Tiểu Luận DHY Năm II của Học viên Đoàn Thu Nguyệt
Download bản pdf tại đây

MỤC LỤC
Giới thiệu về 3 định luật đầu tiên của linh hồn. 4
Định luật linh hồn 1 – Định luật hy sinh. 6
1. Định nghĩa và các ý nghĩa biểu tượng: 6
b. Tên nội môn “luật của những người chọn cái chết”: 7
c. Biểu tượng “một thập tự màu hồng với con chim vàng bay phía trên”: 7
d. Định luật hy sinh được quy định bởi năng lượng của “cung 4” – cung hài hòa thông qua xung đột: 8
2. Một số ví dụ biểu hiện Định luật hy sinh: 9
a. Sự hy sinh của các Đấng Thái dương Thiên thần: 9
b. Sự hy sinh của Đấng Hành tinh Thượng đế Sanat Kumara: 10
c. Sự hy sinh của các chân thần nhân loại: 10
3. Các tính chất của Định luật Hy sinh: 11
a. Định luật Hy sinh là xung động của sự cho đi: 11
b. Hy sinh đồng nghĩa với sự cứu chuộc: 11
c. Hy sinh là việc tạm thời giới hạn mình, tự hạn chế mình trong các vòng giới hạn: 12
e. Hy sinh sẽ giúp mở ra “trung tâm lực tim – là trung tâm lực thứ 4”: 14
4. Cách áp dụng Định luật hy sinh lên đời sống của người chí nguyện đệ tử: 14
a. Linh hồn phải từ bỏ phàm ngã của mình: 14
b. Linh hồn phải từ bỏ sự ràng buộc với những phàm ngã khác: 15
e. Cần tuân theo 3 quy luật về sự hợp tác nhóm: 18
Định luật linh hồn 2 – Định luật xung động từ tính. 20
1) Định nghĩa và các ý nghĩa biểu tượng: 20
b. Tên nội môn “Định luật hợp nhất cực”: 21
c. Biểu tượng “Hai quả cầu lửa và một tam giác”: 22
d. Định luật Xung động từ tính được quy định bởi “cung 2” – cung minh triết bác ái: 23
2. Tầm quan trọng của Định luật xung động từ tính: 23
3. Ví dụ biểu hiện Định luật xung động từ tính – công việc của Đoàn người mới phụng sự thế gian: 24
4. Các tính chất của Định luật xung động từ tính: 25
5) Cách áp dụng Định luật xung động từ tính lên đời sống của người chí nguyện đệ tử: 29
a) Cố gắng đạt tới đời sống như một linh hồn: 29
b) Làm việc cùng nhau như các nhóm linh hồn, tạo thành các kênh phụng sự hữu ích: 30
c) Như các nhóm linh hồn, tích cực chỉnh hợp, tiến đến sự hợp nhất với các cực cao hơn: 32
Định luật linh hồn 3 – Định luật phụng sự. 34
b. Phụng sự không phải là gì?. 35
2. Ý nghĩa và các biểu tượng của định luật phụng sự: 36
a. Tên nội môn “Định luật của nước và những con cá”: 36
b. Biểu tượng là người mang bình nước và bình nước đó được giữ cân bằng trên đầu của con người: 36
c. Định luật phụng sự được quy định bởi cung 6 – cung của lý tưởng và sùng tín: 38
3. Một số ví dụ về định luật phụng sự: 38
a. Công việc phụng sự của Đức Christ: 38
b. Công việc của Đoàn người mới phụng sự thế gian: 39
4. Các tính chất của định luật phụng sự: 40
a. Phụng sự là điều không thể tránh khỏi: 40
c. Việc phụng sự phải được biểu hiện trên cõi trần bằng hành động cụ thể: 41
d. Phụng sự là một môn khoa học: 42
e. Phụng sự mang rất nhiều tính chất của sự sáng tạo: 42
k. Chu kỳ cung sẽ thể hiện xu hướng phụng sự của thế gian: 42
5. Biểu hiện của một người phụng sự chân chính: 43
a. Y có tác động lớn đối với môi trường xung quanh: 43
b. Y luôn thực hành hạnh vô tổn hại: 43
c. Sẵn lòng để người khác phụng sự theo cách họ cho là tốt nhất: 45
d. Giữ sự hoan hỷ khi phụng sự, thay thế cho sự chỉ trích: 45
6. Các giai đoạn phụng sự mà người đệ tử sẽ trải qua: 46
7. Người đệ tử nên làm gì để hướng tới việc phụng sự đúng đắn?. 47
a. Đặt trọng tâm vào việc tiếp xúc với linh hồn: 47
b. Luôn tự vấn đề nguồn động lực đằng sau công việc phụng sự của mình: 48
c. Giữ vững nhịp điệu của Định luật phụng sự: 49
d. Chỉnh hợp với các dự án phụng sự của Chân sư: 49
e. Không vội vàng với công việc phụng sự: 49
f. Phụng sự theo biểu đồ cung của mình: 50
2) Định luật xung động từ tính: 56
Giới thiệu về 3 định luật đầu tiên của linh hồn
Tất cả những người chí nguyện đệ tử chúng ta ắt hẳn đều đang hướng tới mục tiêu để sống như một linh hồn. Để đạt được tâm thức của linh hồn, ta bắt buộc phải tuân theo những định luật của nó. Mục tiêu sống như một linh hồn và tuân theo các quy luật của linh hồn không chỉ tồn tại trong giáo lý của Chân sư DK, mà Ngài cho biết rằng mục tiêu này có mặt trong rất nhiều giáo lý kinh điển khác của nhân loại. Ngài viết rằng: việc tuân theo những định luật của linh hồn là mục tiêu, là “những phẩm tính, đặc điểm hiện diện ở mọi tín đồ chân chính, mọi người chí nguyện đích thực và mọi đệ tử chân thành – dù họ theo Cơ đốc giáo hay bất kỳ truyền thống tôn giáo nào khác” (EP 2, 85).
Trong webinar 1 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. cho biết rằng chúng ta không thể giải mã được toàn bộ các bí mật liên quan đến các định luật của linh hồn trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, nguyên tắc chính cần nắm được là: trong mỗi chúng ta đều hiện diện một bản thể cao hơn chính mình (còn được gọi là linh hồn, hoa sen chân ngã hay thể nguyên nhân). Bản thể đó là cầu nối giữa phần phàm ngã và phần Chân thần trong mỗi chúng ta, được xây dựng và duy trì nhờ một phần tâm thức của Đấng Thái dương Thiên thần – một Đấng đã tiến hoá rất cao và là một thành viên trong Hội đồng các Thái dương Thượng đế. Nếu không có bản thể cầu nối là linh hồn, từng thành viên trong nhân loại chúng ta sẽ mất rất nhiều thời gian để đạt tới tâm thức của Chân thần.
Trong vòng cung thăng thượng tiến hoá, chúng ta đã trải qua rất nhiều cấp độ tâm thức khác nhau: từ tâm thức trì trệ của khoáng vật, tâm thức hữu tình của thực vật, tâm thức bản năng của động vật, tâm thức cá nhân của con người, và đang hướng tới tâm thức nhóm của linh hồn. Cụm từ “tâm thức nhóm” phải được nhấn mạnh ở đây, bởi vì tâm thức linh hồn chính là tâm thức nhóm. Do vậy, tất cả các định luật của linh hồn chính là các định luật liên quan đến cách để duy trì các mối quan hệ đúng đắn trong một tập thể (phạm vi của tập thể này ban đầu sẽ nhỏ trong gia đình, nhóm bạn bè, nhóm đồng nghiệp… nhưng dần sẽ mở rộng thành phạm vi của quốc gia, nhân loại, và thậm chí là tất cả các giới trong tự nhiên).
Sau đây là phần tổng kết chung về 7 định luật của linh hồn (EP 2, 85-200):
|
Số |
Tên ngoại môn |
Tên nội môn |
Biểu tượng |
Cung truyền dẫn |
|
1. |
Định Luật Hy Sinh |
Định Luật của Các Đấng Chọn Cái chết |
Thập giá hồng với con chim vàng bay phía trên |
Luồng sinh lực Cung 4. Yếu tố hợp nhất |
|
2. |
Định Luật Xung động Từ tính |
Định Luật về Hợp Nhất Cực |
Hai quả cầu Lửa và tam giác |
Năng Lượng Phát Xạ Cung 2. Yếu tố biểu lộ. |
|
3. |
Định Luật Phụng Sự |
Định Luật của Nước và Cá |
Bình nước trên đầu người |
Năng lượng tuôn ra của Cung 6. Yếu tố làm sinh động. |
|
4. |
Định Luật Đẩy lùi |
Định Luật của mọi Thiên Thần Hủy Diệt |
Một Thiên Thần với thanh kiếm Lửa |
Năng Lượng khước từ của Cung 1. Yếu tố phân tán. |
|
5. |
Định Luật Tiến bộ Tập thể |
Định Luật về sự Nâng Cao |
Núi và Sơn Dương |
Năng lượng tiến hóa Cung 7. Yếu tố tiến hóa |
|
6. |
Định Luật Đáp Ứng Mở Rộng |
(Tên gọi không được đưa ra) |
Mặt Trời cháy đỏ hồng |
Năng lượng mở rộng của Cung 3. Yếu tố thích nghi. |
|
7. |
Định Luật về Tứ Hạ Thể |
Định Luật về Hợp Nhất Dĩ Thái |
Hình Nam và Nữ đặt quay lưng. |
Năng lượng lửa của Cung 5. Yếu tố đem sinh lực. |
Chân sư DK đã đưa ra những giải thích rất chi tiết về 5 định luật đầu tiên trong cuốn Tâm lý học nội môn Phần 2. Hai định luật cuối cùng được cho biết là chưa thể tiết lộ nhiều trong thời kỳ hiện tại. Có thể chúng ta sẽ cần chờ đến những đợt giáo lý sau của Chân sư DK để có thêm những hiểu biết về hai định luật này. Do giới hạn về phạm vi nghiên cứu trong khoá QU2, tôi lựa chọn sẽ đi sâu vào 3 định luật đầu tiên, gần gũi và dễ áp dụng trong đời sống một người môn sinh học Đạo là Định luật hy sinh, Định luật xung động từ tính và Định luật phụng sự. Các tài liệu tôi dựa vào để nghiên cứu chủ yếu là phần giải thích của Chân sư DK về các định luật của linh hồn trong các cuốn sách xanh, phần bình giảng của thầy Michael Robbins, và một số phần trình bày của các thầy cô trong Hội thảo hàng năm của trường Morya Federation.
Bài luận này sẽ được chia thành các phần như sau:
1) Giới thiệu về các định luật của linh hồn
2) Định luật linh hồn 1 – Định luật hy sinh
3) Định luật linh hồn 2 – Định luật xung động từ tính
4) Định luật linh hồn 3 – Định luật phụng sự
5) Kết luận.
Lưu ý:
Phần chữ màu xanh in nghiêng: lời trích dẫn nguyên văn từ sách của Chân sư DK hoặc bình giảng của thầy Michael Robbins.
Phần chữ màu đen, in nghiêng và gạch chân: là ý chính của đoạn văn.
Định luật linh hồn 1 – Định luật hy sinh
1. Định nghĩa và các ý nghĩa biểu tượng:
Hy sinh là một từ gốc Hán, có nguồn gốc từ việc con người ngày xưa thường sử dụng các súc vật như trâu, bò… để hiến tế thần linh. Dần dần, nghĩa của nó được mở rộng thành việc tự nguyện nhận về mình một sự thiệt thòi hoặc mất mát lớn lao (thậm chí là cả tính mạng) vì một mục tiêu cao đẹp như vì người khác, vì tập thể hay vì một lý tưởng nào đó (Hoàng, Từ điển Tiếng Việt).
Qua định nghĩa trên, ta có thể lờ mờ hiểu một phần nào đó về sự hy sinh. Tuy nhiên, theo khía cạnh nội môn của Minh triết Thiêng liêng, thông tin về định luật hy sinh được tổng hợp như sau (EP 2, 87):
|
Số |
Tên Ngoại Môn |
Tên Nội Môn |
Biểu Tượng |
Năng Lượng Cung |
|
1 |
Luật Hy sinh |
Luật của những người chọn cái chết |
Một thập tự giá màu hồng với con chim vàng bay phía trên |
Năng lượng tuôn đổ của Cung Bốn, nhân tố hợp nhất (At-oning Factor) |
a. Số thứ tự “1”:
Chân sư DK khẳng định rằng: đây là định luật đầu tiên mà trí tuệ con người có thể nắm bắt, và do đó là định luật dễ hiểu nhất đối với con người (EP 2, 87). Trong 7 định luật về linh hồn, định luật hy sinh là định luật phổ biến nhất, được áp dụng rộng rãi trong đời sống. Xét về mặt kỹ thuật, con người đã thực sự được trải nghiệm nhiều lần về tính chất của sự hy sinh. Hy sinh cùng với kiến thức và bác ái là 3 khía cạnh quan trọng nhất cấu thành nên hoa sen chân ngã, thể nguyên nhân hay linh hồn của mỗi chúng ta. Cụ thể, đặc điểm của từng cánh hoa trong hoa sen chân ngã lần lượt là: cánh 1 (tri thức – tri thức), cánh 2 (tri thức – bác ái), cánh 3 (tri thức – hy sinh), cánh 4 (bác ái – tri thức), cánh 5 (bác ái – bác ái), cánh 6 (bác ái – hy sinh), cánh 7 (hy sinh – tri thức), cánh 8 (hy sinh – bác ái) và cánh 9 (hy sinh – hy sinh).
Các phẩm chất của hy sinh đã được con người thấm nhuần dần dần trong các quá trình khai mở, từ cánh hoa thứ 3 (sự hy sinh vẫn còn khá vô thức), tới cánh hoa thứ 6 (sự hy sinh có ý thức hơn) và sự hy sinh trọn vẹn nhất sẽ được thực hiện khi cánh hoa thứ 9 khai mở (xảy ra trong cuộc điểm đạo thứ 3). Ngoài ra, thầy M.R. cũng đưa thêm một thông tin rất hữu ích là: hoàn cảnh sẽ luôn được tạo ra để chúng ta biểu lộ các phẩm tính của sự hy sinh một cách tự nhiên, tương ứng với các quá trình khai mở dần dần của các cánh hoa hy sinh trong hoa sen chân ngã (Robbins, Webinar 1 – Các định luật của linh hồn). Đó là lý do tại sao đây lại là định luật phổ biến và dễ hiểu nhất đối với con người.
Đây là định luật cơ bản nhất, luôn luôn vận hành và hoạt động trên thế giới: Để giải thích điều này, thầy M.R. cho ta biết rằng Trái đất là một hành tinh rất đặc biệt. Đây là nơi mà các năng lượng hay rung động cũ của Thái dương hệ trước đó (Thái dương hệ thứ nhất) đang được cứu chuộc và chuyển hóa. Nhờ đó, các rung động cũ này có thể được nâng cao. Quá trình cứu chuộc và chuyển hóa này chính là quá trình định luật hy sinh biểu hiện, và nó liên tục chi phối các hoạt động trên thế giới (Robbins, Webinar 1 – Các định luật của linh hồn).
b. Tên nội môn “luật của những người chọn cái chết”:
Trong EP 2 (95), Chân sư DK đã phát biểu rằng: “Vậy, dù họ thực hiện vở kịch này như Đức Phật, để minh chứng cho nhân loại thấy sự hy sinh và cái chết của dục vọng cá nhân (chỉ đề cập đến hai vị Con Trời được biểu lộ là Đức Christ và Đức Phật), chủ đề vẫn giữ nguyên: — cái chết của điều thấp hơn để giải phóng điều cao hơn, hoặc — trên quy mô rộng hơn — cái chết của điều cao hơn trong trật tự và nấc thang hiện hữu, để giải phóng điều thấp hơn”. Cái chết ở đây không được hiểu theo ý nghĩa là cái chết của thể xác vật lý. Cái chết theo định luật hy sinh đơn giản chỉ là “sự từ bỏ”, cụ thể là từ bỏ tất cả những dục vọng, những rung động thấp, những đặc tính tiêu cực, những lý tưởng ích kỷ của phàm ngã, thậm chí là cả những khuynh hướng tư duy, những nhận thức nhất định mà ta vẫn còn bám víu và không chịu buông bỏ. Khi những yếu tố thấp hơn đó chết đi, chúng sẽ được thay thế bằng những yếu tố cao và chuyển hóa hơn, mang nhiều đặc tính của linh hồn hơn. Những giá trị cao này đều liên quan đến khía cạnh vô ngã, vô kỷ – tức là quên đi nhu cầu của riêng cá nhân mình, mà tập trung vào đáp ứng các nhu cầu và mục tiêu của nhóm. Các giá trị cao đó có thể là: ý thức trách nhiệm, lòng vị tha, nỗ lực cải thiện hoàn cảnh chung của tập thể…. Đây chính là bản năng hy sinh của linh hồn, gắn với việc chọn cái chết cho những điều thấp để những điều cao cả hơn có thể biểu hiện (Robbins, Webinar 5 – Các định luật của linh hồn).
c. Biểu tượng “một thập tự màu hồng với con chim vàng bay phía trên”:

Hình 1— Biểu tượng Định luật hy sinh – Thập tự giá màu hồng có một con chim vàng bay phía trên
Cuộc sống của một người đệ tử tuân theo định luật hy sinh được ví như một thập tự giá màu hồng. Khi chính thức bước vào con đường đệ tử, y đã tự chọn việc treo bản thân và cuộc sống của mình trên thập giá cố định. Thập giá này nhuốm một màu sắc đặc biệt – màu hồng (là sự kết hợp của màu đỏ và màu trắng). Màu trắng tượng trưng cho sự tổng hợp và bao gồm bởi nó là màu tổng hợp của tất cả các màu. Mặt khác, màu đỏ là màu của chiến tranh, của dục vọng, khiến ta liên tưởng đến tính chất của Hỏa tinh. Khi màu trắng và màu đỏ kết hợp với nhau, màu hồng được tạo ra mang ý nghĩa của một thể cảm dục đã được chuyển hóa từ khao khát ích kỷ sang tình thương tổng hợp. Quá trình chuyển hoá này sẽ diễn ra liên tục cho đến khi màu đỏ của dục vọng ích kỷ hoàn toàn biến mất, chỉ còn màu trắng của sự tổng hợp.
Biểu tượng con chim vàng được thầy M.R. giải thích là đại diện cho linh hồn một con người. Khi con người đã giam mình hy sinh để phụng sự trên thập giá cố định đủ, thì sẽ tới một thời điểm con chim vàng bay đi hay linh hồn hoàn toàn được giải thoát. Thời điểm này gắn với cuộc điểm đạo bậc 4 khi linh hồn và hoa sen chân ngã bị phá hủy, phàm ngã con người có thể kết nối trực tiếp với chân thần mà không cần thông qua trung gian của linh hồn (Robbins, Webinar 1 – Các định luật của linh hồn).
d. Định luật hy sinh được quy định bởi năng lượng của “cung 4” – cung hài hòa thông qua xung đột:

Hình 2— Cung 4 – cung hài hoà thông qua xung đột
Trong bình giảng webinar 1 về các định luật của linh hồn, thầy M.R. định nghĩa sự hy sinh là tình trạng con người tự nguyện đặt mình ở vị trí nằm giữa hai cặp đối cực kéo y về hai hướng ngược nhau. Một hướng kéo y xuống cực thấp, trở lại với những thói quen, ham muốn thấp kém mà y vẫn quen thuộc từ xưa tới nay. Một hướng khác sẽ kéo y lên cực cao hơn, giúp nâng tâm thức y lên tới những cảnh giới cao hơn của tinh thần. Đây sẽ là một tiến trình xé rời, cực kỳ khó khăn. Y sẽ phải chịu đựng sự phân tách, phải từ bỏ cực thấp một cách tạm thời. Chỉ tới khi y có thể dùng phần cực cao để chuyển hóa và hợp nhất được với cực thấp, y mới đạt tới thành công và trở thành một người đứng vững ở trung tâm hai cực. Trạng thái này giống như những gì Đức Phật thường mô tả là việc bước đi vững vàng trên “con đường trung đạo” hay con đường nhỏ, hẹp nằm giữa hai cực đối lập.
Cung 4 là cung của sự hài hòa thông qua xung đột. Quá trình con người hy sinh, tự nguyện bị “xé rời” bởi hai cực đối lập tương ứng với quá trình xung đột ban đầu của cung 4. Sau quá trình xung đột, điểm hài hòa sẽ đạt tới – tương ứng với trạng thái khi y đứng vững ở trung tâm hai cực đối lập, bước đi vững vàng trên con đường trung đạo. Do vậy, năng lượng cung 4 rất phù hợp với các tiến trình tự nhiên xảy ra theo định luật hy sinh.
2. Một số ví dụ biểu hiện Định luật hy sinh:
a. Sự hy sinh của các Đấng Thái dương Thiên thần:

Hình 3— “Thái dương Thiên thần”, tác phẩm của Michelle Glennon
Một ví dụ điển hình của định luật hy sinh là cuộc đại hy sinh của các Đấng Thái dương Thiên thần. Các Ngài đã chọn đi xuống các cõi thấp trên hành tinh Trái đất, trao cho mỗi người thú một mảnh tâm thức, để con người có thể được biệt ngã hoá, xây dựng được linh hồn làm trung gian giữa phàm ngã và Chân thân, nhờ đó sẽ tiến hóa nhanh chóng hơn. Các Ngài đã và đang chịu đựng một sự căng thẳng khi phải hiện diện trong một vùng đất và hình thể xa lạ, thậm chí thô kệch và xấu xí. Một mặt, tâm thức của các Ngài ngự trên các cõi rất cao của vũ trụ; mặt khác một mảnh tâm thức lại bị kéo xuống các cõi giới thấp kém. Tình trạng xung đột, căng thẳng giữa hai lực đối lập này tạo ra cơ chế của sự hy sinh.
Cụ thể, ta biết rằng những người thú đầu tiên của Trái đất được biệt ngã hóa là vào khoảng 21 triệu năm trước. Thầy M.R. cho biết thêm rằng: đợt biệt ngã hóa lần thứ hai xảy ra khi nhân loại thuộc dãy nguyệt cầu di chuyển để nhập vào Trái đất ở thời kỳ của giống dân phụ thứ tư, thuộc giống dân chính thứ tư (Atlantis) diễn ra vào khoảng 10 triệu năm trước. Tức là, các Ngài đã phải chịu sự căng thẳng, xung đột giữa tâm thức ở cõi cao với tâm thức bị hạ xuống ở cõi thấp trong suốt hàng chục triệu năm. Đây thực sự là một sự hy sinh to lớn, dù thầy M.R. cũng cho biết rằng công việc này là một phần trong quá trình tiến hóa của các Đấng Thái dương Thiên thần (Robbins, webinar 3 – các định luật của linh hồn).
b. Sự hy sinh của Đấng Hành tinh Thượng đế Sanat Kumara:
Một sự hy sinh khác nữa đến từ Đấng Hành tinh Thượng đế chúng ta – Đấng Sanat Kumara. Trước tiên, ta cần hiểu rằng tính chất của sự hy sinh là gắn với việc tạm thời hạn chế và giới hạn bản thân mình. Đấng Sanat Kumara xuất phát từ một cõi giới rất cao, đã tự nguyện giới hạn Ngài trong một không gian rất nhỏ bé là Trái đất của chúng ta, và cũng trong một khoảng thời gian rất dài cho đến khi “người hành hương cuối cùng trên Trái đất trở về nhà”. Sự giam cầm này của Đấng Hành tinh Thượng đế thậm chí còn dài hơn cả các Đấng Thái dương Thiên thần.
Nhờ cuộc đại hy sinh của Ngài, mà tất cả thành tựu về mặt tiến hóa của con người và các giới khác trong tự nhiên mới có thể đạt được. Chân sư DK cho biết rằng: “Tất cả sự tiến hóa này xảy ra như là kết quả từ hoạt động kiên định và có điều kiện của một Đại Sinh Mệnh. Đấng ấy dã chọn thực hiện một cuộc đại hy sinh và bị đóng đinh trên Thập giá Chủ yếu của Cõi trời, và nhờ vậy mà Ngài vượt qua một cuộc điểm đạo vũ trụ” (EP 2, 91). Mọi quá trình tiến hoá của các giới trong tự nhiên không thể tự động diễn ra. Chúng phải được thúc đẩy bởi một Đại Sinh Mệnh có một Ý Chí nhất định, một Mục Đích nhất định. Chẳng hạn, giới nhân loại trước tiên sẽ tự nguyện hồi đáp và đi theo Ý Chí và Mục Đích tối thượng của Đấng Sanat Kumara một cách vô thức, sau đó con người mới có thể dần dần hồi đáp và hợp tác với Ý Chí và Mục Đích đó một cách có ý thức hơn. Tức là, Ý Chí và Mục Đích của Đấng Sanat Kumara là phương tiện giúp nhân loại cũng như các giới khác trong tự nhiên có động lực, sức mạnh để tiến hoá và phát triển. Tất cả đều nhờ tới nỗ lực và sự hy sinh to lớn của Đấng Sanat Kumara.
c. Sự hy sinh của các chân thần nhân loại:
Chính các chân thần của nhân loại cũng từng thực hiện các cuộc đại hy sinh tối thượng. Cụ thể, con số 21 triệu năm chỉ là khoảng thời gian mà con người được biệt ngã hóa và ở trong giới nhân loại. Trước đó, chân thần đã từng trải qua các quá trình tiến hóa trong giới khoáng vật, giới thực vật và giới động vật. Có những chân thần còn từng thuộc về Thái dương hệ thứ nhất trước đây. Khoảng thời gian dài đằng đẵng mà chân thần (tâm thức rất cao) phải phóng chiếu bản thân xuống các cõi thấp (tâm thức thấp) chính là một cuộc đại hy sinh (EP 2, 93).
Khi con người đã đạt tới tâm thức của linh hồn, nhưng y vẫn chấp nhận tạm thời giới hạn sự phát triển của riêng mình để giúp đỡ, phụng sự và cứu rỗi những người khác vẫn chưa đạt tới trình độ tâm thức như y; thì đó cũng chính là một sự hy sinh lớn. Nhờ sự hy sinh này mà tiến trình tiến hóa của toàn bộ giới nhân loại được thúc đẩy nhanh hơn. Ta có thể thấy rõ biểu hiện của sự hy sinh này ở các thành viên của Thánh đoàn. Chân sư DK trong EP 2 (93) cho biết thêm rằng: “vòng hy sinh và cứu độ dưới tư cách là một thành viên của Thánh đoàn chính là sự tái hiện trên một vòng xoắn thấp hơn của cuộc đại hy sinh của Chân thần vào buổi “bình minh của thời gian” mà chúng ta nói đến ở đoạn trên.
Chúng ta không chỉ hy sinh để giúp đỡ cho những người con của nhân loại, mà ta còn hy sinh để cứu chuộc các sự sống thấp hơn – chính là các tinh linh thuộc giới thiên thần đang cấu tạo nên các hạ thể của chúng ta. Thầy M.R. đưa ra một ví dụ mô tả cách mà các sự sống thấp hơn này được cứu chuộc và thánh hóa nhờ vào sự trợ giúp của chúng ta. Trong một kỳ công của Hercules, hình tượng một đàn bỏ đỏ của Geryon đã được nhắc đến. Đây là một đàn bò luôn được thúc đẩy bởi dục vọng – chính là bản năng cố hữu của đàn bò. Nhờ việc con người có thể kiểm soát bản chất dục vọng của mình, mà đàn bò có thể được nâng lên trong một chén thánh và hướng đến một hình thái sống cao hơn (Robbins, webinar 5 – các định luật của linh hồn).
Nói chung, tất cả chúng ta đều đang dấn thân trong một cuộc hành hương đầy hy sinh. Cụ thể là hy sinh các điều cao cả để đi xuống điều thấp, thánh hóa các sự sống thấp, rồi lại hy sinh điều thấp để trở về điều cao. “Tất cả những nỗ lực này đều hướng về mục tiêu làm cho mọi phương diện của cuộc sống trở nên thiêng liêng và phù hợp với Thiên cơ hơn” (EP 2, 93).
3. Các tính chất của Định luật Hy sinh:
a. Định luật Hy sinh là xung động của sự cho đi:
Tính chất đầu tiên, rất nổi bật khi ta nhớ về Định luật Hy sinh chính là “xung động của sự cho đi”. Khi con người tiếp xúc nhiều hơn với linh hồn, linh hồn trên cõi thượng trí sẽ tuôn đổ xuống một loại xung động, thôi thúc con người sẵn sàng hy sinh, cho đi một cách vô kỷ mà không tính toán. Không chỉ ở giới nhân loại, xung lực cho đi này tồn tại ở mọi giới trong thiên nhiên, chẳng hạn:
– Giới khoáng vật thông qua các khoáng chất được hòa tan vào nước, sẽ cung cấp những khoáng chất cần thiết cho sự sống của giới thực vật, động vật và con người.
– Giới thực vật sẽ hy sinh cho giới động vật và con người bằng cách cung cấp thực phẩm, dưỡng khí cần thiết cho sự sống.
– Giới động vật theo đúng Thiên cơ thì không có vai trò cung cấp thực phẩm cho con người, mà chủ yếu là phục vụ đời sống con người thông qua sức lao động của chúng.
– Vai trò của giới nhân loại đối với giới linh hồn vẫn là một điều khó nắm bắt. Theo Quy luật số 6 trong cuốn RI, Chân sư DK cho biết rằng giới linh hồn sẽ hấp thu năng lượng, mọi giá trị sản sinh, cũng như tất cả những thành tựu cao cả nhất của giới nhân loại.
b. Hy sinh đồng nghĩa với sự cứu chuộc:
Khi con người nhập thế và sống trong đời sống bình thường, mọi rung động của y sẽ được ghi nhận và lưu lại. Ngoài những rung động cao được đưa vào thể nguyên nhân, thì các nguyên tử trường tồn sẽ lưu giữ những rung động thấp hơn như sự bất hòa, các mối quan hệ sai lệch, nhiều khiếm khuyết cần cải thiện…. Các tinh linh tạo nên các rung động thấp này mang một hình thái thô kệch, thấp kém, và cần được cứu chuộc để phát triển thành một hình thái cao hơn, thanh nhẹ hơn. Định luật hy sinh với mục tiêu cứu chuộc các tinh linh với mức rung động thấp thúc đẩy con người phải tiếp tục tái sinh. Y sử dụng cơ hội trải nghiệm trong đời sống để nâng cao và cứu chuộc những tinh linh ở mức rung động còn thấp trong các nguyên tử trường tồn (Robbins, webinar 1 – các định luật của linh hồn).
Một sự cứu chuộc nữa cũng được thực hiện đối với những người anh em Hắc đạo. Chúng ta được Chân sư DK cho biết rằng: với những người anh em Hắc đạo, chỉ cần vẫn còn một xu hướng hoặc một mãnh lực nào đó trong hệ năng lượng của họ còn nghiêng về điều thiện, thì họ sẽ không hoàn toàn bị đánh mất. Một số nỗ lực hy sinh của các Đấng cao cả vẫn sẽ được thực hiện để hỗ trợ những người anh em Hắc đạo dựa trên nền tảng của những điều thiện lành mà họ còn mang theo (Robbins, webinar 5 – các định luật của linh hồn).
Quy luật “trên sao, dưới vậy” luôn đúng. Thầy M.R. cho biết rằng, định luật hy sinh ở một cấp độ cao của hành tinh và thậm chí vũ trụ, giúp tạo ra các thế giới mới, các hành tinh mới. Cụ thể, sau khi đã trải qua một quá trình tiến hóa rất dài, một hành tinh sẽ bước vào thời kỳ nghỉ ngơi giữa các chu kỳ tiến hóa gọi là “pralaya”. Tại thời điểm này, một phần lớn thành viên trong hành tinh cũ đã đạt được một mức tiến hóa cần thiết sẽ nhập vào một toàn thể lớn hơn để tiến hóa tiếp. Vậy những thành viên còn lại chưa đạt đủ mức tiến hóa cần thiết thì sẽ ra sao? Liệu họ có bị bỏ lại và bị biến mất vĩnh viễn? Đây là lúc định luật hy sinh có tác động. Những thành viên còn lại đó sẽ được tập hợp lại để tiếp tục tiến hóa trong một hành tinh mới. Sẽ không có ai bị bỏ lại phía sau. Đây là biểu hiện của tiến trình hy sinh của Đấng Thượng đế Vũ trụ để đảm bảo tất cả đều được cứu chuộc và nâng lên (Robbins, webinar 1 – các định luật của linh hồn).
c. Hy sinh là việc tạm thời giới hạn mình, tự hạn chế mình trong các vòng giới hạn:
Các Đấng cao cả như Đấng Thái dương Thiên thần hay Đấng Sanat Kumara đã thực hiện những cuộc đại hy sinh cho hành tinh Trái đất chúng ta. Một điểm chung của tất cả các trường hợp hy sinh này là việc các Đấng cao cả đã tạm thời đặt mình trong một giới hạn nhất định. Đáng nhẽ ở trên các cõi cao, các Ngài có thể thực hiện rất nhiều nhiệm vụ khác để phát triển, không cần thiết phải tới một hành tinh và tự giam cầm mình trong vòng nhiều triệu năm. Cũng giống như rất nhiều Chân sư, các bậc Đế quân sau khi đã tiến hóa lên cao, các Ngài sẽ được mở ra nhiều con đường khác nhau, nhưng một số vị vẫn chọn hy sinh để ở lại Trái đất và giúp cứu chuộc hành tinh này.
Trường hợp của con người cũng gần giống như vậy. Hy sinh là khi y tự nguyện giới hạn bản thân mình trong một hoàn cảnh mà ở đó, cơ hội của y bị thu hẹp. Y trì hoãn việc thực hiện một điều mới, mà lặp đi lặp lại những công việc đã cũ. Quá trình hy sinh được cai quản bởi Thổ tinh – với tính chất kỷ luật và đặt ra giới hạn. Nó giúp những người hy sinh đứng yên tại vị trí của mình, nhưng việc lặp lại nhiều lần một công việc giúp y xây dựng năng lực vững chắc hơn. (Robbins, webinar 2 – các định luật của linh hồn).
Vậy mỗi người môn sinh chúng ta nên tự giới hạn mình, đặt mình vào tình trạng của sự hy sinh để phụng sự các linh hồn khác như thế nào? Tôi đang tưởng tượng nó giống như việc tôi phải trì hoãn hoặc thậm chí là bỏ qua những tham vọng tinh thần của chính cá nhân mình để phục tùng theo tầm nhìn chung của nhóm. Chẳng hạn, thay vì chỉ chăm chăm vào sự phát triển riêng của cá nhân với nhịp điệu học tập của riêng mình, thì tôi sẽ chọn việc chậm lại, nâng đỡ những người còn ở phía sau để giúp cho tất cả cùng tiến bộ. Khi đi đến một quyết định giữa việc nên học và viết phúc trình, với việc phải nghiên cứu tài liệu cho buổi thuyết trình họp nhóm, thì tôi sẽ suy xét xem công việc nào sẽ đem lại lợi ích trực tiếp cho sự tiến bộ của nhiều người nhất thì tôi sẽ lựa chọn ưu tiên. Công việc của nhóm, giúp cho nhiều người trong nhóm phát triển sẽ được ưu tiên hơn việc chỉ chăm chăm thỏa mãn nhịp độ học tập của riêng mình.
Việc tạm thời giới hạn mình để hy sinh giúp đỡ người khác cũng biểu hiện rất rõ trong kỳ công Song tử của Hercules. Hercules luôn tham vọng kiếm tìm những quả táo vàng – thứ được cho là sẽ đem đến cho chàng sự minh triết. Chàng tìm ở mọi ngóc ngách trên cuộc hành trình dài của mình nhưng đều không thấy những quả táo của minh triết ấy xuất hiện. Chỉ tới khi chàng tạm dừng mục tiêu của mình là đi tìm quả táo minh triết, để giải phóng Prometheus, rồi sau đó giúp Atlas gánh vác thế giới; và thật bất ngờ, kết quả là những quả táo vàng của minh triết tự động rơi vào tay chàng như kết quả của sự hy sinh vô kỷ mà chàng đã thực hiện.
Chân sư Morya có nói rằng: “Chẳng khi nào ngươi lại trở nên kém đi qua việc hy sinh”. Tôi luôn tự nhủ mình nên chiêm nghiệm câu nói này mỗi khi đứng trước các hoàn cảnh mà thoạt nhìn thì thấy sẽ không đem lại nhiều cơ hội trưởng thành mà mình luôn khao khát. Nhưng nếu chọn việc học bài học của sự hy sinh vô kỷ và thực hiện tốt nó, thì những lợi ích tuyệt vời chắc chắn sẽ tới.
d. Hy sinh sẽ luôn đi kèm với xung đột – giống với năng lượng của cung 4 “hài hòa thông qua xung đột” truyền dẫn qua định luật này.
Hy sinh được thầy M.R. định nghĩa là việc đặt bản thân vào những tình huống đứng giữa hai nguồn lực xung đột với nhau. Một mặt, y phải nỗ lực để chống lại lực của những thói quen cố hữu, kéo y trở lại đồng hóa với những điều thấp. Một mặt khác, y phải chịu tác động của một lực kéo ở phía ngược lại, thôi thúc y hướng tới những điều cao cả hơn. Chính hai lực kéo từ hai phía đối lập này tạo nên một sức căng, một sự căng thẳng, những tình huống xung đột bên ngoài và bên trong diễn ra liên tục – điều mà một người chí nguyện đệ tử phải đối mặt thường xuyên (Robbins, webinar 2 – các định luật của linh hồn).
Chân sư DK trong EP2 (92) cho chúng ta biết rằng: “Con người không thể hoàn thành được sứ mệnh của mình trên Trái đất nếu y không đối mặt với cuộc chiến giữa các cặp đối nghịch”. Luôn luôn, y sẽ bị giằng co giữa khuynh hướng vật chất và tinh thần, giữa những gì thuộc về Thái dương hệ hiện tại và Thái dương hệ trước đó, những gì thuộc về dãy hành tinh Trái đất hiện tại và dãy nguyệt cầu trước đó. Tất cả sự giằng co và tranh đấu này sẽ đem tới cho y những bài học vô giá. Do vậy, việc luôn ở trong tình trạng giằng xé và hy sinh là cơ hội đem lại lợi ích nhiều hơn là một sự đau khổ.
Đó là lý do tại sao trong các huấn thị của mình, Chân sư DK thường khuyên các đệ tử nên duy trì một cuộc sống song đôi. Cuộc sống phàm ngã với những thử thách, mâu thuẫn xảy ra hằng ngày rất giống với lực kéo y xuống những thói quen cố hữu của phàm ngã hay những điều thấp. Ngược lại, cuộc sống tu tập lại hướng y tới việc chuyển hóa bản thân và những điều cao cả hơn thuộc về linh hồn. Khi liên tục đặt bản thân trong tình trạng căng thẳng đó, thì cũng có nghĩa là y đang đặt mình vào trạng thái hy sinh. Người môn sinh sẽ học được rất nhiều bài học quý giá khi phải sống trong tình trạng này. Giống như việc y vừa học những minh triết trong giáo lý, vừa có cơ hội áp dụng các minh triết này trong đời sống thực tế.
e. Hy sinh sẽ giúp mở ra “trung tâm lực tim – là trung tâm lực thứ 4”:
Khi hy sinh các mục tiêu của phàm ngã để phụng sự Thiên cơ, người môn sinh sẽ nhận được một món quà đặc biệt mà Chân sư có đề cập ở đây là “Sự hy sinh mở ra trung tâm lực tim – vốn là trung tâm thứ tư” (EP 2, 89). Cụ thể, khi người môn sinh đặt mình trong trạng thái phụng sự những người đi sau hoặc các giới thấp hơn, thì việc mở rộng tâm thức tạm thời có thể chậm lại, nhưng thay vào đó tình thương lại được đào sâu, cảm nhận về sự hợp nhất với những huynh đệ khác trong nhóm được củng cố, và sự gắn kết với toàn thể lại được thúc đẩy.
Tôi thấy bản thân mình đã từng thực chứng lời dạy bảo này. Khi tôi đặt lợi ích của nhóm lên trên sự phát triển của riêng bản thân mình, thì sự kết nối của tôi với toàn nhóm trở nên sâu sắc hơn rất nhiều. Hai năm trước, khi quá bận với việc viết bài DHY, có những khoảng thời gian tôi đã chọn tạm thời không tham gia họp nhóm MFSG để tập trung ở nhà viết bài. Sau giai đoạn đó, tôi nhận thấy một sự xa cách rõ ràng về việc kết nối với những thành viên khác trong nhóm. Tôi hiểu rằng, khi chỉ chăm chăm vào công việc thỏa mãn tham vọng tâm linh của riêng mình, tâm thức cá nhân tôi có thể mở rộng, nhưng lợi ích đáng ra tôi có thể đóng góp cho tập thể trong khoảng thời gian đó lại rất hạn chế. Hiện tại, khi tôi đã gạt bỏ rất nhiều tham vọng học tập của mình để tập trung cho các công việc hỗ trợ nhóm chung, tôi thấy việc học tập của mình bị chậm chễ đôi chút, nhưng tình thương, sự gắn kết của mình với nhóm và khả năng hỗ trợ tới những bạn đồng môn khác đã được tăng cường hơn rất nhiều.
4. Cách áp dụng Định luật hy sinh lên đời sống của người chí nguyện đệ tử:
Trong phần này, Chân sư DK đã được ra một số lời khuyên rất cụ thể về cách một người chí nguyện đệ tử nên áp dụng định luật hy sinh trong đời sống phụng sự của mình.
a. Linh hồn phải từ bỏ phàm ngã của mình:
Trong suốt nhiều thời đại, linh hồn đã tự đồng hóa với phàm ngã để thông qua đó, có thể thu nhận rất nhiều trải nghiệm và kiến thức. Những trải nghiệm đó gắn chặt với vật chất như: cách mọi thứ hoạt động như thế nào, mối liên hệ giữa mọi thứ là ra sao, chức năng của vạn vật là gì… Trong quá khứ, quá trình trải nghiệm và học tập này là rất cần thiết. Tuy nhiên, đến một thời điểm khi việc học về ba cõi giới thấp đã đạt được một mức độ đầy đủ nhất định, thì sự tập trung vào các công việc của phàm ngã không còn là ưu tiên nữa. Vai trò của phàm ngã và linh hồn bị đảo ngược. Quá trình này hay được người môn sinh chúng ta liên hệ với hiện tượng “sự đảo chiều của bánh xe sự sống”. Lúc này, linh hồn và những công việc gắn với nó mới là điều quan trọng nhất. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là ta sẽ hoàn toàn ngó lơ và bỏ qua phàm ngã, mà ta phải dừng đồng hóa với nó, biến đó trở thành một công cụ hữu ích để linh hồn sử dụng và thực hiện sứ mệnh của nó.
Giai đoạn chuyển đổi vai trò của phàm ngã và linh hồn sẽ diễn ra theo các bước sau:
– Bước 1 – phi đồng nhất hóa với phàm ngã (disidentification): tức là ta từ chối đồng hóa với những gì thuộc phàm ngã. Giống như lời khuyên của Chân sư K.H. dành cho đệ tử Krishnamurti trong cuốn “Dưới Chân Thầy”, Ngài khuyên đệ tử của mình rằng: “Ðừng nhầm lẫn các thể của con là con. Cái xác thân của con, cái thể cảm dục của con, cái trí của con không phải là thật con đâu. Nhưng mỗi thể đó đều giả vờ xưng là con để đạt được những điều nó muốn. Con phải hiểu chúng nó hết và con phải tự biết rằng chính con là chủ của chúng nó” (Krishnamurti, Dưới Chân Thầy). Trong webinar 8 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. mô tả rằng: ở bước này, ta sẽ tạm thời phải tách ra khỏi những thể thấp của mình, cố gắng vươn tới một điểm cao hơn của ý thức – nơi mà Bản thể đích thực hay linh hồn có thể nhận thức được trọn vẹn. Linh hồn (với những khao khát hướng tới điều chân, thiện mỹ) mới là người làm chủ, chứ không phải những ham muốn tầm thường của các thể thấp.
Thầy M.R. cũng cho biết thêm rằng: quá trình phi đồng nhất hóa này sẽ không xảy ra liền một lúc, mà sẽ kéo dài trong nhiều kiếp sống. Con người sẽ phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh, những sự vật lộn với khổ đau và khoái lạc, thậm chí cả những tai họa khủng khiếp… Tất cả những trải nghiệm đó sẽ giúp người môn sinh buông bỏ dần dần những gì thuộc về phàm ngã.
– Bước 2 – sự từ bỏ phàm ngã (renunciation): sự từ bỏ những gì thuộc về phàm ngã chính là kết quả của quá trình phi đồng nhất hóa với phàm ngã ở trên. Cổ luận có một câu nói liên quan đến quá trình từ bỏ phàm ngã này là “Tất cả đều được lấy đi. Ánh sáng của mùa hè sẽ tràn vào, và những góc tối trong tâm trí bắt đầu thấy ánh sáng”. Tức là, con người bắt buộc phải từ bỏ những thứ thuộc về phàm ngã mà bản thân đã rất quen thuộc trong hàng trăm hàng ngàn kiếp sống trước đây. Chỉ có như vậy, ánh sáng rực rỡ của linh hồn mới có cơ hội để tuôn đổ vào. Trong đời sống, chắc chắn sẽ có những sự việc xảy ra làm ta mất đi những thứ mình từng rất quý trọng; nhưng sau đó, cuộc đời sẽ đem lại cho ta những thứ còn có giá trị hơn rất nhiều.
b. Linh hồn phải từ bỏ sự ràng buộc với những phàm ngã khác:
Thầy M.R. trong webinar 8 – các định luật của linh hồn cho biết rằng: đến một mức độ tiến hóa nhất định, con người bắt buộc phải từ bỏ mối liên hệ với các phàm ngã khác. Tức là, y phải học cách nhận biết và gặp gỡ những người khác không phải trên phương diện giữa các phàm ngã với nhau, mà trên phương diện của các linh hồn. Thầy M.R. mô tả quá trình nhìn nhận này giống như y có thể xuyên thấu qua ngọn lửa của trí tuệ, biển cả của bản chất cảm dục, sa mạc của thể xác, như thể y có thể nhìn thấu, vượt qua tất cả và thực sự cảm nhận được sự hiện diện của linh hồn bên trong mỗi con người.
Trong EP 2 (104), Chân sư DK cho biết rằng việc từ bỏ sự ràng buộc với những phàm ngã khác có thể được coi là một trong những thử thách lớn nhất của người đệ tử. Ở cấp độ tiến hóa khá cao này, người đệ tử rất có thể đã đạt được phần lớn sự tách rời khỏi cái ngã nhỏ bé của bản thân, nhưng điều khó khăn là y vẫn dành rất nhiều tình yêu tối thượng cho con cái, gia đình, bạn bè… – điều được Chân sư cho biết là sẽ cầm tù y trong các cõi giới thấp.
Việc dành rất nhiều tình yêu cho con cái, gia đình, bạn bè… là một điều phổ biến, đặc biệt là đối với những người môn sinh theo đường lối cung mềm. Câu hỏi quan trọng được đặt ra ở đây là: họ chọn yêu thương con cái, gia đình, bạn bè của họ như những phàm ngã hay linh hồn? Họ có đang nuôi dưỡng sự phát triển của linh hồn nơi những người thân ấy không? Những câu hỏi này rất khó để trả lời. Khi ta đã dành tình thương cho một ai đó, quả thực rất dễ bị lẫn lộn giữa tình thương mang tính phàm ngã và tình thương mang tính linh hồn. Đặc biệt, khi ta phải chứng kiến sự mất mát nào đó xảy ra với những người thân yêu, phản ứng đầu tiên rất có thể là những phản ứng của phàm ngã như buồn rầu và tức giận. Phản ứng đúng đắn nên là “hãy nhìn nhận những mất mát đó như một hình thức phát triển của linh hồn”.
Thầy M.R. đã đưa ra một ví dụ về một đệ tử của Chân sư DK có cung mọc ở Cự giải và cũng là một người mẹ. Bà đối xử với các con của mình (dù chúng đã là người lớn) như thể chúng vẫn còn là trẻ con. Bà luôn lo lắng, luôn gọi điện. Chân sư đã rất thẳng thắn nhắc bà rằng: chúng đã trưởng thành và bà cần để chúng được tự do. Ngài cho biết rằng có nhiều đệ tử phải đối mặt với thử thách liên quan tới sự ràng buộc với con cái trong rất nhiều kiếp sống. Và thật sự, phải đến khi “thông qua việc đau khổ và liên tục mất đi những gì họ yêu quý nhất, họ bắt đầu vượt qua điều đó” (EP2, 105). Bài học đó thực sự rất khó khăn. Hãy tưởng tượng bạn nuôi nấng một đứa bé trong suốt bao nhiêu năm, và rồi một ngày nào đó nó sẽ rời xa bạn mà đi, không còn là đứa con luôn bên bạn trong kiếp sống đó nữa. Nhiều đệ tử sẽ phải trải qua bài học khốc liệt đó. Theo Chân sư, chỉ có từ những trải nghiệm như vậy, người đệ tử mới biết cách chuyển hóa tình yêu của họ sang một giai đoạn cao hơn và chân thực hơn.
Thầy M.R. trong webinar 8 – các định luật của linh hồn cũng bình giảng thêm rằng: “Đối với những người quá bám chặt vào hình tướng, có thể họ đã phớt lờ con người thực sự. Sau khi mất đi cái không thật, hết lần này đến lần khác, chúng ta mới thấy được cái thật. Hy sinh thật sự luôn đảm bảo sự phục hồi của cái thật. Nó không bao giờ cướp đi cái thật, mà chỉ lấy đi những biểu hiện ảo tưởng của cái thật”. Tức là, quy luật hy sinh vẫn sẽ đảm bảo sự quay lại của những người thân yêu, dù ta từng ở một kiếp sống nào đó mất đi hình tướng của họ. Họ chắc chắn sẽ quay lại trong một hình thái nào đó khác. Điều này giống như việc: liệu ta có bao giờ thử tưởng tượng rằng những người đang rất gần gũi với mình trong hiện tại, cũng đã từng rất thân thiết với ta trong quá khứ không? Rất có thể trong một kiếp sống nào đó, hình tướng của họ đã từng biến mất, chết đi hay rời xa ta. Nhưng giờ đây, họ lại trở lại, xuất hiện trên một vòng xoắn ốc cao hơn của tiến hóa. Đây là một quy luật thực sự nhân từ: sự sống của tinh thần là vĩnh cửu. Sự hy sinh sẽ luôn phục hồi lại cái thật và không bao giờ cướp mất nó.
c. Linh hồn phải học cách từ bỏ các thành tựu của việc phụng sự, mà không bám chấp vào kết quả, phương tiện, người khác hay sự khen ngợi:
Bản năng tự nhiên của con người là muốn thấy được kết quả của những việc mình làm. Tuy nhiên, ta phải ý thức được là luôn có những quy luật của vũ trụ chi phối mọi sự. Nếu ta hết lòng phụng sự với một tấm lòng vô kỷ không màng tới bản thân, với một ý thức chân thành muốn thực hiện Thiên cơ mà ta ý thức được ở thời điểm hiện tại, kết quả chắc chắc sẽ có. Tuy nhiên, kết quả có thể xuất hiện ngay, đến muộn hoặc đôi khi ta không thể thấy rõ được bằng năm giác quan thông thường. Dù sao đi nữa, Chân sư khẳng định rằng kết quả chắc chắn sẽ có, và ta chỉ cần tiếp tục phụng sự vì đó là xu hướng tự nhiên của một phàm ngã đang ngày càng liên kết chặt chẽ hơn với linh hồn.
Ta cũng cần nhớ rằng: có tồn tại rất nhiều phương pháp và cách thức để phụng sự. Ta cần sự linh hoạt để không bám chấp vào bất kỳ phương pháp cụ thể nào, để rồi bỏ qua những phương pháp khác có khả năng phù hợp và hiệu quả hơn nhiều. Nếu ta phụng sự vì lời khen, hay vì những dục vọng muốn thỏa mãn ham muốn của cái tôi cá nhân, thì chắc chắn động lực phụng sự đó là không đúng đắn. Tất cả những chi tiết liên quan đến việc ta nên phụng sự sao cho thích hợp sẽ được nêu ra cụ thể hơn trong phần “định luật phụng sự” – định luật thứ 3 của linh hồn.
d. Linh hồn phải từ bỏ sự can thiệp và ý thức về trách nhiệm đối với những đệ tử khác:
Chân sư DK trong đoạn này đã khuyên rằng tất cả chúng ta hãy nên lo công việc của mình, và dừng việc can thiệp và nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm với những đệ tử khác. Lời khuyên này sẽ khiến cho một người bình thường thấy có vẻ rất tầm thường và thậm chí “ích kỷ”. Tại sao Chân sư lại khuyên chúng ta như vậy? Khi bình giảng về đoạn này trong webinar 9 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. cho biết rằng: dù về mặt lý thuyết, người môn sinh luôn được bảo rằng mình là một với mọi linh hồn khác, nhưng y cần phải vượt qua sự bám chấp của việc xen vào công việc hay nhiệm vụ của những người khác. Đây là một sự dính mắc, và nó sẽ cản trở tự do của người y dính mắc cũng như sự tự do của chính bản thân y.
Một trong những biểu hiện chính của sự dính mắc này là khi người môn sinh quan tâm và thảo luận quá nhiều về công việc của người khác. Thậm chí, y còn tự đánh lừa bản thân bằng cách bao biện rằng y quan tâm vì một trách nhiệm chính đáng và đúng đắn. Thực tế là mỗi chúng ta đều có một sự hiểu biết khá hạn hẹp cũng như vốn kinh nghiệm không đầy đủ về các định luật. Nhưng y cứ luôn bắt ép rằng người khác cũng phải hiểu đúng như mình. Trong khi, ở nhiều lĩnh vực, người khác sẽ có sự hiểu biết tiến bộ và sâu sắc hơn (Robbins, webinar 9 – các định luật của linh hồn).
Trong EP 2 (106), Chân sư DK nêu rõ rằng: mỗi phàm ngã sẽ có con đường riêng của nó, phải gánh vách những trách nhiệm riêng, thực hiện những bổn phận và nghĩa vụ riêng, hoàn thành những nghiệp quả riêng. Do vậy, y không có quyền can thiệp vào trách nhiệm và đời sống của các đệ tử khác. Liên kết và mối quan hệ giữa các đệ tử là thuộc về chân ngã, chứ không phải phàm ngã. Nhiệm vụ, bổn phận và nghĩa vụ hoàn thành nghiệp quả của mỗi người gắn chặt với sự độc lập trong dấu hiệu sư tử. Do vậy, y phải để cho một phàm ngã tự do hoàn thành nhiệm vụ riêng của nó, tự trả những nghiệp quả riêng của nó. Việc xen vào công việc của người khác chính là việc cản trở một linh hồn lâm phàm học bài học của mình. Tuy nhiên, thầy M.R. trong “webinar 9 – Các định luật của linh hồn” lưu ý rằng điều này rất khác với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ – tức là tự cho bản thân mình, những nhu cầu và những gì gắn với mình là quan trọng nhất. Còn đây lại là việc y cho người khác quyền tự do, không can thiệp vào việc hoàn thành sứ mệnh và nghiệp quả của chính họ.
Chân sư DK trong EP 2 (107) cũng nhấn mạnh về sự liên kết theo nghĩa nội giới, ở bên trong mới là điều đặc biệt quan trọng và cần để tâm. Cụ thể, Ngài nói rằng:
– Các mối liên kết và hợp tác bên trong phải được tạo dựng, bất kể vẫn còn nhiều sự khác nhau về mặt quan điểm.
– Các mối liên kết và hợp tác này cần được giữ vững trong tình thương. Điều này được thực hiện bằng cách các đệ tử phải từ bỏ ý thức về thẩm quyền và trách nhiệm với hoạt động của đệ tử khác (tức là không can thiệp vào hoạt động và sứ mệnh của người khác). Tất cả những gì một người đệ tử phải làm là đồng hành, đứng cùng nhau “vai kề vai trong công việc duy nhất” thì mọi khác biệt, bất đồng sẽ tự động được hóa giải.
Thầy M.R. bình giảng thêm rằng: người môn sinh không nên làm bất kỳ điều gì dù là nhỏ nhất để giới hạn người khác. Tất cả những gì cần làm là nhận thức về tình thương của linh hồn, bất chấp mọi khác biệt bên ngoài. Hoàn cảnh duy nhất y cần can thiệp là khi người khác làm những điều gây phá vỡ sức mạnh của nhóm và sự hợp nhất nhóm. Kể cả khi điều này xảy ra, thì y vẫn phải giải quyết nó trong tinh thần của sự thống nhất yêu thương.
Tức là, ở những trường hợp cần can thiệp (chẳng hạn như khi sức mạnh và sự hợp nhất nhóm vì điều gì đó mà bị tổn hại), y phải đưa ra sự phán xét cần thiết khi đối mặt với sự biểu lộ rõ ràng của cái thiện và cái ác. Lúc đó, y cần đứng ra để nói lên quan điểm của mình và bảo vệ cho cái thiện. Chẳng hạn, thông thường Thánh đoàn sẽ không tác động tới quyết định của nhân loại. Tuy nhiên, khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, phe Trục thực sự là đại diện của thế lực tà ác, còn phe Đồng minh chính là biểu hiện của phe ánh sáng. Khi đó, Thánh đoàn sẽ chọn phe và hỗ trợ cho phe ánh sáng.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại thì việc áp đặt quyền lực lên người khác đã từng là một điều cần thiết. Khi đó, con người nhìn chung vẫn chưa thể hiện được tinh thần trách nhiệm và cần sự dẫn dắt của những người có tầm tiến hóa cao hơn. Nhưng trong thời đại hiện nay, mọi chuyện đã khác (EP 2, 108). Con người đã đạt được một mức độ trưởng thành và tiến hóa nhất định. Việc áp đặt quyền lực lên người khác và can thiệp vào trách nhiệm của những người khác là không còn cần thiết nữa. Hình ảnh “đứng vai kề vai bên nhau” mới là một hình ảnh đúng đắn, thích hợp cho sự hỗ trợ lẫn nhau trong thời đại này. Mỗi người cố gắng hết sức để thực hiện sứ mệnh riêng của mình, và từng người đó sẽ đóng góp vào sứ mệnh chung của cả nhóm. Các công việc và nhiệm vụ nặng nhọc sẽ nhờ sự hợp tác và nỗ lực của cả nhóm để được hoàn thành (Robbins, webinar 9 – Các định luật của linh hồn).
e. Cần tuân theo 3 quy luật về sự hợp tác nhóm:
Trong EP 2 (107-109), Chân sư DK cho biết rằng: xu hướng cố hữu của phàm ngã là tìm kiếm sự nổi bật, sự ưu việt hơn những người khác. Do vậy, để sống và hợp tác cùng với các bạn đồng môn khác trong nhóm, người môn sinh cần tuân theo 3 quy luật về sự hợp tác nhóm. Các quy luật này đặc biệt thích hợp ở thời đại hiện tại, và nội dung cụ thể của các quy luật đó là như sau: (lưu ý rằng một số nội dung có trùng lắp với những điều đã nêu ở trên. Tuy nhiên, việc Chân sư DK lặp lại nội dung càng mang ngụ ý rằng đó là một điều quan trọng cần ghi nhớ).
1) “Thứ nhất, hãy chú ý không để cho bất kỳ sự chia rẽ nào xuất hiện trong mối quan hệ bên trong mà bạn có với nhau” (EP 2, 107). Tức là, nếu một hạt giống của sự chia rẽ xuất hiện, người môn sinh phải tìm cách loại trừ nó ngay. Khi sinh hoạt trong cùng một nhóm, sự va chạm giữa những phàm ngã thuộc các kiểu mẫu cung năng lượng khác nhau, các biểu đồ chiêm tinh khác nhau,… là không thể tránh khỏi. Do vậy, y phải chấp nhận một sự thật là sự xung đột chắc chắn sẽ tồn tại. Tuy nhiên, điều y cần nỗ lực là phải kiểm soát tư tưởng và thái độ bên trong của mình. Y cần tự nhủ rằng: mình sẽ không cho phép bất kỳ chia rẽ, tách biệt nào được phép xảy ra trong các mối quan hệ bên trong của nhóm.
2) “Thứ hai, theo đuổi bổn phận và nhiệm vụ riêng của bạn, gánh vác trách nhiệm riêng của bạn, và sau đó để cho các đệ tử đồng nghiệp làm điều tương tự, thoát khỏi tác động của tư tưởng và sự chỉ trích của bạn. Nguyên tắc của phụng sự là tình yêu thương dành cho tất cả nhân loại và phụng sự nhân loại, đồng thời bảo tồn một tình yêu thương nội tại sâu sắc hơn dành cho những người mà bạn được định mệnh giao phó để làm việc cùng” (EP 2, 107). Chúng ta cần phải hiểu rằng mỗi người là rất khác nhau. Họ sở hữu một biểu đồ chiêm tinh riêng, một cấu trúc cung riêng, được sinh trưởng và lớn lên trong một môi trường riêng, có con đường phát triển riêng qua rất nhiều kiếp sống trước đây… Do vậy, chắc chắc quan điểm của từng người về cùng một vấn đề là rất khác nhau. Nguyên tắc cần tuân theo là để bạn đồng môn của mình tự có quan điểm riêng, tự gánh vác sứ mệnh, bổn phận và nghiệp quả của họ.
Đặc biệt, người môn sinh cần tôn trọng và không cản trở hoạt động của bạn đồng môn bằng việc xen vào, hay phát xuất ra những tư tưởng và lời nói mang tính phê phán. Thật sự, tư tưởng là yếu tố khó để kiểm soát nhất. Trong webinar 9 – Các định luật của linh hồn, thầy M.R. nói thêm rằng: theo quy luật về tư tưởng, các tư tưởng tiêu cực mà chúng ta dành cho một người sẽ có tác động hủy hoại thực sự đối với người đó. Còn đối với lời nói, việc chỉ trích tạo ra nỗi đau và thậm chí làm rối loạn cuộc sống của người khác “một cách độc ác”. Việc chỉ trích chắc chắn không phải là một cách đóng góp mang tính xây dựng. Thầy M.R. khuyên chúng ta: nếu có lúc nào người môn sinh thấy bạn của mình đang đi lệch hướng, hãy cân nhắc đến việc phân tích cho bạn mình một cách xây dựng (về tình trạng hiện tại của bạn, trạng thái tâm thức của bạn, một số điều có thể hữu ích cho bạn…) với một tâm thế chỉ muốn bạn coi xét thêm nhiều góc nhìn khác nhau và một lòng thành tâm muốn bạn phát triển. Tựu chung lại, y thực sự phải nghiêm túc trong việc kiểm soát lời nói và tư tưởng của mình khi hợp tác với các bạn đồng môn trong một nhóm.
Hơn thế nữa, Chân sư DK trong EP 2 (107) cũng yêu cầu thêm rằng mỗi người môn sinh đều cần duy trì một tình thương sâu sắc dành cho những người y tiếp xúc và làm việc cùng trong môi trường xung quanh. Ngài nhấn mạnh thêm: tình thương ấy cần dành cho tất cả, kể cả những người dường như đang làm hại y, đe dọa cuộc sống của y, hay đang theo đuổi những giá trị hoàn toàn khác với y. Dù thế nào thì tình thương vẫn cần dành cho mọi đối tượng, giống như việc Đức Christ vẫn nói rằng: “chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của mình”. Tuy nhiên, thầy M.R. lưu ý trong phần bình giảng rằng: việc yêu thương người khác không có nghĩa là đồng ý, cổ xúy hay đồng hóa với người khác. Y vẫn cần phản đối những giá trị và những điều không đúng đắn mà người khác thể hiện. Y nỗ lực theo đuổi những giá trị cao cả, phản đối việc giá trị thấp biểu hiện, nhưng tình thương vẫn được bảo toàn.
3) “Thứ ba, hãy luôn duy trì trong công việc thái độ tâm thức phải phát triển từ hai quy luật trên, được tuân theo một cách trung thành” (EP 2, 107). Một lần nữa, Chân sư DK nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân theo 2 quy tắc trên.
Định luật linh hồn 2 – Định luật xung động từ tính
1) Định nghĩa và các ý nghĩa biểu tượng:
Ta cần định nghĩa hai cụm từ chính ở đây là cụm từ “xung động” và “từ tính”:
– Xung động: với ý nghĩa khoa học, thực chất là một phản ứng hưng phấn lan truyền dọc theo sợi thần kinh. Mặc khác, ý nghĩa biểu tượng của nó là một sự thôi thúc mạnh mẽ bất chợt từ bên trong, khiến một người phải hành động. Chẳng hạn, một nhà thơ có thể viết nên một tác phẩm để đời từ một “xung động cảm xúc” mãnh liệt, chợt lóe lên khi người ấy đứng trước một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ.
– Từ tính: theo nghĩa khoa học là khả năng hút sắt thép của nam châm, còn nghĩa biểu tượng thì dùng để nói về sức hút liên quan đến cảm xúc hay tinh thần. Chẳng hạn, một người có sức hút, sức lôi cuốn sẽ thường được cho là có “từ tính mạnh” đối với người khác.
– Tựu chung lại, cụm từ “xung động từ tính” theo góc nhìn nội môn có thể được dự đoán mang ý nghĩa: một sức thôi thúc, sức hút mạnh mẽ xuất phát từ các cõi giới của tinh thần.
Chân sư DK trong sách EP 2 (87-109) đã đưa ra một số gợi ý về các ý nghĩa biểu tượng liên quan đến Định luật xung động từ tính, cụ thể như sau:
|
Số |
Tên Ngoại Môn |
Tên Nội Môn |
Biểu Tượng |
Năng Lượng Cung |
|
2 |
Định luật Xung động Từ tính |
Định luật hợp nhất cực |
Hai quả cầu lửa và một tam giác |
Năng lượng tuôn đổ của Cung Hai |
a. Định luật số 2:
Số 2 là biểu tượng cho các cặp đối lập nhị nguyên. Với tên nội môn là “định luật hợp nhất cực”, định luật xung động từ tính gắn với số 2 – con số biểu hiện sự hợp nhất của các cặp đối lập. Thầy M.R. cho biết thêm rằng dấu hiệu Song tử – dấu hiệu của bản chất nhị nguyên, lưỡng cực chính là dấu hiệu hoàng đạo đại diện cho định luật này (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn). Đây cũng là định luật được truyền dẫn bởi cung 2. Lý do cho việc này sẽ được giải thích kỹ hơn trong phần sau. Đây cũng là một sự tương đồng về mặt số học: định luật số 2 – truyền dẫn bởi cung 2.
b. Tên nội môn “Định luật hợp nhất cực”:
Trong EP 2 (111), Chân sư DK giải thích về ý nghĩa tên nội môn của Định luật xung động từ tính như sau: “Nó có một tên gọi huyền bí, và chúng ta gọi nó là “Định luật hợp nhất hai cực”…Điều này hàm ý sự ràng buộc giữa các cặp đối lập, sự dung hợp của tính lưỡng nguyên và sự kết hợp của các linh hồn”.
Hai cực ở đây là hai cực đối lập, có thể được gọi là cực dương (cực cao hơn) và cực âm (cực thấp hơn). Sự hợp nhất cực xảy ra khi hai cực âm và dương được hợp nhất. Hai cực ở đây có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Một ý nghĩa phổ biến có thể là cực âm phàm ngã và cực dương linh hồn. Khi phàm ngã hoàn thành quá trình dung hợp với linh hồn, thì hai cực đối lập mới sẽ là cực âm phàm ngã dung hợp với linh hồn và cực dương chân thần. Tức là, sự hợp nhất giữa cực cao và cực thấp sẽ luôn xảy ra nhờ Định luật xung động từ tính; nhưng tính chất cao hay thấp lại mang tính tương đối. Trong một hoàn cảnh, linh hồn có thể là cực cao; nhưng khi mức độ tâm thức được nâng lên, nó lại trở thành cực thấp.
Một ví dụ của sự hợp nhất cực (cụ thể ở đây là cực phàm ngã và linh hồn) là khoảnh khắc biến hình gắn với cuộc điểm đạo bậc 3. Trong thời khắc đó, thầy M.R. mô tả rằng vị điểm đạo đồ sẽ cảm nhận được liên kết trong đầu mình với các cõi giới cao cả trở nên rõ ràng, bền vững và liên tục. Bất kỳ khi nào y muốn trụ tâm thức của mình trên các cõi giới cao của linh hồn, thì y đều có thể làm được điều đó (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn).
Sự hợp nhất cực của Định luật xung động từ tính không chỉ xảy ra trong phạm vi một con người nhỏ bé đơn lẻ, mà còn là sự hợp nhất cực của các cá nhân với nhau, thậm chí là các tập thể lớn với nhau. Chẳng hạn, Đức Phật lại là khía cạnh dương đối với Đức Christ. Đức Christ lại là cực dương đối với Đoàn người mới phụng sự thế gian và cả nhân loại. Nguồn lực từ Shamballa sẽ mang tính dương đối với Thánh đoàn hành tinh. Cứ như vậy, tất cả chúng ta đều là một phần của các quá trình hợp nhất cực đang diễn ra dưới ảnh hưởng của Định luật xung động từ tính.
c. Biểu tượng “Hai quả cầu lửa và một tam giác”:

Hình 4— Biểu tượng hai quả cầu lửa và một tam giác
Hai quả cầu trong biểu tượng của Định luật xung động từ tính được Chân sư DK cho biết gắn với luân xa đầu và luân xa ajna (EP 2, 110). Trong cơ thể con người, hai luân xa này được ngoại hiện bởi hai tuyến nội tiết tương ứng như sau: luân xa đầu – tuyến tùng, luân xa ajna – tuyến yên. Đỉnh của tam giác hay luân xa alta major – là vị trí mà luồng hỏa xà Kundalini sẽ đi ra bên ngoài ở đỉnh cột sống tại cuộc điểm đạo thứ 4 (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn).
Chân sư DK cho biết rằng dưới tác động của Định luật xung động từ tính, các luân xa này sẽ trở nên sống động, và hoạt động mạnh mẽ thông qua công việc tham thiền, phụng sự và chí nguyện đúng đắn (EP 2, 117). Khi người môn sinh thực hiện được điều này, một tam giác trong đầu sẽ hình thành. Ba luân xa sẽ lần lượt tác động lên nhau, tạo nên một từ trường kép mà nhờ đó ánh sáng từ tính bên trong y sẽ tỏa ra bên ngoài.
Đặc biệt, tại cuộc điểm đạo thứ 4, “Luồng hỏa xà Kundalini – đã được đốt cháy bằng ma sát – vươn lên đến đỉnh của cột sống – nơi luân xa alta major ngự trị. Kundalini và đỉnh của cột sống bị thúc đẩy để hướng về phía nhau, hướng về luân xa alta major. Và cuối cùng, luân xa này cũng sẽ trở thành một quả cầu lửa” (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn). Tức là, khi tâm thức con người chưa đạt đến mức điểm đạo đồ bậc 4, đỉnh của tam giác được tác động nhờ 2 quả cầu lửa bên dưới giống như hình minh họa ở trên. Tuy nhiên, khi người môn sinh đạt được cấp độ tâm thức của vị điểm đạo đồ bậc 4, đỉnh của tam giác sẽ trở thành một quả cầu lửa. Ba quả cầu lửa tạo thành một tam giác lửa rực cháy mạnh mẽ.
Tam giác trong đầu cũng tương ứng với tam giác tạo thành bởi 3 nguồn mãnh lực là nhân loại, Thánh đoàn và Shamballa.
– Luân xa đầu: mãnh lực ánh sáng ở Shamballa.
– Luân xa alta major: các linh hồn vẫn chưa được giải thoát.
– Luân xa ajna: Thánh đoàn hay huyền giai tinh thần.
Ta thấy có sự thúc đẩy hướng về nhau của ba mãnh lực này. Năng lượng của Thánh đoàn và Shamballa sẽ luôn hút nhau, sau đó tác động để giải phóng năng lượng nhờ vào phương tiện là các linh hồn nhân loại vẫn chưa được giải thoát nỗ lực biểu hiện những điều cao cả trên cõi trần (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn).
d. Định luật Xung động từ tính được quy định bởi “cung 2” – cung minh triết bác ái:
Tên nội môn của Định luật xung động từ tính là Định luật hợp nhất cực. Trạng thái hợp nhất, hòa hợp thường gắn với trạng thái cuối cùng của cung 2 và cung 4. Để đạt tới sự hợp nhất, cung 4 phải thông qua đấu tranh và xung đột rất nhiều. Ngược lại, với cung 2, sự hợp nhất đến một cách hài hòa, dễ dàng, không cần quá nhiều xung đột và tranh đấu. Tính chất này rất giống với đặc điểm của Định luật Xung động Từ tính. Định luật này quy định cách hoạt động trên cõi nội giới, tất cả sự hợp nhất xảy ra dần dần, một cách tự nhiên và không cần xung đột như tính chất của cung 4 . Do vậy, cung 2 được coi là cung thích hợp nhất để truyền dẫn Định luật xung động từ tính (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn).
Một đặc điểm nữa của cung 2 là khả năng xây dựng khuôn mẫu thiêng liêng. Tức là, năng lượng cung 2 sẽ tạo ra khuôn mẫu nhất định, để từ đó hình tướng có thể dựa theo khuôn mẫu và xây dựng nên tương ứng. Định luật xung động từ tính tạo nên một từ trường – hay trường năng lượng mang tính liên kết, giúp giữ các thành phần trong đó liên kết với nhau theo một dạng cấu hình nhất định (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn). Khả năng xây dựng khuôn mẫu liên kết này chính là một đặc điểm thuộc về cung 2.
2. Tầm quan trọng của Định luật xung động từ tính:
Định luật này có một tầm quan trọng rất lớn bởi vì Hành tinh Thượng đế của chúng ta hiện tại có linh hồn cung 2 và cả Đấng Thái dương Thượng đế cũng mang cung 2 – cung đang chi phối định luật này. Chân sư DK cho biết tầm quan trọng của định luật này: “Đây là một Thái dương hệ của cung 2, nên do đó tất cả các cung và các trạng thái khác nhau hoặc nhóm tâm thức, và tất cả hình tướng trong hay ngoài biểu lộ vật chất, thì đều được nhuốm màu và chi phối bởi cung này, và do đó cuối cùng sẽ được kiểm soát bởi định luật xung động từ tính” (EP 2, 110). Do vậy, đây là một định luật rất rộng lớn, hoạt động khắp Thái dương hệ, không đơn thuần là chỉ trên hành tinh của chúng ta. Đây là định luật liên quan đến sự gắn kết có hệ thống của mọi thứ.
Trong webinar 11 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. cho biết rằng: việc Đức Christ có thể tái lâm hay Thánh đoàn có thể ngoại hiện ở một thời điểm nhất định trong kỷ nguyên Bảo bình hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc có bao nhiêu người có thể đáp ứng được cơ hội được ban cho nhờ Định luật xung động từ tính. Định luật này yêu cầu chúng ta cần sống cuộc sống như một linh hồn, liên hệ với các linh hồn khác để trở thành các nhóm linh hồn cùng nhau nỗ lực, phụng sự để kêu gọi được những Đấng cao cả – đang nắm giữ vận mệnh cứu rỗi nhân loại. Khi tận dụng được định luật này, các nhóm linh hồn sẽ trở thành vận hà để truyền chuyển được năng lượng từ các Đấng cao cả, mang lại sự hỗ trợ cần thiết cho nhân loại.
3. Ví dụ biểu hiện Định luật xung động từ tính – công việc của Đoàn người mới phụng sự thế gian:
Chúng ta có bao giờ tự hỏi liệu các vấn đề lớn trên thế giới sẽ được hỗ trợ và giải quyết như thế nào? Trong webinar 10 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. cho biết rằng phần lớn các vấn đề này sẽ được giải quyết nhờ các mãnh lực tuôn đổ xuống của Đức Phật và những khát vọng hướng ra của Đức Christ. Cụ thể, tại lễ hội Song tử – lễ hội của Đức Christ, Ngài luôn tập trung trong chính mình toàn bộ khát vọng của cả nhân loại. Đức Phật thực tế cũng tham gia vào hoạt động này. Hai vị như là hai huynh đệ dưới chòm sao Song tử. Hoạt động này tạo ra một sự chỉnh hợp hành tinh lớn lao. Nếu công việc được hoàn thành một cách đúng đắn trong thời điểm này, thế giới sẽ đạt được những sự điều chỉnh cần thiết (EP2, 699).
Ngài cho biết thêm rằng: sự thành công hay thất bại của công việc mang tầm thế giới này chủ yếu nằm ở nỗ lực của những người nam nữ chí nguyện mà chúng ta thường hay gọi là Đoàn người mới phụng sự thế gian (EP2, 699). Đây được coi là một nhóm trung gian vĩ đại, giúp mang những mãnh lực của ánh sáng, của tinh thần hòa bình xuống nhân loại và các giới thấp hơn. Vai trò trung gian của Đoàn người mới phụng sự thế gian đòi hỏi sự nhận biết về Định luật xung động từ tính (EP 2, 699). Từ “xung động” trong Định luật xung động từ tính được thầy M.R. giải nghĩa là một dạng hoạt động liên quan đến ý tưởng và sáng kiến mới. Những thành viên thuộc đoàn người này với từ tính của mình sẽ phát ra dòng năng lượng tạo ra một kiểu hấp dẫn từ tính, giúp kết nối nhiều nhóm hữu ích lại với nhau. Do vậy, công việc của Đoàn người mới phụng sự thế gian sẽ được chi phối bởi Định luật xung động từ tính.

Hình 5— Đoàn người mới phụng sự thế gian liên kết với nhau nhờ Định luật xung động từ tính, giúp kết nối nhiều nhóm hữu ích lại với nhau để thực hiện Thiên cơ.
4. Các tính chất của Định luật xung động từ tính:
a. Định luật xung động từ tính không liên quan đến mối quan hệ giữa các hình tướng khác nhau, mà chỉ liên quan đến mối quan hệ giữa các linh hồn:
“Định luật xung động từ tính mà ta đang xem xét hoàn toàn liên quan đến mối quan hệ giữa các linh hồn, và đến từ sự tổng hợp nằm đằng sau hình tướng” (EP2, 110). Tức là, định luật này nói về mối quan hệ giữa các linh hồn như những đơn vị tâm thức trên cõi thượng trí, và cao hơn nữa là giữa những đơn vị tâm thức thuộc về tam nguyên tinh thần. Bởi vậy, mọi khía cạnh ta xem xét về định luật này sẽ đều đứng dưới góc độ linh hồn, dẫn đến rất nhiều thông tin vẫn còn “khó hiểu” và “bí ẩn” đối với người làm nghiên cứu cũng như người đọc.
b. Định luật xung động từ tính giúp khai mở hoa sen chân ngã của linh hồn một người cũng như kích thích sự khai mở của các linh hồn khác xung quanh y:
Hình 6— Các cánh hoa sen chân ngã được kích thích khai mở nhờ tác động của Định luật xung động từ tính
Trong EP 2 (111), Chân sư DK cho biết rằng “Định luật này cai quản phạm vi của linh hồn, nên các Đấng Thái dương Thiên thần hồi đáp với nó. Và dưới sự kích thích của định luật này, các hoa sen chân ngã khai mở”. Định luật xung động từ tính chỉ có tác dụng trên cõi giới của linh hồn; vậy nên, thể linh hồn hay hoa sen chân ngã – vốn vẫn ngự ở cõi thượng trí, hiển nhiên sẽ hồi đáp với định luật. Một sự thật thú vị mà Ngài tiết lộ là các cánh của hoa sen chân ngã được khai mở là nhờ tác động của Định luật xung động từ tính này.
Thông thường, ta đã khá quen thuộc với quy trình mà các cánh hoa sen chân ngã được khai mở tương ứng với các giai đoạn tiến hóa của con người, bắt đầu từ các cánh hoa tri thức ở lớp ngoài cùng, tới các cánh hoa ở lớp bác ái, hy sinh và cuối cùng là viên ngọc trong hoa sen. Các cánh hoa sẽ khai mở khi ta ngày càng tích lũy và xử lý tốt các kinh nghiệm của đời sống, nguyện đi theo và biểu hiện những giá trị cao cả, thực hiện tốt các công tác liên quan đến nghiên cứu, tham thiền, phụng sự… Tuy nhiên, rất thú vị khi được cho biết rằng: nếu không nhờ năng lượng từ Định luật xung động từ tính, thì các cánh hoa sen chân ngã sẽ không thể khai mở. Điều này có nghĩa là khi ta chăm chỉ, kỷ luật, nguyện thực hiện các hoạt động hướng về linh hồn thì tự động Định luật xung động từ tính sẽ tác động, khiến cho các cánh hoa sen chân ngã hé mở ngày càng nhiều hơn.
Hơn nữa, thầy M.R. mở rộng thêm rằng khi một cánh hoa của một người dần mở ra, quá trình này sẽ kích thích nhiều cánh hoa sen khác khai mở theo. Những sự kích thích và ảnh hưởng lẫn nhau này xảy ra một cách tự nhiên, trên cõi giới của linh hồn. Các linh hồn sẽ trải nghiệm năng lượng của nhau, thậm chí chắc chắn sẽ trải nghiệm tâm thức của nhau. Do vậy, các linh hồn sẽ hỗ trợ sự phát triển của nhau, và cùng với nhau, tất cả sẽ đạt được sự phát triển lớn lao hơn nhiều so với sự phát triển của một linh hồn đơn lẻ (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn).
c. Định luật xung động từ tính tạo ra một lực kéo, hỗ trợ nhân loại đang nhập thế hướng tới thế giới cao cả của linh hồn:

Hình 7— Định luật xung động từ tính giúp kéo linh hồn đang nhập thế lên các cõi giới cao hơn.
Chân sư DK cho biết “Định luật xung động từ tính là nền tảng của sự nhận thức về linh hồn” (EP 2, 111). Khi nhập thế vào một kiếp sống mới, linh hồn sẽ phải học các bài học của đời sống cũng như hoàn thành các trách nhiệm của phàm ngã. Rất nhiều mãnh lực của đời sống phàm ngã sẽ kéo linh hồn đang nhập thế chìm đắm trong thế giới của ba cõi thấp. Tuy nhiên, chính sức mạnh của Định luật xung động từ tính giúp kéo tâm thức của linh hồn nhập thế đó lên các cõi giới cao. Cụ thể, khi năng lượng từ định luật này tuôn đổ, y sẽ có cơ hội trải qua các hoàn cảnh thực tế để dần dần rèn luyện được khả năng nhìn xuyên qua các khía cạnh mang tính hình tướng, và sau đó có thể tập trung vào những khía cạnh mang tính linh hồn nơi bản thân mình và những người khác. Chẳng hạn, trải nghiệm về sự đảo ngược của bánh xe – thời điểm con người phải đứng trước lựa chọn đi theo thói quen của phàm ngã hay tiếng gọi của linh hồn, được tạo ra nhờ năng lượng từ Định luật xung động từ tính (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn).
Một chức năng nữa của Định luật xung động từ tính được Chân sư DK cho biết là tác dụng liên kết, kết nối các linh hồn đã được giải thoát với các linh hồn vẫn còn bị giam cầm trong hình tướng (EP 2, 115). Ở đây, những linh hồn đã được giải thoát là các linh hồn đã đạt tới cấp độ điểm đạo bậc 4 trở lên. Còn các linh hồn vẫn bị giam cầm trong hình tướng là các linh hồn chưa đạt tới cấp độ tiến hóa này, vẫn phải nhập thế, sống trong hình tướng để tiếp tục tiến hóa. Ngụ ý của Chân sư ở đây là các linh hồn được giải thoát vẫn giữ kết nối với các linh hồn chưa giải thoát nhờ định luật xung động từ tính. Chẳng hạn, trên cõi giới cao, linh hồn của hành tinh (tập hợp của các linh hồn đã được giải thoát) tìm cách tỏa ra từ tính, giúp kéo các linh hồn còn chưa giải thoát từng bước ra khỏi sự giam cầm của hình tướng. Thời điểm mà lực kéo từ tính từ linh hồn hành tinh sẽ trở nên rất mạnh mẽ được cho biết là khi Đức Christ giáng lâm trong thời đại Bảo bình sắp tới.
Tất cả những điều này có thể thực hiện được là nhờ từ tính giữa các linh hồn dưới ảnh hưởng của Định luật xung động từ tính. Lực từ tính này có thể xảy ra giữa các linh hồn cá nhân, giữa các linh hồn cá nhân và linh hồn nhóm, hoặc giữa các linh hồn nhóm với nhau… Quan trọng, từ tính này không phải giữa hình tướng với hình tướng, mà sẽ luôn là giữa linh hồn và linh hồn.
d. Định luật xung động từ tính chi phối mối quan hệ, sự tương tác, sự giao tiếp, thấm nhập lẫn nhau của 7 nhóm linh hồn trên các cõi phụ cao của cõi trí (EP 2, 110):
“Định luật xung động từ tính chi phối mối quan hệ sự tương tác, sự giao tiếp, sự thấm nhập lẫn nhau giữa bảy nhóm linh hồn ở các tầng bậc cao hơn của cõi trí, cái tạo thành sự phân hoá hình tướng chính đầu tiên. Chúng ta chỉ có thể nghiên cứu những điều này một cách thông minh từ góc độ của bảy nhóm cung, khi chúng tạo thành khía cạnh tinh thần của gia đình nhân loại.” (EP 2, 110). Năng lượng của định luật xung động từ tính quy định viễn cảm, ấn tượng, ảnh hưởng, sự cho đi và nhận lại năng lượng giữa các linh hồn trên cõi cao của nó; dù rằng với tâm thức hiện tại của phần lớn chúng ta, ta vẫn chưa thực sự nhận thức được những tương tác này. Thường chỉ có những đệ tử đạt được mức điểm đạo bậc 3 trở lên mới nhận thức được mối quan hệ giữa các linh hồn trên cõi của nó. Thầy M.R. còn mở rộng thêm rằng: các linh hồn trên cõi của nó được chia làm bảy nhóm cung. Tất cả các nhóm linh hồn này đang giao tiếp với nhau theo cách riêng của chúng, nhờ vào tác động của Định luật xung động từ tính.
Chân sư DK cũng cho biết thêm rằng: “Định luật xung động từ tính chi phối mối quan hệ của linh hồn một nhóm với linh hồn của các nhóm khác” (EP 2, 111). Sau đó, định luật này sẽ giúp cho các nhóm linh hồn có khả năng dung hợp, thấm nhập, tổng hợp lại với nhau (EP 2, 111). Quá trình này được thầy M.R. mô tả như sau:
– Đầu tiên, mỗi linh hồn đơn lẻ sẽ đồng nhất hóa (được định nghĩa là sự dung hợp, hòa trộn tâm thức của các thành viên với nhau) với nhóm linh hồn của mình, thấy rằng tất cả các thành viên trong nhóm là một linh hồn tổng thể.
– Sau đó, linh hồn này sẽ tiếp cận các nhóm khác cũng đã đạt được sự đồng nhất hóa tương tự. Càng ngày, phạm vi của sự thấm nhập, tổng hợp càng lớn dần. Tất cả điều này thực hiện được là nhờ năng lượng từ định luật xung động từ tính (Robbins, webinar 10 – các định luật của linh hồn).
e. “Định luật này chi phối sự tương tác, sống động nhưng chưa được nhận ra như một quyền năng, giữa linh hồn của giới thứ tư trong tự nhiên, con người, và linh hồn của ba giới thấp hơn con người, và tương tự như vậy với ba giới siêu nhân.” (EP 2, 112)

Hình 8—Con người là trung gian truyền dẫn năng lượng của linh hồn, xuống 3 giới thấp hơn.
Định luật này không chỉ tác động tới linh hồn của các cá nhân trong giới nhân loại với nhau, mà còn là giữa linh hồn của con người với các đơn vị linh hồn trong 3 giới thấp hơn và 3 giới cao hơn nhân loại. Điều này nhấn mạnh vai trò trung gian của giới nhân loại với Trái đất và rộng hơn nữa là với Thái dương hệ. Thầy M.R. dự đoán rằng đây sẽ là định luật chi phối sau này, khi nhân loại sẽ trở thành giới trung gian giúp dung hợp, liên kết, và hợp nhất 3 giới thấp hơn với 3 giới cao hơn (Robbins, webinar 11 – các định luật của linh hồn).
Vai trò trung gian của giới nhân loại được thể hiện trong cuộc sống của từng cá nhân con người. Nhờ trụ vững vào công việc tham thiền, kỷ luật và phụng sự; mỗi con người tiến bộ có thể tiếp xúc với cõi giới của linh hồn, và từ đó chính y trở thành một kênh dẫn cho sự biểu lộ của linh hồn (EP2, 112). Nói cách khác, con người là phương tiện để phóng phát năng lượng của linh hồn vào thế giới. Chân sư tiết lộ thêm rằng chúng ta thực hiện công việc trung gian phóng phát năng lượng này theo đơn vị nhóm. Vậy nên, đó là lý do tại sao thầy M.R. khuyên chúng ta phải học cách để hoạt động được theo nhóm, bởi vì chức năng thực sự của ta sẽ là các nhóm truyền dẫn năng lượng của linh hồn.
5) Cách áp dụng Định luật xung động từ tính lên đời sống của người chí nguyện đệ tử:
a) Cố gắng đạt tới đời sống như một linh hồn:
Con người gần như luôn luôn phải hướng tới đời sống của linh hồn để tất cả các định luật của linh hồn có thể có tác động. Riêng với Định luật xung động từ tính, trong webinar 11 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. cho biết rằng ta có thể tận dụng được định luật này nhờ việc giảm dần sự chú ý tới phàm ngã trong công việc phụng sự. Tức là, ta cần phát triển thái độ “điềm nhiên thiêng liêng” – khước từ những đòi hỏi của phàm ngã. Một điều nữa là trong mọi việc, hãy luôn nhắc nhở mình là phải coi những người khác như linh hồn. Khi đó, tự động niềm vui, sự hòa hợp, tình thương sâu sắc, lâu bền, và những tư tưởng đúng đắn sẽ tới với ta.
b) Làm việc cùng nhau như các nhóm linh hồn, tạo thành các kênh phụng sự hữu ích:

Hình 9—Làm việc cùng nhau như những nhóm linh hồn
Trên các cõi giới cao của linh hồn, Định luật xung động từ tính tạo ra sự hấp dẫn, từ tính, giúp các linh hồn kết hợp với nhau tạo thành các nhóm linh hồn. Mục tiêu của các nhóm linh hồn này là hướng tới công việc phụng sự, cần trở thành một “kênh để phụng sự trong sự quên mình thuần khiết” (EP 2, 113). Tuy vậy, thầy M.R. cũng nhắc nhở chúng ta rằng: để có thể trở thành một kênh phụng sự như vậy, người môn sinh bắt buộc phải đạt được những tiêu chuẩn nhất định, và tuân theo những khuyến nghị mà Chân sư đã chỉ dẫn rải rác trong rất nhiều cuốn sách của Ngài. Thái độ ở đây là “kiên trì, nỗ lực tuân theo”. Chỉ khi đó, y mới có thể được coi là một đệ tử đích thực, hiệu quả trong kỷ nguyên Bảo bình.
Vậy những tiêu chuẩn nhất định mà thầy M.R. ngụ ý rằng người môn sinh phải đạt được trước khi trở thành một kênh phụng sự là gì? Trong webinar 11 – các định luật của linh hồn, thầy nói rằng cơ hội sẽ được trao cho những người chí nguyện, đệ tử và những người có thiện chí trên toàn thế giới. Tức là, về mặt kỹ thuật, những người phải có một mức tiến hóa nhất định như sau mới có thể tận dụng cơ hội này:
– Những người nam nữ thiện chí: là những người có một tấm lòng thiện chí, một trái tim yêu thương dù họ không biết những kiến thức, hướng dẫn liên quan đến lĩnh vực nội môn hay huyền bí học.
– Những người chí nguyện nhiệt thành và tiến bộ (thường những người này đã nhận thức được một số cơ hội liên quan đến lĩnh vực huyền bí, nội môn dành cho họ). Có thể nói, cấp độ tiến hóa của những người này là tiểu đệ tử và đệ tử trong ánh sáng.
– Những người đệ tử (tính từ cấp độ đệ tử được chấp nhận trở lên).
Chân sư nói rằng nếu tất cả những người này làm việc cùng nhau như những nhóm linh hồn, thì sau rốt họ có thể hoàn thành được rất nhiều điều (EP2, 113). Cụm từ “nhóm linh hồn” phải được nhấn mạnh ở đây. Tức là, mọi người không làm việc như những nhóm người làm cùng nhau mà ta thấy phổ biến trên cõi trần. Mà mỗi người trong nhóm phải nhận ra chính mình là một linh hồn, và nhận thức được rằng:
– Khi hợp tác và thực hiện công việc chung, y nỗ lực để nhóm thực hiện được những mục tiêu chung, giúp Thiên cơ biểu hiện. Nếu có bất kỳ động cơ nào mong muốn nhận được sự thành công cho riêng bản thân mình, thì đó chính là tham vọng cá nhân; và điều này không được Chân sư ngụ ý ở đây.
– Sự liên kết giữa các cá nhân với nhau phải ở trên khía cạnh tinh thần và linh hồn, chứ không phải ở mức độ phàm ngã. Sự liên kết này cũng không phải liên kết thần bí của kinh thư hay của các truyền thống thần bí.
– Người môn sinh cần tìm thấy nhóm linh hồn của mình và nỗ lực để làm việc hòa hợp với nhóm vì mục tiêu chung nhất. Chân sư cho biết rằng “Sự khao khát tích hợp, sự cống hiến và lòng tận tụy sáng suốt của nhóm đưa những cá nhân tạo thành nhóm đó lên những đỉnh cao lớn hơn so với khi đi một mình” (EP 2, 112). Đi theo nhóm sẽ đạt được tiến bộ nhanh hơn và mạnh mẽ hơn nhiều. Nhóm sẽ luôn phát tỏa một thứ sức mạnh gọi là “sức mạnh của sự nâng đỡ” tới tất cả các thành viên trong đó (Robbins, webinar 11, các định luật của linh hồn).
c) Như các nhóm linh hồn, tích cực chỉnh hợp, tiến đến sự hợp nhất với các cực cao hơn:

Hình 10—Con người hướng tới sự hợp nhất với các cực cao hơn.
Định luật xung động từ tính hay còn gọi là định luật hợp nhất cực có vai trò giúp các nhóm linh hồn ngày càng thấm nhập, tổng hợp với các cực cao hơn. Những cực cao hơn đó có thể là nhóm Đoàn người mới phụng sự thế gian, Chân sư, Thánh đoàn và thậm chí là nguồn năng lượng từ Shamballa. Để một người môn sinh tận dụng được năng lượng từ Định luận xung động từ tính, tiến đến sự hợp nhất với các cực cao, Chân sư DK đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể như sau:
– Mỗi đệ tử cá nhân phải học cách chỉnh hợp nhanh chóng nhờ tham thiền, và thiết lập một sự tiếp xúc ổn định với thế giới tinh thần. Chỉ khi đó, y mới có cơ hội tiếp xúc với Chân sư của nhóm mà y thuộc về. Tức là, chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng tiếp cận Chân sư thông qua phàm ngã của mình. Bắt buộc ta phải tiếp xúc với linh hồn của mình trước, rồi việc tiếp xúc với Chân sư mới có thể xảy ra sau đó.
– Các nhóm linh hồn có thể chỉnh hợp, thỉnh nguyện để tiếp xúc với nguồn năng lượng từ các Đấng cao cả. Tuy vậy, ta cần lưu ý rằng các Ngài chỉ có thể được tiếp xúc thông qua đội hình nhóm. Thầy M.R. nhấn mạnh rằng: cả nhóm cần giữ liên kết một cách từ tính với nhau như những linh hồn, sau đó hướng lên những Đấng vĩ đại hơn như Đức Phật và Đức Christ. Đặc biệt trong những thời điểm quan trọng như trăng tròn và các lễ hội tinh thần lớn, nếu chúng ta cùng tham thiền chung và thỉnh nguyện thì những điều kỳ diệu sau đây sẽ xảy ra:
– Trong những thời điểm quan trọng này, các thành viên của Thánh đoàn cũng sẽ thỉnh cầu các Đấng cao cả và sẽ tạo nên một liên kết cực với các Ngài. Các nhóm người chí nguyện đệ tử khi tham thiền để kết nối với Chân sư và Thánh đoàn (như trong các bài thiền trăng tròn, bài thiền vào lễ hội Wesak, lễ hội thiện chí của Đức Christ…) thì cũng sẽ gián tiếp nhận được những nguồn năng lượng từ các Đấng cao cả. Như Chân sư có nói rằng: “Nỗ lực của nhóm này (Thánh đoàn) sẽ khơi gợi từ Họ (các Đấng cao cả) một xung động đáp ứng và từ tính, điều mà sẽ mang lại sự kết hợp, thông qua phương tiện của tất cả các nhóm những người chí nguyện, những mãnh lực tốt lành bao trùm…Ánh sáng và cảm hứng và mặc khải tinh thần có thể được giải phóng trong một dòng chảy quyền năng mạnh mẽ đến nỗi nó sẽ tạo ra những thay đổi rõ rệt trong tâm thức con người và giúp cải thiện các điều kiện trong thế giới túng thiếu này” (EP 2, 113).
– “Sự kích thích của nhóm và những nỗ lực thống nhất cuốn toàn bộ nhóm đến mức độ nhận thức mãnh liệt mà nếu không thì sẽ không thể nào có được” (Robbins, webinar 11 – các định luật của linh hồn). Cả nhóm sẽ có cơ hội đạt được một tầm nhận thức vượt trội, lĩnh hội những tri kiến cao cả hơn rất nhiều so với những gì bản thân mỗi người có thể tưởng tượng.
Chúng ta luôn cần ý thức về vai trò của những người chí nguyện đệ tử như là trung gian giữa nguồn sức mạnh cao hơn và nhân loại nói chung đang cố gắng đi lên trên con đường tiến hóa. Tức là, chúng ta có trách nhiệm rất lớn trong việc giữ cho kênh trung gian đó được mở, để nguồn năng lượng cao cả có thể truyền xuống các kênh thấp hơn. Ta càng giữ được sự kiên định và mối quan hệ mật thiết với linh hồn nhóm, thì ta lại càng trở thành một người trung gian tốt đẹp và hiệu quả hơn (Robbins, webinar 11 – các định luật của linh hồn).
Định luật linh hồn 3 – Định luật phụng sự
1. Định nghĩa phụng sự:
a. Phụng sự là gì?
Theo từ điển Tiếng Việt, phụng sự là một từ hán việt. “Phụng” nghĩa là kính cẩn, làm điều gì đó bằng lòng tôn kính; còn “sự” có nghĩa là làm việc, phục vụ. Phụng sự có thể được hiểu là việc hết lòng làm việc, phục vụ, cống hiến vì lợi ích của người khác hoặc vì một lý tưởng cao đẹp với một thái độ khiêm nhường, không vụ lợi.
Theo khía cạnh nội môn, Chân sư DK đã đưa ra thông tin về định luật phụng sự được tóm tắt trong bảng sau (EP 2,…):
|
Số |
Tên ngoại môn |
Tên nội môn |
Biểu tượng |
Năng lượng cung |
|
3 |
Định luật Phụng sự |
Định luật của nước và cá |
Bình nước trên đầu người |
Năng lượng tuôn đổ của Cung 6 |
Ngoài ra, Ngài còn cho biết rất nhiều định nghĩa khác nhau về phụng sự rải rác trong cuốn Tâm lý học nội môn 2, cụ thể như sau:
– “Phụng sự có thể được định nghĩa ngắn gọn, như hiệu quả tự phát của tiếp xúc với linh hồn” (EP 2, 124). Cụm từ “tự phát” ở đây là sự tự nguyện, diễn ra ngay lập tức. Ví dụ, khi một người còn do dự và tự hỏi mình xem có nên phụng sự không, thì khi đó tính tự phát đã không còn. Thầy M.R. giải thích rằng khi một người môn sinh thực sự tiếp xúc ngày càng nhiều với linh hồn, thì xu hướng hành động để thể hiện tình thương, thiện chí một cách xác quyết và đúng đắn lại càng nhiều. Tức là, ở đây đang không nói tới một sự tiếp xúc thoáng qua, mà là một sự tiếp xúc bền vững và rõ rệt với linh hồn (Robbins, webinar 13 – các định luật của linh hồn).
– “Phụng sự cũng là đặc tính nổi trội của linh hồn, cũng như dục vọng là đặc tính nổi trội của bản chất thấp” (EP 2, 125). Vậy nên, thầy M.R. cho biết rằng khi ta thấy ai đó sống như một linh hồn, thì phụng sự sẽ là một đặc điểm, một khuynh hướng nổi trội, hừng hực trong cuộc sống của họ. Luôn tồn tại một lực nào đó hướng họ đến mong muốn phải phụng sự (Robbins, webinar 13 – các định luật của linh hồn).
– “Phụng sự là dục vọng nhóm, cũng như bản chất thấp là dục vọng của phàm ngã. Phụng sự là động lực hướng tới lợi ích của nhóm” (EP 2, 125). Nếu như ta còn sống nhiều trong tâm thức phàm ngã, những mục tiêu ta hướng tới thường sẽ là: làm sao để có được địa vị cao trong xã hội, làm sao để kiếm thêm được nhiều tiền, làm sao để có được một gia đình hạnh phúc… Nhìn chung, các mục tiêu đều để phục vụ cho lợi ích của cá nhân người đó. Phụng sự thì khác, nó sẽ luôn hướng tới lợi ích và mục tiêu của cả nhóm như: làm sao để từng cá nhân trong nhóm phát triển và tiếp xúc được chặt chẽ hơn với linh hồn, làm sao để cả nhóm nhận thức rõ được mục đích mà các Đấng cao cả đang muốn truyền đạt cho nhóm, làm sao để cả nhóm phụng sự Thiên cơ một cách hiệu quả… Tất cả các công việc phụng sự đích thực đều hướng tới mục tiêu và lợi ích của cả nhóm.
b. Phụng sự không phải là gì?
Để đào sâu thêm định nghĩa về công việc phụng sự đích thực theo góc nhìn của nội môn, Chân sư DK đã đưa thêm một số giải thích về việc phụng sự không phải là gì. Cụ thể như sau:
– “Phụng sự thường được xem như điều chúng ta trao cho người nghèo khổ, khốn cùng, bệnh tật và bất hạnh, vì chúng ta nghĩ mình muốn giúp họ, nhưng ít nhận ra rằng trước hết sự giúp đỡ này được đưa ra vì chính chúng ta bị làm cho khó chịu bởi các điều kiện đáng lo ngại, nên phải nỗ lực cải thiện những điều kiện đó để bản thân lại được dễ chịu.” (EP2, 121). Tức là, những việc như muốn giúp đỡ người nghèo khó, bất hạnh, bệnh tật…thực tế không hẳn được coi là một công việc phụng sự. Lý do Chân sư đưa ra là động lực sâu kín của mong muốn phụng sự xuất phát từ khía cạnh là ta muốn giúp bản thân mình được dễ chịu. Từ đó, chính ta không phải chứng kiến những hoàn cảnh khó khăn và thấy bất lực vì không giúp được gì.
– Những người phụng sự thường có xu hướng muốn “ép buộc người khác phải thuận theo điều mà kẻ phụng sự cảm thấy nên làm” (EP 2, 121). Thầy M.R. cho biết rằng: mỗi chúng ta, với một mức độ tiến hóa nhất định vẫn còn nhiều hạn chế trong quan điểm của mình. Do vậy, một điều ta thấy là đúng chưa chắc đã là đúng với người khác. Việc áp đặt lên người khác cũng không phải là một hành động và thái độ thuộc về linh hồn. Do vậy, việc điều chỉnh hay áp đặt người khác theo ý tưởng của mình (dù xuất phát từ mong muốn giúp đỡ người khác) không phải là phụng sự (Robbins, webinar 13 – các định luật của linh hồn).
– “Phụng sự cũng không phải là một ước muốn cuồng tín muốn đi theo con đường của các Đấng cao cả, chẳng hạn như Đức Christ.” (EP2,121). Ta vẫn thường được khuyên là nên đi theo tấm gương của Đức Christ. Tuy nhiên, một số người đi theo với một tham vọng là mình sẽ phát triển địa vị tinh thần của mình, hay chưa thấy rõ ràng bên trong lý do tại sao mình cần làm những điều như Đức Christ làm. Động cơ vô kỷ không hề có mà hoàn toàn đi theo một cách cuồng tín theo kiểu Ngài bảo tôi làm gì thì tôi sẽ làm điều đấy. Điều này không được coi là một công việc phụng sự.
– Phụng sự không phải là mốt, một thói quen nào đó đến từ áp lực xã hội. Chẳng hạn, Chân sư đưa ra ví dụ rằng: “Mọi người đều đang tích cực phụng sự trong các phong trào phúc lợi, trong các nỗ lực từ thiện, trong các công tác Chữ thập đỏ, trong việc nâng cao giáo dục và trong nhiệm vụ cải thiện các điều kiện thế giới đáng lo ngại. Phụng sự theo một cách nào đó đang là mốt. Phụng sự đem lại cảm giác quyền lực, đem lại bằng hữu…” (EP2, 122). Thường thì những nỗ lực từ thiện đang diễn ra phổ biến hiện nay không phải là biểu hiện của một hành động phụng sự thực sự, mà thường bị nhuốm màu bởi ham muốn của phàm ngã. Người thực hiện ít khi phụng sự và hy sinh một cách âm thầm. Những gì họ hiến tặng thường sẽ kèm theo tên tuổi, và sẽ củng cố thêm địa vị, danh tiếng của phàm ngã họ.
– “Phụng sự không phải là một tình cảm hay một lý tưởng.” (EP2, 124) Khi có tình cảm, cảm xúc từ luân xa tùng thái dương tác động vào công việc phụng sự thì thường ta sẽ tự tạo ra một đáp ứng mang tính trí-cảm trong mình. Động lực phụng sự không phải là các xung động thuộc về thể cảm dục. Mặt khác, lý tưởng thì thường sẽ viển vông và khó áp dụng vào thực tế. Do vậy, cả tình cảm hay lý tưởng viển vông đều không được coi là phụng sự (Robbins, webinar 12 – các định luật của linh hồn).
– “Phụng sự không phải là hành động mà người ta phải gắng công theo đuổi” (EP 2, 125) Tức là, động lực thúc đẩy hành động phụng sự đúng đắn sẽ diễn ra một cách tự nhiên nhờ sự tiếp xúc với linh hồn.
– “Phụng sự không phải là một phương pháp cứu rỗi thế gian, dù rốt cuộc sẽ dẫn đến điều ấy” (EP 2, 125). Khi thực hiện một công việc phụng sự nào đó, ta không cần phải quá chú trọng đến những mục tiêu to lớn như cứu rỗi người khác, cứu rỗi thế giới…. mà hãy tập trung biểu hiện những phẩm tính cao của linh hồn.
– Phụng sự không phải là các hoạt động mà đặt trọng tâm vào khía cạnh hình tướng. Các hoạt động mang tính hình tướng thường “chỉ nhấn mạnh vào tham vọng phàm ngã, và che phủ chúng bằng ảo cảm về phụng sự” (EP 2, 126). Ý thức tỷ lệ ở đây rất quan trọng. Ta không thể phủ nhận hoàn toàn các hoạt động mang tính hình tướng, nhưng ta phải đặt nó trong một tỷ lệ hợp lý. Chẳng hạn, một hành động phụng sự liên quan đến việc tổ chức hoạt động của nhóm. Nếu ta có 10 tiếng làm việc, nhưng lại dành 8 tiếng để trang trí, thiết kế banner… (nhìn chung là các hoạt động mang tính hình thức) và chỉ dành một chút thời gian để giúp cải thiện phần nội dung, cách giúp các thành viên của nhóm liên kết với nhau chặt chẽ hơn… thì có thể ta đang đặt ra một tỷ lệ chưa hợp lý giữa việc phụng sự những điều cốt lõi bên trong và những điều mang tính hình tướng.
2. Ý nghĩa và các biểu tượng của định luật phụng sự:
a. Tên nội môn “Định luật của nước và những con cá”:
Khi bình giảng về ý nghĩa nội môn của định luật này, thầy M.R. giải thích rằng: những con cá đại diện cho phần linh hồn của con người. Nước thì có hai cấp độ biểu hiện. Ở cấp độ thấp, nước đại diện cho đời sống của các cõi hình tướng hay 18 cõi phụ thấp. Đây còn được gọi là “dòng nước của ngục tù” khi các linh hồn vẫn còn bị mắc kẹt trong đó. Ở cấp độ cao, nước là biểu hiện của tình thương, của sự tuôn đổ năng lượng bác ái từ các cõi cao (gắn với dấu hiệu Song ngư và Bảo bình ở cấp độ cao). Trong biểu tượng của Định luật phụng sự, những con cá đang bị cầm tù trong dòng nước thấp của các cõi hình tướng sẽ được nuôi dưỡng và tiếp thêm sinh lực từ “nước hằng sống, hay nước của sự sống tinh thần cao cả”. Chẳng hạn, Đức Christ liên tục gọi mình là “nước của sự sống” hay “nước hằng sống” mà toàn thể nhân loại đang cần (Robbins, webinar 12 – các định luật của linh hồn).
b. Biểu tượng là người mang bình nước và bình nước đó được giữ cân bằng trên đầu của con người:
![]() |
![]() |
|
Hình 11—Biểu tượng của định luật phụng sự |
Hình 12—Tranh biểu tượng dấu hiệu bảo bình của Jofra |
Hình ảnh người đàn ông mang bình nước trong định luật này rất giống với hình ảnh “người tuôn đổ nước tới những người đang khát” trong dấu hiệu Bảo bình. Ở dấu hiệu này, hình ảnh người đàng ông vác bình nước trên vai cho ta thấy sự nặng nhọc mà y phải trải qua. Chiếc bình nước này được Chân sư trong EP 2 (121) mô tả như sau: “Biểu tượng cho thời đại Bảo bình là hình ảnh một người, vác trên đôi vai một chiếc bình nước đầy đến mức tràn ra cho hết thảy mọi người, thế mà vẫn không hề vơi”. Thầy M.R. cho biết rằng: với hình ảnh này, dường như nước của sự sống từ trong bình cứ tràn ra, tuôn chảy từ chính sự hiện hữu của người mang bình nước. Cũng có những lúc, người mang nước sẽ rót nước ra một cách có chủ ý và định hướng, nhưng phần lớn sẽ là việc tuôn đổ nước tới mọi người và phụng sự cho tất cả mọi người.
Biểu tượng của Định luật phụng sự rất giống với biểu tượng của dấu hiệu Bảo bình, “nhưng khác biệt nằm ở chỗ: người ấy đứng, hoàn toàn thăng bằng trong hình dạng một thập giá, với đôi tay dang rộng và chiếc bình nước đặt trên đầu” (EP2, 121). Hình ảnh này nói về một người đệ tử rất có thể đã thoát khỏi thập giá của hình tướng, nhưng vẫn chọn việc hy sinh để tiếp tục giam mình trong thập giá đó. Nước của sự sống tuôn đổ từ khu vực đầu, còn đôi chân y thì luôn tiếp đất. Tư thế này của người đệ tử bình thản và tự nhiên hơn nhiều. Sự thăng bằng của vị đệ tử cho thấy y đã đạt tới một sự quân bình hoàn hảo trong dấu hiệu Thiên bình.
Chiếc bình nước đặt trên vai hay trên đầu đều là một gánh nặng đối với người phụng sự. Dù ta có thể thường nghe nói rằng phụng sự sẽ đem lại cho ta niềm vui, sự chí phúc nhưng không chỉ có vậy, ta vẫn sẽ phải đối mặt với những khó khăn và thử thách mà công việc phụng sự đem lại. Chân sư DK cho biết rõ ràng rằng: “Phụng sự không hề dễ. Ngày nay, con người mới chỉ bắt đầu học cách phụng sự” (EP2, 121). “Chiếc bình nước đặt trên đầu người ấy, người đã ở trên thập giá hi sinh suốt một thời gian dài đến nỗi tư thế đó đối với y trở nên hoàn toàn tự nhiên, chỉ ra rằng thập giá, vốn đã nâng đỡ y bất lâu, nay đã biến mất” (EP2, 121).
Hầu hết mọi người trong chúng ta vẫn chưa đứng đủ lâu trong thập giá, để có thể hoàn toàn bình thản trong mọi công việc phụng sự. Đôi khi, chúng ta có phụng sự, nhưng vẫn thường chỉ ở các giai đoạn đầu của Định luật phụng sự. Hình ảnh thường thấy là người phụng sự Bảo bình với chiếc bình nước trên vai, hoặc trong tay. Nhưng tư thế cao nhất của Định luật phụng sự gắn với biểu tượng của định luật này thuộc về một vị Chân sư đích thực. Thầy M.R. mô tả kỹ như sau: “Rốt cuộc chúng ta sẽ đạt tới tư thế này, vốn thật sự là của một Chân sư đích thực, và đối với Ngài thì thập giá đã không còn nữa. Ngài đã bị đóng đinh trên thập giá, đôi tay hằn vết đinh rỗng không còn nắm giữ điều gì cho riêng mình. Ngược lại, chúng là khí cụ của sự chia sẻ, phân phối, ban phúc; và đầu của Ngài không còn suy tính như một phàm ngã xem Ngài sẽ làm gì tiếp theo, mà sẽ có một sự tổng hợp các nguồn năng lượng đã gom góp, có thể được tuôn đổ ra trong một cấu hình nguyên mẫu hoàn hảo vì lợi ích của tất cả những ai mà nó chạm tới” (Robbins, webinar 12 – các định luật của linh hồn).
c. Định luật phụng sự được quy định bởi cung 6 – cung của lý tưởng và sùng tín:
Phụng sự liên quan mật thiết tới phương diện thứ 2 là phương diện tình thương và bác ái. Đây là định luật thứ 3, nên cũng liên hệ với khía cạnh hành động và trí tuệ thuộc về cung 3 – cung của trí thông tuệ linh hoạt. Trong webinar 12 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. cho biết hai nhân ba sẽ trở thành sáu. Phụng sự tức là việc hành động phải kèm theo tình thương đúng đắn, hay là quá trình mang nhận thức có được từ các cõi giới bên trong, biểu hiện thành hành động với tình thương trên các cõi giới bên ngoài.
Trong tên nội môn của Định luật phụng sự là “định luật của nước và những con cá”, hình tượng những con cá có liên quan mật thiết đến dấu hiệu song ngư truyền dẫn cung 6 – cung của lý tưởng và sùng tín. Với sự tuôn đổ của năng lượng cung này, những con người sống trong thời đại Bảo bình sẽ sống với lý tưởng rất mạnh mẽ (từ khóa của cung 6). Trong thực tế, con người thời nay luôn được thúc đẩy để theo đuổi hoặc thực hiện một lý tưởng nào đó. Thầy M.R. cho biết rằng chưa bao giờ trong lịch sử của nhân loại có thể chứng kiến nhiều những nỗ lực từ thiện, mong muốn giúp đỡ nhân loại phổ biến tới vậy (Robbins, webinar 12 – các định luật của linh hồn).
3. Một số ví dụ về định luật phụng sự:
a. Công việc phụng sự của Đức Christ:
Chân sư DK cho biết rằng sự biểu lộ hoàn hảo nhất của Định luật phụng sự đến từ Đức Christ cách đây hơn 2000 năm (EP2, 119). Điều thú vị là trường hợp của Đức Phật chưa được coi là một biểu lộ hoàn toàn của Định luật phụng sự. Lý do đến từ việc Đức Phật chủ yếu đã tiếp xúc và làm việc với những đệ tử ở cấp độ A La Hán (điểm đạo bậc 4) và một số những người tầm đạo ở cấp độ thấp hơn, nhưng hầu hết họ đã đang ở trên con đường đạo. Còn Đức Christ, thông qua Chân sư Jesus đã thực sự tiếp xúc với số lượng quần chúng rất rộng lớn và đa dạng về cấp độ tâm thức. Ngài được coi là Đấng đã hợp nhất được năng lượng của Bảo bình và Song ngư, cũng là Đấng tiên phong báo hiệu kỷ nguyên Bảo bình sắp tới, và được gọi là “người phụng sự vĩ đại đầu tiên của thế giới”. “Chính đời sống, lời nói, và việc làm của Đấng Phụng sự Vĩ đại của thế giới – Đấng đã đến để làm sáng tỏ cho chúng ta biết phụng sự về bản chất là gì…Nhân loại ngày nay đang thành tâm cố gắng noi gương Ngài” (EP2, 119).

Hình 13—Đức Christ
b. Công việc của Đoàn người mới phụng sự thế gian:

Hình 14—Đoàn người mới phụng sự thế gian
Chân sư DK cho biết rằng: lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã có đủ số lượng phàm ngã được chỉnh hợp với linh hồn, tập hợp thành một nhóm những người phụng sự gọi là “Đoàn người mới phụng sự thế gian (ĐNMPSTG)”. “Ngày nay có đủ những trung tâm ánh sáng, rải rác khắp thế giới, và có đủ các đệ tử và người chí nguyện, đến nỗi những tia nhỏ hay sợi dây ánh sáng (nói biểu tượng) phát xạ từ mỗi người trong họ có thể gặp gỡ, đan xen, và hình thành một mạng lưới ánh sáng trên thế giới. Điều này cấu thành hào quang từ tính của Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian.” (EP2, 139).
Đặc tính của đoàn người này là hào quang của họ có thể gặp gỡ và tiếp xúc với nhau. Họ đến với nhau phần lớn trên các cõi nội giới, nhưng một số thành viên cũng tập hợp trên cõi hồng trần để cùng phụng sự (EP2, 139). Chân sư cho biết thêm rằng: ở thời đại này, con người sẽ ít khi làm việc với tư cách các cá nhân riêng lẻ, mà sẽ tập hợp thành nhóm để cùng nhau thực hiện các công tác tập thể. Thậm chí, Ngài nói rằng: nếu chúng ta còn thấy thoả mãn với việc giao tiếp riêng cá nhân mình với các nguồn năng lượng cao hơn, thì chúng ta đang lạc hậu so với yêu cầu của thời đại, và có khả năng đang sống trong bức màn của ảo cảm. Thánh đoàn hiện nay chủ yếu sẽ làm việc thông qua nhóm, nhiều hơn là thông qua các cá nhân.
Một đặc tính nữa của ĐNMPSTG là họ rất nhạy cảm với Thiên cơ. Điều này có thể đến từ kết quả của việc tự thân họ có thể tiếp xúc với linh hồn của mình, hoặc bởi vì họ kết nối được với linh hồn nhóm và chấp nhận công việc, mục tiêu của nhóm là chân thật, đúng đắn, và là tất cả những điều tốt đẹp nhất mà họ có thể hỗ trợ để biểu hiện thành hiện thực. Lĩnh vực phụng sự của họ sẽ được quy định theo cung, chủng tộc mà quốc gia họ thuộc về. Chân sư nói rằng: “Công việc sẽ được thúc đẩy tốt hơn khi các đơn vị trong Nhóm đáp ứng được nhu cầu trong chính môi trường đặc thù của họ” (EP2, 139). Cụ thể, Ngài khuyên rằng công việc phụng sự của ĐNMPSTG nên được thực hiện sao cho có thể phù hợp với nhu cầu mà chính môi trường sống của các thành viên trong nhóm đang cần tới, theo cách mà chính họ thấy là đơn giản và tốt nhất (bởi vì họ đã tự nhiên thông hiểu những phong tục tập quán, văn hoá, phương cách huấn luyện đặc thù ở địa phương mình sinh sống).
Ngoài ra, những thành viên của ĐNMPSTG được tập hợp và tổ chức thành một mạng lưới tam giác, giúp liên kết giữa các thành viên trở nên chặt chẽ hơn. Mạng lưới này sẽ được kích hoạt, sẵn sàng nhận ấn tượng để phụng sự từ các Đấng cao cả trong các tình huống khẩn cấp của hành tinh như chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai… Đặc biệt, điều này sẽ rất cần thiết trong thời đại mà các lực lượng ánh sáng và bóng tối đang giao tranh với nhau không chỉ trên các cõi nội giới, mà còn trực tiếp trên cõi hồng trần (Robbins, webinar 15 – các định luật của linh hồn).
4. Các tính chất của định luật phụng sự:
a. Phụng sự là điều không thể tránh khỏi:
Các hoạt động phụng sự gắn với việc khai mở các cánh hoa hy sinh của hoa sen chân ngã. Để các cánh hoa hy sinh khai mở, rất nhiều sự việc sẽ xảy đến để kéo người môn sinh tham gia vào các công tác phụng sự. Ban đầu, y không muốn phải phụng sự nhưng hoàn cảnh buộc y phải phụng sự. Tuy nhiên, dần dần về sau, người môn sinh sẽ tự động phát triển ở bên trong một thái độ phụng sự tự nguyện. Y không bị hoàn cảnh đưa đẩy, mà ý thức được một cách tự nhiên và nhanh chóng điều y cần làm để phụng sự cho các tập thể mà y là thành viên trong đó. Cuối cùng, ở cấp độ cao hơn nữa sẽ thái độ phụng sự quên mình, hay sự hy sinh mọi thứ thuộc về bản thân mình để phụng sự cho nhân loại và Thiên cơ. Chân sư DK trong EP 2 (118) còn cho biết thêm rằng: không ai có thể thoát khỏi tác động của định luật phụng sự. Nếu y cố tình lẩn tránh việc thực hiện trách nhiệm của mình, y chắc chắn sẽ phải học bài học nghiệp quả từ vị thầy Thổ tinh nghiêm khắc.
Trong một đoạn khác của EP 2 (119), Chân sư cho biết thêm rằng Bảo bình là nguồn gốc của định luật này. Chúng ta đang tiến vào kỷ nguyên Bảo bình, đồng nghĩa với việc ta sẽ đón nhận một cách tự động các năng lượng, xung động nhất định phát xuất từ chòm sao này. Bảo bình với hình ảnh người môn sinh tuôn đổ nước vào những người đang khát, được coi là nguồn gốc của định luật phụng sự. Chưa bao giờ trong lịch sử chúng ta được chứng kiến có nhiều người chí nguyện mong muốn phụng sự và hỗ trợ người khác nhiều như ngày nay. Do vậy, ở kỷ nguyên Bảo bình sắp tới, phụng sự sẽ là một điều rất phổ biến và không thể tránh khỏi.
b. Năng lực phụng sự đánh dấu một giai đoạn xác định của tiến bộ trên Thánh Đạo, và cho đến khi đạt được giai đoạn ấy, thì phụng sự tự phát, được thực hiện trong tình thương và được dẫn dắt bởi minh triết không thể được thực hiện (EP2, 118)
Khi con người đạt đến một mức độ tiến hóa nhất định, thì phụng sự là một phản ứng tự phát, hay một dạng bức xạ tự nhiên. Trước đó, phụng sự thực ra là hành động thiện chí nhưng động cơ thì hỗn tạp. Chẳng hạn, ta rất dễ hiểu lầm rằng các công việc thiện nguyên, từ thiện đều được coi là các hành động phụng sự. Nhưng điều này không hẳn đúng. Có khá nhiều người thực hiện các công việc từ thiện, và thiện nguyện không phải vì mục đích vô kỷ mà việc phụng sự thực sự yêu cầu. Họ vẫn đặt lợi ích của phàm ngã trong hành động. Chẳng hạn, một người làm từ thiện với mục tiêu để được mọi người tôn sùng, để xây dựng danh tiếng và thậm chí là có thể nắm quyền lực nhiều hơn trong một tổ chức mà người ấy đã quyên góp. Việc phụng sự thực sự và đúng đắn chỉ xuất hiện khi các công việc hỗ trợ và giúp đỡ người khác là vô vị lợi.
Do vậy, thường thì con người phải đạt tới một giai đoạn tiến hóa nhất định thì việc phụng sự mới thực sự tới từ xung động tự phát từ linh hồn. Theo tôi đoán, giai đoạn đó thường sẽ bắt đầu từ cấp độ “đệ tử trong ánh sáng”, khi y đã phần nào thoát ra được cuộc sống chỉ tập trung vào phàm ngã cá nhân và những dao động liên tục đầu tiên trên đường đạo. Từ cấp độ đó trở lên, người môn sinh đã phần nào tiếp xúc được với linh hồn và việc phụng sự tự phát từ linh hồn mới có thể được thực hiện.
c. Việc phụng sự phải được biểu hiện trên cõi trần bằng hành động cụ thể:
Chân sư DK cho biết rằng “Dấu hiệu của việc phụng sự đáng lẽ phải biểu lộ ngay bây giờ nơi các môn sinh huyền bí, rải rác khắp thế giới, vì họ đã đạt đến điểm mà những người phụng sự chân chính có thể xuất hiện trong hàng ngũ của họ và đưa ra bằng chứng cho thấy sự tiếp xúc với linh hồn đã được thiết lập” (EP2, 139). Ở đây, Chân sư khuyến khích người môn sinh nên soi xét xem mình có phải là một người phụng sự chân chính hay chưa? Chân sư nói rất rõ rằng kết quả của việc tiếp xúc với linh hồn phải là những hành động phụng sự cụ thể trên cõi trần. Tức là, ta không chỉ tạo ra các hình tư tưởng liên quan đến phụng sự (thực hiện trên cõi trí), hay biểu hiện các ước muốn, khao khát phụng sự (thực hiện trên cõi cảm dục). Thầy M.R. nhấn mạnh rằng định luật phụng sự là định luật thứ 3 của linh hồn, gắn với cung 3 – cung bắt buộc hành động phụng sự cụ thể phải được tạo ra trên cõi trần.
Hiện nay, tồn tại một tình trạng phổ biến là một số người trốn khỏi cuộc sống thế gian với mong muốn được giải thoát, tự do và đạt được trạng thái tâm thức cao hơn. Theo Chân sư DK, sự tự do này thường là sự trốn tránh khỏi những hoàn cảnh, điều kiện mà linh hồn ấy bị đặt vào. Những cá nhân này đang không phụng sự, và cũng chưa thực hiện được nhiệm vụ mà linh hồn họ giao phó trong kiếp sống này. Đây được coi là một sự ích kỷ tinh thần (Robbins, webinar 13 – các định luật của linh hồn).
d. Phụng sự là một môn khoa học:
Khoa học về phụng sự là một trong ba ngành khoa học quan trọng nhất của kỷ nguyên Bảo bình sắp tới. Hai ngành khoa học còn lại là ngành khoa học về tham thiền và khoa học về việc xây dựng cầu antahkarana. Tại sao phụng sự lại được coi như một môn khoa học?
“Thật vậy, có một hệ thống thực hành liên quan ở đây, và có một kết quả cụ thể sẽ xảy ra một cách có thể dự liệu, khi những đường lối hoạt động nhất định được thực hiện và duy trì; và vì thế, chúng ta gọi nó là một “khoa học”, bởi những hành vi tất yếu theo định luật sẽ dẫn đến những kết quả xác định.” (Robbins, webinar 13 – các định luật của linh hồn). Khoa học là khả năng dự đoán kết quả khi có đủ thông tin và kiến thức rõ ràng, chắc chắn. Ở đây, phụng sự sẽ là một môn khoa học vì ta có kiến thức, phương pháp, và sẽ dự liệu được trước kết quả mà việc áp dụng đúng đắn các kiến thức, phương pháp đó sẽ mang lại. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về khoa học phụng sự, ta sẽ đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi như: làm sao để phụng sự được đúng cách? ta nên dùng kỹ thuật nào, phương pháp nào để kết quả mong muốn sẽ được tạo ra?… Trong thực tế hiện nay, những ai đang quan tâm hay làm việc trong lĩnh vực hướng nghiệp, giúp con người tìm ra công việc phụng sự của mình chính là một phần của phong trào đưa Khoa học Phụng sự vào biểu hiện (Robbins, webinar 13 – các định luật của linh hồn).
e. Phụng sự mang rất nhiều tính chất của sự sáng tạo:
“Đó là một xung lực sáng tạo, một xung động sáng tạo, một năng lượng sáng tạo có đà mạnh mẽ.” (EP2, 131). Ở đây, Chân sư nhấn mạnh về bản chất sáng tạo của phụng sự. Định luật phụng sự là định luật thứ 3 của linh hồn, gắn với các tính chất của cung 3 – cung của sự thông tuệ linh hoạt (gắn với sự sáng tạo). Khi ta nhìn thấy một nhu cầu nào đó của một cá nhân hay nhóm, ta phải suy nghĩ tới cách thức có thể đáp ứng nhu cầu đó. Thầy M.R. có đưa ra một ví dụ rất hay để giải thích cho điều này. Giả sử, ta có một người đàn ông đang khát nước. Ta có chọn việc “hất cả xô nước vào mặt ông ta không?”. Nhu cầu của người đàn ông này là muốn uống nước, nhưng cách thức để ta đem nước tới cho ông là một điều cần suy xét. Ta không thể thực hiện một cách thô bạo, có thể nhấn chìm đối tượng có nhu cầu. Đó là một phương pháp phụng sự không thích hợp. Ta cần sự sáng tạo để biết được chính xác phương tiện nào sẽ đáp ứng được nhu cầu một cách hiệu quả nhất, thích hợp nhất. Và việc phụng sự luôn đòi hỏi những giải pháp sáng tạo như vậy (Robbins, webinar 13 – các định luật của linh hồn).
k. Chu kỳ cung sẽ thể hiện xu hướng phụng sự của thế gian:
Trong webinar 14 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. cho biết rằng các phương pháp phụng sự liên quan đến cung 7 sẽ rất nổi trội trong vài nghìn năm tới. Thời đại của cung 6 đang đi qua, nên chúng ta sẽ thấy sự hiện diện của cung này ngày càng ít đi. Tuy nhiên, thầy lưu ý rằng sẽ không có bất kỳ cung nào (dù đang trong giai đoạn trừu xuất) sẽ bị loại bỏ đến mức sự hiện diện của nó không thể được cảm nhận nữa. Năng lượng của một số cung có thể giảm đi, nhưng chúng vẫn sẽ hiện hữu.
Các cung đang biểu lộ sẽ thể hiện rõ xu hướng phụng sự chung của thế gian. Những người thuộc cung 2 cũng sẽ thấy mình đang gặp thuận lợi vì chu kỳ của cung 2 sẽ kết thúc vào năm 2075. Tuy nhiên, rất có thể khi Đức Christ trở lại, thì một lần nữa cung 2 vẫn sẽ được hiển lộ một cách mạnh mẽ bởi vì Ngài sẽ cần rất nhiều người chuyên về lĩnh vực của cung 2 hỗ trợ. Hiện tại, thời đại của cung 7 còn kèm thêm tác động từ thời đại Bảo bình (truyền dẫn cung 5). Vậy nên, cung 5 và cung 7 sẽ hiện diện rất mạnh với nhân loại chúng ta.
Nhờ vào các chu kỳ cung này, các Đấng cao cả sẽ nghiên cứu để có thể tận dụng được tốt và hiệu quả nhất khả năng của tất cả những người phụng sự hiện đang lâm phàm. Nếu như vậy, thì các năng lượng và nỗ lực sẽ không bị phung phí (EP2, 138). Chẳng hạn, để đổ một xô nước, ta sẽ chọn thực hiện điều này ở nơi xuôi chiều gió. Nếu ta đổ ở nơi ngược chiều gió, thì chính nước đó sẽ văng lại vào ta. Đây cũng là một ví dụ về Định luật Tiết kiệm. Thời thế và năng lượng sẽ giúp ta biết năng lượng và phẩm tính nào đang cần tập trung để biểu lộ.
5. Biểu hiện của một người phụng sự chân chính:
a. Y có tác động lớn đối với môi trường xung quanh:
“Khi cái phàm ngã thấp mang tính cá nhân được đặt dưới quyền những nhịp điệu cao hơn và vâng phục Định luật Phụng sự mới, thì sự sống của linh hồn sẽ bắt đầu chảy qua con người đến với tha nhân, và tác động nơi gia đình và nhóm thân cận của y sẽ là minh chứng của một sự thấu hiểu chân thực và một giúp ích đúng nghĩa.” (EP2, 128). Khi thực sự tiếp xúc với linh hồn và tuân phục Định luật phụng sự, thì chắc chắn ta sẽ chứng kiến được tác động của người phụng sự tới môi trường xung quanh y, hay nói cách khác là các nhóm thân cận mà y là thành viên trong đó. Nếu xét về một người môn sinh đang học ở trường MF, thì biểu hiện của điều này sẽ là việc người môn sinh đó bắt đầu có những ảnh hưởng nhất định trong gia đình nhỏ của mình, trong nơi làm việc của mình, trong nhóm bạn bè, trong trường MF… Tầm ảnh hưởng này nghĩa là y có khả năng biểu lộ sự thấu hiểu, và giúp đỡ hiệu quả trong các nhóm.
Thầy M.R. chia sẻ một phát hiện rất thú vị là: những người trong môi trường mà y thân cận thường sẽ không kháng cự lại khuynh hướng huyền bí hay việc đi theo con đường tinh thần của người môn sinh. Mặc dù thường thì sẽ có sự kháng cự lớn giữa những ai đi theo đường lối của phàm ngã và những người đi theo con đường của tinh thần, nhưng thầy nói rằng “khi sự sống chân thực của linh hồn đang chảy qua người môn sinh để đến với những người khác, cuộc phản kháng này sẽ phần nào được hóa giải” (Robbins, webinar 13 – các định luật của linh hồn). Giống như một số người tôi từng tiếp xúc chắc chắn đã được ảnh hưởng nhiều bởi linh hồn, con người họ làm cho tất cả những người xung quanh quý mến, tôn trọng. Không hề tồn tại bất kỳ sự phản kháng nào, kể cả khi mọi người đều biết rằng họ đang đi theo con đường tinh thần, và có thể khác với hệ thống niềm tin và định hướng của mình.
b. Y luôn thực hành hạnh vô tổn hại:
Chân sư DK đặc biệt nhấn mạnh về việc mỗi người môn sinh chúng ta phải tập trung thực hành tốt hạnh vô tổn hại. Ngài nhắc đi nhắc lại điều này trong các cuốn sách của mình:
– “Hãy để “Tinh thần Thiện Chí” chi phối thể trí chúng ta và sẽ không còn chỗ cho tinh thần chỉ trích và việc gieo rắc bàn tán phá hoại. Chính vì lý do này và để phát triển một nhóm những người phụng sự có thể làm việc theo những đường hướng chân chính và tinh thần, nên cần nhấn mạnh ngày càng tăng đến nhu cầu về Tính vô tổn hại.” (EP2, 129).
– “Vô tổn hại là biểu lộ của đời sống nơi con người tự nhận biết mình ở khắp mọi nơi, sống một cách có ý thức như linh hồn, có bản tính là tình thương, có phương pháp là tính bao gồm, và đối với y mọi hình tướng đều như nhau vì chúng che giấu và ẩn kín ánh sáng, và chỉ là những ngoại hiện của Đấng Vô Cùng Duy Nhất.” (TWM, 102 ).
– “Vô tổn hại đem lại sự thận trọng trong việc phán xét, sự kiệm lời trong ngôn ngữ, khả năng kiềm chế các hành động bốc đồng, và sự biểu lộ một tinh thần không chỉ trích. Nhờ đó, con đường thông suốt có thể được mở cho các lực của tình thương chân thật và cho những năng lượng tinh thần dường như tiếp sinh lực cho phàm ngã, do đó dẫn đến hành động đúng.” (TWM, 317).
– “Vô tổn hại dọn đường cho sự tuôn nhập của sự sống; vô tổn hại làm tiêu tan các chướng ngại đối với sự tuôn đổ tự do của tình thương; vô tổn hại là chìa khóa giải phóng bản tính thấp khỏi sự kềm tỏa của ảo tưởng thế giới và khỏi quyền lực của hiện hữu hiện tượng.” (EP2, 129).
Thầy M.R. cho biết thêm rằng: khi chúng ta gây tổn hại thì các dòng năng lượng cao thuộc bản chất linh hồn sẽ bị cản trở trong quá trình tuôn chảy xuống để dẫn tới các hành động phụng sự đúng đắn. Do vậy, mỗi người môn sinh chúng ta cần biểu lộ phẩm tính “vô tổn hại” bằng cách tránh các hành vi, lời nói có thể gây tổn thương hay hiểu lầm cho các bạn đồng môn.
“Y sẽ được phân biệt, như có thể mong đợi, bởi phẩm chất của tính vô tổn hại, và bằng cách kiềm chế tích cực khỏi những hành động và lời nói có thể gây tổn thương hoặc gây ra bất kỳ sự hiểu lầm nào. Không một lời nói, gợi ý, hàm ý, ám chỉ hoặc sự bất mãn y phát ra được phép làm tổn thương nhóm của y… Những ai làm việc dưới Định luật Phụng sự không cần nhắc nhở để khỏi làm tổn thương cá nhân. Họ thường cần, dưới sự phấn khởi do kích thích tinh thần và cường độ của chí nguyện, được nhắc nhở phải biểu lộ tính vô tổn hại đối với nhóm.” (EP 2, 131)
Chân sư cũng cho biết rằng những người môn sinh đang làm việc dưới Định luật phụng sự thì không cần được nhắc nhở để khỏi làm tổn thương cá nhân bởi vì họ đã thực hiện điều này khá tốt. Khi soi chiếu vào môi trường học tập của MF, tôi cũng thấy mọi người đang thực hành khá tốt hạnh vô tổn hại này. Rất hiếm khi có ai đó dùng những lời nói, hay hành động để chỉ trích hay gây tổn thương cho các bạn của mình.
Tuy nhiên, thường thì người môn sinh lại cần được nhắc nhở phải biểu lộ tính vô tổn hại với nhóm. Đây là một điều khó và cần nhiều tính phân biện. Thầy M.R. giải thích rằng thực hành hạnh vô tổn hại đối với nhóm là việc y phải làm tất cả để không gây tổn thương cho lợi ích của nhóm. (Robbins, webinar… – các định luật của linh hồn). Chẳng hạn, trong các bức thư Chân sư DK gửi đệ tử trong cuốn DINA 2, đôi khi Ngài thể hiện thái độ thẳng thắn để chỉ ra các khuyết điểm, thậm chí là những điều mà người đệ tử đang gây tổn hại tới nhóm. Nếu xét từ khía cạnh phàm ngã, những lời nói khó nghe của Ngài sẽ gây tổn thương phàm ngã của người đệ tử. Tuy nhiên, Chân sư làm điều này hoàn toàn mang tính xây dựng với rất nhiều tình thương, minh triết, sự tách rời, và đặc biệt là để bảo vệ tính toàn vẹn và lợi ích cao nhất của cả nhóm. Do vậy, đây mới là hành động thực hành hạnh vô tổn hại với nhóm. Đôi khi, người môn sinh phải dũng cảm bày tỏ quan điểm của mình (dù lời nói có thể khó nghe với nhiều người) một cách xây dựng, yêu thương nếu y thấy bất kỳ lợi ích nào của nhóm đang bị xâm phạm.
c. Sẵn lòng để người khác phụng sự theo cách họ cho là tốt nhất:
Khi đã bắt đầu tiếp xúc và đón nhận nguồn năng lượng của linh hồn, bất kỳ ai cũng cần một công việc phụng sự để biểu hiện nguồn năng lượng đó. Chân sư DK cho biết rằng: “việc định hướng các dòng lưu này có thể nguy hiểm và ngăn trở việc thi hành các công việc phụng sự đã định.” (EP 2, 133)
Trong webinar 14 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. đưa thêm thông tin rằng: khi từ bỏ được ham muốn định hướng bạn đồng môn của mình trong công việc phụng sự, y nên hỗ trợ họ theo 2 hướng như sau:
1) “Giúp người khác “đứng vững trong sự hiện hữu tinh thần” như chính y đang học cách đứng vững.” Điều này giống như các công tác mentor, giúp đỡ về mặt tham thiền, học tập, nghiên cứu… để tự bạn đồng môn của mình có thể đứng vững trong bản thể tinh thần của họ.
2) Hỗ trợ bạn đồng môn trong lĩnh vực phụng sự mà người đó đã chọn.
Ngoài ra, Chân sư DK còn đưa ra lời khuyên là mỗi người môn sinh chúng ta nên khôn ngoan lựa chọn các đối tượng mà ta cần tập trung phụng sự. Ngài cho biết rằng: ta không nên ưu tiên hỗ trợ các cá nhân mà vẫn còn chưa ở giai đoạn người chí nguyện đệ tử (EP2, 132). Lý do là những người bình thường chưa bước đi trên con đường tinh thần sẽ được dẫn dắt chung nhờ năng lượng tuôn đổ từ kỷ nguyên Bảo bình đang đến. Số lượng mọi người đáp ứng được với xung lực thúc đẩy chung của Bảo bình là nhiều vô kể, và họ không cần thêm xung lực thúc đẩy từ ta. Ngài hướng chúng ta tới việc phụng sự những lĩnh vực mang tính nội môn hơn như: các dự án phụng sự nội môn, tham thiền, thực hành viễn cảm, gửi đi các tư tưởng hữu ích…
d. Giữ sự hoan hỷ khi phụng sự, thay thế cho sự chỉ trích:
Chắc chắn, khi làm việc nhóm và cùng phụng sự một công việc nào đó, ta không thể tránh khỏi sự ma sát giữa các phàm ngã thuộc nhiều đường lối cung khác nhau. Tuy nhiên, Chân sư DK khuyên ta nên giữa một tinh thần hoan hỷ, thay thế cho sự chỉ trích khi thực hiện các công việc phụng sự (EP2, 133). Thầy M.R. nói rằng: nhờ việc giữ sự hoan hỷ khi phụng sự, chúng ta sẽ có xu hướng nhìn thấy và hướng sự chú ý vào những phẩm tính tốt đẹp của linh hồn bên trong những người khác. Những khiếm khuyết của họ sẽ không bị phóng đại quá mức. Sự cổ vũ, ghi nhận phẩm chất tốt đẹp trong bạn đồng môn sẽ giúp bản thân mình cũng như chính họ vượt qua các điểm tiêu cực còn tồn tại bên trong mỗi người (Robbins, webinar 14 – các định luật của linh hồn).
Thầy M.R. cũng liên hệ điều này với một nguyên tắc khi làm vườn: cỏ dại quá nhiều sẽ lấy đi hết sức sống của cây non. Tức là, nếu tập trung quá nhiều vào điều tiêu cực, thì người đệ tử sẽ không còn sức sống hay năng lượng dồi dào để tu luyện hay phụng sự nữa. Người làm vườn cần khích lệ cây non (những điều tích cực trong người môn sinh) lớn lên, không vun bón cho cỏ dại (những điều tiêu cực trong người môn sinh) và đôi khi phải nhổ bỏ đi những cây cỏ dại hung hăng. Những điều này đã được thể hiện rất rõ trong các bức thư Chân sư DK gửi đệ tử. Mặc dù, đôi khi Chân sư phải chỉ ra một cách thẳng thắn các khiếm khuyết của người đệ tử, nhưng phần lớn Ngài sẽ nhấn mạnh rất nhiều vào những gì các đệ tử có thể đóng góp cho nhóm cũng như toàn thể nói chung. Do vậy, ta rất cần giữ thái độ tập trung vào những điều tích cực, giữ tinh thần vui vẻ, tuyệt đối không chỉ trích hay gây tổn hại tới nhóm và tất cả mọi người.
6. Các giai đoạn phụng sự mà người đệ tử sẽ trải qua:
Giai đoạn 1:
Ở giai đoạn ban đầu này, Chân sư DK mô tả rằng người đệ tử dần ý thức được về năng lực của mình, thệ nguyện để sống một đời sống phụng sự. “Y bắt đầu phụng sự một cách cuồng nộ; y tạo ra kênh này, kênh kia và nhiều kênh khác cho sự biểu lộ của lực đang thúc đẩy y; y phá đổ và hủy hoại nhanh không kém gì tốc độ y kiến tạo” (EP2, 134). Đây là một giai đoạn mang rất nhiều sắc thái của cung 6. Y sử dụng liên tục dòng năng lượng đang tuôn đổ vào mình. Tuy nhiên, đôi khi y lại áp dụng nó một cách quá mức, thậm chí đánh mất sự phân biện của mình. Đó là lý do tại sao Chân sư lại nói tốc độ y bắt đầu các kênh phụng sự cũng nhanh như tốc độ y phá hủy các kênh đó. Thầy M.R. cho biết rằng giai đoạn này đặc biệt gắn với cấp độ của người đệ tử thệ nguyện (pledged disciple) (Robbins, webinar 14 – các định luật của linh hồn).
“Tạm thời y trở thành một vấn nạn nghiêm trọng cho các người phụng sự khác mà y có thể cộng tác, vì y không thấy thị kiến nào ngoài của chính mình, và hào quang chỉ trích bao quanh y, cùng sức đẩy gắng gượng của lực khẳng quyết trong y, khiến “những kẻ bé nhỏ” vấp ngã và khi ấy, các đệ tử huynh trưởng, nhiều kinh nghiệm hơn phải thường xuyên tiến hành công việc sửa chữa (thay cho y)” (EP 2, 134). Đây là một vấn đề của người phụng sự ở những giai đoạn đầu. Thường thì y để lại hậu quả tiêu cực nhiều hơn, và những người đệ tử đi trước sẽ phải thường xuyên giúp y sửa lại những gì mình đã làm. Thầy M.R. giải thích thêm rằng giai đoạn này sẽ “thổi bùng những mầm mống tham vọng tiềm ẩn” (Robbins, webinar 14 – các định luật của linh hồn). Đây là tham vọng tinh thần muốn được người khác công nhận mình là người phụng sự và đệ tử.
Giai đoạn 2:
Ở giai đoạn tiếp theo, “người phụng sự sẽ bước vào một viễn kiến rộng lớn và yêu thương hơn, và, rời mắt khỏi thành tựu của chính mình, sẽ âm thầm hòa điệu làm việc cùng các nhóm của mọi người phụng sự chân chính. Y sẽ nhấn chìm các khuynh hướng phàm ngã, các ý tưởng và tham vọng của mình vào lợi ích lớn hơn của toàn thể, và cái “tôi” sẽ khuất bóng.” (EP 2, 135) Lúc này, người phụng sự sẽ “hòa điệu một cách thầm lặng”, tức là y không còn chú ý tới phàm ngã của mình nữa, mà cố gắng hiểu công việc của người khác cũng như công việc của cả nhóm. Từ đó, y sẽ tự hòa vào với công việc chung, làm sao để đạt tới mục tiêu chung một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Thái độ này rất khác với thái độ ở giai đoạn trước, khi người môn sinh mới biết tới phụng sự luôn muốn đặt phàm ngã, mục tiêu, tầm nhìn của mình vào vị trí trung tâm.
Giai đoạn 3:
Đây sẽ là giai đoạn kế tiếp: “Điều kế tiếp sẽ xảy ra là sự đào sâu đời sống tham thiền và việc thể trí được soi sáng bởi ánh sáng của linh hồn trở nên thường xuyên hơn.” (EP 2, 135). Đây được gọi là quá trình khai sáng, và nó sẽ xảy ra một cách từ từ. Đôi khi, ta có thể gặp một sự việc nào đó, và một khai ngộ nào đó đến với ta ngay lập tức; nhưng thầy M.R. tin rằng bất kỳ sự khai ngộ nào cũng đều đến từ một quá trình chuẩn bị chăm chỉ và kỹ càng trước đó. Cũng trong chính giai đoạn này, Thiên cơ sẽ được tiết lộ cho người môn sinh. Thầy M.R. cho biết rằng đây chính là giai đoạn mặc khải trong tiến trình ACLRI. Giai đoạn mặc khải ở đây chính là giai đoạn mà người phụng sự có thể bắt đầu nhận biết được phần nào đó của Thiên cơ. Điều này khác với “ánh sáng” trong tiến trình mà các khiếm khuyết và lỗi lầm được tiết lộ cho người đệ tử trong giai đoạn đệ tử dự bị (Robbins, webinar 14 – các định luật của linh hồn).
Giai đoạn 4:
Cuối cùng sẽ là giai đoạn: “Rồi y trở nên sẵn lòng là một phần nhỏ nhoi của một Tổng Thể lớn lao hơn, và thái độ này không hề đổi thay, ngay cả khi đệ tử đã trở thành một Chân sư Minh Triết.” (EP2, 136). Đây chính là một thái độ phi tập trung vào bản thân. Chúng ta thu nhỏ cái tôi của mình lại, và “tổng thể lớn lao hơn” là điều ta tập trung vào. Dần dần, ta sẽ càng thấy cái tự ngã thấp kém của mình giảm bớt, vì một tầm nhìn mới đang phát triển. Chân sư DK khẳng định rằng: “Một phàm ngã tích hợp, thông minh là đủ năng lực để giải quyết phần việc của người phụng sự trong công cuộc năng động của thế giới, miễn là tầm nhìn của y không bị làm mờ bởi tham vọng cá nhân, và hoạt động của y không thoái hóa thành cảm giác gấp gáp hối hả và phô trương sự bận rộn.” (EP2, 136). Khi ta đã có thể tích hợp phàm ngã với linh hồn của mình, thì thậm chí ta không cần linh hồn phải chỉ dẫn từng bước một cần làm gì nữa. Chân sư cũng sẽ không cần chỉ dẫn y quá kỹ càng. Tuy nhiên, điều này kèm theo điều kiện là y không bị dẫn dắt sai lệch bởi tham vọng cá nhân. Hoạt động của y cũng không bị ngăn cản bởi “ảo cảm về sự bận rộn” – một ảo cảm phổ biến của cung 3 và cung 6. Sự tích hợp mà Chân sư nhắc đến ở đây không hẳn là sự tích hợp phàm ngã, mà là một mức độ tích hợp cao hơn giữa phàm ngã và linh hồn – điều mà thầy M.R. cho rằng sẽ diễn ra rõ rệt trong cuộc điểm đạo thứ 3 và thứ 4 (Robbins, webinar 14 – các định luật của linh hồn).
7. Người đệ tử nên làm gì để hướng tới việc phụng sự đúng đắn?
a. Đặt trọng tâm vào việc tiếp xúc với linh hồn:
Để giúp người môn sinh hướng tới một đời sống phụng sự đúng đắn, Chân sư DK đã đưa ra rất nhiều câu trích dẫn nhấn mạnh vào việc y phải tập trung nhiều nhất vào sự tiếp xúc với linh hồn. Các câu trích dẫn cụ thể như sau:
– “Tôi thỉnh cầu những ai trong các bạn đáp ứng với các ý niệm này và nhạy cảm với ấn tượng của linh hồn, hãy đặt trọng tâm vào sự tiếp xúc với linh hồn, chứ không phải vào khía cạnh hình tướng của phụng sự.” (EP2, 127).
– “Nếu chú tâm tới yếu tính của phụng sự—tức tiếp xúc linh hồn—thì phụng sự được thực hiện sẽ tự phát tuôn chảy theo những đường lối đúng và sinh nhiều hoa trái.” (EP2, 126).
– “Y phải học cách đặt trọng tâm vào việc tiếp xúc với linh hồn và vào một sự quen thuộc chủ động với đời sống linh hồn”. (EP2, 126).
Những lời khuyên này nghe đơn giản nhưng rất thiết thực, bởi vì phụng sự chính là một kết quả tự phát từ việc tiếp xúc với linh hồn. Khi ta có thể thực sự tiếp xúc với ánh sáng của linh hồn, thì các ý tưởng, động lực, cách thức để phụng sự đúng đắn sẽ tuôn đổ xuống người môn sinh một cách rất tự nhiên. Khi bình giảng các đoạn trích này trong webinar 13 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. đưa ra lời khuyên là: sự tiếp xúc chặt chẽ với linh hồn sẽ được duy trì bằng cách cân bằng ba yếu tố tham thiền – nghiên cứu – phụng sự. Ba yếu tố này luôn bổ sung, đồng hành cùng nhau. Chẳng hạn, tham thiền sẽ không chỉ dừng lại ở việc thiền 20-30 phút theo các bài thiền hằng ngày mà trường MF yêu cầu, mà còn là nỗ lực duy trì trạng thái tham thiền suốt cả ngày. Nghiên cứu là công việc bắt buộc với mỗi học viên chúng ta. Theo cá nhân tôi, việc theo đuổi sát sao chương trình học của trường MF là phương pháp nghiên cứu hiệu quả nhất về các chủ đề của huyền linh học. Thầy Hiệu trưởng M.R. và các giảng viên trong trường – đều là những người đệ tử lâu năm, nghiên cứu sâu về huyền linh học đã sắp xếp, thiết kế chương trình sao cho mỗi học viên chúng ta có thể lĩnh hội được giáo lý của Chân sư một cách hiệu quả nhất. Còn công việc phụng sự sẽ là kết quả tự nhiên của việc tham thiền và nghiên cứu.
b. Luôn tự vấn đề nguồn động lực đằng sau công việc phụng sự của mình:
Bất kỳ ai trong chúng ta đều đang chú tâm vào ít nhất một công việc phụng sự nào đó. Chân sư DK khuyên chúng ta nên tự vấn mình rằng: liệu công việc phụng sự ta đang làm có phải là kết quả tự phát đến từ sự tiếp xúc với linh hồn hay không? Các phẩm tính của phụng sự (như tình thương, thiện chí, minh triết…) có đang thể hiện rõ ràng qua các hành động phụng sự đó không? (EP2, 129).
“Có một điểm nguy hiểm trong cuộc đời mỗi con người khi lý thuyết về phụng sự được nắm bắt và định luật cao hơn được nhận biết; rồi phẩm tính bắt chước của phàm ngã, bản tính con khỉ của nó, và sự hăm hở của một con người với hoài bão lớn rất dễ lầm lẫn lý thuyết với thực tại, và các động tác bề ngoài của một đời phụng sự với dòng chảy tự nhiên, tự phát của sự sống linh hồn xuyên qua bộ máy biểu lộ của nó. Nhu cầu về một sự phân biện tinh tế ngày càng tăng là cần thiết, liên tục, và tất cả các môn sinh tận hiến được kêu gọi hãy tự kiểm điểm mình vào lúc này.” (EP2, 129).
Chân sư DK cảnh báo chúng ta rằng có một điểm nguy hiểm trong mỗi kiếp sống của con người khi ta nhận biết được đôi chút về lý thuyết của định luật phụng sự, nhưng lại dùng phàm ngã (với bản tính bắt chước) tạo ra các động tác bề ngoài của phụng sự. Khi việc phụng sự chỉ là bề ngoài, chất liệu yêu thương bên trong vắng mặt, thì những động tác bên ngoài không để làm gì cả. Thực tế, nó có thể biểu hiện chút điều tốt, nhưng thực sự không thể so sánh được với những điều tốt có thể được tạo ra nếu năng lượng linh hồn thấm nhuần các hành động phụng sự. Việc phụng sự lúc đó sẽ đúng đắn hơn, sáng tạo hơn, thích nghi tốt hơn với nhu cầu của tập thể (Robbins, webinar 13 – các định luật của linh hồn).
Do vậy, mỗi người môn sinh chúng ta cần phân biện một cách thận trọng và thường xuyên, luôn sẵn sàng trong trạng thái tự vấn lại về bản thân. Khi ta phân biện và đứng vững được trong bản thể tinh thần, thì hành động phụng sự đúng đắn chắc chắn sẽ tới. Trong webinar 13 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. đã đưa ra một số câu hỏi gợi ý mà chúng ta có thể sử dụng để xem xét về động lực đằng sau công việc phụng của mình, chẳng hạn:
– Khi phụng sự, bạn không hề bận tâm đến nỗi khổ đau mà phàm ngã mình có thể phải trải qua, đúng không?
– Khi phụng sự, bạn thấy niềm vui hay hạnh phúc có tới với mình hay không thì cũng không quan trọng, đúng không?
– Khi phụng sự, bạn nhận thức được rằng nhu cầu của huynh đệ mình có tầm quan trọng lớn hơn nhu cầu của riêng bạn, đúng không?
Nếu câu trả lời của tất cả các câu hỏi trên là đúng thì Chân sư nói rằng “lửa của tình thương đang chiếu rạng y và thế gian có thể được sưởi ấm dưới chân y” (IHS, 194). Tức là lúc này việc y đang phụng sự thực sự xuất phát từ tình thương, thiện chí muốn đặt nhu cầu của huynh đệ mình (hay nhóm lớn của mình) trên cả nhu cầu hạnh phúc, khổ đau của chính bản thân mình. Đây cũng là biểu hiện của việc kết hợp được cả trí tuệ và trái tim (tức là phần trí tuệ không bị bỏ đi mà được sử dụng như một vận cụ hữu hiệu, còn động cơ thật sự tới từ trái tim, thay vì chỉ dán mắt vào bản thân mình).
c. Giữ vững nhịp điệu của Định luật phụng sự:
Người môn sinh nên áp đặt vào cuộc sống của mình một nhịp điệu của Định luật Phụng sự, và cố gắng giữ vững việc hướng đến đời sống như một linh hồn. Chân sư DK đảm bảo rằng “khi nhịp điệu này có thể được thiết lập như một biểu lộ tự nhiên hằng ngày, thì con người bắt đầu đứng vững trong hiện hữu tinh thần, sự sống sẽ tuôn chảy qua y một cách êm dịu và tự nhiên y sẽ có tác động lên môi trường và những người quen biết của y” (EP2, 127). Hiện tại là thời điểm của cung 7 – cung của nhịp điệu. Do vậy, thầy M.R. cho biết rằng nếu ta có thể tận dụng nguồn năng lượng của cung 7, thiết lập cho bản thân một nhịp điệu tương ứng với nhịp điệu của linh hồn, thì ta sẽ giúp đời sống của linh hồn trên cõi thượng trí luôn chảy xuống phàm ngã một cách êm dịu và tự nhiên. Nhờ nhịp điệu đúng đắn này, sự đối kháng nơi phàm ngã sẽ giảm. Các năng lượng cao hơn nhờ đó sẽ được biểu lộ hiệu quả hơn rất nhiều.
d. Chỉnh hợp với các dự án phụng sự của Chân sư:
Thầy M.R. cho biết rằng Chân sư không mấy quan tâm và không cần chúng ta phải khởi xướng một hình thức phụng sự mới mẻ và độc đáo nào. Quan trọng là sự chỉnh hợp của chúng ta với các mục tiêu của Ngài (chẳng hạn dự án về Tam giác, hay Thiện chí, trường Arcane…) (Robbins, webinar 14 – các định luật của linh hồn).
e. Không vội vàng với công việc phụng sự:
“Chính linh hồn sẽ mặc khải cho thể trí an trụ và an bình bước kế tiếp cần thực hiện trong công cuộc tiến hóa của thế giới, thông qua sự truyền đạt các ý tưởng. Ấy là Thiên Cơ đối với nhân loại.” (EP2, 136). Câu nói này của Chân sư gợi ý một phương thức phụng sự cho các đệ tử. Ta cần ý thức được nhiệm vụ của mình là truyền đạt các ý tưởng của các Đấng từ Thế giới Tam nguyên Tinh thần tới thể trí của nhân loại, từ đó thay đổi các kết cấu/cấu hình ở các cõi thấp. Do vậy, chúng ta phải tập trung vào việc duy trì một thể trí an trụ, an bình để tiếp nhận và truyền đạt các ý tưởng cao cả về Thiên cơ. Nếu ta quá bận rộn với phương diện “hoạt động” và “hình tướng” của phụng sự, thì vô tình chúng ta đang tự hao phí năng lượng của mình. Thầy M.R. khuyên rằng: dù chúng ta thấy bản thân mình bị thôi thúc phải phụng sự điều gì đó quan trọng tới đâu, thì cũng cần bình tĩnh từ tốn, nếu hấp tấp sẽ sinh ra sự vụng về, kéo theo sự trì hoãn công việc phụng sự đúng đắn (Robbins, webinar 14 – các định luật của linh hồn).
Qua đoạn trích này, thầy M.R. cho rằng Chân sư DK còn muốn ám chỉ về một phương pháp thực hành chánh thuật. Khi một thôi thúc phụng sự nào tới, ta cần tạm dừng các xung lực đến từ thể cảm dục, hay tránh lao vào các hành động hấp tấp. Hơn nữa, ta nên thực hành một thái độ và ý chí sẵn sàng chờ đợi, bình thản, thận trọng mang sắc thái của Thổ tinh. Chỉ khi ta có thái độ này trên cõi cảm dục, thì năng lượng của linh hồn sẽ được giữ gìn trong trạng thái tinh khiết, không bị chệch hướng khỏi nguồn gốc thực sự của nó. Nếu không, nguồn năng lượng này rất dễ bị nhiễm bẩn, và chệch hướng trên con đường đi vào sự biểu hiện trên cõi hồng trần (Robbins, webinar 14 – các định luật của linh hồn).
f. Phụng sự theo biểu đồ cung của mình:
“Các phương pháp phụng sự sẽ thường tương ứng với cung linh hồn của người môn sinh, nhưng đôi khi cung phàm ngã cũng sẽ tham gia vào phương thức phụng sự” (Robbins, webinar 16 – các định luật của linh hồn).
“Liệu khoa học này có chứng minh rằng bảy loại Cung sử dụng những phương pháp đặc thù trong phụng sự chăng? Theo thời gian điều đó sẽ được chứng thực một cách dứt khoát, và mỗi người làm việc và phụng sự theo cung sẽ được nhận thấy là phụng sự dọc theo những đường lối dị biệt và chuyên biệt. Những điều này chỉ thị cho y con đường ít trở ngại nhất và, kết quả là, có hiệu suất lớn nhất. ” (EP2, 138).
Con đường phụng sự theo cung sẽ là con đường hiệu quả và ít trở ngại nhất. Ở đây, thầy M.R. đã đưa ra một ví dụ rằng: khi người đệ tử đã được rèn luyện trong rất nhiều kiếp sống để trở thành một người thầy cho thế gian, thì y nên tiếp tục với vai trò đó thay vì chuyển sang trở thành một vị lãnh tụ chính trị của thế giới. Khi phụng sự theo đúng đường lối cung của mình, hiệu suất phụng sự sẽ cao hơn nhiều vì ta đang đi đúng theo các xu hướng thôi thúc bên trong mình.
Tuy nhiên, Chân sư DK khuyên rằng: chúng ta nên tránh việc áp đặt vào bản thân quá nhiều điều kiện phụng sự, bởi vì ta chưa thể chắc chắn về cung của mình. Chỉ có những Đấng cao cả như Chân sư mới thật sự biết rõ biểu đồ cung của người môn sinh. Hơn nữa, nếu quá kiểm soát, ta sẽ vô tình làm tắc nghẽn sự biểu lộ tự nhiên và tự phát của linh hồn. Bất kỳ nỗ lực muốn kiểm soát và cưỡng ép đều đi ngược lại với mô thức đúng đắn của việc phụng sự – vốn là một dòng tuôn chảy tự nhiên từ việc tiếp xúc với linh hồn.
Các đường lối phụng sự theo từng cung sẽ được trình bày theo bảng sau đây:
|
Gợi ý nguyên văn từ Chân sư DK |
Phân tích |
|
Đường lối phụng sự của cung 1: “Cung 1. Những người phụng sự thuộc cung này, nếu là các đệ tử được huấn luyện, làm việc qua điều có thể gọi là sự áp đặt Ý Chí của Thượng Đế lên thể trí của nhân loại. Họ làm điều này qua tác động mạnh mẽ của các ý tưởng lên thể trí của nhân loại, và nhấn mạnh các nguyên tắc cai quản mà nhân loại phải hấp thụ. Những ý tưởng ấy, khi được người chí nguyện nắm bắt, đem lại hai sự phát triển. Thứ nhất, chúng khởi phát một thời kỳ phá hủy và phá vỡ những gì cũ kỹ và cản trở. Sau đó là sự chiếu sáng rõ ràng của ý tưởng mới và việc nó được thể trí của nhân loại thông tuệ nắm bắt tiếp theo.” (EP2, 140). |
Cung 1 gắn với từ khóa “áp đặt Ý chí Thượng đế hay Thiên luật”. Trong webinar 16 – các định luật của linh hồn, thầy M.R. lưu ý rằng sự áp đặt ở đây liên quan đến thể trí, chứ không phải thể xác hay thể cảm dục. Quá trình áp đặt này của người cung 1 sẽ xảy ra trong 2 giai đoạn như sau: 1) Tiến trình phá huỷ: khi người cung 1 nhận được ấn tượng mới và hiệu quả hơn, họ sẽ có xu hướng phá huỷ những gì đã cũ và là cản trở trên con đường hướng tới mục tiêu. 2) Tiến trình đưa ra ý tưởng mới: tính chất của cung 1 là chuyển động đường thẳng tới mục tiêu. Do vậy, người cung 1 sẽ làm mọi cách để xúc tiến một ý tưởng mới mà họ cho là hiệu quả hơn, giúp thúc đẩy sự tiến hoá của nhân loại diễn ra nhanh chóng hơn. |
|
Đường lối phụng sự của cung 2: “Cung 2. Những người phụng sự thuộc cung này trầm tư, tham thiền và hấp thụ các ý tưởng mới gắn liền với Thiên Cơ, và bằng quyền năng của tình thương hấp dẫn, họ tập hợp những ai đang ở điểm tiến hóa mà ở đó họ có thể đáp ứng với nhịp điệu của Thiên Cơ ấy. Họ có thể tuyển chọn, và rèn luyện những người có thể “mang” ý tưởng đi sâu hơn vào khối quần chúng nhân loại. Các đệ tử và người phụng sự trên Cung hai đang bận rộn xây dựng các nơi cư trú cho những thực thể năng động mà phận sự của họ từ xưa nay là nạp điện cho tư tưởng của nhân loại và như thế đưa vào thời đại mới, tốt đẹp hơn, vốn sẽ cho phép nuôi dưỡng các linh hồn của nhân loại.” (EP2, 141 -142). |
Cung 2 gắn với từ khoá “minh triết, bác ái, từ tính”. Do vậy, xu hướng phụng sự của người cung 2 sẽ mang tính trầm tư, suy ngẫm để nắm bắt được các ý tưởng truyền đạt từ các cõi cao cả. Họ cũng có khả năng từ tính mạnh mẽ, nên có thể tập hợp xung quanh họ những con người cùng một mục tiêu đưa Thiên cơ biểu hiện thành các hoạt động cụ thể trên cõi trần. Họ còn được thiên phú cho khả năng giảng dạy, nên sẽ giúp đào tạo một số người thiện chí, để họ mang những ý tưởng cao cả, tốt đẹp tới với quần chúng nhân loại. Thầy M.R. cho biết rằng cung 2 là cung của sự xây dựng, giống với tính chất của cung 7. Tuy nhiên, việc xây dựng của cung 2 không hề dễ dàng. Người cung 2 muốn tạo nên những công trình bền vững, trường tồn. Do vậy, khi xây dựng họ sẽ thường thận trọng lấy từng ý tưởng, sắp xếp và liên kết chúng với nhau một cách cẩn thận. Hơn nữa, họ cũng có nhiệm vụ nạp điện cho tư tưởng của nhân loại. Điều này có nghĩa là: kích thích, khơi dậy, làm năng động cho những tư tưởng của nhân loại. Nhờ vậy, những tư tưởng này sẽ lan toả trong phần đông nhân loại và biểu hiện thành hành động thiện chí ở mọi nơi nó lan tới (Robbins, webinar 16 – các định luật của linh hồn). |
|
Đường lối phụng sự của cung 3: “Cung 3. Những người phụng sự thuộc cung này có một chức năng đặc biệt vào thời này trong việc kích thích trí năng của nhân loại, làm sắc bén nó và truyền hứng cho nó. Họ làm việc, thao tác với các ý tưởng để khiến chúng dễ hiểu hơn đối với đám đông những người nam và nữ thông minh vốn có mặt trên thế giới vào lúc này và trực giác của họ vẫn chưa được đánh thức. Ở đây có một gợi ý cho nhiều phàm ngã cung ba có thể được tìm thấy đang làm việc trong các lĩnh vực phụng sự khác nhau vào thời điểm này. Các ý tưởng được tiếp nhận bởi người chí nguyện cung ba khi chúng xuất lộ từ tâm thức nâng cao của những Vị đối với Các Ngài mà cung một vận hành, và được làm cho có sức hấp dẫn bởi người công tác cung hai, và được thích nghi với nhu cầu trước mắt bởi người chí nguyện cung ba.” (EP 2, 142). |
Cung 3 gắn với từ khoá “trí thông tuệ linh hoạt”. Do vậy, nhiệm vụ của họ sẽ liên quan nhiều tới việc kích thích khả năng trí tuệ của nhân loại, làm khả năng này trở nên sắc bén. Đối với các đệ tử đã tiến hoá cao, các ý tưởng từ các cõi cao (cõi thượng trí trở lên) sẽ đến với họ thông qua trực giác. Nhưng đối với phần đông nhân loại – những người chưa thể kết nối với trực giác của riêng mình, thì các ý tưởng cao cả phải được tiếp nhận thông qua sự trình bày của các đệ tử tiến hoá. Đó là lý do tại sao công việc của người cung 3 là giúp các ý tưởng trở nên dễ hiểu hơn đối với những người nam và nữ thông minh trên thế giới. Chẳng hạn, nhà khoa học vĩ đại Richard Feynman có khả năng trình bày một số khái niệm toán học cực kỳ khó hiểu, nêu ra những khó khăn trong lĩnh vực vật lý hạt nhân theo cách mà người nghe bình thường có cảm giác như họ phần nào hiểu được những lý thuyết cao siêu này. Ở đây, Chân sư cũng nói tới tiến trình một ý tưởng từ các cõi cao cả sẽ đi qua các cung. Trước tiên, ý tưởng xuất phát từ những người cung 1, được làm cho hấp dẫn bởi người cung 2 (tức là làm cho nó có sức lôi cuốn, để định hướng tâm thức tiến tới một tầm nhìn mới). Sau đó, người cung 3 sẽ tiếp nhận các ý tưởng đó, làm cho nó trở nên dễ hiểu thông qua ngôn ngữ viết hoặc nói. Các phàm ngã và linh hồn cung ba sẽ đưa việc ấy ra biểu hiện thực tiễn qua đời sống tư tưởng và qua lời nói của họ—và cách lời nói ấy thông qua truyền thông có thể chạm tới và ảnh hưởng các thể trí khác. |
|
Đường lối phụng sự của cung 4: “Cung 4. Cung này hiện không lâm phàm và do đó ít có các chân ngã cung bốn sẵn sàng trong công tác thế gian. Tuy nhiên, có nhiều phàm ngã cung bốn và họ có thể học hỏi rất nhiều bằng việc nghiên cứu công việc của Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian. Nhiệm vụ chủ yếu của người chí nguyện cung bốn là hài hòa các ý tưởng mới với những điều cũ, để không xảy ra kẽ hở hay đứt gãy nguy hiểm nào. Họ là những người đem lại một “dung hòa chính đáng”, và thích nghi điều mới và điều cũ để phần nguyên mẫu chân thực được gìn giữ. Họ tham gia vào tiến trình bắc cầu, vì họ là những người trực giác chân thực và có năng lực về nghệ thuật tổng hợp, nhờ đó công việc của họ chắc chắn có thể giúp đưa ra phía trước một trình bày chân thực về bức toàn cảnh thiêng liêng.” (EP 2, 142-143). |
Cung 4 gắn với các từ khoá “bắc cầu, trung gian, hài hoà thông qua xung đột”. Theo chu kỳ cung hiện tại, các linh hồn cung 4 sẽ bắt đầu nhập thế sau năm 2025. Do vậy, trên thế giới hiện tại thường sẽ chỉ có người mang phàm ngã cung 4. Nhiệm vụ của người cung 4 là làm hài hoà những ý tưởng cũ và mới, để không xảy ra bất kỳ “kẽ hở hay đứt gãy nguy hiểm nào”. Khi kẽ hở hay sự đứt gãy nguy hiểm tồn tại, chiến tranh và sự chia rẽ sẽ là kết quả. Cụ thể, người cung 4 sẽ cố gắng cứu vớt những điều tốt trong các ý tưởng cũ của quá khứ, liên hệ những điều tốt đó với các ý tưởng đang xuất hiện trong hiện tại và tương lai. Nhờ đó, ta sẽ có một sự liên tục thực sự của những ý tưởng trong quá khứ, tới hiện tại và tương lai. Thầy M.R. cho chúng ta biết rằng kiểu mẫu chân thực của bất kỳ điều gì đòi hỏi cả những giá trị cũ, lành mạnh trong quá khứ phải được giữ gìn. Đó là nguy cơ mà những nhà cải cách thuộc Bảo bình phải lưu ý. Họ luôn có xu hướng muốn bỏ đi và hủy diệt tất cả, nhưng điều đó là không nên. Nếu chúng ta không giữ gìn những điều tốt đẹp nhất từ quá khứ, thì chắc chắn ta sẽ lặp lại các thất bại hay những điều xấu từng xảy ra trong lịch sử. Khi nghĩ về cung 4, ta có thể nghĩ về nước Đức với linh hồn thuộc cung này. Đã có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, các tác phẩm âm nhạc siêu phàm được tạo ra trên đất nước này. Châm ngôn văn hóa của Đức là “Ta giữ gìn” – một câu nói rất cung 4. |
|
Đường lối phụng sự của cung 5: “Cung 5. Những người phụng sự trên cung này đang mau chóng đi vào vị thế nổi bật. Họ là những người khảo sát hình tướng để tìm ý tưởng ẩn tàng, mãnh lực thúc động của nó, và nhằm mục đích đó họ làm việc với các ý tưởng, chứng minh chúng là đúng hoặc sai. Họ tập hợp vào hàng ngũ của mình những ai có phàm ngã trên cung này và đào luyện họ trong nghệ thuật nghiên cứu khoa học. Từ những Ý tưởng thiêng liêng được cảm nhận nằm phía sau hình tướng của biểu lộ từ nhiều khám phá về đường lối của Thượng đế đối với con người và thiên nhiên, từ những phát minh (vốn chỉ là những ý tưởng được hiện hình ) và từ chứng tích về Thiên Cơ mà định luật phác họa, họ đang chuẩn bị thế giới mới trong đó con người sẽ làm việc và sống một đời sống tinh thần sâu sắc, có ý thức hơn.” (EP 2, 143). |
Cung 5 gắn với các từ khoá “khoa học cụ thể, nghiên cứu khoa học, tìm kiếm nguyên nhân đằng sau hình tướng”. Dấu hiệu Bảo bình truyền dẫn cung 5. Do vậy, trong kỷ nguyên Bảo bình sắp tới, năng lượng cung 5 sẽ rất nổi bật trong nhân loại. Các đệ tử thuộc cung 5 đang làm việc cực kỳ năng động, năng động hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử nhân loại (EP2,…). Ta có thể giải thích hiện tượng này một cách khá dễ dàng. Giáo dục đại chúng đang lan rộng trong nhân loại, thể trí đang được chú trọng để tăng trưởng nhanh hơn bao giờ hết. Chân sư cho biết rằng những người cung 5 cùng với những phát minh và khảo cứu khoa học của họ sẽ mang con người vào thế giới của ý nghĩa – hay thế giới của linh hồn. Thầy M.R. giải thích thêm rằng ban đầu ta sẽ thường có xu hướng sợ rằng máy móc có thể thay thế con người. Nhưng ta nên tin vào lời của Chân sư và yên tâm rằng nó sẽ đem ta đến với thế giới tinh thần một cách hiệu quả hơn. Nói chung, những thành tựu của những người cung 5 sẽ giúp cải thiện các điều kiện sống của con người, mở ra một kỷ nguyên của hòa bình và nhàn rỗi. Con người sẽ có thời gian để theo đuổi các mối quan tâm đích thực của mình. Công việc sẽ không còn dùng để phục vụ những nhu cầu căn bản của cuộc sống nữa, mà nó sẽ được sử dụng để phát triển bản thân, là cơ hội để bản tính tốt đẹp bên trong ta được biểu hiện ra bên ngoài. Dù con người sẽ được sống trong sự nhàn rỗi, nhưng y sẽ được thúc đẩy bởi một tầm nhìn rằng y muốn nỗ lực để phát triển bản thân và học hỏi không ngừng. Tuy vậy, Chân sư cũng lưu ý rằng thời điểm cho một thế giới như vậy sẽ chưa thể được ấn định chắc chắn. Nhân loại có tự do ý chí riêng, nên mọi chuyện đều phụ thuộc vào sự nỗ lực của nhân loại. |
|
Đường lối phụng sự của cung 6: “Cung 6. Tác dụng của hoạt động của cung này trong hai nghìn năm vừa qua là huấn luyện nhân loại về nghệ thuật nhận biết các lý tưởng, vốn là những bản mẫu của các Ý tưởng. Công việc chính của các đệ tử thuộc cung này là tận dụng khuynh hướng đã phát triển của nhân loại trong việc nhận biết các Ý tưởng, và — tránh những ghềnh đá của tính cuồng tín và các bãi cạn nguy hiểm của dục vọng hời hợt—huấn luyện các nhà tư tưởng thế giới khao khát một cách nồng nhiệt điều thiện, điều chân và điều mỹ, đến mức Ý tưởng vốn nên hiện hình dưới một hình thức nào đó trên trần gian có thể chuyển từ cõi trí và khoác lấy cho mình một hình thức nào đó trên trần gian.” (EP2, 143-144). |
Cung 6 gắn với các từ khoá “lý tưởng và sùng tín”. Nhiệm vụ của người cung 6 là nhận biết các lý tưởng – chính là sự cụ thể hóa mạnh mẽ của các ý tưởng nguyên mẫu trên các cõi cao. Lý tưởng là ước muốn đưa tính chất của các ý tưởng nguyên mẫu vào biểu hiện trên cõi trần. Người cung 6 cũng phải làm sao để tránh được những ghềnh đá của sự cuồng tín. Đó sẽ là những chướng ngại vật cản trở trên đường. Bởi vì quá nhiều điều sẽ bị loại trừ khỏi góc nhìn của một người cuồng tín. Nhiệm vụ của người cung 6 là: không được quá mãnh liệt và hạn hẹp. Đừng chạy theo những dục vọng hời hợt và nhìn thấy chủ yếu vẻ bề ngoài, mà quên đi bản chất thật sự bên trong. Ta có vàng thật và vàng giả. Việc chạy theo vàng giả chính là dục vọng hời hợt, chỉ phán đoán dựa vào cái bên ngoài mà ko nhìn vào những giá trị đích thực. Nhiệm vụ của người cung 6 là khao khát một cách nồng nhiệt điều thiện, điều chân, điều mỹ đến mức mà các Ý tưởng trên các cõi cao có thể được chuyển từ cõi trí, khoác lên những khao khát để tạo thành hình tướng trên Trái đất. Đó là lý do tại sao có một câu nói phổ biến rằng: nếu chúng ta khao khát điều gì đủ mãnh liệt, nó sẽ tạo ra quyền năng quy tụ quanh nó hình tướng giúp nó hiện hình. Những người cung 6 cũng sẽ làm việc một cách khoa học. Họ sẽ cần thực hiện những điều thỉnh nguyện đúng đắn, với các phương pháp mang tính khoa học. |
|
Đường lối phụng sự của cung 7: “Cung 7. Cung này, vào thời điểm này, cung cấp một nhóm các đệ tử năng động và cần thiết, những người nóng lòng trợ giúp Thiên Cơ. Công việc của họ tự nhiên là trên cõi hồng trần. Họ có thể tổ chức lý tưởng đã được gợi lên, lý tưởng này sẽ hiện thân nhiều nhất có thể ý niệm của Thượng đế mà thời kỳ và nhân loại có thể biểu lộ và sản sinh trên Trái Đất. Họ có thể tổ chức lý tưởng đã được gợi lên vốn sẽ hiện thân nhiều nhất có thể ý tưởng của Thượng đế. Công việc của họ đầy uy lực và cần thiết, và đòi hỏi rất nhiều “kỹ năng trong hành động”. Đây là cung đang đi vào quyền lực.” (EP2, 145). |
Cung 7 gắn với các từ khoá “cõi hồng trần, hiện thực hoá các ý tưởng thành hành động thực tế, các kỹ năng trong hành động”. Cung 7 gắn với hình tướng, với cõi thứ 7 là cõi hồng trần. Do vậy, công việc của những người cung 7 chủ yếu diễn ra trên cõi hồng trần. Họ sẽ chịu trách nhiệm việc sắp xếp các lý tưởng (được gợi lên nhờ cung 6), và hiện thực hoá chúng nhiều nhất có thể. Chân sư DK từng cho biết rằng trong thời đại của cung 6 ngày trước (cũng như thời đại của Song ngư) thì đã có một sự hỗn loạn nghiêm trọng trong các vấn đề của nhân loại. Lý do là cung 6 không phải là một cung của sự tổ chức, và có xu hướng khước từ các hoạt động và hình thức bên ngoài. Bắt buộc cung 7 phải hiện diện cùng cung 6 thì việc tổ chức đúng đắn mọi thứ mới có thể diễn ra. Do vậy, những điều mà người cung 6 mơ ước trong thời kỳ Song ngư sẽ có nhiều khả năng được thực hiện và biểu lộ hơn trong thời kỳ của cung 7. |
KẾT LUẬN
Các định luật của linh hồn đóng vai trò như kim chỉ nam, giúp người chí nguyện – đệ tử dần hướng tới cuộc sống ngày càng giống với một linh hồn. Qua những phân tích khá chi tiết về ba định luật đầu tiên, ta có thể thấy điểm chung của cả ba là khuyến khích người môn sinh từng bước vượt qua sự tập trung quá mức vào phàm ngã cá nhân. Khi tuân theo các định luật này, con người học cách sống vì mục tiêu cao cả hơn – phụng sự và hy sinh vì lợi ích và mục tiêu cao nhất của tập thể. Tâm thức mở rộng đến đâu thì phạm vi mà ta có thể phụng sự cũng mở rộng đến đó: từ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, đến đất nước, thế giới, và cuối cùng là mọi giới trong tự nhiên.
1) Định luật hy sinh:
Đây là định luật cơ bản và gần gũi nhất với con người, ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết các hoạt động của thế giới hiện nay. Tên gọi khác của nó là “Luật của những người chọn cái chết”, ám chỉ bản năng hy sinh của linh hồn — tức là chọn buông bỏ cái thấp để cái cao cả hơn có thể biểu hiện. Cung 4 – Hài hòa thông qua xung đột – là cung năng lượng truyền dẫn định luật này. Hy sinh chính là quá trình con người đứng giữa hai lực đối nghịch: một lực kéo về phía linh hồn, và một lực kéo ngược trở lại đời sống phàm ngã. Điểm quân bình chỉ đạt được sau nhiều cuộc xung đột nội tâm lẫn ngoại cảnh mà định luật này tạo ra. Chính qua những xung đột đó, người môn sinh học được những bài học quý giá và bước đi vững vàng hơn trên con đường Trung đạo.
Hy sinh là sự cho đi – thể hiện qua sự chia sẻ, tương trợ giữa mọi giới trong tự nhiên. Nó cũng là sự cứu chuộc, khi người môn sinh giúp đỡ các tinh linh cấu thành phàm ngã, hỗ trợ những anh em Hắc đạo còn đang lầm lạc, hoặc cứu rỗi những sự sống tiến hóa chậm chạp. Ngoài ra, hy sinh còn là việc tạm thời chấp nhận giới hạn để rèn luyện và trưởng thành, qua đó mở rộng trung tâm lực tim – tiêu điểm của tình thương vô ngã. Để áp dụng Định luật hy sinh lên đời sống của người chí nguyện đệ tử, y sẽ phải trải qua rất nhiều cuộc từ bỏ lớn bao gồm:
– Từ bỏ phàm ngã của mình
– Từ bỏ sự ràng buộc với những phàm ngã khác
– Từ bỏ mọi thành tựu của việc phụng sự, không bám chấp vào kết quả, phương tiện hay sự khen ngợi
– Từ bỏ sự can thiệp và ý thức trách nhiệm đối với các đệ tử khác.
2) Định luật xung động từ tính:
Định luật này liên quan đến sức hút và sức thôi thúc mạnh mẽ phát ra từ các cõi giới tinh thần. Đây còn được gọi là “Định luật Hợp nhất Cực” vì nó giúp các cực thấp hợp nhất với các cực cao hơn — ví dụ như phàm ngã hợp nhất với linh hồn, Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian hợp nhất với Thánh đoàn, hay Thánh đoàn hợp nhất với năng lượng của Shamballa. Sự hợp nhất này không chỉ diễn ra ở cấp độ cá nhân mà còn mở rộng tới các nhóm và tập thể lớn hơn. Một ví dụ điển hình là công việc của Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian: từ tính của họ phát ra năng lượng liên kết, thu hút các nhóm phụng sự hữu ích lại với nhau để cùng thực thi Thiên Cơ. Chính họ là hiện thân sống động của định luật này.
Định luật Xung động Từ tính có những đặc điểm đáng chú ý: 1) gây ảnh hưởng tới thế giới của các linh hồn, chứ không phải ở cõi hình tướng; 2) khai mở hoa sen chân ngã của người môn sinh, đồng thời lan tỏa năng lượng giúp cả nhóm cùng tiến bộ; 3) tạo ra lực kéo từ các cõi giới cao, hỗ trợ nhân loại hướng về tinh thần, tạo ra hoàn cảnh giúp con người tỉnh thức và nhận ra khía cạnh thiêng liêng trong mọi trải nghiệm.
Dù định luật này hoạt động tự nhiên, người môn sinh vẫn có thể tạo điều kiện cho năng lượng của nó tuôn chảy mạnh mẽ hơn bằng cách:
– Giữ kết nối bền chặt với linh hồn và sống như một linh hồn.
– Làm việc theo nhóm – như các linh hồn cùng phụng sự – vì năng lượng cao cả chỉ tuôn xuống nhóm, không xuống cá nhân.
– Chỉnh hợp với linh hồn nhóm, đặc biệt trong các dịp lễ tâm linh như Trăng Tròn, Wesak hay Lễ hội Thiện chí của Đức Christ. Qua đó, năng lượng của nhóm sẽ hòa nhập dần với năng lượng của các Đấng Cao cả.
3) Định luật phụng sự:
Đây là định luật mang tính ứng dụng cao nhất trong đời sống của người môn sinh. Theo Chân sư DK, phụng sự đích thực là kết quả tự nhiên của sự kết nối với linh hồn. Khi mối liên kết này còn yếu, những hành động “phụng sự” thường vẫn bị pha lẫn động cơ phàm ngã, tham vọng hay cuồng tín. Do đó, điều quan trọng nhất với người chí nguyện là tăng cường sự kết nối với linh hồn; khi đó, ý tưởng và phương pháp phụng sự đúng đắn sẽ tự nhiên hiển lộ.
Người phụng sự chân chính thể hiện qua các phẩm tính sau: 1) gây ảnh hưởng tích cực tới môi trường xung quanh; 2) thực hành hạnh vô tổn hại trong cả tư tưởng, lời nói và hành động với các cá nhân khác cũng như với nhóm; 3) sẵn lòng để người khác phụng sự theo cách mà họ cho là tốt nhất; và 4) luôn giữ sự hoan hỷ khi phụng sự thay cho thái độ chỉ trích và phán xét.
Ngoài ra, một số phương pháp rất thiết thực đã được Chân sư DK và thầy M.R. đưa ra, giúp người môn sinh hướng tới việc phụng sự đúng đắn.
– Đặt trọng tâm vào việc tiếp xúc với linh hồn.
– Liên tục tự xét lại động cơ phụng sự.
– Giữ vững nhịp điệu phụng sự đều đặn.
– Chỉnh hợp với các dự án phụng sự của Chân sư.
– Không vội vàng trong công việc phụng sự.
– Phụng sự phù hợp với biểu đồ cung năng lượng của chính mình.
Thông qua bài luận này, tôi đã cố gắng tổng hợp một cách chi tiết và dễ hiểu nhất có thể nội dung về ba định luật đầu tiên của linh hồn, các tính chất của chúng và đặc biệt là các phương pháp để áp dụng các định luật này vào đời sống của một người môn sinh học đạo. Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian và phạm vi nghiên cứu, nên bài viết này vẫn chưa phân tích được bốn quy luật còn lại của linh hồn – điều mà tôi khuyến khích các bài luận sau có thể giúp đào sâu hơn.
Mặc dù các định luật này có vẻ phức tạp, nhưng cuối cùng điều cốt lõi mà tôi nhận ra là một nguyên tắc đơn giản: Hãy tập trung vào nghiên cứu, tham thiền và phụng sự để ngày càng tăng cường sự kết nối với linh hồn. Và rồi linh hồn sẽ mách bảo ta phải làm những gì ta cần làm. Trong mọi hoàn cảnh. Trong mọi trường hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bailey, Alice A. A Treatise on White Magic. Lucis Publishing Company, 1956.
Bailey, Alice A. Discipleship in the New Age, Vol. II. Lucis Publishing Company, 1994.
Bailey, Alice A. Initiation, Human and Solar. Lucis Publishing Company, 1922.
Bailey, Alice A. The Rays and the Initiations. Lucis Publishing Company, 1988.
Hoàng Phê, chủ biên. Từ điển Tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học, 2003.
Krishnamurti, Jiddu ( diễn giả, lấy bút danh “Alcyone” ). Dưới Chân Thầy (At the Feet of the Master). Dịch Bạch Liên; Nhóm Hội Viên Thông Thiên Học Hải Ngoại hiệu đính và xuất bản, Krotona, 2005. PDF tải xuống tại “thôngthiênhọcvn.theosophical.org”, https://thongthienhocvn.theosophical.org/wp-content/uploads/2013/10/D.C.T.BOOK_.pdf.
Robbins, Michael D. “EP Laws of the Soul.” MAKARA.us,
https://www.makara.us/portal/?page_id=345. Accessed 23 Oct. 2025.


