh dưới con mắt của Mẹ Giáo Hội đôi khi được thưởng bằng sự phong thánh, nhất là nếu nó hiển nhiên hay được nhiều người chứng kiến. Có một danh sách dài các vị tử đạo Kitô giáo; điển phạm đối với truyền thống Anglo-Saxon, dĩ nhiên, là vị tổng trấn kiêm tổng giám mục thế kỷ XII, Thomas à Becket, người bị sát hại ngay trong nhà thờ chính tòa của mình. Vị tử đạo Thánh Andrew, một ngư phủ và là một trong mười hai tông đồ, đã bị đóng đinh trên một cây thập tự hình chữ X, về sau trở thành biểu tượng Kitô giáo là Thánh Giá của Thánh Andrew, hay thập tự chéo.

Bởi vậy, Song Ngư là dấu hiệu đưa sự việc đến kết cục và gợi sự hoàn tất của một điều gì đó. Sự khổ nạn và cái chết của Đức Jesus trên thập giá, hành vi khủng khiếp và huyền nhiệm cách đây 2.000 năm, được định để chỉ ra sự kết thúc của một điều gì: “Mọi sự đã hoàn tất.” (John 19:30). Không gì dứt khoát hơn hành động đóng đinh. Nói theo bóng bẩy, sự đóng đinh vẫn thường xảy ra trong xã hội hôm nay, trong các hành vi như xử tử tội phạm, biểu thị một hành vi báo oán và trừng phạt sau chót.

Song Ngư là dấu hiệu của ma túy, lạm dụng ma túy, và sự đóng đinh của cơn nghiện cùng tự hủy và tự diệt mà nó có thể gây ra. Biết bao sinh mạng đã bị buồn bã khép lại vì ma túy, bởi một liều quá mức tình cờ hay cố ý, như trong vụ tự sát của thi sĩ trẻ tuổi khốn khó thế kỷ XVIII Thomas Chatterton, người đã cố, nhưng không thành, gán thơ của mình cho một nhà sư hư cấu thế kỷ XV. Đôi khi cái chết yểu đến qua một hành vi phạm tội, hoặc thậm chí trong địa ngục của điên loạn:

Tôi thấy những trí não tinh tuyển nhất của thế hệ tôi bị hủy hoại bởi điên loạn, đói khát, kích động, trần truồng, lê lết qua những con phố người da đen lúc bình minh tìm liều thuốc giận dữ, những kẻ đầu thiên thần bừng cháy vì khát khao nối lại mối liên hệ trời xưa với cỗ năng cơ tinh tú trong bộ máy đêm.

—Allen Ginsberg, Howl

Đây là dấu hiệu của rượu cồn, đặc biệt là rượu vang hay rượu mạnh chưng cất từ nho. Nó có thể là rượu của kẻ say khướt hoặc rượu lễ Thánh Thể trong Giáo hội Nghi lễ Cao hoặc Giáo hội Công giáo. Trong một tình tiết sau nạn hồng thủy, Nô-ê được mô tả là đã phát hiện việc làm rượu và say mềm bất lực (Sáng Thế Ký 9:20–27). Song Ngư cũng cai quản chứng nghiện rượu, nhất là khi người nghiện phải vào cơ sở điều trị để “làm khô” và chữa khỏi, hoặc khi y tham dự Hội Nghiện Rượu Ẩn Danh. Rượu, dĩ nhiên, đem lại sự tự-hủy hoại và cái chết yểu cho nhiều linh hồn bất hạnh. Trong thần thoại Hy Lạp, linh hồn người chết được tay lái đò Charon chở qua các dòng sông Acheron và Styx đến Hades, cõi âm u, khủng khiếp và tăm tối. Bởi vậy mới có thành ngữ “đen như Styx”.

Ký hiệu của Song Ngư có thể xem như cắt ngang một dòng sông, với hai bờ đối nhau và mặt nước phẳng lặng ở giữa. Song Ngư cai quản các con sông, nhất là những sông được xem là thiêng, như sông Hằng, hoặc những nơi xảy ra sự kiện, dù là một vụ đuối nước trên bờ hay một buổi dã ngoại ở đó. Tắm truồng nơi bờ sông là cực kỳ “Song Ngư”. Song Ngư cũng cai quản bờ sông, mép sông, và quyền lợi ven sông gắn với chúng. Nó cũng cai quản những bờ dốc không có sông, như một bờ cỏ dốc, và cả dải đất nằm hai bên các con sông dài như sông Nile. Người Ai Cập tin rằng nguồn nước ban sự sống của sông Nile phát xuất từ một hang động.

Những con sông lớn của thế giới thuộc về Song Ngư, như hai con sông lớn của Trung Hoa, Hoàng Hà và Dương Tử Giang, cùng nhau tạo thành ký hiệu Song Ngư, uốn lượn hướng về nhau.

Cả hai đều là nơi cư trú của dân sông nước, thường xuyên làm tràn bờ và tiêu biểu cho ảnh hưởng của địa mạo sông ngòi lên sự phát triển của các nền văn minh. Người dân này của Trung Hoa thường sinh ra trên sông, sống trên sông và thậm chí chết trên sông. Hai con sông lớn khác, Tigris và Euphrates ở Iraq, cũng nuôi sống dân sông nước và tạo hình một cái túi nước, cũng là sắc thái Song Ngư. Song Ngư cũng bộc lộ trong hình dạng các con sông có nhiều khúc quanh co uốn lượn, lúc mở rộng, lúc thu hẹp lòng sông. Thường thì ở những chỗ hẹp có thể vượt qua, ta thấy một cây cầu làm thành “thanh ngang” của ký hiệu Song Ngư.

Con sông tương đồng với dòng hành trình đều đặn của chính sự sống. Như nhà triết học Hy Lạp Heraclitus từng nói: “Bạn không thể bước hai lần vào cùng một dòng sông.” Quả vậy, Song Ngư cai quản đôi chân, vốn trong hình dạng mang nét giống hai con cá của dấu này. Những cá nhân có nguyên tố nước nhấn mạnh mạnh mẽ trong lá số có khuynh hướng thành công với các tham thiền mang chủ đề sùng tín, thường dẫn họ đến “Dưới Chân Thầy”.

Là phần thấp nhất của cơ thể, bàn chân gợi ý sự khiêm cung và hèn mọn. Nói theo hình tượng, chúng ta gieo mình dưới chân ai đó để cầu xin lòng thương xót. Hôn chân biểu thị sự tự hạ hoàn toàn và kính ngưỡng. Việc rửa chân sẽ là Song Ngư ở nhà thứ sáu của Xử Nữ, nhà cai quản vệ sinh. Đức Jesus rửa chân các môn đệ và dạy họ làm như vậy cho những người theo họ, như một hành động khiêm nhu: “Lạy Chúa, Chúa lại rửa chân con ư?” (Thánh Gioan 13:6). Sự sẵn lòng của Huấn Sư trong việc phụng sự những người thuộc đạo viện của Ngài là một biểu tượng đẹp của đức khiêm. Khiêm nhu là nhân tố thường gặp trong sự hoán cải tôn giáo, và các xà lim giam cầm và trợ giúp tẩy não, hoặc các cốc thất tu viện làm vững chắc đức sùng tín cũng thuộc dấu này.

Biểu tượng dấu chân tượng trưng cho hành trình của một người vô danh, nhất là một sự hiện diện thiêng liêng hay cuộc thăm viếng của một vị thần hay một bậc thánh như một vị dẫn đường cho người theo hay tín đồ. Như Rumi, nhà thần bí và thi sĩ Ba Tư, đã viết: “Nếu bạn không biết đường, hãy tìm nơi có dấu chân của Ngài.”

Khi Đức Jesus đi trên mặt nước một cách mầu nhiệm, Ngài biểu thị sự làm chủ thể cảm dục, một nhiệm vụ cốt yếu cho người Song Ngư, kẻ thường chật vật để trở nên phân cực trí tuệ hơn. Song Ngư tiến bước “chân đi trước”, trong khi dấu kề bên là Bạch Dương thì lao “đầu chúi” hay đầu đi trước. Dấu trước thiên về cảm xúc, dấu sau thiên về trí tuệ. Cả hai nên lấy cái hay của nhau.

Song Ngư, theo kiểu nghịch lý của mình, ôm trọn mọi gì thấp hèn, nhơ bẩn, dơ bẩn, kể cả những phương diện đê hạ, ô nhục và thú tính nhất của đời sống con người, đồng thời cũng ôm cả những gì siêu minh và tinh thần nhất: “Này, Ta đến như kẻ trộm.” (Khải Huyền 16:15). Song Ngư gợi lên cả thiên thần lẫn ác quỷ, mà nay còn lại không nhiều, trừ trong sự tưởng tượng sáng tạo của các tâm hồn lãng mạn. Nó cũng cai quản cả cõi địa ngục lẫn cõi thiên đường. Cõi thượng thiên của Ki-tô giáo đã từng phồn thịnh trên các cõi cảm dục, với các thiên thần, thần đồng nhi và những hình tượng Ki-tô giáo liên hệ từ thời trung cổ và Phục Hưng. Cũng tồn tại một thế giới địa ngục ở độ sâu chừng năm nghìn dặm dưới bề mặt Trái Đất. Đôi khi chúng ta buộc phải chịu một địa ngục ngay trên Trái Đất, và cầu nguyện để đạt tới các tầng trời. Song Ngư sẽ tạo ra cho chúng ta, tùy theo hướng chúng ta quay về, một thiên đường hay một địa ngục.

Một sự giáng xuống địa ngục, nói theo chiêm tinh, sẽ là Cự Giải bị tổn hại ở nhà thứ mười hai, hoặc Song Ngư ở nhà thứ tư. Các trách nhiệm tinh thần và điểm đạo tất yếu đem lại trải nghiệm với các cõi địa ngục, vì bất kỳ ai có chút sức mạnh (điều kiện tiên quyết của điểm đạo) đều phải phục vụ một thời gian ở các vùng địa ngục, có thể chỉ chừng hai mươi giây, để rút bớt phần nọc độc tồn tại ở đó. Trải nghiệm như vậy cũng sẽ củng cố Tính cách và tăng khả năng đương đầu các tình huống kinh khiếp, phát triển dũng lực tinh thần và sức bền bỉ. Người La Mã ngoại giáo từng ném các tín đồ Ki-tô vào đấu trường cho sư tử và thú dữ xé xác. Người chí nguyện trên Thánh Đạo phải suy xét thật kỹ những gì đang chờ trước mặt y. Những trải nghiệm như vậy rồi cũng phải đảm đương sớm hay muộn; nếu không ở đời này, thì ở những đời tới.

Khái niệm về ác, ma quỷ và mọi sự liên quan đến chúng thuộc về Song Ngư. Những khái niệm ấy từng một thời ngự trị trong tâm trí các tín đồ Ki-tô, họ thực sự kinh hãi ma quỷ và khả năng của nó thúc đẩy sự tự-hủy hoại: “Hỡi Sa-tan, lui ra đằng sau Ta.” (Thánh Matthêu 16:23). Cũng chợt nhớ đến khẩu hiệu trên ký hiệu hoàng gia và phương châm của Huân chương Garter: “Honi soit qui mal y pense”, hay “Kẻ nghĩ ác sẽ gặp điều ác.”

Phỉ báng, hoặc dùng Danh Thượng Đế hay Đức Trinh Nữ Maria một cách vô lễ, cũng thuộc Song Ngư. Đây là dấu của lời nguyền rủa và thề thốt, của tiếng chửi thề và những lời văng tục, và khi Sao Diêm Vương nghịch hành (xem chương bảy), nó cai quản tiếng thét, tiếng động lớn, huyên náo, những cuộc tuần hành biểu tình ồn ào, và mọi thứ thô bạo, tàn nhẫn, ầm ỹ bùng nổ một cách vô thức. Song Ngư cai quản vô thức, và những gì từ vô thức bùng lên ý thức ở đây.

Những điều thuộc địa phủ, nằm ẩn, sâu dưới lòng đất hoặc trong vô thức, thuộc về Song Ngư. Dấu này cai quản các vụ bộc phát, phun trào, chấn động và tai biến, nhất là những gì phát xuất từ sâu trong lòng đất. Nó cai quản các núi lửa như Vesuvius, núi lửa còn hoạt động gần Napoli, đã phá hủy ba thành cổ La Mã và đến nay vẫn là một biểu tượng đầy uy lực. Với nhiều người, những lần phun trào đỏ rực của dòng nham thạch gợi nên thế giới địa ngục, với quỷ dữ và bọn quỷ đỏ sừng sỏ đang tiếp lửa, biểu trưng cho đáy sâu thấp nhất của Song Ngư.

Sau cùng, tôi muốn thêm rằng các màu của Song Ngư là các sắc đỏ thẫm, hồng anh đào, tím hoa cà và hồng. Màu của rượu vang đỏ, và sắc đỏ chói của chiếc xe buýt nổi tiếng Luân Đôn, mà màu sắc như hét vào bạn (Sao Diêm Vương), cũng thuộc dấu này, cùng với màu áo của tổng giám mục, nằm giữa cánh gián và tím.

Từ khóa cho Song Ngư, Sao Diêm Vương và Nhà thứ mười hai:

MI5; CIA; cảnh sát; tội phạm; bằng chứng; bí danh; tha hóa; đáng ngờ; hoạt động nằm vùng; hoạt động ngầm; bí mật; kẻ thù bí mật; ẩn giấu; che đậy; lừa giả; ẩn nấp; túi; mũ trùm tu sĩ; áo choàng; lều; kiểm duyệt viên; bất mãn; lật đổ; bắt cóc; biểu tình; tiếng động lớn; chấn động; phun trào; bom; nổ; hăm hở bồng bột; nguyền rủa; vụng về; vết nhơ; làm hoen ố; bôi nhọ; tội lỗi; quỷ; tự-hủy hoại; trần truồng; dịch bệnh; ôn dịch; nghiện rượu; sông ngòi; bờ sông; vô thức; chó; Cerberus; Hydra; hang động; thuộc địa phủ; địa ngục và luyện ngục; thiên đường và địa ngục; cơ sở/thiết chế; lời hứa; thánh nhân và kẻ tội lỗi; thiên thần và quỷ; ngẫu tượng; sùng tín; thiêng liêng; đức tin; bàn chân; xương cổ chân; ngón chân.

CON ĐƯỜNG CỦA SONG NGƯ

Tôi ưa nhà thờ; tôi ưa mũ trùm;

Tôi yêu vị tiên tri của linh hồn;

Và trên tim tôi, những hành lang tu viện

Rơi như điệu êm, hay nụ cười trầm tư;

Nhưng chẳng vì tất cả những gì đức tin Ngài thấy,

Tôi muốn trở thành vị giáo sĩ đội mũ trùm ấy đâu.

—Ralph Waldo Emerson, The Problem

Ít ai trong chúng ta có thể thoát khỏi di sản Song Ngư của mình. Không chỉ vì chúng ta đều sinh ra với ít nhiều cấu hình Song Ngư trong lá số sinh, hoặc vì các tiến trình và quá cảnh về sau đưa chúng ta vướng vào dấu Song Ngư; mà còn vì chúng ta đã sinh ra trong sản phẩm của cả một Kỷ nguyên Song Ngư. Theo nghĩa này, Song Ngư là dấu chi phối hơn 2000 năm nay, và đã thấm vào mọi phương diện của đời sống con người. Dù chúng ta xuất thân từ những Cha Hành Hương, từ các khu ổ chuột ở Ý hay từ sự vướng mắc với một thiết chế Song Ngư như Giáo hội; thật vậy, bất kể nền giáo dục hay gia cảnh, phải mất rất, rất lâu thì ảnh hưởng của một kỷ nguyên mới nới lỏng sự ghì chặt lên tư tưởng con người, huống hồ là giải phóng y khỏi sự dính líu vật chất với nó.

Nước Anh đã mất một số lượng nhà thờ kinh khủng trong các trận bom của Thế chiến thứ hai và hầu hết không bao giờ được dựng lại. Những cái được dựng lại (trong một bùng phát sùng tín và vội vã rất Song Ngư, thiếu suy xét và thử nghiệm) thì hôm nay hầu như trống rỗng, giáo dân vơi dần theo từng năm. Mọi lời năn nỉ và dọa dẫm lửa địa ngục cũng không thể lấp đầy chúng trở lại. Có lẽ đôi chỗ một tai biến địa chất, một cuộc nội chiến hay một trận dịch sẽ làm đầy vài hàng ghế đầu trong chốc lát, nhưng tiếng chết đã vang và sự kết thúc của Kỷ nguyên Song Ngư đã ở ngay trước mắt. Việc các tu viện Tây Tạng bị một nền văn hóa Trung Hoa vô thần tràn ngập, tình trạng rối ren ở Vatican về việc hôn nhân của hàng giáo sĩ (một vấn đề rốt ráo là chuyển hóa các năng lượng của các luân xa dưới cơ hoành lên các luân xa phía trên) và chiều hướng của Tin Lành về phía chủ nghĩa tư bản, chỉ là những vòng xoáy trong cơn vật vã tử sinh của Leviathan Song Ngư.

Một viễn kiến toàn thể đang thay thế Ki-tô giáo, trong đó tình huynh đệ phổ quát của Bảo Bình là chủ âm. Cho đến khi ấy, người Song Ngư vẫn còn tự nhắc mình hoặc trong các giáo đoàn đang thu nhỏ lại:

Chúng con đã bỏ dở những điều lẽ ra phải làm;

Và chúng con đã làm những điều không nên làm;

Và chẳng còn sức sống lành mạnh trong chúng con.

—Sách Cầu Nguyện Chung

Ở những mẫu người hoàn toàn sùng tín, lời kêu gọi trực tiếp tới lương tâm này, với mục đích khuất phục thể trí phản kháng của nạn nhân, có thể là một cảnh tượng gây buồn nôn. Lỗi của người Song Ngư thường là phản ứng thái quá trước một thúc bách nội tâm nào đó, nhất là khi kẻ phạm lỗi tin rằng nó đến từ Đức Chúa hay từ Chân sư của y. Thiếu nhiệt tâm hay năng lực cho các vấn đề mang tính sùng tín không phải là khiếm khuyết của Song Ngư. Ngược lại! Rất thường, rất thường, người Song Ngư sốt sắng có nhiều điều để hiến dâng nhưng không thể được dùng bởi vì sự vụng về do lòng sùng tín tuyệt đối cho lý tưởng khiến y đánh mất lẽ thường. Những cách phản ứng thái quá như vậy có thể đem đến hỗn loạn và xáo trộn cho nhóm muốn cộng tác với y.

Khi sự bất an thiêng liêng dâng trào dưới lồng ngực, thì sự hiện diện khẩn thiết của linh hồn được cảm biết và không thể bị chối bỏ. Trích đoạn sau từ The Hound of Heaven của Francis Thompson diễn tả điều này rất sống động, và cũng rất Song Ngư trong cung giọng và biểu tượng:

Tôi chạy trốn Ngài, qua những đêm và qua những ngày;

Tôi chạy trốn Ngài, qua những vòm năm tháng;

Tôi chạy trốn Ngài, qua mê cung những nẻo đường

Của chính trí tôi; và trong màn sương nước mắt

Tôi ẩn khỏi Ngài, và dưới tiếng cười reo rắt.

Tôi lao lên những hy vọng mở viễn cảnh;

Và bắn mình, hối hả,

Xuống những vực thẳm Titan của sợ hãi há miệng ,

Khỏi những Bàn Chân mạnh mẽ cứ đuổi theo, đuổi theo sau.

Nhưng với cuộc săn không vội vã,

Và nhịp bước thảnh thơi,

Tốc độ đĩnh đạc, khẩn cấp uy nghi,

Chúng dập—và một Tiếng nói dập

Khẩn hơn cả Bàn Chân—

Mọi sự đều phản bội ngươi, hỡi kẻ phản bội Ta.

Tuy nhiên, Song Ngư phải hiểu rằng ngày của người sùng tín đã qua. Sự chạy đến dưới chân một vị đạo sư tự xưng nào đó ở Ấn Độ, hay trên đỉnh Andes, hoặc nơi Phi châu tăm tối, là một cung cách làm cho Các Đấng Cao Cả quan sát nó phải chán ghét. Lĩnh vực phụng sự cho những người Tây phương như vậy là ở phương Tây! Nếu họ không tìm ra chỗ tối ở phương Tây để chiếu tỏa ánh sáng của mình, thì điều đó có nghĩa là họ mù! Đây là một lỗi lớn của người Song Ngư và năng lượng không kiềm chế của họ có thể xô họ lao đầu mù quáng theo hướng sai lạc.

Có lẽ tác giả (với Sao Thiên Vương và Sao Hỏa ở Song Ngư, tạo một góc trong đại tam hợp hành Thủy) có thể được thứ lỗi cho những dòng này mà ông đã viết khi bước ra khỏi “bể máu” Song Ngư đi trước cuộc điểm đạo:

Tôi đã thoáng thấy phần của mình về thiên đàng lẫn địa ngục

Từ những đại lộ bờm xờm của chính trí tôi.

Đôi chân cá của tôi đã cảm những cạm bẫy và những cú kéo

Của ngàn đời dọc theo nẻo đường đắng đót ấy;

Nay trút giày Song Ngư và xỏ giày linh hồn

Chúng cảm nhịp “Đất tràn ngập Thiên Đàng

Và mọi bụi cây tầm thường đều bốc cháy bởi Thượng Đế,”

Linh hồn thế giới, sương trời

Nhìn ra từ mọi mắt, bừng lên từ mọi sắc;

Gậy của Nàng, thần trượng thiêng của Sanat, món đồ chơi của trưởng tử

Chọc rung thần kinh, quất lưng tôi không ngớt,

Niềm đau ngọt của đôi rắn quấn nhau, cây chống của sự sống

Đã thúc giục và quất tôi tới đỉnh núi.

Trong vài lời (vừa nén vừa bộc), nó chứa đựng những nỗ lực mà tác giả phải thực hiện để bẻ gãy gọng kìm sắt mà tẩy não tôn giáo trong những năm đầu đời đã áp đặt lên ông; và xin nói ngay, ông cũng chẳng hứng chịu nhiều hơn bất kỳ một thanh niên bình thường nào ở phương Tây.

“Trao tôi một đứa trẻ trong bảy năm đầu, rồi sau đó ông có thể làm gì thì làm với nó” là một châm ngôn giáo dục của Dòng Tên trong Giáo hội Công giáo và đó là một châm ngôn khôn ngoan. Điều gì được bộ não con người phì nhiêu mà chưa vướng bận học từ thời thơ ấu thì thường là điều sau cùng còn lại ở tuổi xế bóng. Ai đã từng ngồi đàm đạo với những người thân tuổi rất cao sẽ hiểu ý tôi. Họ quên các biến cố mới xảy ra trong đời và rốt cuộc chỉ nhớ những gì được nhét vào não họ thuở ấu thời. Với tôi, không hẳn là những gì Giáo hội dạy tôi buổi đầu mà phải bị tẩy trừ. Tôi lớn lên trong một xứ sở nơi một sắc dân thiệt thòi, chẳng cùng màu da với tôi, đánh giày cho tôi, dọn giường, giặt áo, và bưng bê sai vặt theo ý tôi; trong khi đó, bộ não non trẻ phì nhiêu cứ ghi chép và khắc sâu mọi việc diễn ra. Cộng thêm vào đó cả ngàn yếu tố khác len lỏi chiếm cứ ngôi đền thiêng của tâm thức nơi Chúa Tể của Chân ngã một ngày kia phải được mời ngự vào, là bạn sẽ hiểu nhanh các vấn đề của Song Ngư trên Con Đường Đệ Tử. Với riêng tôi, tôi mất mười năm dài nỗ lực mãnh liệt để diệt trừ định kiến màu da đã được cấy vào những ngày đầu ấy bởi nền văn hóa tôi sinh trưởng.

Hãy thay thế bằng đặc quyền, giáo điều, lễ nghi, phương pháp khoa học, hay môi trường văn hóa cho bất kỳ hay tất cả điều trên, nhân lên vì đối tượng là Song Ngư, và bạn sẽ có những vấn đề của sự tăng trưởng tinh thần của y trong một câu nói gọn. Điều cần thiết là sự cứu rỗi; không phải khỏi đời sống trên Trái Đất, không phải khỏi những tội đã phạm hay chưa phạm, mà khỏi những vướng mắc, cảm xúc và trí tuệ, đã bủa vây và chiếm cứ vận cụ của phàm ngã y, Đền của Chúa.

Trong một khảo cứu về Tâm Lý Học Nội Môn và Bảy Cung, người ta sớm khám phá rằng Cung Sáu của Sùng Tín và Lý Tưởng (Cung trội của Song Ngư) có thể gây tàn hại cho sự khai mở tinh thần. Vấn đề ở đây không phải là thiếu nguồn năng lượng mà là thiếu lối biểu lộ. Cung Sáu (hay Song Ngư) phải tự biểu lộ bằng cách tìm một đối tượng cho lòng sùng tín của mình. Quá thường, sẽ chỉ có một số ít mối quan tâm và nẻo cho tự-biểu lộ, hoặc “quá nhiều năng lượng mà quá ít chỗ để đặt vào”. Lối ra cho người chí nguyện Song Ngư trẻ là phải được nhấn mạnh nhu cầu mở rộng trải nghiệm và mở trí. Với người lớn tuổi và không thật sự có thể khởi sự khảo cứu các lĩnh vực biểu lộ rộng hơn và mới mẻ, vấn đề khó hơn. Nhưng với cả hai, có một kẻ thù chung, đó là sự chấp trước vào các ý niệm và nẻo hẹp hòi. Với đệ tử, bất kể y thuộc dấu nào, sự cứu rỗi đến khi giải phóng thể trí và đặt nó trong tay Chân ngã. Con đường đến đó có thể tìm thấy qua “Ba Con Đường hợp làm Một”:

1. Sùng tín ngày càng gia tăng đối với việc phụng sự nhân loại, bất kể giai cấp, tín ngưỡng hay màu da.

2. Hết lòng chú tâm đến các giáo huấn cổ điển của Minh Triết Cổ và truyền bá chúng giữa mọi người.

3. Tham thiền.

Ngôn ngữ của “Ba Chân Lý Vĩ Đại” trong The Idyll of the White Lotus sẽ đặc biệt hợp với người Song Ngư và nên được thường xuyên chiêm ngưỡng:

“Hãy nghe ta, huynh đệ của ta. Có ba chân lý là tuyệt đối, không thể mất, nhưng có thể vẫn im lặng vì thiếu ngôn từ:

“Linh hồn con người là bất tử, và tương lai của nó là tương lai của một điều có tăng trưởng và rực rỡ vô hạn.”

“Nguyên khí ban sự sống, ngự trong ta và ngoài ta, là bất diệt và hằng ban ân, không được nghe, thấy hay ngửi, nhưng được người khát khao nhận biết cảm nhận.

“Mỗi người là vị lập pháp tuyệt đối cho chính mình, là đấng phân phát vinh quang hay u ám cho chính mình; là đấng nghị định đời sống, phần thưởng, hình phạt của mình.

“Những chân lý này, lớn lao như chính sự sống, lại giản dị như trí giản dị nhất của con người. Hãy nuôi kẻ đói bằng chúng.”

Những vấn đề của Song Ngư là vướng mắc, phản ứng thái quá, tiêu tán năng lượng, khó khăn trong biểu lộ, mù quáng và hẹp hòi. Song Ngư phải học cách đưa mọi vấn đề ra khỏi cõi cảm xúc và đặt lên cõi trí, xử lý chúng ở đó và, sau khi đã xử lý, thì đi cao hơn lời cầu nguyện vào tham thiền. Ngụ ngôn sau rất gợi ý về chỗ yếu của Song Ngư trong phương diện này và kết tinh sự thất bại của Kỷ nguyên Song Ngư.

Dòng Sông và Sợi Dây

Xưa kia có hai xứ, một gọi là Xứ Phúc Lạc, sữa và mật tuôn tràn; xứ kia ở vùng khô cằn đầy tranh chấp và bất an, gọi là Xứ Bi Ai. Chúng bị chia cắt bởi một con sông chảy xiết, rộng và nguy hiểm, ai tìm cách vượt sông đều bỏ mạng.

Rồi một ngày kia có một người, vì tình thương dân, quyết thử bắc một sợi dây từ bờ này sang bờ kia. Ông lý rằng dù có mất mạng trong nỗ lực ấy cũng không sao, vì những người khác có thể dùng sợi dây để giúp họ qua sông an toàn. Thế là ông buộc một đầu dây vào một gốc cây, làm một cái thòng lọng ở đầu kia và bắt đầu bơi. Sông rất rộng và dữ, và khi ông bơi được nửa chừng, vài người thợ săn bên bờ xứ Bi Ai, thấy nước bắn lên, tưởng đó là con cá lớn, liền bắn tên, làm ông bị thương chí mạng. Tuy vậy, với nỗ lực sau cùng và vĩ đại, ông kịp quăng cái thòng lọng của sợi dây vòng vào gốc một thân cây trước khi chìm xuống làn sóng.

Khi dân thấy chuyện xảy ra, họ bắt đầu thờ phụng ông như một anh hùng, nói rằng “Ông đã chết để cứu chúng ta, nên đáng cho chúng ta tôn vinh và yêu kính.” Thế nhưng, dẫu họ thờ phụng ông, chỉ có một nhúm người toan vượt sông, vì những người khác tự nhủ “Dù sợi dây đã ở đó, và chúng ta không thể chết đuối nếu bám chặt lấy nó, song nước thì lạnh, sông thì rộng, và công phu vượt qua thì quá lớn.” Thế là, theo thời gian, sợi dây gần như bị quên lãng và bị cỏ dại phủ kín, vướng vào cành mục của những cây già, đến nỗi nó chẳng còn giống sợi dây nữa.

Nhưng việc thờ phượng vị anh hùng thì vẫn tiếp diễn; những tượng đài và công trình được dựng lên để tưởng nhớ ông, và người ta hát những bài tán tụng, cầu nguyện ông vì tình thương lớn của ông đối với họ. Thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư ra đời và các thủ lĩnh của họ, những người học rộng, giảng về vị anh hùng và việc ông chết để cứu họ, nhưng về sợi dây bắc ngang sông thì họ không hề nói, vì giờ đây nó đã bị quên hẳn.

Hệ quả là, một sự hỗn loạn lớn nảy sinh do các tranh cãi, giáo thuyết và hùng biện, và rốt cuộc nhiều điều dị đoan xuất hiện, đến nỗi chỉ rất ít người còn phân biệt được giữa điều dại dột và chân lý. Cũng bởi vậy mà tranh luận nổi lên giữa họ, họ cãi vã và đánh nhau, và số ít kẻ còn phân biện được chân lý thì bị bức hại và nhục mạ. Xứ Bi Ai vì thế càng thêm sầu khổ và bất an.

Sau cùng, một nhóm học giả xuất hiện và họ kêu lên “Cớ gì phải tranh chấp? Điều cần thiết chỉ là thờ phụng vị anh hùng này như một vị thần, và tin rằng ông đã chết để cứu người khác, và kìa kìa, khi chính chúng ta chết, ta sẽ đến Xứ Phúc Lạc thật dễ dàng. Vì dẫu thân xác ta không thể nổi qua sông khi còn sống, linh hồn ta sẽ nổi qua khi chết. Vả lại, tình thương, quyền năng và anh dũng của ông quá lớn, nên mọi điều ta thỉnh cầu thần linh của ông, ắt ông sẽ làm, miễn là ta rưới đủ sự thờ phượng lên ông để đáp lại.”

Khi dân nghe điều đó, họ vô cùng vui mừng và chất vinh dự lên đầu các thầy giảng, nói “Quả là khôn ngoan lớn lao, vì họ đã chỉ cho chúng ta một lối dễ dàng. Thật đơn giản để thờ phụng, cầu nguyện và xin vị anh hùng cứu ta khi ta qua đời; vậy giờ hãy ăn, uống, vui chơi, và tận hưởng cuộc trú ngụ ở Xứ Bi Ai này.”

Nhưng trong khi ấy, thần linh của vị anh hùng ấy nhìn các huynh đệ mình với buồn bã khi lắng nghe lời thỉnh cầu và khẩn nguyện của họ. Và vào tai họ, ông thì thầm: “Các huynh đệ của tôi, các bạn đã lầm, vì quả thật, tôi đã sống để cứu các bạn, nhưng than ôi, các bạn lại quên mất sợi dây mà tôi đã đặt bắc qua sông giữa Xứ Bi Ai và Xứ Phúc Lạc; vì vì mục đích đó mà tôi đến, không vì mục đích nào khác. Vì tình thương tôi dành cho các bạn, thần linh tôi gần gũi các bạn, và tôi sẽ an ủi, khích lệ các bạn trong gian truân, nhưng cõng các bạn qua sông thì tôi không được phép, dầu các bạn có cầu xin nài nỉ đến đâu.” Nhưng dẫu vị anh hùng nói với họ như thế, họ vẫn kêu cầu và khấn vái quá lớn đến nỗi không nghe được tiếng thì thầm nhỏ nhẹ của thần linh ông—và vì vậy họ cứ ở lại Xứ Bi Ai.

SONG NGƯ TRÊN ĐIỂM MỌC

Hỡi chiến sĩ Ki-tô hữu, tiến bước,

Hành quân như ra trận,

Với thập giá của Đức Jesus

Đi trước dẫn đường.

—Sabine Baring-Gould

Mặt Trời và vị trí của nó trong lá số chỉ ra bản chất của phàm ngã và ảnh hưởng đến hành vi của nó. Nhưng trong chiêm tinh học thế kỷ 21, sự lấn át của phàm ngã được giảm nhẹ và linh hồn, hay Chân ngã, được xem là quan trọng hơn nhiều. Cái sau được biểu thị trong lá số bởi “dấu hiệu mọc”.

Dấu hiệu mọc, còn gọi là ascendant, chỉ dấu hiệu hoàng đạo nằm trên chân trời phía đông vào thời khắc sinh. Lá số cho thấy nó ngay tức thì ở vị trí “9 giờ” trên đồ hình. Bạn không cần sinh ra ở Song Ngư để có dấu này ở dấu hiệu mọc; thực ra, bạn có một cơ may một phần mười hai. Vì dấu trên dấu hiệu mọc thay đổi mỗi hai giờ khi Trái Đất tự quay, Song Ngư sẽ mọc khoảng hai giờ mỗi ngày. Do đó, cần biết giờ sinh của bạn trước khi có thể xác định dấu hiệu mọc của mình.

Trong chiêm tinh học mới, dấu hiệu mọc là tối quan trọng và được xem là có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với dấu hiệu mặt trời. Thật vậy, toàn bộ khoa chiêm tinh đang tiến tới nhấn mạnh dấu hiệu mọc, dưới ánh sáng của các khảo cứu khoa học gần đây cho thấy rằng dấu hiệu mọc, hơn bất kỳ yếu tố nào, đem lại mức độ minh chứng khoa học cho chiêm tinh.

Dấu hiệu mặt trời và dấu hiệu mọc thường khác nhau, dẫu chúng có thể trùng nếu cá nhân sinh gần lúc bình minh. Có thể xảy ra trường hợp những ai sinh với Mặt Trời ở Song Ngư cũng có Song Ngư ở dấu hiệu mọc. Điều này nghĩa là cả Mặt Trời lẫn Song Ngư đều ở chân trời vào lúc sinh. Đây là một cấu hình rất mạnh, và sẽ ảnh hưởng toàn bộ lá số. Nó sẽ nhấn mạnh lại mọi phẩm tính Song Ngư trong đời bạn và cũng sẽ định hướng mạnh cho các phương diện thuộc đời sống tinh thần của bạn.

Dấu hiệu mọc thúc đẩy phàm ngã hướng về mục tiêu tinh thần của nó và điều hòa nỗ lực của phàm ngã khi mục tiêu không phải tinh thần. Nó cũng chỉ ra tiềm năng sâu nhất của một người, vốn bình thường có thể sẽ không bao giờ trồi lên nếu dấu này không được kích hoạt hay không đủ mạnh. Trong chiêm tinh học cao cấp, có thể xác định mục đích nhập thể của linh hồn qua khảo sát dấu hiệu mọc và các góc hợp tạo thành với nó. Quả vậy, khi một người đang bước đi trên con đường khai mở tinh thần, thì đúng đắn hơn là lấy dấu hiệu mọc của y, nơi của linh hồn hay Chân ngã, như đại diện cho y, hơn là dấu hiệu mặt trời.

Nhà thứ nhất, nơi tọa của dấu hiệu mọc, liên quan đến các vấn đề tầm quốc gia. Ở Anh, các nhà thờ chính tòa của chúng tôi vẫn được xem là các di tích quốc gia. Chúng từng không chỉ đại diện cho địa vị tinh thần của Giáo hội, mà còn cho quyền uy và quyền lực của nó. Các thành phố của chúng tôi (dấu hiệu mọc) được định nghĩa là những thị trấn có tầm quan trọng lớn bởi sự hiện diện của một nhà thờ chính tòa. Điều này, dĩ nhiên, bắt nguồn từ thời khi Giáo hội nắm toàn quyền ở cấp độ nhà nước.

Song Ngư mọc cai quản thần quyền, tức hiến pháp của một quốc gia trong đó Thượng đế được coi là đấng tối thượng duy nhất, và luật lệ của đất nước là các mệnh lệnh thiêng liêng hơn là những sắc lệnh phàm nhân. Các linh mục được xem là các quan chức của vị cai trị vô hình. Trong Giáo hội Công giáo Rôma, Đức Giáo hoàng được coi là “bất khả sai lầm”, nghĩa là, khi phát biểu trong vai trò chính thức, Ngài được gìn giữ khỏi sai lầm trong mọi điều liên quan đến đức tin và luân lý. Những phát biểu như vậy, theo đúng kiểu Song Ngư, không thể bị chất vấn. Với nhà bí truyền học, tuy nhiên, chỉ có linh hồn hay Bản Ngã bên trong của y mới thật sự “bất khả sai lầm”.

Tôi cũng sẽ xếp vào dưới dấu hiệu mọc này thần quyền của Tây Tạng xưa, với vị Đạt Lai Lạt Ma của nó, và thần quyền cổ đại của Ai Cập, nơi các pharaoh được xem là Thượng đế, cùng với yếu tố thần quyền của La Mã cổ đại, khi các hoàng đế được coi là thần. Các hoàng đế La Mã, dĩ nhiên, phản chiếu nhiều sự tàn bạo mà sau này đã được thực hiện cả chống lại những người Ki-tô hữu lẫn bởi chính họ. Việc ném những người Ki-tô hữu vào các đấu trường, cho thú dữ ăn thịt họ khi còn sống, là một phần trong sự biểu lộ thái quá và tàn nhẫn của Song Ngư trong thời kỳ này.

Nhiều nét tệ hại nhất của Kỷ nguyên Song Ngư đã diễn ra ở cấp độ quốc gia, và lịch sử ngập đầy những tội ác nhân danh tôn giáo. Chẳng hạn, Công giáo Rôma đã tạo ra một nghiệp quả khủng khiếp, được tiếp nhiên liệu bởi các hoạt động như của những Conquistador Tây Ban Nha ở Mexico và Nam Mỹ, hay Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha khét tiếng thế kỷ XVI, ban đầu lập ra để bách hại người Do Thái, Hồi giáo và Tin Lành, nhưng nhanh chóng trở thành công cụ đàn áp của nhà nước, xử tử hàng nghìn người bị cho là dị giáo. Tòa Dị giáo đã trở thành một từ đồng nghĩa với tàn bạo và ám muội.

Những cuộc thập tự chinh, một loạt các chiến dịch quân sự thời trung cổ dưới ngọn cờ Thập giá nhằm giành lại Thánh Địa từ tay người Hồi giáo, cũng là điển hình cho lòng nhiệt thành tôn giáo pha trộn với lợi ích quốc gia. Tên gọi “thập tự chinh” (từ tiếng Latin nghĩa là “thập giá,” huy hiệu của các chiến binh Thập tự) cũng được dùng, đặc biệt vào thế kỷ mười ba, cho các cuộc chiến chống những dân ngoại giáo, các phần tử dị giáo Kitô, và các kẻ thù chính trị của giáo quyền giáo hoàng. Nhiều người tham gia các cuộc thập tự chinh tin rằng việc họ tham dự hầu như đảm bảo ơn cứu rỗi cho riêng mình. Cuộc thập tự chinh thứ nhất đã đánh chiếm Jerusalem bằng bão táp, tàn sát hầu như mọi cư dân vì tin rằng họ đang thanh tẩy thành phố bằng việc rửa nó trong máu của những kẻ ngoại đạo bại trận.

Thánh Cyprian, nhà văn Kitô giáo Latin thế kỷ thứ ba và là vị tử đạo, đã tóm lược thái độ của thời kỳ này trong tác phẩm Về Sự Hiệp Nhất của Hội Thánh Công giáo: “Ai không có Hội Thánh làm mẹ thì không thể có Thượng đế làm Cha”. Trong kiếp hiện tại, Ông có Song Ngư là dấu hiệu mọc, nhưng nay đóng một vai trò lớn trong việc cổ xúy các giáo lý huyền bí hơn là các giáo lý tôn giáo. Quả thật, Hội Thánh thường được xem như một người mẹ vĩ đại, và nhà thứ mười hai là nơi “ươm dưỡng” các cấu trúc hành tinh; ở đây có một thực thể luôn-hiện-diện hay người mẹ, Đấng có mặt khi người nữ đau đớn vượt cạn. Chúng ta gọi Bà là Đức Mẹ Thế Giới.

Nhà thứ nhất cai quản cửa ra vào và lối vào, và trong thời cổ, các cổng thành là những nơi cực kỳ quan trọng, nơi diễn ra nhiều sinh hoạt. Song Ngư ở điểm mọc gợi nên những cổng trời. Người ta tin rộng rãi rằng để đi qua các cổng ấy phải đáp ứng đủ mọi tiêu chí: lòng tin không chút hoài nghi, thanh sạch, sám hối và sùng kính là những “giấy thông hành” thiết yếu. Người ta xem trọng không chỉ việc cứu linh hồn của riêng mình, mà còn cả linh hồn của người khác.

Dĩ nhiên, Song Ngư là dấu hiệu của những vị cứu độ linh hồn, và dấu hiệu mọc này đã truyền cảm hứng cho các giáo sĩ truyền giáo được nhiều quốc gia phái đi dưới danh nghĩa Hội Thánh Công giáo, đặc biệt là những người đến Nam Mỹ. Chúng ta cũng nên kể đến các nhà thám hiểm vĩ đại đã ra đi nhân danh Hội Thánh, như Vasco da Gama, nhà hàng hải Bồ Đào Nha chỉ huy một hải trình năm 1497 khám phá tuyến đường đến Ấn Độ vòng quanh mũi nay gọi là Mũi Hảo Vọng ở Nam Phi hiện đại.

Khi Song Ngư ở điểm mọc, các viện quốc gia thường giữ một vai trò, đặc biệt khi liên quan đến chứng điên loạn, nghiện rượu hoặc tội phạm. Đây là nhà tù liên bang, các trại giam và khoa hình phạt ở cấp độ quốc gia. Song Ngư ở điểm mọc, đặc biệt nếu bị ảnh hưởng xấu, có thể thấy khó tránh khỏi tội phạm trong ba mươi năm đầu của cuộc đời. Vì bất kỳ lý do nào, tội phạm bị áp đặt vào tâm thức và sự tự hủy hoại thường là kết quả.

Chúng ta đã thấy băng nhóm và đồng phạm thuộc quyền cai quản của Song Ngư. Khi dấu hiệu mọc Song Ngư bị xung khắc (góc hợp xấu), điều này càng được nhấn mạnh. Điều này cũng đúng với các lời buộc tội, nhất là khi người bị buộc tội hoặc người buộc tội là nhân vật tầm cỡ quốc gia. Người ta nhớ đến vụ án nổi tiếng Dreyfus có Émile Zola can dự, trong đó một sĩ quan quân đội Pháp bị vu cáo và bỏ tù vì tội phản quốc, cấp trên của ông ta bí mật che đậy sự thật trong khi gián điệp thật sự thì thoát tội. Zola đã viết một bài báo nổi tiếng cho một tờ báo, nhan đề J’accuse. Vụ Dreyfus cũng gợi lên những kiểu bưng bít thuộc Song Ngư; đó là “vụ án thế kỷ” liên quan đến việc úp mở, che đậy định kiến bài Do Thái của một phe nhóm trong quân đội. Nó cũng khơi dậy vô số cuộc phản đối (Sao Diêm Vương) và tống Dreyfus vào tù. Một chuỗi yếu tố Song Ngư ở tầm quốc gia như thế là đủ để gợi ý Song Ngư làm dấu hiệu mọc.

Một biến cố quốc gia khác gợi dấu hiệu mọc này là vụ bê bối chính trị Watergate ở Hoa Kỳ, liên quan đến những âm mưu và dàn dựng mà ngay cả tổng thống Nixon cũng dính líu, rốt cuộc dẫn đến tranh cãi toàn quốc và sự tự chuốc hoạ chính trị của ông. Câu chuyện về Guy Fawkes, kẻ âm mưu Công giáo, cũng đầy các yếu tố Song Ngư. Tham gia tích cực trong Âm mưu Thuốc Súng năm 1605 nhằm cho nổ tung Nghị viện như một cuộc phản kháng các đạo luật chống Công giáo La Mã, y bị bắt vào ban đêm khi đang bí mật giấu bom trong một hầm bên dưới Viện Quý tộc. Dấu hiệu mọc Song Ngư gợi những bí mật dai dẳng và được giữ gìn kín kẽ. Nó cai quản gián điệp và những kẻ thù bí mật của nhà nước cũng như các tổ chức như MI5, cơ quan tình báo mật vụ quốc gia của Anh.

Những lời lầm bầm bí mật hay thì thầm trong hơi thở thuộc về Song Ngư, cũng như mọi kiểu chửi rủa, nhất là khi có phạm thượng. Dấu hiệu mọc sẽ khiến kiểu rủa sả ấy trở thành một quá trình liên tục, tạo ra một dòng mắng nhiếc dai dẳng. Song Ngư cai quản những thứ bùng phát, từ nhỏ như mụn nhọt cho đến núi lửa khổng lồ. Khi mụn trứng cá là một sự hành hại dai dẳng hoặc khi núi lửa trở thành mối quan tâm ở tầm quốc gia hay toàn thế giới, thì dấu hiệu mọc cũng nên được xem là một phần của cấu hình Song Ngư.

Song Ngư cũng cai quản mọi dạng khuấy động dễ dẫn đến biểu tình, nhất là khi nó diễn ra ở những tầng sâu, địa u; khi nó bí mật hoặc trong bí mật; và khi nó dẫn đến tạo phản. Âm mưu được khắc họa trong vở Julius Caesar của Shakespeare, nơi các nhân vật tầm cỡ quốc gia cùng nhắm vào nhà lãnh đạo tối cao của quốc gia, là điển hình cho Song Ngư là dấu hiệu mọc. Dấu hiệu mọc này chỉ ra những vấn đề được “lên men” trong tầng hầm và có thể hoặc không thể xâm lấn lên “tầng trệt” (tức tâm thức). Mọi hoạt động bí mật có tầm quan trọng quốc gia hay nhà nước đều thuộc dấu hiệu mọc này. Cướp giật nằm dưới Song Ngư và Sao Diêm Vương, và khi nó trở thành đặc điểm của đời sống quốc gia, đó là Song Ngư làm dấu hiệu mọc, nhất là khi một cộng đồng cụ thể như người cao tuổi chịu thiệt thòi và thanh niên da đen bị quy trách nhiệm.

Chúng ta biết Song Ngư là dấu hiệu của Ireland, đất nước phù hợp một cách chính xác với dấu hiệu mọc này, với những dòng ngầm Công giáo và tôn giáo. Việc tiếp tục dùng khủng bố, các tổ chức bí mật và sự thiếu phân biện đối với nạn nhân, vốn là đặc trưng tàn bạo của chủ nghĩa dân tộc Ireland thế kỷ 20, càng nhấn mạnh dấu hiệu mọc Song Ngư. Khủng bố chẳng qua là cướp giật ở cấp độ chính trị và không bao giờ thật sự tạo nên những vị tử đạo chân chính. Chủ đề bắt cóc, khi người bị bắt cóc bị đưa vào nơi ẩn náu hoặc nơi bí mật, lặp lại ở đây. Gần đây đã có những vụ bắt cóc trong đó nạn nhân đôi khi bị đặt xuống dưới lòng đất và bị giấu kín ở đó. Đó sẽ là hành vi tội ác thuộc Song Ngư.

Không lâu trước đây, người ta bị giấu trong các tu viện cách xa mọi nơi có hành động hay hiểm nguy. Suốt lịch sử, các nhà thờ được dùng làm nơi ẩn náu, và sự ẩn náu như thế thường được tôn trọng. Khi không được tôn trọng và các vụ giết người xảy ra ở đó, thì hành vi ấy luôn bị coi là quỷ quyệt. Vì vậy, cả sự ẩn náu lẫn sự lạm dụng nơi ẩn náu, đặc biệt khi liên quan đến các nhân vật tầm cỡ quốc gia hoặc các nhân vật có tầm quan trọng, đều thuộc dấu hiệu mọc Song Ngư. Những bà mẹ chưa chồng thường sinh con trong các nơi ẩn náu như thế. Khi phá thai được thực hiện trong bí mật và vi phạm pháp luật, chúng ta có thể xem đó là một sự xúc phạm đối với nhà nước, và điều này thuộc dấu hiệu mọc Song Ngư. Việc Hội Thánh Công giáo kiên quyết chống lại phá thai dưới mọi hình thức càng làm nổi bật vấn đề này.

Chúng ta đã thấy Song Ngư cai quản những nơi sâu có bờ ở một bên hay cả hai bên. Một vực thẳm sẽ thuộc dấu hiệu mọc Song Ngư, đặc biệt khi hẻm vực như thế là một phần của bối cảnh thần thoại, như trong thần thoại về Andromeda và việc nàng được Perseus cứu khỏi quái thú biển. Bầu không khí của dấu hiệu mọc này được gợi lên tuyệt đẹp trong bài thơ huyền hoặc do thuốc phiện của Coleridge, Kubla Khan:

. . . Nơi Alph, con sông thiêng, chảy

Xuyên những hang động người không đo lường nổi

Xuống một biển không có mặt trời.

Song Ngư ở điểm mọc gợi ra những dòng sông quốc gia vĩ đại và các bờ của chúng, vốn có tầm quan trọng sâu xa về lịch sử và văn hóa, như sông Danube, chảy qua nhiều quốc gia. Dòng sông hùng vĩ này, phảng phất âm hưởng mạnh mẽ và đầy màu sắc của những bản valse do Strauss hòa âm, chảy qua thành phố lịch sử vĩ đại Vienna, rửa trôi bờ cõi của lịch sử và vẫn kể lại những câu chuyện về các triều đại Áo, về những thất bại quân sự và sự kết tinh của nền văn hóa đó. Chúng ta cũng phải nhớ đến một số con sông lớn khác của châu Âu đã định hình lịch sử và nơi mà thương mại được thực hiện, như sông Volga ở Nga, sông Rhine ở Đức và, dĩ nhiên, sông Thames ở Anh. Như John Burns, chính khách người Anh, từng bày tỏ: “Tôi đã thấy sông Mississippi. Đó là dòng nước đục. Tôi đã thấy sông St. Lawrence. Đó là dòng nước trong như pha lê. Nhưng sông Thames… à, sông Thames là lịch sử lỏng.” Những dòng sông cổ xưa này có một phẩm tính huyền bí, vượt thời gian khiến chúng ta phải dừng lại và đứng trong sự kính sợ, thường là mà không hoàn toàn hiểu tại sao, giống như trong bài hát nổi tiếng của thập niên hai mươi, Ol’ Man River.

Ông Sông già, ấy ông sông già,

Hẳn Ông biết điều chi ’, nhưng chẳng nói gì cả ’,

Ông chỉ cứ trôi ’,

Ông cứ mãi trôi ’ hoài.

Con sông lớn của Ai Cập, sông Nile, nuôi sống một dân số khổng lồ nhờ tràn những lớp bùn phù sa phì nhiêu từ bờ sông dâng đầy xuống ruộng đồng của nông dân. Nó vẫn oai vệ lướt qua những hàng cột, đền miếu và các kiến trúc trụ cột của các Pharaoh xưa. Nơi nước thánh được chúc phúc và nơi các dòng nước thánh cư ngụ, như các mạch nước ở Lourdes hoặc sông Hằng ở Ấn Độ, ở đó có dấu hiệu mọc Song Ngư: “Rồi thiên sứ chỉ cho tôi thấy một dòng sông nước sự sống, trong như pha lê, chảy ra từ ngai của Đức Chúa Trời và Chiên Con.” (Khải Huyền 22:1). Sông ngòi từ lâu vốn là biểu tượng của tẩy rửa tinh thần—sự thanh tẩy thân, linh hồn và thể trí. Vào bình minh, những tín đồ mộ đạo tụ họp dọc bờ sông Hằng để gột rửa tội lỗi. Trong Kitô giáo, quá trình này cũng thể hiện rõ ở phép báp-têm, vốn được hiểu là tiến trình thanh tẩy cá nhân để phần đời còn lại có thể hướng về tăng trưởng tinh thần.

Vầng Đá Muôn Đời, rạn nứt vì con,

Xin cho con ẩn mình trong Ngài;

Hãy để nước và máu,

Từ cạnh sườn Ngài đã rách mà tuôn trào,

Là phương dược kép chữa tội,

Rửa sạch con khỏi tội lỗi và uy lực của nó.

— Augustus M. Toplady

John Báp tít là vị anh hùng sớm nhất và lẫy lừng nhất trong lịch sử Kitô giáo, có lẽ chỉ ngang bằng với vị John khác, người chúng ta biết là John Thánh Sử, Đấng thời ấy che kín Đức Christ chân thật.

Song Ngư làm dấu hiệu mọc cũng gợi ngôn ngữ Kinh Thánh Cựu Ước. Câu chuyện về tiên tri Jonah thích hợp ở đây. Sự bất tuân của Jonah đối với Thượng đế đã khơi dậy một cơn bão biển; để chấm dứt nó, ông bị ném khỏi tàu, nơi ông bị một con cá voi nuốt: “Bấy giờ Đức Giê-hô-va sắm sẵn một con cá lớn nuốt Jonah; và Jonah ở trong bụng cá ba ngày ba đêm.” (Giô-na 1:17). Sau ba ngày ông được đưa trở lại đất liền. Sự xuất hiện kỳ diệu của ông từ “hang động” là dạ dày cá voi hàm ý một cuộc điểm đạo vào sự sống mới, hay sự phục sinh:

Từ điều không thực, hãy dẫn con đến Điều Chân Thật

Từ bóng tối, hãy dẫn con đến Ánh sáng

Từ cái chết, hãy dẫn con đến Bất tử.

—Áo Nghĩa Thư

Với dấu hiệu mọc này, có thể có một lòng sùng kính to lớn đối với mục đích của linh hồn. Song Ngư làm dấu hiệu mọc không phải lúc nào cũng hiểu linh hồn muốn gì, nhưng y sẽ làm, không chút hoài nghi, đôi khi còn mãnh liệt như Toà Dị giáo đã tấn công những cá nhân không có khả năng tự vệ. Có không ít một đệ tử, đặc biệt là người ở Cung sáu của Sùng tín và Lý tưởng, sẽ “giết chết” một dự án được Chân sư giao chỉ vì quá nhiệt thành và thiếu lương tri. Khi được giao việc quan trọng, nếu được để mặc, y sẽ phá tan mọi thứ trên đường để đạt cho bằng được. Chân sư phải suy nghĩ rất cẩn thận trước khi sử dụng một đệ tử như thế.

Lòng sùng tín của những kiểu người này thật huy hoàng và có thể dời non lấp biển nếu cần: “Con sẽ kiếm cho Ngài nửa triệu bảng, thưa Chân sư!” Xin Trời giúp bất kỳ ai cản đường họ! Họ giữ lời hứa, nhất là những lời đã hứa với Chân sư, và họ có khả năng tự hy sinh phi thường. Một biểu tượng tuyệt đẹp cho dấu hiệu mọc này là con bồ nông không có gì cho con non ăn, liền mổ ngực mình và nuôi chúng bằng chính thân thể nó. Mang một thân thể già nua hoặc bệnh tật, và ghì nó vào cối xay, để một công việc tinh thần nào đó có thể hoàn tất, hoặc lời hứa được giữ trọn, ngay cả khi bạn phải hy sinh chính thân mình hay sinh mạng vì điều đó, là một minh họa tuyệt vời về hiến dâng. Song Ngư làm dấu hiệu mọc sẽ luôn cố gắng trao cho những người trẻ hơn trên Thánh đạo phần dưỡng nuôi họ cần, dẫu điều ấy có đang giết chết y trong quá trình.

Mọi kiểu tôn vinh hay sùng bái, như việc Chiêm bái của các Đạo sĩ (Magi) lúc Đức Jesus giáng sinh, cũng thuộc dấu hiệu mọc Song Ngư, nhất là khi liên can đến một nhân vật quốc gia hay một vị thánh. Sự tôn sùng Chân Ngã thiêng liêng, đặc biệt khi nó mang hình thái nhân hình và Kitô giáo, đến với Song Ngư làm dấu hiệu mọc một cách tự nhiên. Đây là một hình tượng kiểu Moses, phụ hệ, như trong Cựu Ước. Với Song Ngư, Ngài là huy hoàng, nhiệm mầu, vinh quang và xứng đáng được sùng bái. Dĩ nhiên, cũng có những người không tôn kính Chân Ngã tối cao bằng sự chiêm bái mà bằng điều gì đó như phụng sự (Xử Nữ) nhân loại. Albert Schweitzer, bác sĩ thừa sai, thần học gia, triết gia và nhạc sĩ là một con người như thế. Như Ông từng viết: “Mục đích của đời người là phụng sự, thể hiện lòng cảm thông và ý chí giúp đỡ người khác.” (The Schweitzer Album).

Công việc phụng sự có thể mang nhiều hình thức, và thường sẽ thu hút sự chú ý của các thực thể cao cả. Dấu hiệu mọc thêm phẩm chất kiên định cho Song Ngư, và ở đây chúng ta gặp các vị thiên thần trợ giúp hoàn tất những dự án đòi hỏi rất nhiều thời gian, sùng mộ và nỗ lực để hoàn thành, như chính công trình của tôi, vốn mất nhiều năm để thực hiện. Việc tôn vinh Chân Ngã cũng có thể được thể hiện qua các hoạt động như tham thiền, đặc biệt là tham thiền nhóm, thay vì tự giam mình trong lời cầu nguyện nơi một xà lim tu viện.

Bất cứ khi nào xét đến dấu hiệu mọc nói chung, chúng ta nên nhớ rằng nhà thứ nhất, nơi đặt dấu hiệu mọc, kề sát nhà thứ mười hai. Vì vậy nhiều dấu hiệu mọc sẽ nằm một phần trong nhà thứ mười hai của Song Ngư. Dấu hiệu mọc càng ở độ cao, phần của nó trong nhà thứ mười hai càng lớn.

Thật vậy, khi ai đó có, chẳng hạn, dấu hiệu mọc ở độ hai mươi chín, hầu như toàn bộ dấu hiệu mọc của họ nằm trong nhà thứ mười hai, và chúng ta có xu hướng nói rằng mục đích của linh hồn, do đó, sẽ phần lớn vẫn không được biết hay còn ẩn giấu. Một nhà chiêm tinh nội môn giỏi sẽ có thể đưa ra vài gợi ý về bản chất của nó, nhưng cá nhân ấy sẽ không bao giờ thật sự biết mục đích tinh thần chân thật của mình. Ai đó khác, chẳng hạn, có dấu hiệu mọc chỉ ở độ một hay hai sẽ thấy dễ dàng hơn nhiều để nhận biết mục đích của linh hồn họ, vì gần như toàn bộ nó sẽ được hiển lộ trong nhà thứ nhất.

Nhà huyền bí học nổi tiếng và là người sáng lập Hội Nghiên Cứu Triết Học, Manly Palmer Hall, sinh ra với Song Ngư làm dấu hiệu mọc. Khi tôi còn trẻ, vô số sách của Ông thống lĩnh các ấn phẩm tài liệu huyền bí. Lá số của Ông cho thấy Song Ngư làm dấu hiệu mọc, với bốn hành tinh trong dấu hiệu này, tạo thành một ảnh hưởng rất hùng hậu. Với chỉ hai độ Song Ngư ở dấu hiệu mọc, đời Ông sẽ là một cuộc đời mà những gì Ông biết sẽ không bị che giấu, mà được phơi bày. Nếu dấu hiệu mọc của Ông ở các độ cuối của Song Ngư, Ông đã phải dành phần lớn đời mình để kiếm tìm điều chưa biết. Kỳ thực Ông là một con người rất huyền bí, người đã lấy những gì mình biết và ban phát cho thế giới dưới dạng một khối lượng đồ sộ sách vở tuyệt đẹp và kỳ diệu. Có lẽ cuốn sách nổi tiếng nhất của Ông, tổng kết công việc của linh hồn và dấu hiệu mọc Song Ngư của Ông, là The Secret Teachings of all Ages.

Từ Khóa và Cụm Từ cho Dấu hiệu Mọc Song Ngư

Thiên giới; cổng trời; vinh quang bị cầm tù; sự trần trụi của con người trước vinh quang của Thượng đế; chiêm bái Chân Ngã thiêng liêng; tận hiến cho mục đích của linh hồn; tự hy sinh; tư tưởng của một thiên thần; trạng thái ân sủng; đấng cứu rỗi linh hồn; bức màn lớn của maya; thần quyền; giữ lời hứa; một bí mật được giữ kín; MI5; không tên nhưng muôn biệt danh; cuộc tuần hành phản kháng; nhà tù quốc gia; bị luận phạt đời đời.

Và chân kia thuở cổ xưa

Bước trên non xanh xứ Anh?

Và Chiên Con của Thượng đế

Đã hiện trên đồng êm nước Anh?

—William Blake, Milton

PLUTO: CHỦ TINH NỘI MÔN CỦA SONG NGƯ

. . . bị cuốn vào bóng tối địa u của điều phi lý. —Lawrence Durrell, Monsieur.

Hành tinh nhỏ nhất và ở ngoài rìa của hệ mặt trời, Sao Diêm Vương chỉ mới được phát hiện tương đối gần đây. Nhà thiên văn học Mỹ Percival Lowell vào năm 1905 bắt đầu ngờ rằng nó tồn tại, nhưng chỉ có thể gợi ý về sự hiện diện ẩn giấu của nó bằng phép tính. Nó không được định vị đích xác cho đến năm 1930, và trong nhiều năm sau đó người ta biết rất ít về nó.

Hành tinh này được đặt tên—một cách phù hợp—theo vị thần của âm phủ. Trong thần thoại La Mã, Pluto, con của Saturn và Ops, phân chia vương quốc của cha mình với hai người anh em là Jupiter và Neptune. Phần của Jupiter là thiên giới, của Neptune là đại dương, còn của Pluto là các miền dưới lòng đất, cõi âm phủ. Tên gọi khác của Ngài, Hades, có nghĩa là “vô hình” và gợi ý về điều ẩn giấu và bất khả tri.

Có lẽ đó là một biểu hiện của vô thức tập thể khi những người không làm chiêm tinh lại chọn một cái tên hết sức phù hợp về mặt chiêm tinh cho hành tinh vừa được phát hiện, hai chữ cái đầu của tên này được nói là để tưởng niệm các chữ cái đầu tên của Percival Lowell. Ký hiệu mà chúng ta dùng cho Sao Diêm Vương là sự kết hợp hai chữ cái đầu ấy.

00007.jpeg

Một số nhà chiêm tinh dùng một ký hiệu khác, nhưng tôi cho rằng loại trước là phù hợp duy nhất với hình thái của Sao Diêm Vương, vì những lý do tôi trình bày bên dưới.

Về mặt thiên văn, Sao Diêm Vương cách mặt trời xa đến mức nó không nhận được ánh mặt trời và chuyển động trong bóng tối—điều phản ánh mối tương ứng Song Ngư của nó. Vệ tinh của nó là Charon, được đặt theo tên người lái đò chở linh hồn người chết vượt qua các sông Styx và Acheron nơi âm phủ.

Mất gần 248 năm để hoàn tất một vòng quanh mặt trời, Sao Diêm Vương là chậm nhất trong các hành tinh di chuyển qua hoàng đạo. Nó có một quỹ đạo rất lệch tâm, và đôi khi đến gần Trái Đất hơn cả láng giềng gần nhất của nó là Sao Hải Vương. Điều này có nghĩa là nó có thể ở trong một số dấu hiệu lên tới ba mươi hai năm nhưng chỉ mười ba năm ở một số khác. Trung bình, nó đi qua một dấu hiệu khoảng hai mươi bốn năm.

Việc phát hiện Sao Diêm Vương đã đặt ra cho các nhà chiêm tinh đầu thế kỷ 20 vấn đề làm sao dung nạp “kẻ mới đến” huyền bí này vào trong hệ thống chiêm tinh hiện hành. Một số gán nó với dấu hiệu Hổ Cáp trong khi những người chính thống và truyền thống hơn thì từ chối không cho hành tinh nhỏ bé và xa xôi này bất kỳ ảnh hưởng đặc biệt nào trên một trong các dấu hiệu hoàng đạo.

Trong Chiêm Tinh Học Thế Kỷ 21, vốn đặt nền trên các giáo lý của Minh Triết Ngàn Đời và công trình của Bà Alice Bailey, chúng ta đặt Sao Diêm Vương làm chủ tinh của Song Ngư. Quyền cai quản Song Ngư, vốn ban đầu do Sao Mộc nắm giữ, đã được hầu hết các nhà chiêm tinh phân bổ cho Sao Hải Vương khi hành tinh này được phát hiện vào năm 1846. Về sau, Sao Diêm Vương được Bà Bailey phân bổ làm chủ tinh của Song Ngư trong tác phẩm Chiêm Tinh Học Nội Môn, xuất bản vào những năm 1940. Tuy nhiên, Bà cho rằng với tư cách là chủ tinh của Song Ngư, ảnh hưởng của nó trong đa số trường hợp chỉ được cảm nhận bởi những ai nhạy cảm và tiến bộ về tinh thần.

Thế nhưng Chiêm Tinh Học Thế Kỷ 21 [sẽ] dùng Sao Diêm Vương làm chủ tinh của Song Ngư cho toàn thể con người phương Tây. Đây không phải là suy đoán suông mà dựa trên những thay đổi quan trọng đã xảy ra trong nền văn minh phương Tây kể từ khi sự tồn tại của Sao Diêm Vương lần đầu được nghi ngờ. Quá nhiều đặc trưng mới đã xuất hiện trong mẫu hình môi trường sống của chúng ta, với một độ rõ ràng như thế, mà hình thái của chúng nay đặt Sao Diêm Vương vào vị trí không thể tranh cãi là chủ tinh của Song Ngư. Do đó, sẽ hữu ích khi nhìn vào những biến cố đang mở ra vào thời điểm Sao Diêm Vương được phát hiện, để minh họa đôi điều về bản tính huyền bí của nó.

Chiều hướng sự kiện, đặc biệt ở châu Âu, từ năm 1930, khi Sao Diêm Vương được phát hiện, cho đến cuối Thế chiến II, khoảng mười lăm năm, có thể liên hệ với hành tinh này. Giai đoạn ấy chứng kiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít và châu Âu bắt đầu cảm nhận đế giày đinh của Đức Quốc xã, với bản chất khoa trương và bùng nổ. Nó chứng kiến sự truyền bá tràn lan những tuyên truyền của Goebbels ở hình thức ầm ĩ và khoa trương nhất. Đức Quốc xã bỏ tù, giam cầm và trừng phạt, tạo nên một địa ngục trên trần—đặc trưng của mặt phá hoại của Sao Diêm Vương. Trong một diễn văn nổi tiếng vào thời kỳ tăm tối đó, Ngài Winston Churchill đã mô tả mối đe dọa Đức Quốc xã như “. . . một nền bạo ngược quái đản, chưa từng bị vượt qua trong bản lục u tối, đáng than khóc về tội ác của loài người.”

Cung một của Ý Chí và Quyền Năng mạnh mẽ trong Sao Diêm Vương. Đây là Cung của Đấng sáng tạo, duy trì và hủy diệt. Những cá nhân trở thành tiêu điểm cho các năng lượng của hành tinh này đã tạo ra hoặc là đổi mới, hoặc là hủy hoại, hoặc cả hai cùng lúc. Cái chết và sự tàn phá khủng khiếp của chế độ Hitler đã mang đến những thay đổi sâu rộng cho châu Âu. Người ta hẳn có thể nói rằng chủ nghĩa Quốc xã, với lòng tận hiến chính trị mãnh liệt cho một lãnh tụ duy nhất, là hồi chuông báo tử sau cùng của Thời đại Song Ngư. Sự bùng phát vĩ đại mang tính Diêm Vương của vô thức dân tộc Đức đã trào ra trong những thứ như tuyên truyền, hành động mờ ám, đạo quân thứ năm, gián điệp v.v.: tất cả đều là các yếu tố Song Ngư. Nhìn lại một cách điềm nhiên chuỗi sự kiện dày đặc của thập niên Đức Quốc xã, chúng ta có thể bắt đầu hiểu rằng, theo một cách khủng khiếp của nó, đó là để đốt lửa mở đường cho Kỷ Nguyên Mới, đồng thời nhấn mạnh cái chết của Thời đại cũ và sự chìm đắm của nó vào những tầng địa u.

Tàu ngầm, với sức tàn phá ẩn giấu, là một biểu tượng mạnh mẽ cho Sao Diêm Vương, ký hiệu của nó gợi hình cái ống tiềm vọng nhô lên từ đáy sâu, ám chỉ sự hiện diện ẩn kín của con tàu. Tàu ngầm U-boat của Đức Quốc xã đã gây ra tàn sát khủng khiếp trong Thế chiến II. Ẩn sâu dưới lòng đại dương, chúng suýt nữa đánh bại nước Anh trong những năm đầu chiến tranh, gửi hàng ngàn tàu thuyền Đồng minh xuống đáy Đại Tây Dương. Chúng phản ánh những mặt tồi tệ nhất của chiến tranh tàu ngầm, sự vô nhân tính của con người, những tội ác lớn lao gây ra từ sâu dưới nước. Về sau, tàu ngầm trở thành phương tiện che giấu lý tưởng cho cỗ máy Diêm Vương tính khác, bom nguyên tử.

Ảnh hưởng của Sao Diêm Vương thường mang tính núi lửa, bùng nổ từ đáy sâu. Ở cấp độ vật chất của trái đất, đó là những phun trào lớn, những vụ nổ, đại biến và những chấn động núi lửa bốc trào và cuộn lên khói bụi, bồ hóng và khói đen, đôi khi đến từ sâu trong manti của trái đất, nhưng thường hơn là từ lớp vỏ nơi xảy ra sự tàn phá lớn nhất. Nó cũng gợi bụi phóng xạ rơi vãi và ô nhiễm sau đó.

Mẫu tự P trong tên Pluto được phát âm với một “vụ nổ” nhỏ hay một luồng hơi bật ra từ môi. Chúng ta đặt dưới hành tinh này mọi âm thanh ầm ĩ lạm dụng đôi tai và nện thẳng vào tâm thức, như những dòng nhạc ầm ầm, đặc biệt khi Sao Diêm Vương nghịch hành (xem bên dưới). Tiếng “pặp, pặp, pặp, pặp” của xe gắn máy là Sao Diêm Vương. Xe gắn máy thuộc một phần về Sao Diêm Vương và Song Ngư, nhưng cũng về Bạch Dương, vì người lái và tay lái tạo thành ký hiệu của Bạch Dương, cũng như hình dáng của người trượt tuyết.

Chửi rủa, văng tục và những lời thô bạo cũng liên hệ ở đây, đặc biệt là những gì có thể bị bôi xoá hoặc kiểm duyệt khỏi một bài diễn văn, hay các giấy tờ của những cá nhân tội lỗi như Richard Nixon, cựu tổng thống Hoa Kỳ. Những thứ như bạo loạn trong tù, côn đồ bóng đá, các cuộc phản kháng ầm ĩ, tiếng thét của nạn nhân, và đám ầm ĩ đi kèm với mọi vụ hiếp dâm hay tội ác, che đậy hay phơi bày, đều là chuyện của Sao Diêm Vương.

Khi Sao Diêm Vương kết hợp với Sao Hỏa, nó gợi ý bom, đặc biệt là những quả bom được đặt bí mật và trong bóng tối. Chúng ta đã thấy nước Ireland chủ yếu theo Công giáo được Song Ngư cai quản. Chủ nghĩa khủng bố và các tổ chức hay định chế khủng bố bí mật, như Quân đội Cộng hòa Ireland, vốn được che chắn và ẩn kín, cùng những quả bom của họ, là đặc trưng nổi trội của Sao Diêm Vương. Những hoạt động tội ác như đặt bom và chất nổ trong bí mật thuộc về Song Ngư và Sao Diêm Vương, trong khi các vụ nổ và bom của chiến tranh công khai thuộc về Sao Hỏa và Hổ Cáp.

Sao Diêm Vương cũng cai quản giày và ủng, nhất là khi chúng bẩn hay bùn lầy. Nó gợi đôi ủng đinh, những chiếc ủng của quân cận vệ bão táp Đức Quốc xã. Những hoạt động như buôn lậu rượu cũng hiện lên trong tâm trí, khởi đầu ở Hoa Kỳ khi việc bán rượu cho thổ dân châu Mỹ là bất hợp pháp và các chai rượu bị giấu để bán trong ủng đinh của bọn lái buôn vô lương. Thuật ngữ này về sau được dùng cho mọi sự buôn rượu lậu trong thời kỳ Cấm rượu tại Hoa Kỳ, và hiện nay được áp dụng cho việc sao chép và phân phối trái phép nhạc thu âm và phần mềm máy tính.

Là chủ tinh của nhà thứ mười hai về sự bị thể chế hóa, Sao Diêm Vương thường ôm trọn kẻ phạm tội, tù nhân, người nghiện rượu và tất cả những ai tự chuốc lấy hoạ. Đây là hành tinh của các băng nhóm, và của tay anh chị, đặc biệt khi nó kết hợp với dấu hiệu Bảo Bình, dấu hiệu cai quản các nhóm. Nạn bảo kê và tội phạm băng đảng nở rộ trong thập niên 1930. Sao Diêm Vương cai trị thế giới ngầm của tội ác và những hoạt động tội phạm thường ẩn giấu khỏi con mắt công chúng: kẻ cướp giật trong đêm, những kẻ âm mưu rắp tâm trong bóng tối, trộm cắp, cướp bóc, hiếp dâm, v.v. Sao Diêm Vương là bóng tối, nhất là theo nghĩa tội phạm:

. . . Hãy đến, đêm đặc quánh,

Và phủ Ngươi bằng làn khói âm ty dày đặc nhất,

Để dao sắc của ta không thấy vết thương nó gây,

Cũng chẳng để trời cao rẽ tấm màn đêm,

Mà kêu “Dừng lại, dừng lại!”

—William Shakespeare, Macbeth

Đây là hành tinh của khẩu súng lục, bất thần vung ra trong một vụ ám sát hay giết người. Nó cũng là hành tinh của việc bắt cóc và cưỡng bức đưa đi, điều này có một tiền lệ trong thần thoại.

Trong thần thoại Hy Lạp, Hades, chúa tể âm phủ, đã yêu Persephone và muốn cưới nàng. Cha nàng, Zeus, ưng thuận, nhưng mẹ nàng, Demeter, từ chối. Hades, không chịu thua, đã bắt cóc cô gái khi nàng đang hái hoa và mang nàng xuống cõi của mình. Khi Demeter lang thang tìm con gái thất lạc, đất đai trở nên hoang tàn. Mọi cây cối chết, và nạn đói tàn phá xứ sở. Cuối cùng Zeus sai Hermes, sứ giả của các thần, đưa Persephone trở về với mẹ. Trước khi Hades cho nàng đi, Ngài bảo nàng ăn một hạt lựu, thức ăn của cõi chết. Bởi vậy nàng bị buộc phải trở lại âm phủ một phần ba năm. Vừa là nữ thần của cõi chết vừa là nữ thần của phì nhiêu địa cầu, Persephone là sự nhân cách hóa của sự hồi sinh của thiên nhiên vào mùa xuân. Các Nghi Lễ Eleusis được cử hành để tôn vinh nàng và thân mẫu.

Chủ đề bắt cóc nay đang được phản chiếu trong nhiều câu chuyện kinh ngạc và kỳ diệu về những người tuyên bố đã bị người ngoài hành tinh bắt cóc và thường bị ép trải qua những cuộc thăm khám xâm lấn bí ẩn. Những trải nghiệm bị người ngoài hành tinh bắt cóc không phải tất cả đều được cảm nhận như đen tối; với một số người tham dự, chúng mang tính nhiệm mầu và chuyển hóa. Tại thời điểm viết, Sao Diêm Vương vừa mới đi vào cung Nhân Mã, dấu hiệu của không gian vũ trụ và tàu vũ trụ, của chư thần, và của tương lai cùng mọi khả tính mà nó cưu mang.

Vì vậy, không ngạc nhiên khi chúng ta thấy một sự tăng vọt đột ngột các lần thấy và hiện tượng liên quan đến vật thể bay không xác định. Sự kết thúc của Thời đại Song Ngư chứng kiến sự suy giảm to lớn trong việc đến nhà thờ, trong khi nền văn hóa duy vật khoa học lan tràn đã khiến nhiều người đánh mất cảm thức về điều huyền nhiệm, nhiệm mầu và thiêng liêng. Cả một vùng cõi cảm dục vốn từng được tiếp năng thường xuyên bởi cảm xúc và sinh hoạt Kitô giáo và tôn giáo đã bị trơ trụi khỏi các năng lượng linh thiêng của chúng do thiếu quan tâm. Cơn khát bị dồn nén của con người hiện đại đối với ý nghĩa và dẫn dắt tinh thần đã dẫn đến một cuộc bùng phát hay trào dâng Diêm Vương tính của những lần thấy liên quan đến tàu vũ trụ và các hữu thể đến từ ngoài không gian. Những hình ảnh như thế cung cấp cho người kiến tạo chúng niềm hy vọng về tương lai, hoặc, trong bản chất đen tối và dữ tợn của chúng, đe doạ thế giới quan duy vật đang thống trị.

Bản thân tôi không tìm thấy bằng chứng nào cho sự hiện hữu vật chất của những “cỗ tàu” hay những “sinh mệnh” ấy; kỳ thực chúng là một dạng hóa trang đằng sau đó các yếu tố bị dồn nén của tâm linh con người đang biểu hiện. Nhà tâm lý học Carl Jung đã bàn sâu về điều này, như chính tôi đã làm trong cuốn sách của mình Ý nghĩa Huyền bí của Vật thể Bay Không Xác định.

Không phải là trùng hợp khi tâm lý học Freud, với chủ đề trung tâm là giải phóng những nội dung bị dồn nén trong vô thức, một tiến trình gọi là phản ứng giải tỏa hoặc thanh lọc, đã trở nên thịnh hành vào thời điểm Sao Diêm Vương được phát hiện năm 1930. Những đáy sâu khôn dò của vô thức tiếp tục được Jung khảo cứu sâu xa. Học thuyết về vô thức cho rằng phần lớn tâm linh của chúng ta nằm chôn vùi, ngoài tầm nhận biết. Theo kiểu Song Ngư, trong vô thức nằm cả điều tệ nhất lẫn điều tốt nhất. Cái tệ nhất có thể bùng phát theo kiểu núi lửa, như một lời nguyền phạm thượng, hoặc ở cấp độ quốc gia, như sự trỗi dậy của Đức Quốc xã. Cái tốt nhất có thể trồi lên dưới dạng các nguyên mẫu, biểu tượng hay hình ảnh có thể khởi động cả một chu kỳ mới của sự tỉnh thức nhân loại.

Những thứ nở rộ, đâm chồi, hay nấm mọc, giống như chữ P trong ký hiệu của nó, đều thuộc Sao Diêm Vương. Sao Diêm Vương là sự trổ hoa nhỏ li ti trên một bắp sú; là bắp cải tí hon mọc bên sườn thân; là cây nấm, thường được nuôi trồng trong bóng tối và bí mật. Nó cũng cai quản các ngón chân, nhô ra ở cuối bàn chân (Song Ngư), trông như những củ khoai tây nhỏ—một loại rau cũng do Sao Diêm Vương cai quản. Mọi phần mập cụt của thân thể thuộc về hành tinh này. Một người chịu sự cai quản của Sao Diêm Vương thường có những thứ nảy nở trong thân, như các khối tăng trưởng lạ lùng ở những nơi sâu kín.

Hổ Cáp cai quản những thứ dễ bay hơi và bốc phát, như khí ga, còn Sao Diêm Vương cai quản những thứ sủi bọt, đặc biệt khi chúng liên hệ đến rượu. Đó là lớp bọt nổi lên trên mặt bia, nhất là loại bia đen Ireland Guinness. Đó là tiếng bật nút của chai sâm-banh và bọt trào tung bay đánh dấu cuộc mừng rượu cho một ngày kỷ niệm hay chu kỳ nào đó trong đời. Ở nghĩa tăm tối hơn, đó là bọt mép sùi ra nơi miệng của con chó mắc bệnh dại.

Đây là hành tinh của rượu vang, nhất là loại đỏ sẫm giàu như Bordeaux, và vì thế nó là ngôi nhà của trái nho đâm chồi từ giàn, cùng tất cả những gì điều đó gợi ra. Trong thần thoại Hy Lạp và La Mã, Bacchus (Dionysus) là vị thần của sự phì nhiêu và của rượu vang, một vị thần mà các huyền lễ của Ngài đã gợi hứng cho sự sùng bái say đắm, xuất thần; các nghi lễ của Ngài (Bacchanalia) là những cuộc hoan lạc cuồng dâm, say sưa. Tên gọi Bacchus ám chỉ những tiếng hô vang lớn lao khi người ta thờ phụng Ngài trong các kỳ Bacchanalia, những cuộc lễ cuồng nhiệt vinh danh Ngài. Những sự kiện này, vốn được cho là khởi nguồn từ các lễ hội thiên nhiên mùa xuân, đã trở thành dịp cho sự phóng đãng và say sưa, nơi các kẻ dự lễ nhảy múa, uống rượu, và nhìn chung là tự phóng túng trụy lạc.

Không có gì lạ, Sao Diêm Vương là kẻ làm ô uế, bằng cưỡng hiếp, lạm dụng, hay thậm chí bằng việc phơi bày, đặc biệt khi Mặt Trời hay Sư Tử dính vào. Nó là kẻ đại nhiễm bẩn; nó là bụi đất, bùn lầy, cáu ghét và nhơ nhớp theo nghĩa tệ hại nhất. Nó làm dơ và làm ố. Chẳng hạn, “bị vấy máu” sẽ là Sao Hỏa ở Song Ngư. “Bị vấy máu các vị tử đạo” sẽ là Sao Hỏa ở Song Ngư tại nhà thứ mười hai. Thường một vết ố là công cụ để kết tội một tội phạm, thông qua khả năng giám định pháp y do Xử Nữ cai quản. Tạp chất trở nên rất hiển nhiên khi Xử Nữ hoặc Mặt Trăng có liên hệ với Sao Diêm Vương. Sao Diêm Vương là tì vết, hoặc là cái đã bị tì vết. Nó là vết bôi đen nhòe nhoẹt hay đốm mực làm hỏng cuốn vở trắng và kéo theo trừng phạt hay thậm chí bị thầy cô giam cầm. Nó cũng là sự bôi nhọ hay làm hoen ố Tính cách của ai đó, nhất là khi một tội lỗi kín đáo hay ẩn giấu bị đưa ra ánh sáng.

Màu của Sao Diêm Vương là đỏ tươi; màu đỏ của những trái anh đào đâm chồi từ cây của chúng, hoặc màu của chiếc xe buýt đỏ London, vốn rất đặc trưng giữa khói bụi và nhơ bẩn của thành phố. Nó là màu của chiếc thùng thư kiểu Anh cũ, đứng kiêu hãnh giữa đường, như một biểu trưng của tính tiếp nhận. Sao Diêm Vương cũng cai quản chim robin (chim cổ đỏ), một loài chim thường tạo thành hình như chữ P khi nó hùng hổ ưỡn phồng bộ ngực đỏ của mình. Nó thường được vẽ nổi trên nền trắng Xử Nữ của tuyết, thứ chúng ta thích nhìn vào cuối năm, dịp Giáng Sinh, mừng sự chào đời của vị cứu tinh Song Ngư. Sao Diêm Vương cũng là chiếc áo choàng đỏ tươi của Ông già Noel (Thánh Nicholas) trong truyền thuyết, người đi xuống ống khói ám khói vào ban đêm để đặt quà ẩn trong tất của trẻ em rồi rời đi không ai biết.

Giờ đây khi chúng ta đang đến gần Kỷ nguyên mới của Bảo Bình, có thể trông đợi một đổi thay sâu xa trong các biến cố thế giới, và vai trò của Sao Diêm Vương sẽ thay đổi tương ứng. Thật liều lĩnh khi đưa ra những khẳng định dứt khoát về hành tinh này, vì điều chưa biết là phần cốt yếu trong chính bản tính của nó. Như tôi đã nói, vào thời điểm viết, Sao Diêm Vương ở Nhân Mã, và sẽ ở đó cho đến năm 2008. Lần trước Sao Diêm Vương ở dấu hiệu này là vào thế kỷ mười tám, và ảnh hưởng tích cực của nó thấy rõ trong cuộc đời của hai thiên tài đương thời. Nhà thần bí, người viễn kiến, triết gia, thi sĩ và họa sĩ William Blake sinh năm 1757, với Mặt Trời, Sao Mộc và Sao Diêm Vương đều ở Nhân Mã. Blake sống trong vô danh và tác phẩm kỳ lạ của Ông phần lớn không được chú ý cho đến rất lâu sau khi Ông mất. Ông chịu cảm hứng của Emanuel Swedenborg (được nói là có Nhân Mã mọc), nhà khoa học, nhà thần bí và thiên tài người Thụy Điển, người đã hiến phần cuối đời mình cho việc du hành các thế giới nội tâm. Năm 1758 Swedenborg xuất bản Jerusalem Mới và sáng lập Giáo hội Jerusalem Mới.

Khó khăn khi diễn giải ảnh hưởng hiện thời của Sao Diêm Vương ở Nhân Mã bộc lộ ngay khi chúng ta xét rằng đã hai thế kỷ rưỡi trôi qua kể từ lần Sao Diêm Vương ở dấu hiệu này. Xã hội và văn hóa phương Tây đã thay đổi khổng lồ kể từ đầu thế kỷ mười tám. Vì vậy, đúng với khí chất Song Ngư, không ai có thể chắc chắn Sao Diêm Vương sẽ biểu hiện ra sao ở Nhân Mã, mặc dù chúng ta đã có vài dấu hiệu với hội chứng UFO.

Xét bản tính bí ẩn của hành tinh này, việc diễn giải ở cấp độ tập thể đã đủ khó, nói chi đến cá nhân. Phương cách của Sao Diêm Vương cực kỳ khắc nghiệt, tàn nhẫn và phá hủy, và chẳng bao giờ mềm mỏng như Sao Hải Vương. Chúa tể cõi âm vận hành trong bóng tối nơi không có ánh sáng của lý trí, chỉ có năng lực nguyên thủy không ngừng nghỉ. Từ cõi của mình, nó làm suy yếu các kịch bản của thế giới ban ngày bên trên, hoặc bắt cóc và kéo tuột xuống tận đáy, hoặc xua đẩy trồi lên ánh sáng, tùy trường hợp.

Như Vulcan, một hành tinh khác của Cung một, cung của năng lực hủy diệt, Sao Diêm Vương phá hủy những ràng buộc trói buộc con người vào bánh xe hiện hữu trong hình tướng. Trải nghiệm Pluto được đặc trưng bởi những biến động lớn—thể xác, cảm xúc và trí tuệ—thường kèm chấm dứt mối quan hệ, đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ và hoàn cảnh hoàn toàn mới. Tuy nhiên, tâm thức không bao giờ bị hủy diệt trong tiến trình này, mà trái lại, được tăng cường nhờ giải phóng khỏi các hình tướng cũ và kết tinh. Do đó, Sao Diêm Vương liên hệ với sự trần trụi và (khi nghịch hành) sự bóc bỏ mọi tấm màn che khuất sự thật về ý định của linh hồn. Và Sao Diêm Vương cung ứng ý chí để duy trì cuộc thử thách lột trần linh hồn này.

Như Sao Hỏa và Hổ Cáp, dấu hiệu khác của chết và tái sinh, Sao Diêm Vương tiếp tục quá trình gột rửa và chuyển đổi phàm ngã của người đệ tử, đưa tiến trình đến viên mãn ở Song Ngư. Tác động của Sao Diêm Vương mang tính đại biến và có tầm xa hơn, vì nó phá bỏ mọi thứ cản ngăn sự dung hợp chung cuộc với linh hồn. Đây là một dạng chết không nên nhầm với cái chết thể xác ở Cự Giải, vốn chỉ báo kết thúc một kiếp sống, một trong nhiều kiếp trong một vòng lâm phàm. Như chúng ta đã thấy, Song Ngư là dấu hiệu cuối của hoàng đạo và đến vào cuối năm chiêm tinh. Cái chết ở Song Ngư là cái chết biểu trưng của hình tướng đi kèm sự hoàn tất chu kỳ tiến hóa tinh thần.

Những ai ý thức các chiều kích tinh thần và nỗ lực biểu lộ chúng trong đời sống, thấy rằng Sao Diêm Vương biểu đạt tốt nhất những điều này nếu họ sinh ra trong Song Ngư, có Song Ngư mọc hoặc nếu Mặt Trời ở nhà thứ mười hai. Biểu hiện của Sao Diêm Vương, dĩ nhiên, sẽ chịu ảnh hưởng bởi nhà và dấu hiệu nơi nó an cư. Điều này đặc biệt quan trọng với người có Song Ngư mọc, nơi vị trí của Sao Diêm Vương sẽ là yếu tố chủ chốt quyết định mục đích của linh hồn. Chuyển động tương đối của nó, dù thuận hành hay nghịch hành (xem bên dưới), cũng sẽ là then chốt để diễn giải. Nói chung, Sao Diêm Vương sẽ chỉ ra nơi các năng lượng Song Ngư được nhấn mạnh và phát xạ. Nó sẽ cho thấy, chẳng hạn, nơi các yếu tố tôn giáo, đức tin và lòng sùng mộ sẽ biểu lộ, và nơi có thể phát sinh tính phạm pháp, hành vi lật đổ, hay thậm chí là tù đày. Nó gợi ra nơi đương số sẽ kín mật nhất. Sự tồn tại và bản chất của các phức cảm sâu kín, ẩn giấu và bị dồn nén có thể được chỉ ra bởi dấu hiệu và nhà của Sao Diêm Vương. Nó cũng sẽ cho thấy các lĩnh vực nơi hoạt động của bán cầu não phải sẽ được biểu đạt dễ dàng nhất.

Thành phần lớn nhất trong hộp sọ con người là não trước. Nó bao gồm hai bán cầu đồ sộ bằng chất xám và chất trắng, từ bề mặt của chúng phát lệnh cho mọi vận động tự ý, và nơi mọi cảm giác rốt cuộc được ghi nhận vào cái chúng ta gọi là tâm thức. Hai nửa bộ não này chia sẻ mọi năng lực có ý thức giữa chúng. Tuy nhiên, trong thời thơ ấu hoặc muộn hơn, một bán cầu chiếm ưu thế so với bán cầu kia; đặc điểm này thường bị bỏ qua, vì vẫn còn các nối kết chặt chẽ giữa hai bán cầu cho dù một bên trội hơn. Thường là bán cầu trái chiếm ưu thế so với bán cầu phải; trong trường hợp này, trung tâm ngôn ngữ nằm ở bán cầu trái.

Nói chung, chúng ta có thể nói rằng hầu hết các hành vi và thái độ khách quan của chúng ta tập trung ở nửa trái trội hơn của bộ não, và đời sống chủ quan của chúng ta được chi phối bởi bán cầu phải kém trội. Ở những cá nhân hiếm hoi, quyền uy của bán cầu khách quan không được thiết lập, và quyền kiểm soát có thể nằm ở bán cầu chủ quan. Nơi những người khác, nửa phải có thể tự khẳng định trong những thời kỳ khi nửa trái bị bất ngờ, hoặc trong các giai đoạn rút lui, mơ mộng, ngủ, tham thiền hay nội quan.

Các hoạt động chủ quan của tâm thức và những phần vô thức trong bản tính con người, vốn có thể hoặc không thể tự biểu lộ (qua giấc mơ, v.v.) vào trong tâm thức, cùng với các khả năng thông linh của bán cầu phải kém ưu thế, thuộc về nhà thứ mười hai, mà chúa tể là Sao Diêm Vương. Do đó, Sao Diêm Vương có thể liên hệ với các vùng tâm thức “bị phủ”, ẩn giấu, tiềm tàng, hạ giới hay thuộc địa phủ, vốn trồi lên mặt khi bán cầu kém ưu thế tiếp quản. Một ví dụ xảy ra khi hành động của bán cầu trội dẫn đến việc chúng ta kẹp ngón tay vào cánh cửa, và cơn đau cùng bực dọc (vì sự sơ suất của bán cầu trội) khiến bán cầu kém trội tự do tự tại khẳng định mình bằng một lời nguyền rủa đanh thép và có lẽ thêm vài tiếng mạt sát dại dột khác. Điều này, về mặt chiêm tinh, có nghĩa là sự thay thế Sao Thủy, trong chốc lát, bởi Sao Diêm Vương.

Khả năng ca hát thường đặt ở bán cầu phải (kém trội hơn), và điều đáng chú ý là nhiều trẻ em hát, nhất là khi chúng ở một mình, hơn là nói—cho thấy rằng ở lứa tuổi rất sớm ấy, sự ưu thế của bán cầu trái vẫn chưa khẳng định. Giáo dục tiểu học chóng tạo ra ưu thế não trái, và các khả năng trực giác, chủ quan của trẻ phai mờ đi. Đây là giai đoạn được William Wordsworth miêu tả sinh động trong bài thơ Intimations of Immortality:

Đã có một thời khi đồng nội, lùm cây, và dòng suối,

Đất đai, và mọi cảnh tượng thường ngày,

Với tôi dường như

Khoác mặc trong ánh sáng thiên giới,

Nay chẳng còn như những gì thuở xưa—

Quay bất cứ nơi nao tôi có thể,

Giữa đêm hay ngày,

Những điều tôi từng thấy nay tôi không còn thấy nữa .

Vì vậy, có vẻ rằng những dạng sâu thẳm nhất của tâm thức nằm ở phía phải của bộ não, điều mà chúng ta ở đây tương liên với nhà thứ mười hai. Khi những điều ăn sâu này trồi lên, đột ngột và bùng nổ, nó chỉ ra một trải nghiệm của Sao Diêm Vương, có thể dao động từ một lời nguyền rủa đến một lời ban phước. Khi chúng trồi lên êm ái và bền bỉ cùng yếu tố sùng mộ và lý tưởng mà chúng ta liên tưởng với Cung sáu, chúng ta có Song Ngư tự biểu hiện.

Chúng ta đã thấy Sao Diêm Vương cai quản những mô tạng đâm chồi và nẩy nở. Không mô tạng nào nẩy nở hơn hai bán cầu đại não, vốn đại diện cho biên viễn của tâm thức tỉnh thức, cũng như Sao Diêm Vương đại diện cho biên viễn của hệ mặt trời. Hai bán cầu đại não được liên kết với Bạch Dương, dấu hiệu cai quản cái đầu, và qua dấu hiệu này với Cung một của Ý Chí và Quyền Năng. Trong khi Sao Thiên Vương, một hành tinh thiêng liêng thuộc Cung một, an tọa ở Bạch Dương ban cho quyền kiểm soát mạnh mẽ, đáp ứng có trật tự và hành động đã tính liệu, thì Sao Diêm Vương, ở cùng dấu hiệu và cùng cung nhưng là hành tinh không thiêng liêng, lại ban một chủ quyền dai dẳng, không khoan nhượng cho bất kỳ bán cầu nào nó tàn nhẫn chọn lấy. Sao Diêm Vương có thể duy trì sự tuôn đổ không ngừng của bán cầu trội, hoặc nó có thể kích thích nửa chủ quan của bộ não gạt qua quyền uy của nửa kia và chiếm lĩnh toạ điểm của tâm thức không cần viện đến lý trí.

Khác với Sao Thiên Vương, Sao Diêm Vương có lối vào dễ dàng với vô thức và thích hành động từ dưới lớp che ấy. Thỉnh thoảng, khi nghịch hành, nó sẽ giải thoát Orpheus khỏi cõi âm của vô thức và cho phép chàng bừng ra ánh sáng của tâm thức với những điệp khúc du dương, những vần thơ đã lâu lãng quên, nỗi hoài niệm được gợi lên bởi khứu giác, xúc giác và vị giác. Bản thân Sao Diêm Vương cũng có thể xua đẩy, từ cõi âm, với mức tàn nhẫn lớn lao, những trải nghiệm mà ta từng dồn nén và những ký ức mà ta thà không có còn hơn.

Tôi đã đề cập rằng việc khám phá Sao Diêm Vương báo hiệu hai đặc trưng quan trọng của thế kỷ hai mươi: sự phóng thích năng lượng nguyên tử và sự thừa nhận rộng rãi về sự tồn tại của tâm trí vô thức nơi con người. Mọi phẩm tính Plutonic nằm giữa hai cực này, một cực khách quan và cực kia chủ quan. Cả hai cực đều có tiềm năng sáng tạo và cũng đều có tính phá hủy. Có thể phỏng đoán rằng bao nhiêu căng thẳng nội tâm, đăm chiêu và uẩn ức đã sinh ra bom nguyên tử. Có một điều chắc chắn; những mưu động vô thức và tiền-vật chất của nhân loại hẳn sẽ tạo ra một điều gì khác ở cấp khách quan trong thế kỷ hai mươi nếu không phải quả bom, và có lẽ còn điều gì đó Plutonic hơn nữa. Nay, vào cuối thế kỷ, con người (kể cả con người khoa học) đã bị cuốn hút bởi các hàm ý của giấc mơ, trải nghiệm ngoài thân và các biểu hiện khác của vô thức, như trước đây y đã bày tỏ mối quan tâm đến điều đặc thù mà chúng ta gọi là tham thiền.

Ý nghĩa Chủ chốt và Phẩm tính của Sao Diêm Vương

Vùng đất ngầm; cõi âm; các năng lực thông linh và trực giác của bán cầu phải chủ quan, kém ưu thế của bộ não; những khu vực tâm thức bị phủ lấp, ẩn giấu, tiềm tàng, hạ giới hay thuộc địa phủ; lời nguyền rủa; chửi thề; lời mạt sát; biến động; đại biến; núi lửa phun; bộc nổ; các sự vật bùng nẩy và đâm chồi; đưa vào cõi vô thức và che giấu; kiểm duyệt; kết liễu một chu kỳ; chuyển đổi; đóng đinh; hủy diệt và loại trừ; cứu chuộc; ý chí tinh thần; sự trần trụi.

Sao Diêm Vương bị xung khắc

Ô nhiễm; nhiễm bẩn; làm dơ; bôi lem; vấy bẩn; làm tì vết; bôi xoá; bôi nhọ; bụi bẩn; bùn lầy; cáu bẩn; nhơ nhớp; xấu ác; bạo loạn trong nhà tù; côn đồ bóng đá; bom khủng bố; IRA; bọn Quốc xã; băng đảng; thế giới ngầm tội phạm; bọn cướp giật; âm mưu; mưu đồ; trộm đột nhập; trộm cắp; bắt cóc; cưỡng đoạt người.

Sao Diêm Vương Nghịch Hành

Bất cứ khi nào xét các phẩm tính của một hành tinh, chúng ta cũng nên xét đến chuyển động tương đối của nó, có thể là thuận hành, đứng yên, hoặc nghịch hành. Đây là hiện tượng trong đó một hành tinh, từ điểm nhìn của người trên Trái Đất, dường như chậm lại, đứng yên, rồi đi lùi, trong cái mà các nhà chiêm tinh gọi là chuyển động nghịch hành, trước khi lại đi thuận (Xem minh họa dưới đây). Tiến trình này là một ảo giác thị giác, tương tự cảm giác khi ở trên một con tàu hỏa bị một tàu khác nhanh hơn một chút vượt qua, khiến ta có cảm giác sai lầm là mình đang chạy lùi.

Hiệu Ứng Nghịch Hành

Hiệu ứng nghịch hành quan trọng và là điều chúng ta luôn phải ghi nhớ, nhất là trong trường hợp Sao Diêm Vương, vốn dành gần một nửa quãng hành trình dài qua hoàng đạo trong chuyển động nghịch hành, nghĩa là biểu hiện nghịch hành của nó gần như thường xuyên bằng biểu hiện thuận hành.

Nghịch hành có thể “đảo ngược” mạnh mẽ biểu hiện của chuyển động thuận. Nó gợi ý, đúng điệu, điều gì đó được biểu lộ một cách gián tiếp hơn là trực tiếp, điều gì đó hàm ý hơn là hiện thực. Nó thường kích thích một biểu hiện bóng bẩy, ẩn dụ của ảnh hưởng hành tinh. Chẳng hạn, chúng ta biết Sao Diêm Vương thuận cai quản con chó. Khi Sao Diêm Vương nghịch hành, điều này xảy ra theo nghĩa ẩn dụ, và chúng ta có những thứ như vòng cổ giáo sĩ, mà linh mục hay mục sư đeo để làm cho nghề nghiệp tôn giáo của mình hiển nhiên. Chúng ta có thể miêu tả ai đó là “điên khùng như chó sủa”. Những ví dụ khác là các cách nói như “Cô ta đúng là mụ ác phụ!” hoặc, theo lối nói khen kiểu Song Ngư, “Cô ấy đúng là một vị thánh ghê gớm!” Một biểu hiện nghịch hành khác của Sao Diêm Vương là “Giờ chiếc giày đã mang sang chân kia!” Chúng ta, dĩ nhiên, đang nói theo lối ẩn dụ, nhưng những cách nói như vậy giúp định âm điệu cho biểu hiện nghịch hành của hành tinh này.

Nghịch hành cũng có thể mang lại hiệu ứng của cái “có mà như không”. Sao Diêm Vương nghịch hành gợi ra lòng sùng mộ, không hẳn theo nghĩa tôn giáo mà đúng hơn là với một điều thế tục nào đó mà người ta sùng mộ và xem là thiêng liêng, thậm chí thay thế cho tôn giáo, như chính trị.

Sao Diêm Vương nghịch hành có thể sinh ra những phẩm tính bổ sung và thậm chí đối nghịch với chuyển động thuận của nó. Một “bí mật công khai”, điều không ai nói nhưng ai cũng biết, là điển hình cho biểu hiện của nó. Nó cũng gợi ra “bí quyết thành công”; điều không bị cố ý che giấu, nhưng không dễ sẵn có cho tất cả. Chúng ta đã thấy đức tin, niềm tin, và “không biết” thuộc về Sao Diêm Vương thuận. Ngược lại, nghịch hành ám chỉ những điều có thể biết hoặc hiển nhiên. Những điều bị che màn, ẩn kín hay hướng nội thuộc về Sao Diêm Vương thuận, trong khi nghịch hành gợi ra tính hướng ngoại. Những điều mặc khải của Sao Diêm Vương nghịch hành có thể gây kinh ngạc, choáng váng, và thường có hàm ý tôn giáo hay siêu nhiên. Khi chúng tích cực, chúng khơi thốt những lời như “Kinh ngạc!”, “Tuyệt vời!”, “Không thể tin nổi!”, hoặc chỉ “Ôi chao!”

Sao Diêm Vương thuận cai quản sự trần trụi. Với nghịch hành, sự trần trụi ấy bị phơi bày, thậm chí bị đẩy ra trước sân khấu. Fagin, tay tiêu thụ đồ gian và tên trộm trong Oliver Twist của Dickens, là một nhân vật Song Ngư, nham hiểm và luôn ẩn nấp phía sau. Khi y rốt cuộc bị lộ diện và bị lôi ra ánh sáng, y mang hiệu ứng của Sao Diêm Vương nghịch hành, trông lố bịch, loè loẹt và thô tục.

Như chúng ta biết, Sao Diêm Vương cai quản tiếng ồn lớn, bộc nổ, và mọi thứ náo loạn hay tiếng kêu phản đối lớn, đặc biệt là những thứ bị che giấu hay giấu kín, như bạo loạn dữ dội bị chính quyền kiểm duyệt khỏi truyền thông. Khi những vụ bạo loạn như thế tràn ngập trên báo chí và truyền hình, thì thích đáng hơn là xếp chúng vào Sao Diêm Vương nghịch hành.

Những tuôn đổ bất kính hướng mãnh liệt về Thượng đế hoặc các vị thánh thích hợp thuộc phạm vi Sao Diêm Vương. Chúng thậm chí có thể gồm cả lời chửi rủa, miễn là chúng là những lời thốt ra theo cảm xúc hướng về điều thiêng. Chỉ khi có lời mạt sát và dùng danh Thượng đế hay Đức Christ một cách phạm thượng thì Sao Diêm Vương nghịch hành mới áp dụng. Những lời thốt bất kính như vậy, dù trong bạo loạn nhà tù, côn đồ bóng đá hay các cuộc biểu tình ồn ào, đều thuộc về Sao Diêm Vương trong chuyển động nghịch hành. Nó cũng cai quản nhạc rock, xe mô-tô, “đốt cháy đường”, và bất cứ thứ gì ầm ĩ, đột ngột và bùng nổ.

Sao Diêm Vương nghịch hành cũng hàm ý những bộc phát theo nghĩa ẩn dụ của bùn nhơ và nhơ nhớp tâm linh bị nạo vét từ đáy sâu tâm trí con người, và phơi bày những cảm xúc bị dồn nén đã trở nên đen tối và méo mó trong vô thức. Đó là các quỷ dữ và thủy quái trong địa ngục do chính mình tạo, bị xua trồi lên mặt khi Sao Diêm Vương đi nghịch hành, thường với hệ quả xấu xa. Những điều ăn sâu trồi lên, và các trải nghiệm bị dồn nén bị đẩy vào tâm thức. Sao Diêm Vương đưa các sự việc vào cõi vô thức và che giấu chúng, như chiếc ủng bao lấy bàn chân, hang động bao lấy quỷ dữ, hay tên tội phạm “dụ bạn lọt bẫy”. Tuy nhiên, khi Sao Diêm Vương nghịch hành, nó lại lột mở và phơi bày cái bị che giấu. Ở mức tinh luyện nhất, nó có thể khai quật kho báu chôn vùi có giá trị tinh thần.

Đôi khi không có ranh giới rõ rệt giữa nghịch hành và thuận hành trong hành vi của một người, và điều này có thể gợi ý rằng người ấy sinh khi Sao Diêm Vương đứng yên. Nhà chiêm tinh nên ghi nhận sắc thái này của sự cai quản Song Ngư bởi hành tinh, đặc biệt khi xét chứng hưng-trầm cảm. Hưng-trầm cảm là một trạng thái liên hệ với hành tinh này, nơi Sao Diêm Vương thuận liên hệ với pha trầm cảm hướng nội, và Sao Diêm Vương nghịch hành với pha hướng ngoại và hưng cảm. Giữa những người mộ đạo, pha trầm cảm thường liên kết với cảm giác tội lỗi và tự trách dữ dội, trong khi pha hưng cảm trở nên hung hăng, với những bộc phát chửi thề và hành vi thô tục.

Tôi đã nói về việc Sao Diêm Vương tiến vào Nhân Mã, và ở đây đáng lưu ý hiệu ứng nghịch hành. Nhân Mã, ở mức tệ nhất, cai quản các yếu tố tàn ác và lạm dụng. Nó gợi ra những điều như chăn nuôi thâm canh nơi thú vật bị khai thác mà ít quan tâm đến đau khổ của chúng. Với Sao Diêm Vương nghịch hành ở Nhân Mã, chúng ta có sự phơi bày các thực hành như nuôi lợn nái sinh sản bị cầm tù trong những lồng nhỏ xíu, và việc vận chuyển thú vật một cách nhẫn tâm ra nước ngoài trên quãng đường dài, với thức ăn nước uống thiếu thốn. Đột nhiên, ít nhất là ở Anh, đã có một làn sóng truyền thông và cảm xúc dâng lên chống lại những thực hành như vậy, với những cuộc biểu tình ồn ào, bạo lực, được cảnh sát kiểm soát chặt chẽ và được truyền thông đưa tin rầm rộ. Hệ thống gà chuồng lồng, nơi những con gà bị nhốt tàn nhẫn trong không gian chật hẹp, cũng cuối cùng đang đi đến hồi kết ở Anh.

Cũng đã có sự gia tăng to lớn trong việc phơi bày và nhận thức các hoạt động như lạm dụng tình dục trẻ em, hóa ra lan rộng hơn nhiều và bị che đậy hơn trước đây tưởng. Những thực hành đen tối, nham hiểm như hắc thuật, thờ quỷ và chủ nghĩa Satan cũng gần đây chiếm phần lớn sự chú ý của truyền thông, và nỗi hoảng loạn như thế thậm chí dẫn đến việc nhân viên xã hội “bắt cóc” trẻ khỏi cha mẹ. Sự lạm dụng gọi là Satan và nghi lễ thực ra phần lớn là sản phẩm của trí tưởng tượng đại chúng. Bị nạo vét từ đáy sâu vô thức, chúng được đặt trước cảnh sát với một thứ hằn thù tôn giáo giả dạng quan tâm xã hội.

Khi chúng ta tiến gần đến cuối Kỷ nguyên Song Ngư, với Sao Diêm Vương nghịch hành ở Nhân Mã, nhiều điều trong Giáo hội vốn từng bị che giấu và che đậy nay đang lộ ra. Người Công giáo ở Ireland đã bị sốc bởi sự thừa nhận miễn cưỡng của Giáo hội rằng trong nhiều năm Giáo hội đã cố ý che đậy chuyện lạm dụng trẻ em do các linh mục của mình gây ra. Báo chí tràn ngập các mặc khải như vậy, gồm cả những mối tình bí mật của linh mục và những đứa con ngoài giá thú. Điều này đã làm suy yếu nghiêm trọng cả sự tôn trọng dành cho Giáo hội lẫn ảnh hưởng chính trị mạnh mẽ của nó. Những ví dụ như thế cho thấy Sao Diêm Vương nghịch hành có thể có ảnh hưởng tích cực trong việc đưa hành vi đen tối của biểu hiện thuận hành đến một kết thúc.

Từ khóa cho Sao Diêm Vương Nghịch Hành

Những điều ăn sâu trồi lên; lột mở; phơi bày; vạch trần; khai quật; trải nghiệm bị dồn nén bị đẩy vào tâm thức; hưng cảm; biểu tình ồn ào; xe mô-tô; bộc phát tiếng động lớn; phóng thích năng lượng nguyên tử; bất tín; hoài nghi; phàm tục; bất kính; kẻ bài trừ thần tượng; vạch trần huyền thoại; bội tín; không vấy bẩn; vô tì vết; mụ ác phụ; kẻ đào tẩu.

The Great Invocation

From the point of Light within the Mind of God

Let light stream forth into the minds of men.

Let Light descend on Earth.

From the point of Love within the Heart of God

Let love stream forth into the hearts of men.

May Christ return to Earth.

From the centre where the Will of God is known

Let purpose guide the little wills of men —

The purpose which the Masters know and serve.

From the centre which we call the race of men

Let the Plan of Love and Light work out.

And may it seal the door where evil dwells.

Let Light and Love and Power restore the Plan on Earth.

Leave Comment