DOWNLOAD FILE SONG NGỮ Ở ĐÂY

Table of Contents
PERSONALITY and PSYCHOLOGY—PHÀM NGÃ và TÂM LÝ HỌC 6
The Child of Virgo—Đứa Trẻ Xử Nữ 16
HEALTH HINTS for VIRGO—GỢI Ý VỀ SỨC KHỎE cho XỬ NỮ 20
The Tissue Salts—Các muối mô 24
Virgo and the Flower Remedies—Xử Nữ và các phương dược Hoa 27
THE EVOLVED VIRGO—XỬ NỮ TIẾN HÓA 39
Genius in Virgo—Thiên tài nơi Xử Nữ 43
THE ESSENTIAL VIRGO: NATURE and MORPHOLOGY—XỬ NỮ TINH YẾU: BẢN TÍNH và HÌNH THÁI 49
THE PATH of VIRGO—CON ĐƯỜNG của XỬ NỮ 67
Spiritual Purification in Virgo—Thanh lọc Tinh thần trong Xử Nữ 67
Virgo and Celibacy—Xử Nữ và Khiết Dục 74
Daily Disciplines—Kỷ Luật Hằng Ngày 76
VIRGO RISING: VIRGO on the ASCENDANT—XỬ NỮ MỌC: XỬ NỮ ở DẤU HIỆU MỌC 80
Images for Virgo Rising:—Hình ảnh cho Xử Nữ Mọc: 90
THE MOON: ESOTERIC RULER of VIRGO—MẶT TRĂNG: CHỦ TINH NỘI MÔN của XỬ NỮ 90
Full Moon Meditation—Thiền Trăng Tròn 108
“Mọi sự vật, bởi quyền năng bất tử
Gần hay xa —
Ẩn mật,
Đều nối kết với nhau,
Để ngươi không thể lay một đoá hoa,
mà không khuấy động một vì sao…”
— Francis Thompson
TÍNH CÁCH và TÂM LÝ HỌC
Thượng Đế Toàn Năng trước hết đã trồng một khu vườn; và thật vậy, ấy là niềm vui thuần khiết nhất của con người.—Francis Bacon, Về Các Khu Vườn.
Mặt Trời đi qua dấu hiệu Xử Nữ từ 24 tháng Tám đến 23 tháng Chín. Điều quan trọng với người mới đến với chiêm tinh là nhận ra rằng Mặt Trời ở Xử Nữ chỉ là một trong nhiều cách dấu hiệu này để lại dấu ấn nơi chúng ta. Tất cả chúng ta đều chịu ảnh hưởng của Xử Nữ ở những mức độ khác nhau, nhất là khi có một nhóm hành tinh tụ tập trong dấu hiệu này, hoặc khi nó nằm ở dấu hiệu mọc. Những nhận xét sau nhằm phác họa kiểu người Xử Nữ nói chung.
Trên hành trình vòng quanh hoàng đạo, khu vườn xanh mát của Xử Nữ đem lại một khoảng dừng mát lành sau sức nóng và ánh chói lòa của Sư Tử. Trong một khu vườn, thiên nhiên được sắp đặt, tuyển chọn và “phục vụ” bằng nhiều lao lực; những phẩm tính rất diễn đạt bản chất của dấu hiệu hành thổ thứ hai của hoàng đạo. Dù giữ bản tính thực tế của nguyên tố đất, phẩm chất biến đổi của Xử Nữ khiến họ linh hoạt và cởi mở với ý tưởng mới cũng như cách làm mới.
Trong giải phẫu học của hoàng đạo, Xử Nữ cai quản ruột non, nơi quá trình tiêu hóa được hoàn tất. Tại đây, vật chất được phân giải và quy về các thành phần thiết yếu, dùng để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể. Tương tự, người Xử Nữ có khuynh hướng khảo sát và chất vấn tường tận mọi thứ họ xử lý; rồi họ có thể dùng chất liệu ấy một cách hữu ích, tốt nhất là để phục vụ người khác.
Những người này thường được mô tả là cầu kỳ và những kẻ cầu toàn hay chỉ trích, nhưng điều đó chỉ là do tình yêu bẩm sinh của họ đối với chi tiết. Thực tế là họ thường không thấy được khu rừng vì chỉ chăm chú vào từng cái cây, nhưng đó là vì họ phải nắm vững các chi tiết của một tình huống trước tiên. Họ có một sự kiên trì có thể khiến người khác tuyệt vọng, nhưng chính điều đó lại ban cho họ khả năng cuối cùng đi đến tận gốc rễ của những vấn đề khó giải quyết nhất.
Chúng ta đều gặp phải những vấn đề trên hành trình đời mình và tất cả chúng ta đều mắc sai lầm. Đôi khi chúng ta tránh được sai lầm bằng cách đối diện với vấn đề và suy nghĩ thấu đáo về nó. Một số người, như Cự Giải, tìm ra giải pháp cho khó khăn bằng cách “ngủ một giấc”, và trực giác, bằng cách nào đó, đưa ra câu trả lời. Tuy nhiên, người Xử Nữ giải quyết vấn đề của mình theo một cách đặc biệt—y tập hợp tất cả các dữ kiện về tình trạng khó xử của mình, tính toán con đường hành động tốt nhất và thoát khỏi khó khăn theo kế hoạch mà y vạch ra. Y có thể sử dụng bản đồ để tìm tuyến đường chi tiết đến một nơi xa lạ và dùng máy tính, la bàn, thước kẻ để đạt được kết quả chính xác. Thực tế, y đánh giá dựa trên kết quả như hầu hết những bộ óc phương Tây thường làm.
Không ngạc nhiên khi Xử Nữ hạnh phúc nhất khi được bao quanh bởi trật tự, với mọi thứ ở đúng vị trí của nó và mỗi vật đều có chỗ riêng. Tất nhiên, có những ngoại lệ đối với quy luật này, và một số người Xử Nữ có thể cực kỳ bừa bộn, nhưng trong sự hỗn độn ấy luôn có một trật tự, và khốn thay cho ai dám cố gắng dọn dẹp!
Xử Nữ giống như một trinh nữ trở nên già nua, hay một Bà già độc thân thích tích lũy những mảnh vụn của cuộc đời mình—những bức thư cũ, thiệp Giáng sinh và quần áo—và không thể chịu nổi việc vứt bỏ chúng, mà thích giữ tất cả trong một tủ hồ sơ. Người Xử Nữ có thể là những kẻ tích trữ vĩ đại, chất quanh mình một khối lượng lớn những thứ mà người khác có thể coi là đồ bỏ đi nhưng lại quý giá đối với bản tính thích gom góp của họ. Tôi từng thấy một người như vậy, dưới cái cớ chuẩn bị hành lý cho chuyến đi nước ngoài, đã bày tất cả những thứ tích lũy trong nhiều năm ra khắp mọi phòng trong ngôi nhà của mình, để đó suốt nhiều tuần liền, trong khi vẫn mân mê xem xét với ý định “sắp xếp lại”. Nhưng trong thâm tâm, Bà ta hoàn toàn quyết tâm không từ bỏ bất cứ thứ gì mà chỉ đơn giản là phân loại rồi lại đóng gói trở lại vào nơi mà nó vốn được lấy ra. Bà ta sở hữu những phẩm tính tuyệt vời của Xử Nữ nhưng không thể chịu nổi khi để bất kỳ sự lơi lỏng nào, khuyết điểm nào trong tính cách hay hành động của người khác trôi qua mà không được chú ý và ghi nhận.
Người Xử Nữ nhìn chung không có đầu óc tổng hợp, cũng không cần phải biết toàn bộ kế hoạch trước khi bắt tay vào chi tiết—trong khía cạnh này họ là những người phụng sự tuyệt hảo, tuân theo quy luật một cách chính xác đến từng chữ. Khi Uranus hoặc Mars nằm ở Xử Nữ, tình yêu chi tiết này lần lượt được đưa vào lĩnh vực lập dị hoặc độc ác.
Những người này sẽ giữ bất cứ thứ gì trong một tủ hồ sơ, không chỉ là các tập tin. Họ thích thú với bất kỳ cách nào có thể phân loại những mảnh vụn của mình và ghi chú lại nơi chúng được đóng gói và cất giữ. Do đó, họ có những phẩm chất rất tinh tế có thể thích ứng với lĩnh vực thương mại và họ trở thành những kiểm toán viên, kế toán hoặc nhân viên kho bãi giỏi. Đây là kiểu người lưu giữ hồ sơ cẩn thận đến từng chi tiết và có thể tìm thấy một vật ngay lập tức. Không có gì ngạc nhiên khi Xử Nữ cũng thích hợp làm nhân viên văn phòng, thủ quỹ hay quản lý bộ phận.
Người Xử Nữ có khuynh hướng kiểm tra và phân tích các vấn đề trong môi trường xung quanh hơn là sáng tạo, và điều này dẫn đến danh tiếng của họ như những kẻ tiêu cực. Họ cũng rất ý thức về nhu cầu độc lập để có thể chỉ trích tốt hơn hoặc đưa ra ý kiến phê bình từ một thái độ thuần khiết. Trong chính trị, Xử Nữ cai quản đảng độc lập.
Những kiểu người này không bao giờ cưỡng lại được việc đưa ra nhận xét khi có điều gì đó không hoàn toàn đúng. Họ thích chứng minh quan điểm của mình và thường có thể tìm ra chính xác những từ để chứng minh, khiến bạn không còn chỗ để tranh luận. Tuy nhiên, họ cũng có thể đánh giá chính mình chính xác như vậy. Lời khẳng định của Xử Nữ là “Tôi chỉ trích” hoặc “Tôi phân tích”, tùy theo mức độ phát triển cá nhân của họ. Người Xử Nữ tiêu cực có thể quá hay chỉ trích, luôn quá chú ý đến chi tiết và sợ rằng điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra, cho dù đó là lỡ chuyến tàu hay không xin được việc mới. Khả năng lo lắng của họ có thể ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh. Đây là sự tập trung vào bản thân và thường đi kèm với mặc cảm tự ti. Tuy nhiên, những người thuộc nhóm tích cực sẽ thể hiện một chuẩn mực đạo đức cá nhân cao, nguyên tắc, độ tin cậy và sự siêng năng tuyệt vời trong mọi công việc họ đảm nhận. Họ hiếm khi thiếu sự trân trọng đối với những thực tế của cuộc sống, cẩn thận trong tiền bạc và giỏi trong thương mại.
Những kiểu tiêu cực của dấu hiệu này có thể quá ích kỷ và hạn hẹp trong sở thích và cảm thông. Sắc sảo, hướng nội và kín đáo, họ thường không được ưa chuộng, đặc biệt là với người khác giới. Vốn tự nhiên thận trọng trong việc theo đuổi, họ thường đánh mất đối tượng mà mình dành trọn tình cảm vào tay những kiểu người biểu lộ tình cảm nhiều hơn, biết cách mời mọc và phô trương. Tình yêu đích thực thường có thể lẩn tránh họ. Luôn tìm kiếm sự hoàn hảo, họ mong muốn một người bạn đời có tiêu chuẩn cao và có thể được họ đặt lên bệ thờ. Không có gì ngạc nhiên khi nhiều người thuộc Xử Nữ cuối cùng chọn sống cuộc đời độc thân. Đây là một dấu hiệu hiền hòa, nhạy cảm; những cảnh cảm xúc kịch tính làm họ đau khổ và thường khiến hệ tiêu hóa của họ rối loạn trong nhiều ngày liền.
Người Xử Nữ thường có khiếu thẩm mỹ đáng kể, và sở thích của họ thường cụ thể và luôn được xác định trước. Họ sẽ quan sát và chọn lựa món ăn với sự cẩn trọng lớn; thực vậy, giữ gìn chế độ ăn là quan trọng cho sức khỏe của họ. Họ sẽ hứng khởi với thật nhiều salad xanh và mọi thức ăn tươi, đúng mùa, rửa sạch, chuẩn bị kỹ và bày biện đẹp mắt thành những phần nhỏ xinh. Họ thích món tinh xảo, có thể kèm một quả anh đào đặt khéo để bắt mắt, với khăn ăn và những diềm be bé xinh xinh làm duyên cho phần ăn. Món bánh mì kẹp nhỏ nhắn kiểu Anh hẳn đã được người Xử Nữ ở xứ này đón nhận và làm cho thịnh hành. Người phát minh ra nó, Bá tước Sandwich thứ tư, sinh khi Mặt Trăng ở Xử Nữ. Sự tuôn trào dư dật của món bánh mì mở kiểu Scandinavia hẳn sẽ là một phô trương thừa mứa, lòe loẹt, thô thiển của những gì đáng ra nên được che đậy gọn gàng, đối với tính cách Xử Nữ đích thực.
Người Xử Nữ được lợi khi ăn uống điều độ và đều đặn hơn là chỉ ăn một bữa thật lớn mỗi ngày. Những món cà ri cay nóng cùng các thức ăn béo và nhiều gia vị mà Ma Kết ưa thích sẽ khiến họ chán ghét, trong khi một bữa ăn nhẹ với trứng bác hay trứng ở hầu như bất kỳ hình thức nào cũng có thể mang lại cho họ nụ cười hiền hòa đầy mong đợi. Thuốc và rượu đặc biệt có hại cho những người này, và bất kỳ ai chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Xử Nữ sẽ có khuynh hướng tự nhiên sống tiết chế và kiêng khem. Khao khát sự trong sạch dẫn họ đến sự quan tâm về dinh dưỡng và vệ sinh. Đây là kiểu Mahatma Gandhi, người cẩn thận cân đong lượng chất đạm, tinh bột và chất béo chính xác để dùng trong mỗi bữa ăn, hoặc là một Bà mập mạp (với Mặt Trăng ở Cự Giải) cẩn thận đếm số calo tiêu thụ trong từng bữa ăn.
Trong Xử Nữ, luôn có một nhấn mạnh nào đó về sức khỏe và vệ sinh. Thực vậy, Xử Nữ là “bệnh viện” của hoàng đạo. Nó cai quản nhà thứ sáu, nhà liên quan đến các vấn đề như bệnh tật, sức khỏe kém, lao động nặng, chữa trị và chẩn đoán, và là một trong những yếu tố trong lá số chiêm tinh chỉ thị khả năng và dạng bệnh tật có thể xuất hiện trong đời người.
Tất cả các dấu hiệu hành thổ đều rất ý thức về thân thể mình. Ở Xử Nữ, điều này biểu lộ như mối bận tâm thường trực với sức khỏe, và họ thường có một loạt phương dược chọn lọc kỹ càng phòng khi ốm đau. Quả vậy, người ta từng gọi họ là những kẻ nghi bệnh của hoàng đạo, vì sự bận tâm về sức khỏe của một số người thuộc dấu hiệu này. Dạng tích cực hơn sẽ nghiên cứu và áp dụng các kỹ thuật thích hợp để duy trì sức khỏe, với trọng tâm thường đặt vào dinh dưỡng đúng đắn. Họ luôn muốn thân thể mình có được vật liệu tốt nhất để làm việc.
Người Xử Nữ thích sống ở những nơi như các ngõ cụt yên tĩnh, nơi họ có thể bình thản tiếp tục cuộc sống và duy trì nề nếp đem lại hạnh phúc cho mình. Họ mãn nguyện trong nhà hay nơi làm việc, miễn người khác đừng tùy tiện xâm nhập khi chưa mời. Nhiều người Xử Nữ không thích ở quá gần người khác liên tục, thường ghét, chẳng hạn, việc dùng chung phòng tắm hoặc thậm chí dùng chung bàn ăn. Họ không thích sự suồng sã và sẽ tổ chức đời sống xã hội theo nhu cầu riêng. Nhiều người ưa lối sống chiêm niệm—khác với bạn bè Song Tử, họ không thích chuyển nhà thường xuyên. Bản thân mái nhà thường được bài trí theo kiểu truyền thống hơn là hiện đại, vì họ thường rất kính trọng quá khứ, và đó là lý do họ thường xuất sắc với tư cách sử gia và người viết tiểu sử.
Nhà bếp là nơi quan trọng với họ, và thường đầy những dụng cụ nấu nướng, mỗi món dành để làm một việc nhỏ nhất định. Họ sẽ nhớ món nào ở đâu để lúc thích hợp có thể tự hào lấy ra dùng. Không ngạc nhiên khi họ nấu ăn giỏi, và điều này có thể trở thành liệu pháp tuyệt vời cho họ khi bị căng thẳng.
Trong cách ăn mặc, họ thích vải chất lượng tốt, may theo kiểu kín đáo, nữ giới thường chọn trang phục ren hoặc cầu kỳ. Họa tiết ca-rô nhỏ và sọc mảnh có sức hấp dẫn lớn với những người hướng nội này. Khác với anh em họ Sư Tử, họ thích làm người quan sát hơn là bị nhìn ngắm và sẽ ăn vận tương ứng. Màu ưa thích là hồng phấn, hồng và xanh nhạt, nhưng sắc trắng trinh khiết, nhất là cho đồ lót, luôn là lựa chọn hàng đầu. Sự tinh sạch và tươm tất quan trọng đến thế với người Xử Nữ, nên tình yêu của họ với vải lanh trắng không có gì lạ.
Người Xử Nữ không chỉ trân trọng của cải riêng mà còn cả những gia sản vô hình và nội tại như gia phả. Họ rất câu nệ phép tắc và điều đúng đắn; không phải theo cách của Nhân Mã, kẻ thích những thứ ấy vì chúng là một phần của nhịp sống, mà vì “những điều này vốn là như vậy” và cần được tôn trọng như thế.
Quả thật người ta nhận xét rằng dù người Xử Nữ có nhà cửa và vật dụng nghèo nàn nhất, thì những thứ họ có nhìn vẫn như mới. Họ có ham muốn tự nhiên về tiền bạc, nhưng thường quá rộng lượng để dành dụm. Do đó, trái với những điều đã nói chung về họ, họ không thường là kẻ hà tiện. Bởi vậy, để tích lũy của cải, họ có thể cầu viện đến những phương cách lạ lùng nhất. Họ có thể đẩy mình (và gia đình chẳng mấy tự nguyện) vào những hình thức tiết kiệm gây bực bội nhất, rà soát chi tiêu đến mức đáng sợ chỉ để mang lại những kết quả mỏng manh. Có lần tôi suýt chết đói khi, trong một tình huống khó khăn thoáng qua, tôi dại dột cho một cặp vợ chồng Xử Nữ chung sống trong nhà mình một tháng theo thỏa thuận tôi trả tiền thuê còn họ lo thực phẩm. 😊
Tuy nhiên, nói chung kiểu người này có xu hướng chi tiêu khôn ngoan và hợp lẽ. Với bản tính ghét phung phí, họ thường lo sợ điều tệ nhất cho tương lai, và sẽ tích trữ nguồn lực cho những ngày mưa gió. Xử Nữ là vị trí của tự hoàn thiện trong lá số chiêm tinh và những người sinh dưới dấu hiệu này thường cảm thấy nhu cầu tự túc và độc lập khỏi người khác. Trong khi Sư Tử mặc nhiên mong được người khác công nhận, Xử Nữ nghĩ đó là điều phải phấn đấu để đạt. Ưa sự chính xác, họ nổi tiếng vì giữ sổ sách và nhật ký chi tiêu hằng năm.
Xử Nữ là một trong sáu dấu hiệu “âm” hay nữ tính của hoàng đạo, nghĩa là thiên về tiếp nhận và thụ động trái với những dấu hiệu dương tính, hướng ngoại hơn. Những người này thường hạnh phúc trong việc phục vụ người khác. Nhà thứ sáu của lá số chiêm tinh cai quản lao động nặng và sự phục vụ. Nhà này sẽ cho thấy các bạn làm việc ra sao và có kỹ năng gì. Nó gắn với mùa gặt—thời gian của giờ làm dài và lao động vất vả. Thực vậy, người Xử Nữ thường thấy đời mình gắn với việc cung cấp một dịch vụ nhất định cho người khác. Họ thích là một phần của một tổ chức hiệu quả và, như những con nghiện công việc thực thụ, họ thường làm việc đến mức lâm bệnh. Thật không may, bản tính khiêm nhường của họ có nghĩa là họ thường bị xem nhẹ và không được trao sự tôn trọng mà họ khao khát có được.
Họ sẽ kiên nhẫn chịu đựng công việc đều đặn và buồn tẻ, và trái với dấu hiệu đầy tham vọng của Ma Kết, họ nhìn chung không tham vọng mà thỏa mãn với công việc đều đặn và mức lương công bằng. Họ ghét sự phô trương của Sư Tử, thích các phương cách lặng lẽ, dè dặt. Có một sự thiếu vắng rõ rệt tính bành trướng; người Xử Nữ thích xếp hồ sơ, phân ngăn và cất kỹ đồ đạc, trong khi các dấu hiệu lửa sẽ bày tất cả lên tủ kính để ai cũng thấy. Là dấu hiệu biến đổi, họ thường khó đưa ra quyết định và hay do dự.
Họ sẽ làm việc bền bỉ và hết lòng trong nghề đã chọn, thường dâng hiến nhiều năm phục vụ tận tụy cho chủ. Họ không trông đợi trở thành triệu phú nên hiếm khi thành công theo nghĩa ấy, nhưng họ thường thích làm việc cho những phàm ngã giàu có, lôi cuốn, nổi tiếng hoặc có tước vị, điều này đem lại cho họ cảm giác an toàn và mục đích lớn hơn. Họ vốn cần cù, và ghét nhàn rỗi; nếu các bạn muốn việc gì được hoàn thành, hãy nhờ một người Xử Nữ.
Người Xử Nữ đặt trọng tâm vào việc tận dụng tốt nhất những vật liệu sẵn có, và làm chủ các kỹ năng, kỹ thuật tinh vi, chính xác cần thiết để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, và họ sẽ nỗ lực miệt mài để nắm vững. Thật vậy, có thể nói một số người “tìm thấy” chính mình trong Xử Nữ bằng cách phát triển một nghề thủ công.
Họ làm việc dễ dàng hơn trong các tổ chức lớn, đặc biệt là những nơi như các công ty xăng dầu và những công ty liên quan đến sản phẩm của đất đai. Những phát triển công nghiệp hiện đại cũng nên mở ra cơ hội cho người Xử Nữ siêng năng. Điện tử, tự động hóa, máy tính, các dạng truyền thông phức tạp, cùng ngành công nghiệp ô tô khổng lồ, tạo ra vô số cơ hội nghề nghiệp thú vị. Mọi loại máy móc tinh xảo như đồng hồ và máy ảnh đều có thể được người Xử Nữ tài năng cải tiến. Nghiên cứu thị trường cho các hãng quảng cáo hoặc công việc thống kê cho siêu thị và hãng dược cũng là lĩnh vực tự nhiên với họ. Bất cứ công việc tỉ mỉ, phức tạp nào có thể làm người thuộc các dấu hiệu khác bực bội hay khó chịu lại là một thách thức đáng giá với người Xử Nữ. Gọn ghẽ và chính xác, với một cái trí khoa học được rèn cho dữ kiện và con số, họ vốn dĩ logic và có phương pháp. Với đào tạo thích hợp, họ có khả năng biểu bảng những kế hoạch, sơ đồ và thống kê phức tạp nhất theo hình thức rõ ràng, súc tích. Trí phân tích của họ nhanh chóng chia tách một vấn đề phức hợp thành các bộ phận, rồi nghiên cứu và làm chủ từng phần riêng biệt.
Họ cũng là những nhà ước tính tuyệt hảo, không thể thiếu với kiến trúc sư, nhà in, các dự án công trình hội đồng và nhà quy hoạch đô thị. Họ trở thành nhân viên phòng thí nghiệm giỏi và nói chung thành công trong khoa học, đặc biệt ở những lĩnh vực như hóa hữu cơ và tiết thực học. Nghiên cứu là một địa hạt tự nhiên với họ, dù là thực nghiệm, y học, hóa học, công nghiệp hay môi trường. Họ sử dụng công nghệ, thông tin, công thức và kỹ thuật phòng thí nghiệm như một nhà ngoại giao dùng ngôn ngữ và phép tắc. Họ thanh tra, khảo sát, tra vấn, chất vấn và truy vấn.
Những nghề nghiệp khác dưới sự cai quản của Xử Nữ gồm bác sĩ thú y, nhân viên văn phòng, thư ký, thanh tra, thầy thuốc tự nhiên trị liệu, nhân viên y tế, chuyên viên đo mắt, kế toán, kỹ sư, chuyên gia dinh dưỡng, y tá, nhà toán học, sử gia và nhà buôn đồ cổ. Tất cả những nghề này, và bất kỳ nghề nào đòi hỏi tiêu chuẩn cao về sự chính xác và tác phong chuyên nghiệp, đều có thể đem lại thành công cho dấu hiệu này.
Trong bất kỳ lĩnh vực điều tra nào, người Xử Nữ vô song. Họ chất vấn mọi ngóc ngách của chủ đề, phân nhỏ, soi xét không ngừng và luôn luôn phân tích, kiểm tra và tái kiểm tra đến phát chán 😊. “Thám tử” trong Xử Nữ đã được khắc họa chính xác bởi Dame Agatha Christie, nữ tiểu thuyết gia và soạn kịch trinh thám người Anh, bản thân sinh dưới dấu hiệu này. Được mẹ dạy học tại nhà, Bà bắt đầu viết trong khi làm y tá (Xử Nữ) suốt Thế chiến thứ Nhất. Hai nhân vật nổi tiếng nhất của Bà là Bà cô già, cô Jane Marple, và thám tử lập dị, độc thân Hercule Poirot, cả hai đều thể hiện nhiều nét Xử Nữ, thậm chí sở hữu khiếu hài hước nhẹ nhàng, dí dỏm thường thấy nơi dấu hiệu này.
Từ “Virgo” đến từ tiếng Latin, nghĩa là trinh nữ, và dấu hiệu này cai quản người trẻ và đồng trinh, người độc thân và chưa kết hôn, ngay cả khi tình trạng này kéo dài sang tuổi già ở người độc thân nam và nữ. Michael Jackson, ngôi sao nhạc pop trẻ trung, sinh dưới dấu hiệu này. Nổi tiếng vì việc phẫu thuật thẩm mỹ nhiều và mối quan tâm tới ăn kiêng và trị liệu, anh là một hình tượng cô độc sống đời độc thân khiết tịnh, ưa bầu bạn với phụ nữ và trẻ em. Cliff Richard là một kiểu Xử Nữ khác giữ đời sống độc thân và được biết đến với đức tin Cơ Đốc của mình. Xử Nữ (dấu hiệu bổ sung của nó là Song Ngư, dấu hiệu của tận hiến và Công giáo) cai quản đạo Tin Lành và tự nhiên nghiêng về chủ nghĩa thanh giáo:
Tinh sạch và sẵn sàng vươn lên các vì sao.—Dante, Thần Khúc.
Đứa Trẻ Xử Nữ
Mỗi lần một đứa trẻ nói “Tôi không tin có tiên nữ” thì ở đâu đó có một nàng tiên nhỏ ngã xuống và chết.— J. M. Barrie, Peter Pan
Mọi đứa trẻ đều trải qua giai đoạn hỏi không ngớt, nhưng không ai hỏi nhiều hơn người Xử Nữ. Chúng cần biết mọi thứ trong chi tiết và đòi các câu trả lời rõ ràng, chính xác. Hãy đưa cho chúng xem một món như chiếc đồng hồ để đánh lạc hướng khỏi một cơn giông nước mắt nhỏ và chúng sẽ muốn tháo nó ra thành từng mảnh. Khi những đứa trẻ này lớn lên và học dùng đôi tay để tạo tác, sẽ thấy chúng thường thích những thứ tí hon và điều này cuốn hút chúng hơn bất kỳ vật lớn nào. Chúng có thể vui hàng giờ với việc nặn những con vật nhỏ bằng đất nặn Plasticine hay nỉ màu rực rỡ, may những bộ áo bé xíu cho búp bê, thích thú với cưa lọng, lắp các mạch điện—bất cứ việc gì đòi hỏi lao động tỉ mỉ, chi li.
Trẻ Xử Nữ cũng thích sưu tập thông tin về người hùng hoặc sở thích ưa chuộng của mình. Chúng thích lập danh sách hoặc lên danh mục cho bộ sưu tập các vật yêu thích. Dĩ nhiên, những thứ này thường là đồ tí hon nào đó và được sắp đặt cẩn thận, cho vào hộp hoặc thậm chí gói lại, cất đi chỉ để một ngày mưa lôi ra ngắm nghía, soi xét, nâng niu rồi lại cẩn thận và gọn ghẽ cất đi cho lần sau.
Ngay cả ở lứa tuổi này, chúng cũng sẽ cố gắng làm việc theo một tiêu chuẩn cao và cảm thấy thất vọng sâu sắc nếu không chỉnh chu trong từng chi tiết—sẽ có nhiều cơn giận bộc phát vì lý do này hơn bất kỳ lý do nào khác. Chúng cần được khích lệ và hỗ trợ nhiều trong những nỗ lực của mình, và được chỉ cho thấy rằng không nhất thiết phải là tận thế nếu chúng không làm đúng ngay từ lần đầu. Ngay từ khi còn nhỏ, chúng có thể bồn chồn và lo lắng về những điều tưởng như là chuyện vặt vãnh đối với người khác. Nhiều sự nghỉ ngơi, hòa hợp và bình tĩnh sẽ khôi phục lại năng lượng thần kinh mà chúng dễ dàng tiêu hao.
Những trẻ Xử Nữ bình thường sẽ thích việc học ở trường, nếu không bị đặt dưới quá nhiều áp lực. Dù không đặc biệt thích ganh đua, chúng có thể tự đặt ra các chuẩn mực cao đến mức không thể để làm theo, với hậu quả là sức khỏe bắt đầu sa sút. Chúng có thể hưởng lợi từ một dạng giáo dục chuyên biệt nào đó, nơi chúng nhận được sự quan tâm và khích lệ đúng đắn. Maria Montessori, nhà giáo dục và bác sĩ người Ý, sinh trong Xử Nữ. Người phụ nữ đầu tiên ở Ý nhận bằng y khoa, Bà là người khai sinh “Phương pháp Montessori” nổi tiếng trong giáo dục trẻ nhỏ. Bà khinh thị các lớp học truyền thống “nơi những đứa trẻ, như bướm bị ghim kim, bị cố định mỗi đứa ở chỗ của mình”. Thay vào đó, Bà tìm cách dạy trẻ bằng cách cung cấp cho chúng những vật liệu cụ thể và tổ chức các tình huống thuận lợi để học với các vật liệu ấy: “Chúng tôi—những người thầy—chỉ có thể giúp công việc đang diễn ra, như người hầu hạ đợi lệnh một chủ nhân.” (Tâm Trí Hấp Thụ).
Những đứa trẻ này thường không hòa nhập giỏi, hay có phần khép kín và rụt rè lúc đầu. Chúng thường chọn một vài bạn thân chọn lọc, nhưng nếu được kéo vào một nhóm, chúng sớm thích nghi với lối sinh hoạt và quan điểm của nhóm. Một nhóm bạn hòa hợp sẽ giúp mở rộng chân trời và những khái niệm của chúng về bản tính và hành vi con người—quá dễ để những đứa trẻ này quấn chặt lấy những nếp nhỏ thường ngày và bám lấy chúng, không ngẩng đầu tìm kiếm trải nghiệm đa dạng hơn.
Những linh hồn tiến hóa hơn sẽ sớm bỏ tính thu mình và đem tất cả phẩm tính đẹp của dấu hiệu này vào một hình thái công việc phụng sự nào đó. Chúng sẽ đưa khả năng trợ giúp, khích lệ, an ủi và khuyên nhủ vào thực hành. Hiếm khi hiếu chiến hay thiếu kiên nhẫn, chúng luôn ghi nhớ tổ chức và chi tiết của bất kỳ dự án nào mà chúng khởi xướng hay ủng hộ. Khi bản tính thực tế của chúng dấn thân vào một sự nghiệp, chúng sẽ theo đuổi nó bằng lao động và sự bền bỉ lạnh lùng, thường kết thúc ở vị trí ảnh hưởng cao, cố vấn cho những người có sáng kiến lớn hơn và lực thi hành mạnh hơn.
Dù những người trẻ Xử Nữ thường hướng về vị trí thứ yếu hay có phần rút lui, đôi khi chúng có thể trở thành yếu tố xúc tác, với năng lực nhìn lạnh và rõ bất kỳ tình huống nào, hoàn toàn không thiên kiến và rồi đưa ra một phân tích điềm tĩnh, hợp lý có thể làm chùn bước đối thủ kiên định nhất. Chúng có một sự khách quan và khả năng phê bình mà lặng lẽ bỏ qua nhiệt hứng và cơn sốt của khoảnh khắc, và sẽ không để những chi tiết khó khăn hay quan trọng bị bỏ sót.
Một nghề nghiệp trong khoa học sẽ cho những thanh thiếu niên này cơ hội dùng năng lực bẩm sinh trong địa hạt phân tích, khảo cứu và lý tính này. Thật vậy, chính năng lực Xử Nữ ấy đã đưa ra ánh sáng những quy luật ẩn tàng trong khoa học sau bao lao động kiên nhẫn và chi li, thường là giữa cảnh bị công chúng giễu cợt hay hoài nghi. Ánh sáng trong, mát của cái trí tinh xảo của họ cũng có thể được dùng rất tốt trong bất kỳ kế hoạch nào nhằm cải thiện nhân sinh, nhất là nơi quản trị hiệu quả có thể chuyển hướng trợ giúp tới đúng nơi cần, không nể nang mà nhổ sạch sự kém hiệu quả và tham nhũng.
Năng lực phê phán này cần được hướng dẫn khi trẻ còn nhỏ và sẵn sàng học, để nó không hóa thành sự bới móc tiểu tiết. Nó nên được rèn thành một công cụ xây dựng, mài bén, như một ngọn đèn dẫn đường cho những hữu thể kém tinh tường hơn, những người cần đúng loại phán đoán vô tư, điềm tĩnh đó để giúp họ thấy chân lý.
Trong âm nhạc, nghệ thuật và văn chương, cái trí được rèn luyện và năng lực phê bình của nhà phê bình Xử Nữ đã nhiều khi kéo người bị tâng bốc quá mức xuống đất, cũng như đưa người thật sự thiên tài nhưng bị bỏ quên ra trước ánh sáng công chúng. Khác với nhà phê bình Bọ Cạp, kẻ sẽ không ngại tấn công tàn nhẫn, Xử Nữ sẽ dùng sự tế nhị và kính trọng mà không làm suy giảm sức nặng của lập luận.
Tính khiêm nhường bẩm sinh của những đứa trẻ này sẽ giữ chúng khỏi tự phụ, nhưng sự đắm mình vào công việc có thể khiến chúng có vẻ xa cách và khô khan nếu trí tuệ sắc sảo và óc hài hước nhẹ nhàng của chúng không được khuyến khích. Cha mẹ nên nuôi dưỡng khiếu dí dỏm của con trẻ Xử Nữ, khơi gợi khiếu hài hước bẩm sinh dịu dàng, tinh tế của chúng, và khuyến khích chúng đừng quá nghiêm trọng hóa đời sống.
GỢI Ý VỀ SỨC KHỎE cho XỬ NỮ
Tắm sớm mỗi ngày và bệnh tật sẽ tránh xa các bạn.— Tục ngữ Ấn Độ.
Xử Nữ là dấu hiệu hành thổ thứ hai của hoàng đạo, và tại đây ta thấy chất thô của Kim Ngưu trở nên tinh luyện, được tổ chức và hệ thống hóa. Ở Kim Ngưu, các giác quan thân xác là mối quan tâm hàng đầu, còn ở Xử Nữ ta thấy mối quan tâm tới vệ sinh của thân thể. Đây là dấu hiệu tiêu biểu cho văn hóa thể chất, sức khỏe, ăn uống và vệ sinh. Ở đây ta thấy năng khiếu tự nhiên đối với nghệ thuật y học dự phòng, thứ sẽ ganh đua với y học thay thế để giành vị trí trong tương lai. Dọn dẹp và giặt giũ thường chiếm một phần lớn quá mức trong đời sống người Xử Nữ, và một số sẽ lấy vệ sinh, khử trùng làm sự nghiệp.
Thuốc men y khoa xuất hiện nổi bật trong dấu hiệu này, đặc biệt là thảo dược tự nhiên và các phương thuốc hoa. Chẩn đoán y khoa cũng thuộc Xử Nữ, và ta có thể lưu ý rằng ngày nay phòng thí nghiệm được dùng nhiều hơn thay cho việc hỏi bệnh trực tiếp—một thí dụ nữa về bản chất phân tích của dấu hiệu này.
Ta cũng nhìn về dấu hiệu này để thấy chứng nghi bệnh—một nỗi u uất bệnh hoạn, hoặc dường như vô cớ, hoặc phát sinh từ mối lo không cần thiết về sức khỏe. Xử Nữ và nhà thứ sáu là mái nhà của kẻ nghi bệnh. Thời xưa, triệu chứng của nhiều bệnh nhân tập trung ở một vùng nhất định, bên dưới các sụn sườn, và từ hypochondria bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp hypo, nghĩa là bên dưới, và chondros, nghĩa là sụn, ở đây ám chỉ sụn của lồng sườn. Những bệnh nhân như vậy than phiền những cơn đau phát sinh từ vùng ngay dưới lồng ngực ở phía trước thân, đặc biệt bên phải nơi ta thấy túi mật và ống của nó, cơ quan rất nhạy cảm là tá tràng, cùng tuyến tụy, thận phải và niệu quản của nó và các phần của đại tràng.
Các bệnh phát sinh từ vùng này từng là vô kể trước khi có kháng sinh. Cho đến nay, những bệnh như thương hàn và dịch tả vẫn do Xử Nữ cai quản, cũng như mọi tình trạng ở tá tràng, cùng với cơn đau quặn ruột và viêm đại tràng (tính tới đoạn đại tràng xuống). Tôi cũng sẽ đặt tuyến tụy dưới Xử Nữ và xem dấu hiệu này là đồng phạm trong các nguyên nhân gây đái tháo đường, mà theo nghĩa nghiêm ngặt, phát sinh từ cơ quan sản xuất insulin, tức tuyến tụy.
Người nghi bệnh luôn than mình ốm, về mặt tâm thần và cảm xúc, nhưng thường không vượt quá bình diện thể chất. Họ có thể có hoặc không có cơ sở thuyết phục cho những lời than ấy. Dù có, tình trạng thường là tâm thể. Cần đối xử cứng rắn với người nghi bệnh trước khi những cơn đau họ than phiền nhanh chóng bị chuyển hóa thành các triệu chứng chỉ có thể gọi là cuồng loạn. Sự chuyển đổi như vậy rất dễ khơi phát qua bản chất đáp ứng rất cao của Mặt Trăng, chủ tinh của Xử Nữ. Nếu các bạn ghi chép bệnh sử những lời than của họ, họ sẽ kể đủ mọi yếu tố đến chi tiết nhỏ nhặt nhất dù vô can. Các bạn phải nghe cho hết trước khi trấn an, nếu không họ sẽ mang hận đủ để dựng một bức tường giữa họ và sức mạnh chữa lành của các bạn.
Họ thường đi lòng vòng giữa các thầy thuốc rồi sau đó tích trữ một đống phương dược để dùng khi các cố vấn y khoa không làm họ hài lòng. Bệnh nhân Xử Nữ thường hóa thành “nàng trinh nữ khổ sầu”, hấp dẫn trong cảnh ngộ và luôn tìm kiếm những bậc hiệp sĩ. Căn bản, điều họ kiếm là sự cảm thông, và một khi đã giăng bẫy được người cả tin, họ thường sẽ biến tình huống thành một món lợi, chuyển người giúp đỡ tình nguyện thành nô lệ thực thụ, vì nhà thứ sáu cũng là nhà của nô lệ, gia nhân và lao động nặng. Không lạ gì nghề điều dưỡng do dấu hiệu này cai quản.
Người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy người thuộc Xử Nữ thường xuyên phải nhờ đến phẫu thuật. Những ca mổ của y mang lại một cơ hội bổ sung để biểu lộ chứng lo lắng thái quá về bệnh tật vốn tiềm ẩn. Chính bệnh viêm ruột thừa thường được chứng minh là không gì khác ngoài sản phẩm tưởng tượng trong tâm trí của bác sĩ phẫu thuật hoặc trong vốn liếng bệnh tật của bệnh nhân Xử Nữ. Việc cắt bỏ một ruột thừa vô hại một cách không cần thiết có lẽ mang tính biểu tượng cho nhiều hoạt động của người Xử Nữ.
Mặt Trăng là hành tinh của tính đáp ứng. Từ khóa của Ma Kết là “tôi sử dụng”. Phối cảnh Mặt Trăng ở Ma Kết vì vậy trình bày một tình trạng tâm lý (dù có ý thức hay vô thức) theo đó người ta sử dụng con người hay tình huống để giải tỏa một nỗi bất bình nào đó—thường là điều anh hoặc chị ta không thể biểu lộ trong tâm thức bình thường, và do đó biểu lộ nó dưới dạng một cơn bệnh. Cơn cuồng loạn có thể vì bất mãn với công việc. Anh ta nói với gia đình, nhưng họ không lắng nghe hoặc không cảm thông. Anh ta bắt đầu kêu to hơn, nhưng họ vẫn không cho phản hồi anh ta muốn. Rốt cuộc, anh ta biểu hiện một chứng bệnh thể xác để khơi dậy phản ứng mong đợi.
Một Mặt Trăng trội, khi bị xung khắc, đặc biệt ở Xử Nữ hoặc nhà thứ sáu, có thể mang theo chứng rối loạn thần kinh với co giật hoặc liệt. Nếu liên hệ tới Song Tử, dấu hiệu cai quản phổi, tình trạng này có thể biểu lộ thành hen suyễn (không rõ nguyên do). Khi Sao Thủy cũng dính líu, ta có thể gặp suy nhược thần kinh hoặc tâm thần phân liệt, một tình trạng tâm thần xuất hiện khá thường với đủ mọi diện dạng.
Sao Thủy cũng chi phối các tuyến thượng thận vốn huy động năng lượng của thân thể cho phản ứng “chiến đấu hay bỏ chạy”. Adrenalin không chỉ do thượng thận sản xuất mà còn liên hệ tới dẫn truyền thần kinh của hệ thần kinh giao cảm, và Xử Nữ thường tạo ra những người “căng như dây đàn” nhất, đồng thời cũng có khả năng ném một nguồn năng lượng khổng lồ (được adrenalin kích hoạt) vào những tình trạng thần kinh của họ, vào các xúc cảm bị khuấy động hay những lý tưởng họ đã chọn. Thật đáng chú ý khi lưu ý rằng có bằng chứng cho thấy sự thoái giáng của adrenalin bị nghi là nguyên nhân chuyển hoá của tâm thần phân liệt, và các đợt khởi phát thường gắn với một giai đoạn căng thẳng hay stress (chiến hay chạy).
Song Ngư, dấu hiệu bổ sung cho Xử Nữ, liên hệ mạnh với các dịch thể, vì thế máu có liên quan ở đây, tự thân nó là 90% nước. Sự vận hành đúng đắn của hệ tuần hoàn tùy thuộc rất nhiều vào gan—một cơ quan cùng với “người song sinh phôi thai” của nó là tuyến tuỵ—đáp ứng với các năng lượng Cung Sáu. Cũng như thân thể người mẹ sưởi ấm, nuôi dưỡng và sinh động hoá thai nhi cho đến khi nó được phóng thích, gan cũng là một kho chứa và một xưởng vận hành cho thân thể. Nhiệt độ của gan thường cao hơn phần còn lại của cơ thể; nó điều hoà lượng đường trong máu, hình thành các protein quý giá cho cơ thể và chuyển hoá mỡ thành glucose. Có lẽ đây là cơ quan đa năng nhất trong tất cả các cơ quan, và điều này nối nó với một Cung ảnh hưởng khác—Cung Ba của Trí tuệ Hoạt động.
Gan chịu ảnh hưởng mạnh của các năng lượng tuôn vào và đi ra khỏi cơ thể qua luân xa thuộc Cung Sáu, tức luân xa tùng thái dương, vốn đáp ứng với kích thích từ bản chất cảm xúc của con người. Sợ hãi, lo lắng, phê phán, khuynh hướng nghi bệnh—tất cả đều là các đặc tính Xử Nữ, và tất cả những điều này có thể khiến gan mất quân bình một cách tương đối dễ dàng. Xét đến phạm vi hoạt động rộng lớn của gan trong thân thể con người, chẳng phải đáng ngạc nhiên sao khi căng thẳng cảm xúc lại tàn phá sức khoẻ đến thế?
Các muối mô (The Tissue Salts)
Chúa đã tạo ra các phương dược từ đất; và ai khôn ngoan sẽ chẳng khinh chê chúng.—Kinh Thánh, Ngụy thư, Huấn ca 38:4
Nghiên cứu huyền môn cho thấy có mười hai “muối mô” căn bản cần được bổ sung khi cơ thể chịu đựng stress. Thông thường các tế bào có thể ứng phó với những đòi hỏi của đời sống thường nhật, nhưng sự tiêu hao năng lượng ở mức khắc nghiệt và kéo dài hơn đòi hỏi bổ sung muối tế bào vượt lên trên những gì kho dự trữ của cơ thể có thể cung cấp, và sự bổ sung như thế phải ở trạng thái tinh luyện, “dĩ thái” để có thể di chuyển nhanh khỏi các dịch mô, xuyên qua vách tế bào, đến thẳng các vị trí tiêu hao năng lượng. Thực ra, sẽ đúng hơn nếu liên hệ chúng với trạng thái lượng tử, nơi các hạt (muối) có thể hành xử như sóng.
Mười hai muối mô như bác sĩ W. H. Schuessler khai triển không chỉ cung cấp các thiếu hụt tức thời của tế bào dưới stress, mà còn khơi dậy và kích thích các lực hồi phục tự nhiên của toàn thân thể. Chúng tuyệt nhiên không can thiệp vào liệu pháp của y giới chính thống, vốn cần tiếp tục khi đã được kê toa. Năm 1832, một bài báo y khoa công bố rằng: “Mọi thành phần thiết yếu của thân thể con người đều là những phương dược vĩ đại.” Các muối mô đều là thành phần của thân thể, vì vậy là những phương dược tự nhiên.
Mười hai muối mô đã được liên hệ với các dấu hiệu hoàng đạo, để nhà chiêm tinh tinh thông có thể phát hiện bất kỳ yếu kém tiềm ẩn nào trong cơ cấu thân thể xét theo các muối, và đánh giá, dự báo các thời kỳ chu kỳ khi những yếu kém này dễ biểu hiện nhất. Muối mô cần thiết thường được chỉ ra bởi dấu hiệu Mặt Trời hay dấu hiệu mọc.
Mười hai muối và các dấu hiệu hoàng đạo:
• Bạch Dương: Kali phosphat
• Kim Ngưu: Natri sulfat
• Song Tử: Kali sulfat
• Cự Giải: Canxi sulfat
• Sư Tử: Silic
• Xử Nữ: Natri phosphat
• Thiên Bình: Canxi fluorid
• Hổ Cáp: Kali clorid
• Nhân Mã: Magnesi phosphat
• Ma Kết: Canxi phosphat
• Bảo Bình: Natri clorid
• Song Ngư: Sắt phosphat
Các tương liên trên áp dụng cho con người trên con đường tinh thần, và có phần khác với các diễn giải chính thống, nhưng cũng có thể được dùng cho bất kỳ ai khao khát hoàn thành một vai trò nhạy cảm và có trách nhiệm tinh thần trong đời sống.
Natri phosphat
Muối sinh hoá của Xử Nữ là natri phosphat, hay Nat. Phos., như được gọi trong dạng vi lượng đồng căn. Dù không phải là thuốc trị bá bệnh cho danh sách dài các chứng Xử Nữ, nó có khả năng tạo kết quả ở những tầng rất sâu và có thể dùng một cách hữu ích để kháng lại vài thói xấu cảm xúc và trí não được phác hoạ ở đây.
Là muối tự nhiên của Xử Nữ, vì thế nó ảnh hưởng nhiều nhất tới gan và ruột non. Các chứng rối loạn gan, viêm ruột thừa, thiếu máu, suy dinh dưỡng, hấp thu chất béo (chyle) và các chứng Xử Nữ khác sẽ đáp ứng với muối này.
Huyết dịch do Cung Sáu chi phối, và natri phosphat duy trì cân bằng kiềm/axit của máu, tự thân là một yếu tố thúc đẩy tính kiềm. Nó kháng lại tính axit bằng cách vận hành qua các tuyến thuộc Cung Sáu, tức tuyến tuỵ, gan và túi mật. Thiếu nó sẽ làm chậm tiêu hoá với sự hình thành các men lên men. Các tuyến này rất nhạy cảm với sự thiếu hụt của nó.
Muối này có thể tạo hiệu ứng mạnh mẽ lên năng lực quân bình của tuyến thượng thận. Điều này liên quan tới việc giữ lại hay bài tiết những chất quan trọng như natri, clo và các khoáng khác. Điều này phù hợp với Xử Nữ, vốn là một dấu hiệu đất và do đó tương ứng với khoáng chất.
Xử Nữ và các phương dược Hoa (Virgo and the Flower Remedies)
Các phương dược hoa do bác sĩ Edward Bach xây dựng từ lâu đã được các nhà chữa trị huyền môn biết đến và coi trọng vì hiệu năng trong việc trị liệu các căn nguyên sâu xa của bệnh tật, hơn là chỉ những triệu chứng bề ngoài. Chúng hoàn toàn an toàn để sử dụng và là bổ sung lý tưởng cho các điều trị chính thống. Dấu hiệu về sự gia tăng phổ biến của chúng là nay chúng có sẵn ở nhiều cửa hàng thực phẩm sức khoẻ và các trung tâm trị liệu. Tôi có thể đề nghị đặc biệt năm phương dược cho kiểu Xử Nữ: Larch, Holly, Olive, Gentian và Cerato.
Có những đặc điểm của dấu hiệu Xử Nữ nổi bật rõ rệt. Người Xử Nữ hết sức quan tâm đến sự thanh sạch, sợ ô nhiễm gần như ở mọi tầng, đặc biệt là ở thực phẩm, phong cách làm việc và nếp sống đã chọn. Danh mục Phương dược Xử Nữ là một trong những danh mục dài nhất bởi quá nhiều người khổ vì các phẩm tính tiêu cực của dấu hiệu Xử Nữ nói chung, và của từng kiểu phương dược hoa thuộc Xử Nữ nói riêng.
Chúng ta sống trong một thời đại mà với một số người, việc ra quyết định chỉ giới hạn trong những vấn đề rất nhỏ, dù vào thời điểm đó chúng có thể trông rất lớn với đương sự. Có quá nhiều quyết định đã được làm thay cho chúng ta. Chúng ta phải làm việc, và loại hình việc làm mà ta dấn thân thường được quyết định cho ta từ thuở thiếu thời bởi cha mẹ. Thông thường, ta phải đi đi về về nơi làm việc theo một lộ trình định sẵn, và các quyết định ta đưa ra khi lái xe hầu như mang tính tự động, được tạo bởi kinh nghiệm thuần tuý hay phản xạ trong hành động.
Những chương trình ta xem trên truyền hình được một uỷ ban giám đốc nào đó, ở đâu đó trong một văn phòng ở thành phố quyết định sẵn cho ta. Thực phẩm ta ăn bị giới hạn về chủng loại bởi giá cả, sự tiện lợi khi chế biến, và sở thích chung của gia đình hơn là của từng cá nhân. Những sách ta đọc, bạn bè ta giao du, v.v., tất cả rất thường bị quyết định cho ta bởi các cấu trúc xã hội, vị trí khu dân cư, nền học vấn, gốc gác gia đình và chủng tộc, v.v.
Một số người (đặc biệt là Song Ngư) thích có một đời sống mà các quyết định được làm thay cho họ, và cảm thấy không được che chở, thậm chí bất hạnh, trần trụi, phơi bày hay thiếu tự tin nếu họ bị đặt vào vị thế phải tự định đoạt. Các định chế ngân hàng khổng lồ, công ty dầu, nhà phân phối thực phẩm, v.v., đang trở nên to lớn hơn, và mỗi định chế gần như một cỗ máy làm ra tiền. Chúng vận hành như những Leviathan, trong đó nhân viên chỉ là những bánh răng trong guồng máy, được tuyển dụng và cho nghỉ dựa theo tuổi, giới và mức hữu dụng, được trả theo lương, bị trói buộc bởi các quy định, v.v. Đây là một bức tranh ảm đạm về xã hội của chúng ta, nhưng lại là một biểu hiện quá đúng của nó. Quá ít người làm với đời mình điều họ muốn làm. Càng ít người biết cách thay đổi bản thân và công việc của mình, hay thậm chí quan tâm. Khi Xử Nữ hay Mặt Trăng bị hãm hại nặng, có một sự quá-mẫn tiếp ứng với những quy tắc ứng xử, đạo lý và chuẩn mực kiểu nô lệ mà đám đông phải sống theo, và họ trở thành biểu hiện tiêu cực của các kiểu Xử Nữ.
Các Phương dược Hoa, do Mặt Trăng ở Xử Nữ hoặc nhà sáu chi phối, cấu thành một liệu pháp tự thân dựa trên phân tích triệu chứng và kê các phương dược thích hợp. Khi ghi nhận bệnh sử và thấy có thể liên đới tới một phương dược trong “kho” Xử Nữ, hãy luôn nhớ hỏi về công việc, mối bận tâm về sức khoẻ và cách bệnh nhân có thể phụng sự người khác.
Thông rụng lá

Những hoài nghi của ta là kẻ phản trắc khiến ta mất điều tốt đẹp ta thường có thể thắng, chỉ vì sợ mà không dám thử.—William Shakespeare, Hamlet.
Với hầu hết chúng ta, thất bại mang một chức năng tâm lý hữu ích: làm xẹp cái tôi khi nó bắt đầu phồng lên như trái cầu bông, kéo theo sự xa lìa ngày càng tăng khỏi Chân ngã. Thế nhưng, với kiểu Larch, thất bại lại chỉ làm gia tăng mặc cảm tự ti vốn có, chồng chất lên sự thiếu tự tin và khuynh hướng lần lữa trì hoãn.
Kiểu Larch không phải là người sợ hãi. Ông đủ thực tiễn để nhận ra sự bất lực của mình trước những vấn đề nhất định trong đời. Ông thậm chí có thể không biết vì sao mình thiếu tự tin. Ông chỉ biết rằng mình không thể cạnh tranh trong những lĩnh vực biểu lộ năng lực nào đó, và đủ thực tiễn để không thử. Tất thảy chúng ta đều đối mặt thách thức, và đó là cách ta trưởng thành. Kiểu Larch cần trở nên quả quyết hơn và xua đuổi mặc cảm tự ti của mình.
Có một bài thơ tuyệt đẹp của Arthur Hugh Clough, Chớ nói rằng phấn đấu là vô ích, mà mọi người thuộc kiểu Larch nên đọc khi thấy chán nản:
Chớ nói rằng phấn đấu là vô ích,
Công lao và thương tích đều hoài,
Kẻ địch chẳng nao, chẳng mỏi,
Sự vật vẫn y như xưa nay.
Nếu hy vọng là trò dối gạt, thì sợ hãi có thể là kẻ nói dối;
Có thể kia, giữa khói sương che khuất,
Bạn hữu ngươi ngay giờ đang đuổi kẻ tháo chạy,
Và nếu chẳng vì ngươi, họ đã chiếm lĩnh trận địa này.
Vì trong khi những đợt sóng mỏi mòn, vỡ vụn,
Dường như ở đây không giành thêm nổi một tấc đau đớn,
Thì phía sau, theo những lạch nhỏ, những vịnh hẹp,
Lặng lẽ dâng tràn, biển cả đang tới.
Và chẳng chỉ từ cửa sổ phương đông,
Khi ngày đến, ánh sáng mới vào;
Phía trước, mặt trời leo lên chậm, thật chậm;
Nhưng nhìn kìa phía tây, đất trời rạng rỡ!
Phương diện tích cực của Larch mang phẩm tính Cung Năm mạnh, khiến ông phân tích và tự tin có thể đối phó bất kỳ tình huống nào. Ông lao vào đời, sẵn sàng mạo hiểm và không nao núng trước kết quả nản lòng. Nếu ông thất bại, thì không phải vì không nỗ lực hết mình.
Cây nhựa ruồi

Trong mọi tội lỗi chết người, có lẽ ghen tị là đáng ghét nhất. Bạn sẽ chẳng bao giờ thấu hiểu bảy tội lỗi chết người cho đến khi ở đầu kia của mỗi tội! Vì một lý do khó dò, ghen tị lại trổ đầy trong các lĩnh vực huyền môn hơn đa số nơi khác. Khốn thay cho kẻ tuổi đời còn trẻ mà hồn đã già, bắt đầu sải những bước dài trên Đạo mà vẫn còn ở chốn công khai.
Thật thường xuyên, một người trẻ có phát triển linh hồn lớn lao, trong tất cả chân thành, chọn một lối hành động để thúc đẩy một phương diện nào đó của Thiên Cơ. Sai lầm tất yếu sẽ xảy ra ở cấp độ phàm ngã. Những kẻ ghen tị sẽ sớm dọn dẹp sạch sẽ, đập tan một nỗ lực liều lĩnh như thế nhằm trèo khỏi chỗ tầm thường. Ghen tị chẳng bao giờ nghỉ phép và đôi khi còn là động lực lớn hơn cả tiền.
Nơi nào thù hận lan tràn và ghen tị là lẽ thường ngày, Holly là giải dược. Nhiều người nói ghen tị và thù hận là căn do của tình cảnh không thể chịu đựng nổi của con người ở phương Tây hiện nay. Căng thẳng không ngớt dường như tăng theo từng năm thực ra bắt nguồn từ ghen tị và người anh em song sinh của nó—hận. Nơi đâu có khoảng trống thay cho tình thương, kẻ thù tối hậu của tình huynh đệ liền lộ diện như tính phân ly; bất an và gây hấn cùng nhau biểu lộ tập thể thành chiến tranh. Đó là sản phẩm của thiếu vắng tình thương.
Kiểu Holly ở khía cạnh tiêu cực nhất không phải lúc nào cũng dễ chẩn đoán, nhất là khi nhiều “tội lỗi chết người” cùng hiện diện đồng thời nơi một người. Bác sĩ Bach gợi ý rằng bất cứ khi nào các triệu chứng không đổi chiều theo hướng tốt hơn khi đã kê một Phương dược, thì hãy cho Holly. Cùng với Wild Oat, hai Phương dược này, riêng rẽ hay cùng nhau, rất nhanh có thể làm nổi bật triệu chứng chính, khiến Phương dược Hoa thích hợp trở nên hiển nhiên.
Hiếm khi kê Holly riêng lẻ; nó thường đi kèm “dàn nhạc” gồm Olive (cho hao kiệt năng lượng), Crab Apple (cho thù hận mang tính lây nhiễm) và Chicory (cho tính chiếm hữu).
Chúng ta có cần nói rằng mặt tích cực của Holly được mô phạm bởi người biết toả ra tình thương bất chấp những hoàn cảnh bực dọc nhất. Một ví dụ tuyệt đẹp được tìm thấy trong câu chuyện của Daniel Defoe về Robinson Crusoe, ở đoạn người thuỷ thủ bị bỏ rơi dành hàng tuần đục đẽo một con thuyền từ khúc gỗ khổng lồ, chỉ để thất bại khi kéo nó xuống nước. Nếu như ông, chúng ta có thể giữ được cái nhìn vui tươi và nhân hậu về cuộc đời trước những cú sốc xé lòng như vậy, ta sẽ xứng đáng với biểu hiện tích cực của Holly.
Olive

Cây Olive
Hơn bất cứ điều gì, dấu hiệu Xử Nữ liên hệ đến lao động cần mẫn. Trong khi có người kiệt sức chỉ vì ngồi nhìn người khác làm việc, thì lại có người nhanh chóng kiệt sức bởi lao động thể chất hay trí não do mức độ tập trung họ đạt được trong khi làm việc. Quả vậy, các năng lượng dĩ thái bị tiêu hao qua nỗ lực trí não, cảm xúc hay thể chất.
Có người nói lao động vất vả chẳng giết ai, nhưng ai cũng biết sắc diện nhợt nhạt và đôi khi làn da ngả ôliu của những người kiệt sức, không thể tự tái tạo. Tâm trí con người có giới hạn của nó, cũng như thân thể, và các giới hạn ấy khác nhau nơi từng người.
Các kiểu Olive dường như không có cơ chế nội tại nào có thể cảnh báo họ khi họ đi quá xa trong nỗ lực thể chất, cảm xúc và trí não. Họ luôn hơi ngạc nhiên khi phát hiện mình đã kiệt quệ hoàn toàn đến mức choáng váng, chẳng còn sinh khí cho đời, huống hồ cho công việc đang làm. Olive dành cho những ai thiếu “bộ điều tốc” bẩm sinh có thể cảnh báo về tình trạng kiệt sức đang đến. Họ thường kiệt quệ đồng thời nơi thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí.
Phương diện tích cực của Olive thể hiện nơi những ai đã học cách ước lượng năng lực tự nhiên của họ trong công việc, làm việc với hứng khởi và nhiệt tâm, và biết khi nào cần nghỉ ngắn—dù là cầm lên một món thủ công nhẹ, hay rửa bát đĩa, tỉa hồng hay quét vỉa hè.
Tuy nhiên, còn có điều gì đó nữa ở phương diện tích cực của Olive. Kiểu Olive biết cách “xả năng lượng” với sự tự do biểu lộ đến mức không còn rào cản độc tố nào ở lại để kìm hãm dòng năng lượng tự nhiên chảy vào—quyền lợi mang tính hành tinh của mỗi con người. Những tư tưởng và cảm xúc ức chế giữ độc tố trong thân, bít tắc các kinh mạch, và ngăn trở sự giao hoà tự do giữa các luân xa trên trục sống. Các kiểu Xử Nữ, với phẩm tính rất tiêu cực của mình, dường như cứ tích tụ những bế tắc đối với dòng chảy tự nhiên của năng lượng dĩ thái. Bởi thế mới có khát vọng bẩm sinh và luôn thường trực nơi họ là tự thanh lọc.
Không thể tái tạo bất cứ thứ gì từ hư vô, và kiểu Olive tích cực luôn biết khi nào mình đã cạn tới dự trữ cuối cùng. Họ luôn còn “cái gì đó” để tái tạo, trong khi kiểu tiêu cực dùng đến quả trứng vàng cuối cùng và trong ngu muội thậm chí còn giết cả con ngỗng đẻ trứng vàng.
Nói chung, khi một dấu hiệu đất có Mặt Trời bị hãm hại trong đó, phương diện tiêu cực của Olive lộ diện; trái lại, các ảnh hưởng thuận lợi tới Mặt Trời trong dấu hiệu đất mang lại phương diện tích cực của Olive. Dù sao đi nữa, khi Mặt Trăng hoặc Xử Nữ hoặc nhà sáu bị hãm hại nặng trong một lá số chiêm tinh, ít nhất một trong các Phương dược Xử Nữ sẽ được chỉ định, và hiếm khi Olive không dính dáng phần nào.
Gentian

Trong thời chiến, có thói lệ là cho phi công cất cánh ngay lại trên một chiếc máy bay khác ngay sau một vụ rơi máy bay, để giúp anh ta hồi phục khỏi sự mất tự tin đột ngột mà trải nghiệm ấy luôn áp đặt. Tất cả chúng ta đều gặp trắc trở—các vì sao không thể lúc nào cũng hoạt động có lợi cho ta. Có người gặp tai nạn xe hơi và chẳng muốn lái nữa, hay chấn thương khi chơi khúc côn cầu và chẳng muốn chơi nữa. Đó thường là các kiểu Gentian. Nỗi sợ của họ đã rõ; sự chán nản của họ là phản ứng và có thể hiểu được.
Vì kiểu này thuộc dấu hiệu Xử Nữ—dấu hiệu phân tích nhiều nhất trong mười hai dấu hiệu hoàng đạo—kiểu Gentian thường đã xem xét vấn đề của mình nhiều lần và đi vào mọi sắc độ của những hệ luỵ của nó, đến nỗi cố gắng dùng liệu pháp tâm lý hầu như vô dụng. Khi ấy Phương dược Hoa Gentian mới thật hữu ích. Những cuộc “xem lại” vô tận về vấn đề, dù là một biến cố đơn lẻ hay phát sinh từ chuyện thường nhật, chỉ càng củng cố u sầu, bơm thêm năng lượng cho nó và khiến nó có vẻ không thể vượt qua.
Hoài nghi, nản lòng và trầm uất từ một nguyên do đã biết là các từ khoá để phân tích đúng kiểu Gentian, vốn xuất hiện dưới nhiều dáng vẻ: tù binh chiến tranh, hành khách bị không tặc, kẻ lưu vong vì thuế, người mắc kẹt trong công việc cụt đường, bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, người nhập cư chưa thích nghi, hay ông Bà bị bỏ quên trong khoa lão. Khi Xử Nữ bị hãm hại, gần như bao giờ cũng hàm ý thiếu tự tin, nghi bệnh, trầm uất và thái độ tiêu cực. Kiểu người này không thể tin rằng mình có tư lương để vượt qua cảnh ngộ. Gentian thay đổi tất cả điều đó.
Đứa trẻ bị đưa vào trại chăm sóc và bị chuyển từ người đỡ đầu này sang người khác, chẳng có gì bền vững ngoài vài món đồ nhỏ mang theo; cậu bé mắc chứng sợ đến trường—thường chỉ là hậu quả của một cú va vấp nhỏ bởi tay một kẻ bắt nạt hay một thầy cô; bậc cha mẹ bị từ chối thị thực để thăm con gái đã lấy chồng ở nước ngoài—làm sao họ hiểu rằng “sự tách lìa khỏi nguồn” tạo trong họ những điều kiện tiêu cực đến mức có một dòng chảy đều đặn từ cặn bã của cõi cảm dục vào hào quang của họ? Không giống Mustard—liên hệ đến dạng trầm uất nội sinh—Gentian liên quan đến một sự cản trở hay mất mát gây chán nản, một bế tắc rất thực và hiện diện khắp nơi đối với tăng trưởng và biểu lộ.
Ở phương diện tích cực của Gentian, ta có những con người tuyệt đẹp, những người chẳng bao giờ để bất cứ điều gì đánh quỵ mình. Họ chịu những cú sốc khủng khiếp nhất nhưng vẫn giữ thái độ tích cực—tìm lỗi của mình, sửa ở chỗ có thể, chẳng bao giờ để các lực tiêu cực ngăn trở, ngay trong những giờ khắc tăm tối nhất trước bình minh.
Cerato

Ra quyết định là khó nhất với những ai cảm thấy bất an. Với họ, luôn có nỗi sợ rằng một quyết định được đưa ra có thể bào mòn thêm chút ít an ninh ít ỏi đang có. Khát vọng an toàn rất mãnh liệt nơi những người có các dấu hiệu đất (Ma Kết, Kim Ngưu và Xử Nữ) nổi trội. Đối mặt với việc phải quyết định, Ma Kết thận trọng; Kim Ngưu không thể buông nên các lựa chọn của ông bị các chuyện thứ yếu tấn công và phủ mờ; Xử Nữ không chịu nổi ý nghĩ về sự bề bộn hay mối đe doạ sức khoẻ đến từ phần việc thêm ra và các trách nhiệm cùng cả ngàn chuyện li ti có thể nảy sinh khi quyết định sau cùng được đưa ra.
Nói chung, ngoài nỗi sợ bất an—điều quan trọng nhất—những người vật lộn với bài toán ra quyết định có thể được nhóm như sau:
• Những tay tài tử Cung Ba, có các hoạt động tản mạn, đa dạng và quá nhiều đến mức mỗi quyết định được làm gần như chắc chắn dẫn tới các rắc rối.
• Những người bản tánh rất dịu, tràn đầy Cung Hai của Bác ái–Minh triết, vì đồng cảm với những ai sẽ bị ảnh hưởng mà trở nên do dự khi phải ra quyết định.
• Những người đã bị tổn thương trong các đời trước hay đời này bởi một biến cố chấn thương nào đó hay một chuỗi biến cố khiến việc ra quyết định trở thành tái hiện chấn thương.
• Những người bị ảnh hưởng quá sâu bởi ai đó trong đời hiện tại—một phụ huynh lấn lướt hay một bạn đời bòn rút—đến nỗi mọi độc lập, nhất là thứ độc lập dính líu tới việc quyết định, trở thành bất khả.
Tình trạng Cerato né tránh việc ra quyết định được nâng lên một cấp độ quan trọng khác khi các quyết định có tính tinh thần được đem ra cân nhắc. Quyết định tinh thần đến tới tấp trên con đường khai mở. Mỗi lần đoạn tuyệt với một bám víu vật chất hay cảm xúc đều đặt ra một quyết định tinh thần. Mỗi chủ tâm của đệ tử nhằm tự trang bị để phụng sự nhân loại đều đòi một quyết định. Như tục ngữ nói: “Con đường xuống địa ngục được lát bằng những ý định tốt”, và chúng ta xin thêm một tiếng amen—rằng các phiến lát ấy được gắn bằng bê tông của sự do dự.
Trong kiệt tác Hamlet của Shakespeare, ta có một bi kịch dựa trên quyết định và do dự. Một kiểu Cerato tích cực, nếu ở vào hoàn cảnh của Hamlet, có thể giải quyết rốt ráo chuyện vụ sát hại cha mình trong năm phút bằng cách đưa ra quyết định vào thời điểm nó liên hệ nhất, thay vì để xu thế sự việc quyết định thay cho mình. Trung thành với Cerato, một khi Hamlet đã quyết định sửa mọi điều sai trái—điều lẽ ra chàng nên làm ngay từ đầu—chàng bám chặt lấy quyết định của mình. Ở phương diện tích cực nhất, chàng là một hình tượng trực giác, quyết đoán và anh hùng, chẳng bao giờ đánh mất sự hướng nội tổng thể.
XỬ NỮ TIẾN HÓA
Nhưng tia quang của Xử Nữ khiêm nhu rèn giũa tài hoa, Và lấp đầy ngực người bằng chính trực và nghệ thuật; Không mánh mung vì lợi, chẳng vì ái luyến của cải, Mà là tư tưởng sắc bén và hùng biện thu phục.—Manilius.
Không thể tìm thấy những người phụng sự tận tụy và tận tâm hơn cho sự cải thiện và tinh luyện của mọi sự sống đang tiến hóa ngoài những người Xử Nữ đã tiến xa trên con đường khai mở tinh thần. Những người này thích phụng sự ở nơi công việc chi tiết được đòi hỏi, và không hề mong cầu sự công nhận. Họ không có ham muốn đặc biệt để chỉ huy, mà tìm thấy sự viên mãn trong phụng sự. Hạnh phúc khi được phụng sự những bậc tinh thần cao hơn, họ nêu một tấm gương đẹp cho những người khác bằng các tiêu chuẩn cao cả và sự tinh khiết trong mục đích.
Tuy nhiên, những người Xử Nữ này không trốn tránh trách nhiệm. Bình tĩnh và sáng suốt, họ thấy được hoàn cảnh có thể được sử dụng như thế nào cho điều tốt nhất, và sẽ dùng những phương tiện đúng đắn để đạt đến những mục đích đúng đắn. Sẵn sàng gánh lấy một khối lượng công việc nặng nề, họ sẽ thực hiện nó một cách trung thành và không than phiền cho đến từng chi tiết cuối cùng. Không tìm kiếm phần thưởng hay sự tự đề cao, họ ngạc nhiên và bối rối khi sự công nhận đến với họ cho sự tận tụy lâu dài và thường gian khó đối với công việc kín đáo nhưng vô cùng quan trọng. Sống vì sự phụng sự đồng loại, họ không hề quan tâm đến cái giá phải trả cho bản thân và hạnh phúc nhất khi phần thưởng đơn giản chỉ là sự cải thiện phúc lợi của những người họ phụng sự. Họ chẳng thích gì hơn ngoài việc trợ giúp sự tiến hóa của nhân loại hướng đến sự trọn vẹn, tinh khiết và vẻ đẹp.
Lời nói của họ thường nghiêm túc nhưng cũng thường được làm nhẹ đi bởi một sự dí dỏm thanh nhã; trong khi họ thường bị buộc tội là hay chỉ trích, điều này xuất phát từ những người không thấu hiểu được sự hữu ích và tầm quan trọng của quyền năng phân biện nơi họ. Dù họ luôn có thể nhìn thấy những điểm yếu ở bất kỳ cá nhân nào, họ lại thích sử dụng những gì tốt đẹp nhất nơi người đó để hình thành, nếu có thể, một điều gì đó xứng đáng hơn.
Tình yêu bẩm sinh của Xử Nữ đối với sự tinh khiết và trinh khiết khiến cho những người sinh dưới dấu hiệu của trinh nữ dễ sống đời độc thân hơn nhiều dấu hiệu khác. Sự chuyển hóa năng lượng tình dục của họ là một kỷ luật tốt và là hành động quên mình, dẫn đến một cuộc sống sáng tạo lớn hơn nữa.
Họ có thể dấn thân vào nhiều hình thức biểu lộ tôn giáo với niềm tin sâu sắc nhưng thường không có nghi thức hay sự phức tạp. Không dễ bị cuốn vào sự ngây ngất hay xuất thần, khuynh hướng của họ thường nghiêng về Tin Lành, trái ngược với Song Ngư, kẻ ưa thích Công Giáo. Trong tôn giáo, sự giản dị là nốt nhạc đúng đắn đối với họ—họ không thể cưỡng lại câu hỏi “Điều này có ích gì?” Họ thích công việc của mình được chúc phúc hay được thánh hóa, và được ban cho sức mạnh để phụng sự cho đến khi công việc hoàn tất.
Khả năng phân biện phát triển cao của họ có thể giúp họ thấy được cánh rừng thay vì chỉ từng cái cây, một nhiệm vụ gần như vượt quá khả năng của những người thuộc dấu hiệu này ở mức thấp. Khi ấy, họ có thể thấy được con đường tốt nhất để đi theo và bỏ qua hàng ngàn sự xao nhãng bủa vây trong đời sống hiện đại. Những khoảng nghỉ ngơi là vô cùng quan trọng trong Địa vị đệ tử, và kiểu người này đặc biệt cần thỉnh thoảng rút lui vào sự tĩnh mịch và một môi trường yên bình, nơi họ có thể nghỉ ngơi, tham thiền và phục hồi bản thân.
Người Xử Nữ siêng năng giữ một cuốn nhật ký tinh thần. Nó trở thành tòa giải tội của y, cũng là một trợ cụ của Xử Nữ như tràng hạt mà người Công Giáo nhiệt thành sử dụng để đếm số lời cầu nguyện của mình. Xử Nữ—nhà phân tích, kế toán và sử gia trong đời sống ngoại môn—là người giữ nhật ký ở những cấp độ cao hơn. Trong cuốn nhật ký, y có thể ghi lại về bản thân mình và thậm chí cả về Chân sư của y. Trong nhật ký tinh thần, y phải chèn vào những ghi chép về các khát vọng và nỗ lực tinh thần cao cả nhất của mình. Ở đó, giấc mơ của y phải được phân tích, động cơ được phơi bày, sự tinh khiết được thiết lập. Cho đến khi các ghi chép hàng ngày được hoàn tất, Xử Nữ vẫn không yên lòng. Những kinh nghiệm nội tâm của y có được hình dáng vững chắc và ý nghĩa thực tại một khi chúng đã “đi qua” những trang nhật ký linh thiêng ấy. Đọc lại nhật ký mang đến sự an ủi từ bản ghi chép về những trận chiến tinh thần đã thắng và những nẻo đường khó khăn đã đi qua.
Trong thế giới thương mại và chính trị, thiên tài của Xử Nữ được biểu lộ tốt nhất khi làm việc như một đại diện cho người khác. Sư Tử, dấu hiệu đi trước Xử Nữ, bước vào thế giới này để phát triển bản thân, mở rộng và trang bị cho phàm ngã của mình. Xử Nữ tìm một sự nghiệp liên quan đến vô ngã hoặc cái ngã của người khác, dù điều này có thể khiến y “đầy những lo lắng, vì họ lo cho người khác,” như Valens đã nói. Người Xử Nữ có tài năng có thể vươn lên những đỉnh cao lớn trong thế giới thương mại, sức mạnh của sự chính trực mang lại một nền tảng vững chắc cho công việc mà y phục vụ.
Người Xử Nữ siêng năng quan sát lợi ích kinh doanh của mình với sự cẩn trọng và phân tích tinh tế. Khi được người khác thuê để làm điều tương tự, dù là kế toán hay một người chăn cừu giản đơn, y còn chú tâm hơn nữa đến những gì được giao phó. Đem lại công việc lương thiện, đảm bảo mọi thứ đều chính xác đến từng chi tiết nhỏ nhất, và giữ mình không bị vấy bẩn bởi sự tồi tàn của thế gian, trong khi vẫn phụng sự trong những điều kiện thấp hèn và bẩn thỉu nhất để trợ giúp người khác, chính là lý tưởng của kiểu người này.
Trong lĩnh vực chính trị, y trở thành sức mạnh phía sau ngai vàng. Sự kiên nhẫn và bền bỉ của y gắn liền với khả năng lưu giữ thông tin chi tiết và đánh giá đúng thời điểm để công bố chúng, và y không bao giờ quá mệt mỏi để không chú ý đến khối lượng công việc giấy tờ mà nhà lãnh đạo phải để cho người khác làm. Sự đáng tin cậy lớn lao và sự thiếu tham vọng khiến y trở thành người được quý trọng nhất trong loại công việc này.
Phần lớn thiên tài của Xử Nữ ẩn giấu trong học vấn vĩ đại nhưng không được công nhận, và một năng lực nghiên cứu tinh tế. Kiểu người này sẽ biên soạn những bộ sách dày cộm chứa thông tin vô giá cho học viên. Ở đây xuất hiện nhà khoa học, nhà hóa học nghiên cứu, những “nhà Curie” của thế giới. Làm việc trong sự vô danh, trong phân tích kiên nhẫn, loại bỏ, tìm kiếm, thường với rất ít sự khích lệ, họ cuối cùng đạt được mục tiêu đã tự đặt ra và trở thành những nguồn suối lớn mở ra các kênh khoa học mới mẻ, tinh khôi, và một ảnh hưởng lâu dài trong trật tự thay đổi của đời sống mọi người trên trái đất.
Trong khi những hình thức phụng sự rõ ràng nhất kêu gọi sự chú ý của họ, như điều dưỡng, công tác xã hội, phục vụ trong nhà tù, v.v., người Xử Nữ lại dễ dàng chọn một cuộc sống ẩn dật. Thoát khỏi những xao nhãng của thế gian, họ có thể dâng hiến đời mình cho một công việc tinh khiết và cao cả hơn, trong tham thiền và hình dung thể trí về sự chữa lành nhân loại. Họ không ẩn dật cho riêng mình, mà vì lợi ích lớn lao hơn và để phụng sự. Nếu sự yếu đuối thể chất trong những năm cuối đời ngăn họ tham gia vào thế giới bên ngoài, thì đây chính là cách họ sẽ chọn để sống những năm tháng cuối cùng của đời mình. Điều này cho họ một cơ hội để nhìn lại cuộc đời và giải quyết bất kỳ mối dây lỏng lẻo nào có thể bị bỏ quên.
Thiên tài Xử Nữ
Những thành quả của những con người tài năng chịu ảnh hưởng theo cách này hay cách khác từ Xử Nữ đã có tác động sâu rộng đến nhân loại. Ở hình thái thuần khiết nhất, thiên tài Xử Nữ hiếm khi tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ trong thế giới, và có khuynh hướng khiêm nhường. Dấu hiệu này thiếu ngọn lửa cần thiết để đạt được danh tiếng, vinh quang và thành công. Sức mạnh của nó nằm ở khả năng làm chủ chi tiết và sự chính xác, trong phân biện, và sự tinh khiết trong biểu đạt. Tuy nhiên, những tài năng đặc thù này của Xử Nữ đã được tích hợp với hiệu quả lớn lao vào cuộc đời của một số nhân vật vĩ đại nhất sinh ra dưới dấu hiệu khiêm tốn này.
Samuel Johnson, nhà biên soạn từ điển, tiểu luận gia, nhà thơ, nhà phê bình, và là nhà văn hàng đầu của nước Anh nửa sau thế kỷ 18, được sinh ra dưới dấu hiệu này. Thời kỳ ấy nay được gọi là “Thời đại Johnson” để ghi nhận sự lỗi lạc của ông. Thành tựu của ông đa dạng đến mức khó có thể tóm gọn. Ông đã cho ra đời ấn bản đầu tiên các vở kịch của Shakespeare được biên tập một cách thông minh; phê bình văn học của ông, sau một thời gian dài không được ưa chuộng, nay đã được xếp đúng chỗ cùng với những tác phẩm hay nhất trong văn học Anh, và với tư cách là một nhà đạo đức, ông luôn được ngưỡng mộ. Ông có lẽ được nhớ đến nhiều nhất vì đã viết cuốn từ điển tiếng Anh đầu tiên dựa trên nguyên tắc lịch sử:
“Tôi đã lao động để tinh luyện ngôn ngữ của chúng ta đến sự tinh khiết ngữ pháp, và gột bỏ nó khỏi những sự thô lỗ trong khẩu ngữ, những lối diễn đạt phóng túng, và những sự kết hợp bất thường.” — The Rambler
Jane Austen, với dấu hiệu mọc Xử Nữ, là một trong những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất của Anh quốc, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tiểu thuyết Anh. Sáu cuốn tiểu thuyết của Bà có thể được xem là một trong những thành tựu tối cao của văn học Anh. Trong thời của mình, Austen là một tiểu thuyết gia ẩn dật, tên của Bà không xuất hiện trên bìa sách. Dù không bao giờ kết hôn và sống một cuộc đời tương đối giới hạn, thế giới gia đình, đời sống thôn xóm, và giới quý tộc nông thôn Anh dường như không giấu giếm được bí mật hay sự tinh tế nào khỏi đôi mắt quan sát và phân biện của bà. Nhận thức rõ những giới hạn trong sáng tác của mình, Austen khiêm tốn ví mình như một họa sĩ vẽ tiểu họa:
“Mảnh ngà nhỏ bé (rộng hai inch) mà tôi đang làm việc với cây cọ tinh xảo, vốn chỉ tạo ra ít hiệu quả sau nhiều lao động.” — Thư gửi J. Edward Austen, 1816
Mặc dù cốt truyện của Bà có thể đoán trước và trọng tâm hẹp, nhưng Bà viết với một phong cách trau chuốt, dí dỏm và tỉ mỉ. Bà quan sát ngôn ngữ và cung cách ứng xử với sự dí dỏm và chính xác, phơi bày những điều lố bịch của các nhân vật trong mối liên hệ với những tiêu chuẩn cao về sự chính trực và sự thích đáng.
Charles Dickens, tác giả nổi tiếng thời Victoria, theo một số người cũng có dấu hiệu mọc Xử Nữ. Ông chắc chắn có một sự ghét bỏ tự nhiên với cái ác và sự thô tục, cùng với mối quan tâm sâu sắc đối với nhân loại, và các tác phẩm của ông đã đưa đến sự chú ý của công chúng sự vô nhân đạo và nhu cầu cải cách trong một xã hội công nghiệp cho phép quá nhiều người sống trong cảnh nghèo khổ khủng khiếp. Ông cũng là bậc thầy trong việc mô tả chi tiết con người, nơi chốn và sự kiện; các tác phẩm của ông chứa đựng một dải cốt truyện và nhân vật tuyệt vời, thấm đẫm sự dí dỏm khô khan đặc trưng của Xử Nữ, tất cả đều được định hình rõ ràng đến mức không gây nhầm lẫn cho độc giả. Ông ý thức rõ tầm quan trọng của chi tiết trong đời sống:
“Thu nhập hằng năm hai mươi bảng, chi tiêu hằng năm mười chín bảng mười chín xu và sáu, kết quả là hạnh phúc. Thu nhập hằng năm hai mươi bảng, chi tiêu hằng năm hai mươi bảng không xu và sáu, kết quả là khốn khổ.” — David Copperfield
Khối lượng sáng tác của Dickens thật phi thường, và mặc dù ông nhạy cảm với sự chỉ trích, ông vẫn tiến hành nhiều chuyến lưu diễn công khai rộng khắp, đọc các tác phẩm của mình với niềm say mê lớn. Thực tế, ông đã qua đời vì làm việc quá sức.
Thiên tài người Đức Goethe, nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà viết kịch, nhà triết học tự nhiên và là nhân vật vĩ đại nhất của thời kỳ Lãng mạn Đức, là một con người có sức sáng tạo phi thường. Lá số mà chính ông tự lập cho thấy cả Mặt Trời và Sao Kim ở Xử Nữ, cùng dấu hiệu mọc Hổ Cáp. Cả cuộc đời ông được dẫn dắt bởi cuộc tìm kiếm chân lý. Vừa là nhà khoa học vừa là nghệ sĩ, ông được nhớ đến nhiều nhất vì các thành tựu văn học. Là một người khiêm nhường bẩm sinh, ông tự hạ mình. Ngay cả khi còn trẻ, ông đã có khuynh hướng phân loại, sắp xếp và thu thập, gần như đến mức ám ảnh:
“Nhưng nếu chúng ta muốn trung thành, thì tôi thực sự có gì khác ngoài năng lực và khuynh hướng để phân biệt và lựa chọn?”
Goethe nhìn nhận tri thức như một điều phải đạt được thông qua kinh nghiệm và lao động gian khổ. Luôn luôn đặt câu hỏi về phương pháp và kết luận của mình, ông thậm chí còn tìm kiếm sự xác nhận về sự hiện hữu của Thượng đế bằng phương tiện trí tuệ. Ông nổi tiếng nhất với tác phẩm thơ kịch Faust, một nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều tác giả sau này. Trong tác phẩm này, đúng với dấu hiệu mọc Hổ Cáp và Mặt Trời Xử Nữ, ông đối diện với cuộc xung đột giữa thiện và ác: “Ôi than ôi! Hai bản ngã cùng sống trong tôi.”
Bá tước Leo Tolstoy, tiểu thuyết gia vĩ đại nhất của Nga và một trong những triết gia đạo đức có ảnh hưởng lớn, được sinh ra với Mặt Trời, Sao Thủy và Mặt Trăng ở Xử Nữ. Năm lên chín tuổi, ông trở thành trẻ mồ côi và sau đó được các dì nuôi dưỡng. Tác phẩm của ông thể hiện một sự phân tích tâm lý chưa từng có về chi tiết, và một sự mô tả chiến tranh nhằm thay thế vinh quang lãng mạn bằng cái nhìn hiện thực về chiến trận như những hành động không hào nhoáng của những con người bình thường. Về sau trong đời, ông trải qua một cuộc khủng hoảng culminant, dẫn đến sự chuyển hóa sang một học thuyết về tình yêu Kitô giáo, sự chấp nhận cái ác một cách bất bạo động, và sự từ bỏ giàu có.
Mary Shelley, cũng sinh ra dưới Xử Nữ, là người đã gần như đáp ứng được mọi yêu cầu mà Percy Shelley mong muốn ở bạn đời: “một người có thể cảm được thi ca và hiểu triết học.” Sau cái chết của chồng vào năm 1822, Bà trở lại Anh và dốc sức quảng bá các tác phẩm của Shelley cũng như giáo dục đứa con duy nhất còn sống, Percy Florence Shelley. Bà xuất bản Posthumous Poems của chồng, và cũng biên tập Poetical Works với những chú giải dài và vô giá, cùng các tác phẩm văn xuôi của ông. Nhật ký của Bà là một nguồn phong phú cho tiểu sử Shelley, và thư từ của Bà là phần bổ sung không thể thiếu. Bà đã tạo ra một cơn ác mộng đậm chất Xử Nữ trong tác phẩm nổi tiếng Frankenstein; hay Prometheus Hiện đại, sự kết hợp giữa tiểu thuyết Gothic và khoa học viễn tưởng, trong đó Bà kể lại những hậu quả khủng khiếp nảy sinh sau khi một nhà khoa học tạo ra một con người nhân tạo.
Một văn hào Xử Nữ khác là D.H. Lawrence, tác giả người Anh, các tác phẩm của ông phản ánh sự căm ghét chủ nghĩa công nghiệp và khát vọng tìm kiếm một lối sống tự nhiên và viên mãn về cảm xúc hơn. Như Aldous Huxley từng nói về ông:
“Đối với Lawrence, sự tồn tại là một sự hồi phục dài lâu; như thể ông được tái sinh từ một căn bệnh tử vong mỗi ngày trong đời.” — The Olive Tree
Ông nổi tiếng trong ý thức phổ quát như một tác giả đã phá vỡ nhiều điều cấm kỵ về tình dục (ông có điểm mọc Hổ Cáp). Trong những tác phẩm xuất sắc nhất của mình, ông đã chạm đến những chiều sâu của mối quan hệ tình dục và khôi phục cho nó một sự thẳng thắn, tự nhiên, tinh khiết đầy tươi mới và cảm thức về tính thiêng liêng.
Tác giả Xử Nữ H.G. Wells cũng ủng hộ tự do tình dục. Tiểu thuyết gia, nhà báo, và nhà xã hội học, ông có một khối lượng sáng tác khổng lồ. Là một trong những cha đẻ của thể loại khoa học viễn tưởng, ông nổi tiếng với các tiểu thuyết khoa học như The War of the Worlds, và được nhớ đến bởi tính khoa học và tiên tri xã hội trong tác phẩm. Với dấu hiệu mọc Bảo Bình, ông là một tín đồ kiên định của Hội Quốc Liên, và đã vận động chống lại những gì ông xem là một âm mưu công khai đang dẫn nhân loại đến sự hủy diệt.
Rất thích hợp khi tìm thấy dưới dấu hiệu của phụng sự này, Mẹ Teresa thành Calcutta, nữ tu Công giáo La Mã, và người đoạt giải Nobel Hòa bình, nổi tiếng với cuộc đời làm việc và phụng sự người nghèo ở Ấn Độ. Ngoài ba lời khấn cơ bản về khó nghèo, khiết trinh và vâng lời, các thành viên của dòng tu Bà phải thề nguyện phụng sự người nghèo, những người mà Mẹ Teresa mô tả là hiện thân của Đức Jesus Christ. Từ công việc ban đầu của Bà với Viện Đức Mẹ Đồng Trinh Diễm Phúc, các “Nữ tu Bác ái” của Bà nay hoạt động trong các trường học, bệnh viện, trại mồ côi và trung tâm thực phẩm ở hơn 25 quốc gia, phụng sự người mù, người già, người cùi, và người hấp hối. Để ghi nhận những nỗ lực của bà, Bà đã được trao giải Nobel Hòa bình năm 1979.
Một Xử Nữ rất khác, người đã dành cả đời phụng sự đất nước, là Nữ hoàng Elizabeth I, người không bao giờ kết hôn và trở nên nổi tiếng với danh hiệu “Nữ hoàng Đồng trinh.” Khi câu hỏi về hôn nhân được đặt ra, Bà đã tham khảo ý kiến của người hầu và cũng là nhà chiêm tinh John Dee, một con người vô cùng tài năng. Sự dự đoán từ lá số của Bà cho thấy hôn nhân không phù hợp, và dường như Bà cũng không thất vọng:
“Đối với tôi, sẽ là một sự mãn nguyện trọn vẹn, cả để ghi nhớ tên tuổi tôi và để vinh quang, nếu khi tôi trút hơi thở cuối cùng, được khắc trên mộ bia rằng: ‘Đây yên nghỉ Elizabeth, người đã trị vì như một trinh nữ và qua đời như một trinh nữ.’” — Trả lời một kiến nghị từ Hạ viện, 6/2/1559
Triều đại của bà, bắt đầu trong một thời kỳ khó khăn lớn của quốc gia, đã đưa nước Anh đi qua một trong những kỷ nguyên vĩ đại nhất. Bà tái lập Anh giáo, và thực thi những biện pháp hà khắc chống lại Công giáo. Bất chấp nhiều tính khí khác thường, không phải tất cả đều đáng mong muốn, Bà đã tiếp nhận trách nhiệm của mình một cách vô cùng nghiêm túc và thể hiện lòng dũng cảm cũng như quyết tâm lớn:
“Tôi biết tôi có thân thể của một người phụ nữ yếu ớt và mảnh mai, nhưng tôi có trái tim và tinh thần của một vị vua, và là một vị vua của nước Anh nữa.” — Diễn văn tại Tilbury khi Hạm đội Tây Ban Nha tiến đến, 1588.
XỬ NỮ TINH YẾU: BẢN TÍNH và HÌNH THÁI
Ô, trăng soi sáng Bà Porter
Và cả con gái bà
Họ rửa chân trong nước xô đa.
— T. S. Eliot, The Waste Land
Hình thái học là nghiên cứu về hình thể. Đó là khoa học gắn kết hình dạng của một sự vật với chức năng của nó. Một ví dụ trong thực vật học cho thấy sự dẹt của chiếc lá là dạng tối ưu để phơi bày diện tích lớn nhất với Mặt Trời. Sự hấp thụ ánh sáng trong quang hợp là một chức năng của chiếc lá.
Điều hiển nhiên là các mãnh lực chiêm tinh là nhân tố đóng góp quan trọng vào việc cấu trúc nên các hình thể trên Địa cầu. Mặt Trời cung ứng sinh lực căn bản chảy qua mọi sinh vật. Những chức năng được phân hóa của nó tìm được biểu hiện nơi các hành tinh và được các dấu hiệu điều kiện hóa; những hoán vị đổi thay không ngừng của chúng kết tinh nên sự đa tạp phong phú của các hình thể mà Sự Sống Duy Nhất khoác lấy trong thế giới tự nhiên. Bởi vậy, chiêm tinh học là hệ thống phân loại hình thể toàn diện nhất. Trong ví dụ trên, sự dẹt của chiếc lá sẽ được xếp vào hình thái của dấu Thiên Bình.
Một cuộc khảo sát các ký hiệu chiêm tinh luôn hé lộ những chỉ báo hình thái, nói với chúng ta rất nhiều về bản chất của các dấu hiệu và hành tinh. Chúng không được chọn một cách tùy tiện mà được tạo hình để biểu trưng cho những nguyên lý vũ trụ mà chúng đại diện. Hệ quả của Quy luật Tương Ứng, được gói trong mệnh đề “Trên Sao, Dưới Vậy”, là các nguyên lý trừu tượng ấy hiển lộ trong thế giới hình thể, và rất thường là trong những nét hình dạng đặc trưng của các ký hiệu. Trở lại ví dụ của chúng ta, nguyên mẫu của Thiên Bình biểu lộ qua những gì phẳng dẹt, và sự phẳng dẹt được hàm ý bởi ký hiệu Thiên Bình. Nó giống như mặt cắt của chiếc lá, thậm chí đến cả gân chạy dọc giữa.
![]()
Các đặc trưng hình thái của các dấu hiệu vì thế rất hữu ích và quan trọng với nhà chiêm tinh. Chiêm tinh học là một luyện tập tuyệt vời để trau dồi loại hình ảnh được dùng trong khoa học thiền định. Thông qua việc hiểu hình thái học, ta có thể chuyển dịch bất kỳ giấc mơ hay trải nghiệm thiền định nào, hoặc bất kỳ hiện tượng thị giác hay thính giác nào, sang ngôn ngữ chiêm tinh và từ đó rút ra ý nghĩa cùng mục đích từ các ký hiệu và biểu tượng của những dấu hiệu hoàng đạo và các chủ tinh hành tinh của chúng.
![]()
Cái nhìn đầu tiên cho thấy ký hiệu Xử Nữ dường như phức tạp. Trong Chiêm tinh học Mới, chúng ta luôn vẽ nó như minh họa ở trên, vốn phù hợp nhất với hình thái của dấu hiệu này. Tôi thích nghĩ nó gợi hình một con hươu cúi đầu gặm cỏ: biểu tượng của thanh nhã và tinh luyện (và của cảnh quan công viên, vốn do Xử Nữ cai quản), khác hẳn con bò vụng về nặng nề của Kim Ngưu. Song Ngư, dấu hiệu bổ xung với Xử Nữ, cai quản con heo, con lợn, lăn lộn trong bẩn thỉu, còn Xử Nữ thì luôn trong sạch, xinh xắn và tinh tế. Xử Nữ gợi những từ như đoan trang, giản dị, tự nhiên, ngây thơ, trong trắng, phải phép, khiêm nhường và thanh khiết.
Hình ảnh con hươu và ký hiệu của nó phóng chiếu vẻ duyên dáng và quyến rũ. Cặp gạc sừng in hình trên đường chân trời là một ví dụ khác về hình thái của Dấu hiệu này. Sự mảnh dẻ và duyên dáng của Xử Nữ còn phản chiếu trong những thứ như đồ kim hoàn chạm lộng, họa tiết ren, mạng mao mạch, tán lá cây, bông tuyết, những chùm dương xỉ tóc thần vệ nữ, các phân hình tựa ren, và tập Mandelbrot. Vẻ duyên dáng của hình thể gợi nên sự thanh khiết cũng đi cùng với Xử Nữ, như thấy trong viền ren trắng của áo cưới cô trinh nữ, nàng dâu đồng trinh và chính trinh nữ.
Hình tượng hoàng đạo truyền thống của Xử Nữ là một thiếu nữ trẻ ôm bó lúa mì, gợi phẩm chất thanh khiết đi liền với ý niệm mùa gặt ngũ cốc (kết quả của nhiều tháng chuẩn bị và lao động chăm chỉ—một đặc tính khác của Xử Nữ). Biểu tượng này có thể truy ngược về thời Babylon cổ, nơi nữ thần lúa ngũ cốc Nidaba được cho là cội nguồn hiển nhiên nhất của Xử Nữ. Phẩm tính của Bà gần với Đức Mẹ Vĩ Đại, dù nay ta liên hệ Xử Nữ với người mẹ đơn thân (xem bên dưới). Sau này, ở Hy Lạp cổ, Plato đặt Demeter, nữ thần lúa mì ở Eleusis, cai quản chòm sao này. Demeter, người La Mã gọi là Ceres, đại diện cho đất đai màu mỡ được canh tác, và được tôn kính như nữ thần của những hoa trái và phong vật từ cánh đồng. Bà trông coi mùa gặt và mọi lao tác nông nghiệp đi kèm.
Demeter luôn gắn với con gái Bà là Persephone (Thiếu Nữ), được đồng nhất với hạt giống và lúa non đang mọc, và có lẽ tại đây sự chuyển hóa từ “mẹ lúa” sang “trinh nữ trẻ” khởi đầu. Vào thời điểm lịch sử ấy, trăng tròn ở Xử Nữ (hiện nay rơi vào tháng Tư) xuất hiện đúng khi đồng cỏ xanh lần đầu, lúc lúa xuân nhú lên, nên không lạ khi dấu hiệu này bắt đầu gắn với ý niệm trinh nữ. Thời trung cổ, Xử Nữ được liên hệ với Đức Trinh Nữ Maria hay Madonna; có người nói ký hiệu hiện nay của Xử Nữ là một nét vẽ tàn dư của hai chữ MV, Maria Virgo, chỉ Mẹ Đồng Trinh của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, Đức Mẹ Đồng Trinh đến nay vẫn được tôn kính.
Xử Nữ gợi cảm giác chờ đợi, chuẩn bị, phụng sự và làm cho điều gì đó thật đúng đắn trước khi nó bước ra thế giới. Ký hiệu Xử Nữ gợi tiềm năng trong thai nghén. Đức Mẹ Maria thường được họa cùng Hài nhi Jesus, và trong hai hình ảnh ấy—người mẹ và đứa trẻ—ta có Xử Nữ như biểu tượng của việc che chở và bảo hộ thực tại tinh thần, hay “vẻ huy hoàng bị giam cầm” ẩn giấu (Song Ngư) trong vật chất. Đây là dấu hiệu của Jesus thời trẻ, khi Ngài đang được chuẩn bị cho vai trò vĩ đại như đấng cứu thế. Ở Xử Nữ, trong trạng thái tốt nhất, ta tìm thấy sự tinh luyện và hoàn thiện của hình thức hay phàm ngã để cho phép linh hồn hiển lộ và trồi ra khỏi cõi hạn chế của nó.
Với tư cách dấu hiệu cai quản hình tượng Madonna và Hài nhi, Xử Nữ cũng gợi sự vắng mặt của người cha—một yếu tố trở nên phổ biến hơn trong xã hội hôm nay, nơi rất nhiều Bà mẹ đơn thân phải làm việc rất vất vả (Xử Nữ) để tự nuôi con. Vì vậy, Xử Nữ là dấu hiệu của gia đình đơn thân, nhất là khi người chồng đã rời nhà hay đi xa; có thể đi biển làm thủy thủ, hoặc ra giàn khoan, để người mẹ ở lại (có hôn thú hay không), cùng đứa con. Do đó, ta đặt hình ảnh người mẹ và đứa trẻ dưới dấu hiệu này.
Trong lĩnh vực tôn giáo, Xử Nữ gắn với Tân Ước hơn là Cựu Ước, vốn thuộc nhà thứ nhất và Bạch Dương. Ở Xử Nữ, lòng sùng tín thường mang hình thức Tin Lành, hầu như hoàn toàn hướng đến những khái niệm về Đức Jeusu và Tân Ước. Nó biểu hiện trong những khía cạnh thanh giáo của tôn giáo. Ở Song Ngư, lòng sùng tín là không tra vấn, nhấn mạnh hơn vào đức tin và toàn bộ sự phong phú của biểu tượng, nghệ thuật và lễ nghi của Giáo hội Công giáo. Vì thế, Tân Ước và Tin Lành thuộc Xử Nữ, trong khi Công giáo thuộc Song Ngư.
Ngay từ thời Phục Hưng, những người như Erasmus đã đau lòng trước cảnh đập phá ảnh tượng nhà thờ và các đồ trang hoàng thánh thiêng bị cho là “mang mùi giáo hoàng”. Ông coi Cải cách tôn giáo diễn ra quá vội, và cho rằng nên để cho những tiến trình nhẹ nhàng của khai minh, học thuật và máy in dẫn dắt. Bản thân người Thanh giáo thường là những kẻ cuồng tín, với chủ nghĩa Tin Lành bị đẩy đến cực đoan. Những phái khác của Tin Lành, như Quaker, di cư sang các thuộc địa Mỹ, cũng rất đáng chú ý. Chính Cromwell là một người Thanh giáo và lãnh đạo cánh chính trị của Thanh giáo tại Anh. Đáng chú ý là Thanh giáo, như một phản ánh của đạo đức lao động mang sắc thái Xử Nữ, đã phản chiếu chính mình vào chủ nghĩa tư bản hiện đại, vốn nhờ lao động chăm chỉ và tự kỷ luật mà thành công nhất tại các bang Hoa Kỳ, nơi Thanh giáo từng rất phổ biến dưới nhiều dạng.
Thanh lọc và sạch sẽ; những thứ màu trắng, hoặc được sơn trắng để trông sạch hay giữ sạch; những thứ được tiệt trùng để trở nên thanh khiết như trinh nữ—tất cả đều thuộc Dấu hiệu này. Xử Nữ yêu sự tinh khiết, và là một người thanh giáo trong tôn giáo, tập quán và lối sống. Những vấn đề về khiết tịnh (không hoạt động tình dục) và độc thân (nghĩa là không kết hôn, không nhất thiết đồng nghĩa với khiết tịnh) cũng thuộc Xử Nữ. Đây là dấu hiệu của trinh nữ, trong sự thanh khiết của nàng, hay kiểu người mang sắc thái trinh nữ và người trẻ chưa kết hôn (không nhất thiết là đồng trinh), người độc thân nam, và cô gái già:
Sai lầm của Jovian nằm ở chỗ cho rằng trinh khiết không đáng để được coi trọng hơn hôn nhân. Sai lầm này trên hết bị bác bỏ bằng tấm gương của Đức Christ, Ngài đã chọn một trinh nữ làm mẹ của mình và chính Ngài cũng giữ mình trinh khiết. — Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologica.
Xử Nữ cũng là nơi các cặp đôi đính hôn trước khi cưới, vốn từng hàm ý một thời kỳ khiết tịnh và chuẩn bị.
Trong lịch sử, Xử Nữ gợi Thời đại Elizabeth và sự trị vì của một nữ hoàng trinh nữ như Nữ hoàng Elizabeth I, người như tôi đã đề cập, bản thân sinh vào Xử Nữ và sống không kết hôn. Những thi sĩ như Edmund Spenser đua nhau khắc họa Bà trong nhân vật Gloriana (hình mẫu lý tưởng của nữ tính), tạo nên các kiệt tác như The Faerie Queene.
Xử Nữ cũng cai quản các nàng tiên, như những nàng được khắc họa trong bộ sách Flower Fairies duyên dáng của Cicely Mary Barker, trong đó mỗi nàng tiên đại diện một loài hoa. Xuất bản lần đầu năm 1923, các minh họa của Bà vốn được tạo để dạy làm vườn cho trẻ nhỏ và, theo phong cách Xử Nữ, việc khắc họa mỗi bông hoa đều chính xác về thực vật học. Ý niệm Bà trình bày—mỗi loài hoa có một phẩm tính riêng—gợi chúng ta nhớ đến các Liệu pháp Hoa, cũng do Xử Nữ cai quản.
Tôi luôn muốn trao cho học viên chiêm tinh vài từ khóa rất ngắn gọn mà bao quát bản tính của bất cứ dấu hiệu hoàng đạo nào. Với Xử Nữ, ta nên nghĩ đến sức khỏe, các vấn đề y học, lao động chăm chỉ và phụng sự, đặc biệt kiểu phụng sự ta thấy nơi những người làm việc ở nhà hàng, v.v. Ba yếu tố này chiếm hơn sáu mươi phần trăm phẩm tính của Xử Nữ, và dĩ nhiên, chúng hiện diện đậm đặc trong đời sống của mọi người. Khó có ai ở phương Tây mà không thấy ba yếu tố này dính dấp vào đời mình mỗi ngày.
Công việc tong mọi hình thức chắc chắn là một đặc trưng nổi bật của Xử Nữ, dù nghề nghiệp thuộc Ma Kết. Lao động chăm chỉ của Xử Nữ được điển hình bởi những nhân vật như y tá, bác sĩ trẻ, bồi bàn, nhân viên phục vụ, hay người rửa chén trong bếp. Nô lệ là yếu tố này của Xử Nữ bị đẩy đến cực hạn. Dấu hiệu này cai quản mọi người hầu của một cơ sở, như quản gia, nữ phục phòng, và những người hầu bàn hay chăm vườn và cắt cỏ. Tuy vậy, những ai nấu ăn và quản lý nhà trẻ có thể thích hợp hơn khi được đặt dưới nhà thứ tư của hoàng đạo, vốn cai quản mái ấm, với dấu Cự Giải, và hành tinh chủ là sao Hải Vương. Tuy nhiên, nếu Mặt Trăng, chủ tinh của Xử Nữ, ở Cự Giải hoặc ở nhà thứ tư, thì các bổn phận này là thích đáng. Xét Mặt Trăng đi qua mỗi nhà trong mười hai nhà cho ta một danh sách những hoạt động mang sắc thái Xử Nữ khác nhau:
• Nhà Thứ Nhất: Công chức, quản gia.
• Nhà Thứ Hai: Nhân viên bán hàng.
• Nhà Thứ Ba: Nhân viên trường học và lao công vệ sinh.
• Nhà Thứ Tư: Đầu bếp, bảo mẫu ở trọ, và phụ nữ quét dọn.
• Nhà Thứ Năm: Người phục vụ hoàng gia, sĩ quan hầu cận.
• Nhà Thứ Sáu: Y tá, bác sĩ, bồi bàn, lao động và nhân viên vệ sinh.
• Nhà Thứ Bảy: Tài xế riêng, lái xe, tiếp viên hàng không, và người phục vụ trong ngành pháp lý.
• Nhà Thứ Tám: Nhân viên quân đội và nhân viên đồng phục, nhân viên gác cửa, bảo vệ cửa và nhân viên quầy bar.
• Nhà Thứ Chín: Nhân viên đại học (không bao gồm giới học thuật), famuli (người hầu cận của một pháp sư hay học giả), và trợ lý đại lý du lịch.
• Nhà Thứ Mười: Thư ký cho doanh nhân, trưởng bộ phận và quản sự.
• Nhà Thứ Mười Một: Những người phục vụ nhóm, bồi bàn đồ uống.
• Nhà Thứ Mười Hai: Nhân viên các cơ sở và bệnh viện, giáo sĩ phụ tá và quản viên nhà thờ.
Nhiều người lao động chăm cũng mặc đồ trắng để biểu thị sự tinh khiết. Ví dụ tiêu biểu là các bác sĩ nội trú trẻ (cử nhân y mới tốt nghiệp giữ vị trí nội trú tại bệnh viện), khoác áo choàng trắng tinh, vốn nổi tiếng là phải làm việc tới hai mươi giờ mỗi ngày—một hành vi phụng sự khổng lồ.
Xử Nữ là dấu của bệnh viện và điều dưỡng, và lao động vất vả chắc chắn là đặc trưng của nghề này—đôi khi tới mức nô lệ—và thường được trả lương thấp. Y tá ngày nay hầu như ở vị thế của những nô lệ xưa; họ phải làm những công việc bẩn thỉu nhất và việc của họ không ngơi nghỉ. Họ cũng cần tận tụy với công việc, dù lao lực và thù lao thấp khiến nhiều y tá Anh bỏ nghề. Trong bộ đồng phục hồ tinh sạch sẽ, vô trùng và phảng phất mùi phenol, họ tiêu biểu cho phẩm chất của Dấu hiệu này.
Florence Nightingale, sinh với Xử Nữ mọc, nổi tiếng như một nhà cải cách bệnh viện và người đặt nền cho nghề điều dưỡng hiện đại. Bà tổ chức hệ thống điều dưỡng quân y đúng mực trong Chiến tranh Krym, nhờ đó hạ tỷ lệ tử vong ở bệnh viện từ mức kinh hoàng 42% xuống chỉ còn 2%. Như Bà từng nói: “Có lẽ nghe lạ khi tuyên bố như yêu cầu đầu tiên của một Bệnh viện rằng nó không được gây hại cho người bệnh.” (Ghi chép về Bệnh viện, Lời tựa).
Florence Nightingale nổi bật như người khởi xướng quan niệm phụ nữ thích hợp hơn trong việc chăm sóc nam giới bị thương nơi chiến trường. Tuy nhiên, y tá nam ngày nay cũng rất phổ biến ở bệnh viện. Một trong những người đầu tiên góp phần thiết lập điều dưỡng nam là ký giả chiến tranh, tổng biên tập và thi sĩ nổi tiếng Walt Whitman. Ông đã chăm sóc người bệnh, thương binh và người sắp chết trong Nội chiến Hoa Kỳ.
Cũng thích hợp khi nhắc đến ở đây hành động anh hùng của Edith Cavell, người đã hiến đời mình cho việc chăm sóc cao quý người bệnh và thương binh trong Thế chiến thứ nhất. Với Mặt Trăng ở thiên đỉnh của lá số chiêm tinh (vốn cai quản nghề nghiệp), và Xử Nữ nằm ở nhà mười hai, vốn cai quản các thiết chế, chẳng ngạc nhiên khi Bà chọn nghề điều dưỡng. Là một y tá người Anh, Bà tổ chức trường đào tạo y tá đầu tiên ở Brussels. Ở đó Bà chăm sóc binh sĩ của mọi đạo quân và chỉ đạo việc giải thoát binh sĩ Đồng minh khỏi các trại tù binh Đức. Bà bị bắt và xử bắn ngày 12 tháng 10 năm 1915. Thật xứng đáng như một cống hiến cho y tá khắp nơi và cho những phẩm chất đẹp nhất của Xử Nữ khi trích lời Edith Cavell trước giờ hành hình:
Tôi không sợ hãi hay chùn bước; tôi đã thấy cái chết quá thường đến nỗi nó không còn lạ lẫm hay đáng sợ với tôi. Tôi tạ ơn Chúa vì mười tuần tĩnh lặng trước hồi kết. Đời sống luôn vội vã và đầy khó khăn. Nhưng điều này tôi muốn nói, khi đứng như lúc này trước mặt Thiên Chúa và cõi đời đời: Tôi nhận ra rằng lòng ái quốc là chưa đủ. Tôi không được nuôi hận thù hay cay đắng với bất kỳ ai.
Vệ sinh, thanh khiết, vệ sinh môi trường, dọn dẹp và giặt rửa là những yếu tố nổi trội của Xử Nữ, và là mối quan tâm chính của người điều dưỡng. Vệ sinh cũng là một phần của y học phòng ngừa, do Xử Nữ cai quản, và tương lai sẽ “tranh chỗ” với y học bổ sung. Phòng bệnh hơn chữa bệnh:
Hãy chặn nó ngay từ đầu; đã là muộn để bốc thuốc khi căn bệnh đã trở nên mạnh do những chậm trễ kéo dài.— Ovid, Remedia Amoris.
Bác sĩ kỳ cọ tay để vào phòng mổ; y tá cẩn trọng tuyệt đối về vệ sinh trong buồng bệnh; cả hai đều quan tâm đến những yếu tố mang sắc thái Xử Nữ của trị liệu và sức khỏe. Bác sĩ cũng quan tâm đến chẩn đoán, và y tá làm theo chỉ dẫn của ông. Chẩn đoán và phân tích là những khía cạnh quan trọng của Dấu hiệu này, và ngày nay phòng thí nghiệm được sử dụng rất nhiều cùng với việc tham vấn bệnh nhân. Ốm đau và bệnh tật là mối bận lòng lớn của Dấu hiệu này. Xử Nữ cai quản ốm đau và bệnh tật, nhưng không cai quản các nguyên nhân vi khuẩn hay siêu vi của chúng, vốn thuộc Cự Giải. Liệu pháp y khoa và mọi hành vi chữa lành thuộc Xử Nữ, nhưng các nông trại sức khỏe, suối khoáng, an dưỡng đường và nơi tĩnh dưỡng, nơi người bệnh hồi phục có thể phục hồi sinh lực, thuộc dấu kế cận là Sư Tử, dấu cai quản sinh lực và tình trạng an khang.
Như tôi đã nói, Xử Nữ là dấu của người mắc chứng nghi bệnh, người chịu đựng những lo âu bệnh hoạn và sợ hãi tưởng tượng về sức khỏe của mình, và bị quấy rầy bởi các bệnh tưởng hay những rối loạn thần kinh—có thể biểu hiện thành đau đầu, rối loạn đường ruột và nhiều chứng kèm theo khác. Elwyn Brooks White, ký giả và nhà khôi hài Mỹ, viết trên Harper’s Magazine, gọi chứng nghi bệnh là “những lời phàn nàn tưởng tượng của các cụ Bà không thể hủy diệt.”
Một khái niệm chủ đạo khác của Xử Nữ là công việc phụng sự. Chính qua Dấu hiệu này mà những phụng sự vô ngã được dâng hiến cho nhân loại, nhờ đó tất cả chúng ta đều thụ hưởng. Khi con người bước lên Đường Đạo, họ thường muốn biết làm sao họ có thể phụng sự tốt nhất, và đây là nơi chiêm tinh có thể hỗ trợ rất nhiều. Nhà chiêm tinh nên nhìn trước hết vào nội dung của phân đoạn lá số chiêm tinh gọi là nhà thứ sáu, vốn là “nhà tự nhiên” của Xử Nữ. Vì đây là dấu hiệu của phụng sự, vị trí của Xử Nữ và chủ tinh của nó, Mặt Trăng, cũng sẽ giúp chỉ ra lĩnh vực phụng sự nào thích hợp nhất cho một người.
Đôi khi ta lạc lối trong đời vì sự phức tạp của nó. Có những cách phụng sự sơ đẳng không nên bỏ qua:
• Cho kẻ đói ăn.
• Cho kẻ khát uống.
• Mặc áo cho kẻ trần truồng.
• Thăm viếng người bị giam cầm.
• Chăm sóc người bệnh.
• An ủi người sắp qua đời.
Khi chiêm nghiệm danh sách cơ hội phụng sự này, hãy suy tưởng về hình ảnh trái chanh dây và bông hoa của nó, biểu tượng của phụng sự thuộc Xử Nữ. Hãy nghĩ thêm về cách nước ép của quả granadilla có thể làm dậy hương cả một đĩa salad trái cây, cũng như công việc phụng sự của chính các bạn có thể “ướp hương” cho toàn nhân loại.
Khi nói đến những phụng sự được trao, và đặc biệt là phụng sự nhân loại, ta phải nghĩ đến nhà hàng và những người bồi bàn, làm việc cật lực, những người phục vụ món ăn mà ta ăn ngấu nghiến. Ăn ngoài đã trở thành đại nghiệp khắp nước Anh, châu Âu và Hoa Kỳ, và có hàng ngàn người phục vụ trong các nhà hàng. Xử Nữ cũng được nhấn mạnh trong bối cảnh kinh tế Anh ngày càng nghiêng về các ngành dịch vụ như ngân hàng và bảo hiểm, thay vì những ngành công nghiệp nặng thuộc Ma Kết.
Khi lao động cực nhọc không ngừng, bị áp đặt và không được đền đáp, nó trở thành chế độ nô lệ và gặm mòn sức bền thể chất lẫn tinh thần của con người. Ngày nay, ta rùng mình trước phẩm chất Xử Nữ của thứ nô lệ hiển nhiên. Ta còn thấy nó ở những nơi xa xôi trên thế giới nơi luật lao động chưa xóa bỏ được, đặc biệt nhan nhản nơi lao động trẻ em và lao động nhập cư, nhất là trong các nhóm như người Latino nhập cư bất hợp pháp ở New York và San Francisco.
Ngày xưa, khi cần người kéo chèo cho thuyền chiến La Mã, chỉ có nô lệ mới chịu đời kéo mái chèo. Từ thời đó mới có thuật ngữ “đốc công nô lệ”. Ít ai trong số những người chèo thuyền, bị xích vào băng ghế, sống nổi quá năm năm dưới điều kiện lao lực ấy. Chắc chỉ đời sống của một tiều phu, tiêu hao cỡ bảy ngàn calo mỗi ngày, mới có thể so sánh với một nô lệ chèo thuyền đang chịu sức ép, trong khi một người làm việc tĩnh tại tương đương chỉ dùng hết chừng hai ngàn rưỡi calo. Một số người trong chúng ta, những kẻ nghiện việc, có lẽ chưa bao giờ hồi phục khỏi những kiếp sống trước làm nô lệ chèo thuyền.
Chứng loạn thần vì làm quá sức và béo phì do thiếu lao động là những vấn nạn mang sắc thái Xử Nữ. Ta cũng không nên quên những người lao động khác—những công nhân quần quật trên hạ tầng của quốc gia—tiêu hao có khi gấp bốn lần calo so với người làm việc tĩnh tại. Cũng có những người làm vườn cung ứng rau xanh lên bàn ăn cho chúng ta và những người lao động nông trại hay nông dân cày xới đất và gặt hái ngũ cốc trên đồng lúa mì, đại mạch và các loại hạt khác.
Nông trại, cảnh quan công viên và khu vườn thuộc Dấu hiệu này, nhất là những nơi sản xuất trái cây, rau củ và ngũ cốc. Rau củ của Xử Nữ có thể bao gồm cả cây lấy củ, miễn là có phần sinh trưởng trên mặt đất; nhưng những thứ này cũng gắn với Kim Ngưu, dấu cai quản rễ. Xử Nữ cũng cai quản đồng cỏ nơi hươu gặm cỏ và những bông hoa nhỏ mảnh mai nở rộ. Dấu hiệu này gợi những khu vườn tinh xảo, nơi có rất nhiều công phu được dồn vào để tạo nên một hiệu quả gọn ghẽ, tinh luyện:
Nước Anh của ta là một khu vườn,
mà những khu vườn như thế chẳng thể thành
Chỉ bằng câu ca: —“Ôi, đẹp biết bao!”
và ngồi dưới bóng râm,
Trong khi những người tài hơn chúng ta bước ra ngoài
và khởi đầu đời lao động
Bằng việc cạy cỏ dại khỏi đường sỏi
với những con dao ăn vỡ lưỡi.
— Rudyard Kipling, The Glory of the Garden.
Đây cũng là dấu hiệu của những món rau trộn xanh, của dưa leo, xà lách và các loại thảo mộc, với những hàm nghĩa ích lợi cho sức khỏe. Điều này gợi tôi nhớ một bài thơ về một trinh nữ, Quý Nương xứ Shalott (mà tên “Shalott” gợi liên tưởng tới “hành củ”, một thành phần của rau trộn):
Hai bờ sông là những cánh đồng dài
Lúa mạch, lúa mạch đen trải bạt ngàn,
Khoác áo cho đồng hoang, chạm trời xanh;
Con đường chạy xuyên qua đồng nội
Dẫn đến Camelot tháp tầng nguy nga;
— Tennyson, Quý Nương xứ Shalott.
Một trinh nữ khác cũng hiện lên trong tâm trí là “Thiếu nữ xứ Orléans” hay Jeanne d’Arc, nữ anh hùng vĩ đại của nước Pháp. Jeanne là một thôn nữ, tin rằng mình hành động dưới sự chỉ dẫn thiêng liêng, đã dẫn dắt quân đội Pháp giành chiến thắng trọng đại tại Orléans, đẩy lùi nỗ lực chinh phục nước Pháp của người Anh trong Chiến tranh Trăm Năm. Bị bắt một năm sau đó, Jeanne bị người Anh cùng những kẻ cộng tác người Pháp thiêu sống với tội danh dị giáo. Thành tựu của Bà là nhân tố quyết định trong sự thức tỉnh tâm thức dân tộc Pháp, và Bà được phong thánh năm 1920. Bản thân nước Pháp nằm dưới sự chủ quản của Xử Nữ, và truyền thống gọi theo giống cái, nên mới có “La France”.
Hình thái học của Mặt Trăng đặt nó vào vị trí chủ quản vành lưỡi liềm các quốc gia Ả Rập trên bờ đông Địa Trung Hải, trải từ Tunisia, Libya, Ai Cập, qua vùng Levant gồm Israel, Liban, Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Thường được gọi là “Vành Lưỡi Liềm Phì Nhiêu”, vùng này trước kia trù phú nhưng nay phần lớn là sa mạc. Được xem như chiếc nôi của nền văn minh, nhờ vị trí của mình, nó đã là ngã tư của thế giới suốt chiều dài lịch sử. Không chỉ luôn nhạy cảm về chính trị, nơi đây còn là chỗ các tôn giáo nảy sinh và lan rộng. Quả vậy, ngay cả ngày nay, thành Jerusalem vẫn được nhiều đức tin tuyên nhận.
Vầng Trăng của Hồi giáo và đức tin Hồi giáo cũng thuộc quyền chủ quản của Xử Nữ. Biểu tượng lưỡi liềm Mặt Trăng hiện rõ trên quốc kỳ của một số quốc gia Hồi giáo nơi đạo Hồi là tôn giáo chính thức: Algérie, Thổ Nhĩ Kỳ, Tunisia, Sahara, v.v. Nhiều quốc gia Hồi giáo từng thuộc Đế quốc Pháp và đến nay vẫn dùng tiếng Pháp như ngôn ngữ châu Âu chính. Về chiêm tinh, chính qua Mặt Trăng mà mối liên hệ này thường vẫn tồn tại.
Dĩ nhiên Mặt Trăng gắn với màu bạc, còn Xử Nữ (cùng với Cự Giải) liên hệ với màu trắng. Ta gắn Xử Nữ với sự tinh ròng của sắc trắng, trong khi Cự Giải chủ quản sắc trắng của sữa, kem, bọt biển và tuyết. Hòa lại, Xử Nữ và Cự Giải có thể phản chiếu vẻ trắng muốt và mong manh của sương muối trên những hàng cây và đồng cỏ phủ tuyết. Sắc trắng của Xử Nữ gắn với sạch sẽ và vệ sinh—trắng của đồ giặt, của hàm răng được chải đều đặn, của chiếc chậu men viền xanh, của áo cưới và của những đường kẻ trên sân quần vợt. Nó cũng có thể được kiếm tìm ở tầng bậc tôn giáo:
Xin tẩy sạch con bằng hương thảo, con sẽ tinh sạch; xin rửa con, con sẽ trắng hơn tuyết.— Thánh Vịnh 51:7
Dấu hiệu Cự Giải liên quan đến màu sắc, nhất là khi được họa sĩ sử dụng. Còn Xử Nữ là bóng hình hay đường nét trong đen trắng. Nó được phản chiếu trong những thứ như in ấn và sao chụp đen trắng, hay tranh vẽ và khắc đen trắng. Bản đồ và các chi tiết trên đó cũng mang bản chất Xử Nữ. Dấu hiệu này chủ quản những gì có đường viền, đôi khi chỉ phác thảo, nhưng vẫn là đen trắng—như đường chân trời nơi vạn vật, ở xa, hiện sẫm và khắc nét trên nền trời—như tháp chuông nhà thờ, cây cối hay đồi gò. Lớn lên ở Nam Phi, tôi nhận ra đường chân trời quan trọng đến thế nào trong một xứ nóng. Ta nhìn về phía chân trời để xem gió có bắt đầu lay cây hay mây có tới đem cơn mưa mát. Lúc hoàng hôn, bóng người nổi bật gắt trên nền trời.
Có vẻ khó liên hệ một số biểu tượng mảnh mai tinh xảo của Xử Nữ với chuyện thực tế, nhưng ta có thể thấy dấu hiệu này hoạt động nơi những tháp nhọn như ren của các nhà thờ gothic và những trang sức của chúng, tháp và tháp giáo; trong kỹ thuật kim hoàn filigree; trong hoa văn trang sức bằng vàng mịn, hay sợi bạc uốn thành mắt lưới tinh tế hoặc đường gân; tất cả đều gợi mạnh về Xử Nữ. Hệ mao mạch—những mạch máu nhỏ nhất của thân thể—cũng thuộc dấu hiệu này.
Trong chiêm tinh giải phẫu, ruột non, tá tràng và tuyến tụy do Xử Nữ chủ quản, trong khi dạ dày thuộc Cự Giải và đại tràng thuộc Hổ Cáp. Ký hiệu Xử Nữ gợi những cuộn của ruột non—hỗng tràng và hồi tràng—mặt trong có những nhung mao, những túm tua như cành lá, họa tiết ren hay thậm chí mẫu hình phân dạng—rất đặc trưng của Xử Nữ. Trong khi Kim Ngưu chủ quản thân và rễ cây, Xử Nữ chủ quản các tàu lá, có cấu trúc như ren in bóng trên nền trời.
Xử Nữ liên hệ tới những phần giải phẫu nơi lưu lượng máu giảm dần khi đi vào các cơ quan như ruột, v.v., tức ở hệ mao mạch. Mao mạch có thể thấy dễ nơi vành tai thỏ—một ví dụ hay về bản chất tinh lọc của cơ thể thuộc Xử Nữ. Xử Nữ cũng chủ quản lông chuyển—những cấu trúc mảnh như sợi lông trên bề mặt tế bào và làm di chuyển dịch lỏng qua bề mặt đó. Chúng xuất hiện, chẳng hạn, trên bề mặt các ống phế quản, đưa đờm lên miệng thay vì để nó trượt xuống phổi.
Một cách hữu ích để tiếp cận sự hiểu biết về các dấu hiệu hoàng đạo là nghiên cứu tương ứng của chúng với Bảy Cung, điều tôi đã bàn kỹ trong sách của mình. Ở đây, ta thấy Xử Nữ có thể được gán ba Cung, theo thứ tự ảnh hưởng: Cung Sáu của Sùng tín và Lý tưởng, Cung Hai của Bác ái–Trí tuệ và Cung Năm của Tri thức Cụ thể và Khoa học. Với sự hòa trộn ba năng lượng này, dễ thấy Xử Nữ có thể tận tụy phụng sự nhân loại qua các phẩm tính duy lý và khoa học của mình.
Xử Nữ là dấu hiệu của nghiên cứu, rất hợp với y học. Dấu hiệu này yêu thích chi tiết, khảo sát và phân tích—vì vậy người Xử Nữ thích điều tra, đặt câu hỏi, kiểm tra và xác nhận. Xử Nữ chủ quản con số và việc đánh số, đo lường và ước lượng. Nghiên cứu và thí nghiệm là các lĩnh vực của Xử Nữ, cũng như bất cứ gì mang tính kỹ thuật nhằm khảo sát và phơi lộ sự kiện, như kính hiển vi. Phẩm chất phân tích của Xử Nữ rất hợp với thầy thuốc và kỹ thuật chẩn đoán của ông. Dưới Xử Nữ ta gặp những thứ như thí nghiệm, phòng thí nghiệm và các hóa chất dùng ở đó, trợ lý phòng thí nghiệm và áo choàng trắng của họ. Ngành dược, các nhà hóa dược và khoa hóa học đều mang sắc thái Xử Nữ. Xử Nữ cũng chủ quản các dược phẩm dùng trong trị liệu cá nhân, trong khi lạm dụng và nghiện ma túy thuộc Sao Diêm Vương, Song Ngư và nhà mười hai. Xử Nữ đặc biệt chủ quản các dược liệu tự nhiên, như thảo mộc, hay bất cứ gì xuất phát từ nguồn tự nhiên.
Hồi nhỏ tôi học một đoạn đọc diễn cảm, về sau đã giúp tôi đương đầu với việc học y khi bước vào lứa tuổi trung niên. Nó mở đầu như sau:
Tôi có năm người bạn quý: Ấy là tại sao, ở đâu, ai, cái gì và như thế nào?
Hãy luôn nhớ, với Xử Nữ, rằng đường cong của trăng lưỡi liềm gợi nên dấu hỏi và định âm điệu cho dấu hiệu này.
![]()
Xử Nữ đặt câu hỏi, luôn điều tra và đôi khi suy đoán về câu trả lời cũng như ý nghĩa của chúng. Tuy vậy, dấu hiệu này không thích đánh cược; đúng hơn là kiểu người suy lý, sẽ đưa ra một phỏng đoán có tính toán. Xử Nữ cố gắng trả lời câu hỏi bằng những sự kiện vững chắc. Nó chất vấn nguyên nhân của sự việc, hoặc khởi sự một cuộc truy vấn. Người Song Ngư không thích đặt câu hỏi. Người Xử Nữ ưa khảo sát và là những kiểm định viên tuyệt vời—ví dụ như kiểm định hàng hóa, hay trường học (điều này sẽ là Mặt Trăng ở nhà ba, vốn chủ quản giáo dục). Do đó, Xử Nữ chủ quản cuộc đố vui hay thi đố, và hành vi chất vấn ai đó. Sao Hỏa ở Xử Nữ tại nhà bảy của pháp luật sẽ tạo ra “thẩm vấn cấp ba” (một lối thẩm vấn tàn nhẫn của luật sư). Mặt Trăng ở nhà bảy sẽ là chứng cứ pháp lý của các sự kiện. Thẩm tra, nguyên do, bằng chứng, thông tin, tò mò—tất cả đều là yếu tố của Xử Nữ. Xử Nữ cũng gợi những điều còn đáng ngờ hay không hẳn đúng, nhất là trong các vấn đề vệ sinh.
Các Biểu Tượng Căn Bản và Từ Khóa cho Mặt Trăng, Xử Nữ và Nhà Sáu
Mảnh mai; họa tiết ren; filigree; tàu lá cây; mao mạch; dương xỉ; hươu nai; bóng cắt; đen trắng; đường chân trời; đường viền trời; sắc trắng của tinh khiết; vệ sinh; Thanh giáo; Tin Lành giáo; lao động; phụng sự; gia nhân; bác sĩ và y tá; dịch vụ y tế; trị liệu; bệnh tật và ốm đau; vườn; cây cối; rau trộn; rau xanh và rau củ; ngũ cốc; cánh đồng và bãi cỏ; đồng cỏ chăn thả; nông nghiệp; đất canh tác; nông dân; thôn dã; nhà hàng; phục vụ thức ăn; đĩa và chén bát; ruột non; đáp ứng; phản chiếu; bạc; chữ D; số 6; người Ả Rập và Ả Rập; vành lưỡi liềm phì nhiêu; Hồi giáo; người Hồi giáo và đạo Hồi; Pháp; nghiên cứu; kiểm định và khảo sát; câu hỏi; phân tích; thí nghiệm; kỹ thuật; thông tin; sự kiện và con số; trinh nữ; thiếu nữ; người độc thân; người trẻ; khiết dục và trinh khiết; trai tân và gái già; mẹ và con.
CON ĐƯỜNG của XỬ NỮ
Hãy đến, hỡi nữ tu trầm mặc, sùng tín và tinh khiết, điềm đạm, kiên định, đoan trang.—John Milton, Il Penseroso.
Thanh lọc Tinh thần trong Xử Nữ
Trong Xử Nữ, người đệ tử học những kỷ luật cần thiết để giữ y vững vàng sau này trong kiếp sống hiện tại, hoặc trong những kiếp tương lai. Những kỷ luật này giúp làm tan đi những làn sương mù mà y phải đối diện trong cuộc chiến vượt qua biên giới của thể trí và cảm xúc để đi vào vương quốc của linh hồn; những làn sương mù đó cấu thành phần riêng của y trong sự hư ảo của thế giới. Điều này đòi hỏi một sự cẩn trọng to lớn với chi tiết, tính ưu tiên và thứ tự, cùng với sự kiên nhẫn của một nhà luyện kim, sự tận tụy của một người sơ cơ và cái nhìn của một nhà vi sinh học! Viên ngọc trai quý báu bị mất trong bùn của cái không thực, và Xử Nữ, “người mẹ ngọc trai” đồng trinh, phải tìm ra thực tại ẩn giấu (bên trong):
Từ cái không thực, hãy dẫn con đến điều thực.
Từ bóng tối, hãy dẫn con đến ánh sáng.
Từ cái chết, hãy dẫn con đến sự bất tử.
Trong khía cạnh này, những kiếp sống trong Xử Nữ nhấn mạnh sự tìm kiếm Chân ngã, vốn bị lạc mất trong cặn bã của đời sống vật chất. Chỉ bằng cách sàng lọc cẩn thận, từng lớp một, thì radium quý giá của tinh thần mới có thể được nhận diện:
“Những nguyên tử vàng vô hình rải rác trong một tấn thạch anh chứa vàng có thể không thể nhận thấy bằng mắt thường của người thợ mỏ, nhưng y biết rằng chúng không chỉ có mặt ở đó mà chúng chính là điều duy nhất mang lại bất kỳ giá trị nào cho thạch anh của mình; và mối quan hệ của vàng với thạch anh có thể mờ nhạt gợi lên mối quan hệ giữa bản thể và hiện tượng. Nhưng người thợ mỏ biết vàng sẽ trông như thế nào khi được tách ra khỏi thạch anh, trong khi người phàm tục không thể hình dung được thực tại của sự vật khi tách khỏi maya vốn che phủ và giấu kín chúng. Chỉ có điểm đạo đồ, giàu có với minh triết thu được từ vô số thế hệ của những bậc tiền bối, mới hướng “Con Mắt của Dangma” về bản chất của sự vật, nơi mà không một Maya nào có thể có ảnh hưởng.” — H.P. Blavatsky, Giáo Lý Bí Nhiệm
Tiến trình thanh lọc phải được lặp đi lặp lại ở mọi cấp độ của tâm thức. Rất sớm, trong danh sách dài dằng dặc các kiếp sống, sự mặc khải về hạt giống tinh thần bên trong—vẻ huy hoàng bị giam cầm—được khai mở. Nhiều kiếp sau, những lần tái sinh khác trong Xử Nữ được dành để ươm mầm hạt giống, nuôi dưỡng nó bằng những gì nó cần—chỉ nuôi dưỡng hạt giống và không gì khác; chắc chắn không phải là lớp vỏ miasma bao quanh nó. Sau đó nữa, chồi non tinh tế của antahkarana, vươn qua sự ô nhiễm nặng nề của phàm ngã, được nuôi dưỡng trong ánh sáng của tâm thức cao hơn. Những kỷ luật Xử Nữ giúp cho điều này có thể thực hiện được. Khi ai đó bước trên Thánh đạo, bất kể y có hòa đồng đến đâu trong đời sống phàm ngã, y sẽ luôn tìm kiếm mỗi ngày một khoảng thời gian để ở một mình nhằm xử lý những vấn đề vĩnh cửu; đây là những phẩm chất Xử Nữ trong y đang tìm hạt giống bên trong, ngọn lửa thiêng:
“Có một ngọn lửa trong con, vẫn đứng vững
Không lay động, không phiền nhiễu qua màn sương năm tháng,
Chẳng biết tình yêu, chẳng biết tiếng cười, hy vọng hay sợ hãi,
Chẳng xao động ngu ngốc vì xấu xa, cũng chẳng say ngọt lành.
Con không cảm bóng những cơn gió bao trùm,
Chẳng nghe lời thì thầm của thuỷ triều đổi hướng,
Con chẳng dệt tư tưởng nào của đam mê hay lệ sầu,
Không bị xiềng xích bởi thời gian, thói quen.
Con không biết sinh, không biết tử băng giá;
Chẳng sợ định mệnh, mốt thời, lý do hay tín ngưỡng,
Con sẽ vượt khỏi giấc ngủ của đồi núi,
Con là nụ, là hoa, con là hạt giống:
Vì con biết trong bất kỳ điều gì con thấy
Con là một phần và nó là linh hồn của con.”
— John Spencer Muirhead, Quiet
Trong Thánh Vịnh 23, chúng ta thấy cùng một khát vọng sâu xa được bước vào sự tinh khiết đồng trinh, nơi Chân ngã ngự trị, nơi ánh sáng không tạo bóng, nơi âm thanh im lặng:
“ĐỨC CHÚA là Đấng chăn giữ tôi; tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì.
Ngài khiến tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi; dẫn tôi đến mé nước bình tĩnh.
Ngài bổ lại linh hồn tôi; dẫn tôi vào các lối công bình vì cớ danh Ngài.
Dù khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào, vì Chúa ở cùng tôi; cây trượng và gậy của Ngài an ủi tôi.
Chúa dọn bàn cho tôi trước mặt kẻ thù nghịch tôi; Chúa xức dầu cho đầu tôi; chén tôi đầy tràn.
Quả thật trọn đời tôi phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi; tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va cho đến lâu dài.”
Xử Nữ khép lại, trong giai đoạn vòng xoáy của tâm thức, sự chìm đắm trong những vấn đề ảnh hưởng đến tâm thức quần chúng được trải nghiệm trong Cự Giải và phần nào được kiểm soát trong Sư Tử. Xử Nữ tìm kiếm và nhận ra những mối liên kết tinh tế (dây rốn) mà người đệ tử còn trong phôi thai đang cố gắng thiết lập với siêu tâm thức tập thể—những vùng biên giới của vương quốc linh hồn.
Không giống hầu hết các dấu hiệu khác, Xử Nữ cảm thấy y phải xử lý các vấn đề của phàm ngã trước khi có thể đi xa hơn. Mặt Trăng, vốn là chủ tinh của y, cho thấy mối bận tâm phản xạ này đối với những vấn đề của phàm ngã. Vì lý do đó, những thói tật của phàm ngã Xử Nữ đã được mô tả khá dài trong chương một. Xử Nữ là nơi mà sự tự trách được thay thế bằng nỗ lực có ý thức nhằm “tẩy não” phàm ngã theo sự chỉ dẫn của linh hồn đang phủ bóng. Người đệ tử đặt cho mình những tiêu chuẩn và quy tắc khắt khe để sống theo, với động cơ tự thanh lọc. Những ràng buộc được cắt đứt và sự ô nhiễm cảm xúc của thể trí được kiềm chế. Bản tính được thanh lọc và trở nên trong sáng như pha lê, dễ tiếp nhận những ấn tượng cao hơn từ linh hồn và những biểu tượng của nó. Ở đây, người đệ tử có thể làm cho mình nhạy cảm với những điều khó dò—trong đó tượng Nhân sư không phải là hình ảnh nhỏ nhất của linh hồn trong khía cạnh này.
Sự tự phê bình, thường là đặc trưng của dấu hiệu này, ở con người trên Thánh đạo trở thành sự chú ý kỹ lưỡng đến những vấn đề của vệ sinh thể trí, một bước chuẩn bị cho sự ấn tượng cao hơn. Mối bận tâm trở thành việc phàm ngã không đáp ứng được những yêu cầu của linh hồn dành cho nó. Trong Xử Nữ, sự tiến bộ và biến đổi trong các trạng thái nhận thức trở nên có thể vì cả cung một và cung sáu đều được định vị chiêm tinh ngay dưới đường chân trời của Trái Đất, vốn là một ranh giới mạnh mẽ giữa sự trói buộc và giải thoát, ánh sáng và bóng tối, hướng nội và hướng ngoại. Sự định hướng về linh hồn và mục đích của nó trở nên không thể tránh khỏi khi cung sáu được nhấn mạnh theo cách nào đó trong một chuỗi kiếp sống.
Ở đây tiềm ẩn khả năng cho sự trị liệu huyền môn, đặc biệt là phần quan trọng nằm trong y học phòng ngừa. Việc xem xét một số nguyên lý của trị liệu huyền môn sẽ sớm cho thấy mối quan hệ của chúng với những phẩm chất của Xử Nữ:
• Năng lượng (được gợi lên trong lao động nặng nhọc) đi theo tư tưởng.
• Trị liệu huyền môn phục hồi sự cân đối (sự tinh khiết) cho các thể bên trong.
• Từ điện, động vật hay khác; “sẽ không để ẩn giấu”… bất kỳ khiếm khuyết nào đều phải tự phơi bày.
• Sử dụng các năng lượng tự nhiên thay vì thuốc men, khi có thể.
• Bệnh tật là kết quả của sự bất lực của linh hồn trong việc biểu lộ chính mình.
• Bệnh tật là một tiến trình thanh lọc.
Ở đây, vệ sinh thể trí có thể được học theo nghĩa cao hơn, để cho sự ô nhiễm của các tiến trình trí tuệ bởi các luồng cảm dục bị loại bỏ. Điều này dẫn đến sự hao mòn của các làn sương mù đã tích lũy qua nhiều kiếp sống.
Xử Nữ là dấu hiệu nơi nỗ lực được thực hiện. Đời sống của tất cả các điểm đạo đồ vĩ đại đều được đặc trưng bởi lao động nặng nhọc, và khả năng cho lao động ấy được thử thách trong dấu hiệu này. Tuy nhiên, chính chất lượng của nỗ lực mới là điều quan trọng, chứ không phải kết quả tạo ra. Chính chất lượng này được đại diện bởi “Những cánh hoa Hy sinh” của Hoa Sen Chân Ngã (xem tác phẩm The Jewel in the Lotus của tác giả, tr. 109–133).
Đây là nơi mà các yếu tố của sự khuất phục trước nghĩa vụ quân dịch và bổn phận yêu nước, trước các luật lệ do con người đặt ra và các quy tắc ứng xử, được chuyển hóa thành sự khuất phục tự nguyện của phàm ngã trước ý định của linh hồn. Sự kiên nhẫn và bền bỉ trỗi dậy từ những gánh nặng và đau khổ mãnh liệt, và chúng hình thành một phần trong khí cụ của điểm đạo đồ. Hết khủng hoảng này đến khủng hoảng khác đến với người đệ tử như một dòng chảy tự nhiên của sự kiện, và điều luôn khó chịu đựng nhất là sự bất định về kết quả của khủng hoảng. Trong dấu hiệu này, người đệ tử học được dễ dàng nhất những phẩm chất nào giữ y vững vàng nhất trong một khủng hoảng.
Ở đây, sự khống chế của sợ hãi và đau đớn phàm tục không còn nữa, thay vào đó được thay thế bằng “Nỗi Kính Sợ Thượng đế”. Khát vọng về sự tinh khiết và tăng trưởng mà điểm đạo mang đến vẫn không loại trừ sự sợ hãi đối với những hành động điểm đạo tiếp theo những lần điểm đạo đã đạt được. Điểm đạo phải được chịu đựng; nó không phải là một vườn hoa hồng và ngay cả những người có tâm linh cao cả nhất cũng nhìn hành động ấy với sự tôn kính đầy kinh sợ.
Mặt Trăng, Xử Nữ và cung sáu cho thấy bản chất của bất kỳ căn bệnh tinh thần nào. Bà H.P. Blavatsky từng chỉ ra rằng những người ốm yếu về tinh thần là những kẻ bám chặt vào các vấn đề vật chất. Điều đó đúng với con người trung bình, nhưng đối với người trên Thánh đạo, căn bệnh tinh thần là ở một cấp độ cao hơn, tinh vi và đánh lừa hơn. Các phẩm tính của các Cung có thể chỉ ra điều này rõ ràng:
• Cung Một: kiêu hãnh tinh thần; “thà cai trị trong địa ngục còn hơn phụng sự trên thiên đàng”; chủ nghĩa lý tưởng tập trun vào bản thân.
• Cung Hai: hướng nội tinh thần, cô lập và lạnh lùng.
• Cung Ba: ngụy biện, phân tán năng lượng.
• Cung Bốn: xung đột phát sinh từ sự tự trách; ám ảnh với phương diện hình tướng của Thượng đế.
• Cung Năm: hẹp hòi trong nhận thức và tiếp cận tinh thần.
• Cung Sáu: tận tụy thái quá, xây dựng thần tượng, giáo điều.
• Cung Bảy: ám ảnh với nghi lễ, huyền thuật và các buổi tế lễ.
Các dấu hiệu nằm ở đỉnh cung sáu có thể hữu ích trong việc chỉ ra các phẩm chất của những Cung liên quan ở đây.
Xử Nữ và Khiết Dục
Yếu tố tội lỗi và sự tự trách luôn là một đặc điểm trong các giáo huấn Kitô giáo, vốn vô lý khi nói rằng con người sinh ra đã mang tội lỗi. Nếu có bất kỳ ý nghĩa nào trong nhận định khủng khiếp này, thì đó là y sinh ra đã gánh trên mình nghiệp quả của nhân loại. Giáo hội chắc chắn không dạy về nghiệp quả, càng không nói đến luân hồi, mà thay vào đó gom tất cả vào “địa ngục và sự nguyền rủa” dành cho kẻ tội lỗi, đặc biệt nhấn mạnh đến tội lỗi tình dục. Satan, Adam và Eva đều trở thành những biểu tượng hay công cụ đe dọa hiểm họa khủng khiếp cho những ai bộc lộ bản thân trong tình dục với đôi chút buông thả. Mặc cảm tội lỗi mà Giáo hội Kitô giáo áp đặt lên con người một cách đặc trưng chính là một phần của màn sương tập thể, vốn phải được mỗi đệ tử đối diện ở lần điểm đạo thứ hai. Nó cũng liên quan đến hiện tượng được mô tả trong Chân dung Dorian Gray của Oscar Wilde.
Chắc chắn có một nền đạo đức thích đáng cần được áp dụng vào tình dục và sự tái sinh đúng đắn của giống dân, nhưng vượt trên tất cả, đối với người đệ tử, có một hàm ý quan trọng hơn liên quan đến chủ đề các trung tâm năng lượng vi tế trong cơ thể gọi là các luân xa. Nói một cách đơn giản, người nào muốn mở ba luân xa phía trên cơ hoành thì không thể có cả ba luân xa phía dưới cơ hoành đều hoạt động! Về mặt này, khoa học về các luân xa chỉ là vấn đề toán học đơn giản. Số lượng tối đa các luân xa có thể hoạt động đối với con người trên Thánh đạo là năm (một luân xa thứ sáu sẽ được thêm vào qua điểm đạo). Phải có ba luân xa hoạt động phía trên cơ hoành, cộng với hai phía dưới, trong đó một luân xa luôn luôn là luân xa đáy cột sống. Điều này để lại sự lựa chọn giữa hai luân xa còn lại, tùng thái dương (liên quan đến sự biểu lộ cảm xúc), hoặc luân xa xương cùng (trung tâm biểu lộ tình dục).
Giáo hội Công giáo thời kỳ đầu, vốn huyền bí hơn nhiều so với những cái bóng sau này của nó, đã biết điều này. Trong ba luân xa dưới cơ hoành, luân xa tùng thái dương, trung tâm của lòng tận hiến và lý tưởng, vốn là biểu hiện hoàn hảo cho kỷ nguyên Song Ngư, đã được chọn để giữ lại, trong khi luân xa xương cùng, trung tâm của biểu lộ tình dục, trở thành điều cấm kỵ, ít nhất là đối với đời sống tu viện (Độc thân có thể là một sự khôn ngoan đối với những ai đủ nghiêm túc về ý định mở các trung tâm phía trên cơ hoành, nhưng lại phản tác dụng nếu quá nhấn mạnh sự đổ lỗi và mặc cảm đến mức chúng trở thành những yếu tố kìm hãm mạnh trong phàm ngã).
Đối với những ai tìm kiếm điểm đạo, câu trả lời cho vấn đề luân xa này là một sự lựa chọn: gắn bó cảm xúc mà không hoạt động tình dục, hoặc hoạt động tình dục mà không gắn bó cảm xúc. Giáo hội Công giáo đã chọn. Người đệ tử cũng phải chọn.
Bài học lớn mà sự kiểm soát các xung lực tình dục dạy cho chúng ta chính là nhịp điệu. Sự biểu lộ tình dục, nếu không được kiểm soát, sẽ gây tai họa cho sự chuyển dịch năng lượng đến các trung tâm phía trên cơ hoành. Một luân xa xương cùng quá độ thậm chí sẽ kéo năng lượng về cho nó từ tất cả những luân xa khác dưới cơ hoành, thậm chí cả từ luân xa cổ họng phía trên cơ hoành.
Nhịp điệu quan trọng trong việc tạo ra nốt ổn định mà nhóm tinh thần của bạn có thể đáp ứng. Một chế độ được người đệ tử áp đặt lên các hoạt động hằng ngày của mình có thể giúp y tìm thêm thời gian cho những điều thiết yếu như học tập, tham thiền và công việc phụng sự. Một chế độ, như một nền tảng làm việc cho đời sống tham thiền, được phác họa ở đây cho phần đầu ngày của đệ tử. Đây chỉ là một hướng dẫn gợi ý cho sự khảo sát và áp dụng thêm.
Kỷ Luật Hằng Ngày
Một vị tăng nói với Thiền Sư Triệu Châu: “Con vừa vào chùa. Xin Hòa thượng chỉ dạy.”
Triệu Châu hỏi: “Con đã ăn cháo gạo chưa?”
Nhà sư đáp: “Con đã ăn.”
Triệu Châu nói: “Vậy con nên rửa bát đi.”
– Một câu chuyện Thiền.
Khi thức dậy, hãy đi sớm nhất có thể tới nhật ký tinh thần của bạn và ghi lại mọi sự kiện trong đêm. Tất nhiên, nếu bạn ngủ say như khúc gỗ thì sẽ chẳng có sự kiện nào cả! Liên tục tâm thức là đích tối hậu—không phải chỉ là ngủ chập chờn! Trên bước đường hướng tới sự liên tục tâm thức, sẽ có những linh ảnh mạnh mẽ hơn mộng mơ bội phần, những biểu tượng đi kèm tiếng nói, những tràn ngập năng lượng, v.v. Tất cả đều nên ghi vào nhật ký. Ba mục chính cần ghi:
1. Công việc phụng sự.
2. Học tập và truy vấn.
3. Các sự kiện trong đêm—bao gồm những thời khắc thiền định cao điểm.
Kế đó, nếu có thể, hãy ngắm mặt trời mọc. Điều này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho bạn nếu thực hiện đều đặn. Hãy xướng lên Đại Khẩn Nguyện (in cuối sách này). Nối kết bản thân với:
1. Ba lớp của mặt trời:
Hỡi Đấng bảo dưỡng toàn vũ trụ
Đấng sinh thành vạn hữu
Đấng mà vạn hữu trở về,
Xin hiển lộ cho chúng con hình ảnh Ngôi Mặt trời tinh thần chân thực
Ẩn trong vầng ánh sáng vàng kim
Để chúng con nhận biết Chân Lý
và làm tròn nhiệm vụ
trên con đường đến dưới chân thánh thiện của Ngài
2. Bốn trung tâm được mô tả trong mỗi khổ của Đại Khấn Nguyện.
Hãy chiêm nghiệm về bản chất của mặt trời. Đĩa rực cháy bên ngoài che khuất bản chất thật sự của Thái Dương của chúng ta. Người ta nói rằng trong trái tim của mặt trời, tâm thức của 16.000 triệu chân sư tạo ra những mãnh lực tiến hóa của Thái Dương hệ. Họ tiếp nhận năng lượng ngoại hệ từ Sirius, chuyển hóa nó và hướng dẫn nó đến các hành tinh tùy theo các cung của những hành tinh ấy. Chiêm tinh học nội môn nghiên cứu khoa học này về sự chuyển hướng các năng lượng đến từ Sirius. Hãy tỏ lòng kính ngưỡng đối với Thái Dương Thượng đế—áp đặt nhịp điệu của Ngài lên chính bạn cho ngày hôm đó. Hãy thở ra linh từ thiêng liêng, AUM. Hãy đồng nhất:
• Đĩa ngoài của mặt trời với trung tâm cổ họng của bạn…
• Tâm của mặt trời với trung tâm tim của bạn…
• Mặt trời Tinh thần Trung ương với trung tâm đầu của bạn…
• Trung tâm Ajna của bạn với Sirius…
Ấn tượng tổng thể về ánh sáng sẽ kích thích tuyến yên của bạn—đặc biệt nếu có sự tập trung vào các quầng sáng bên trong của mặt trời. Ánh sáng ảnh hưởng đến tuyến yên của động vật và khơi dậy các nhịp điệu tính dục. Ở con người, nó có thể tác động để kích thích Ajna, luân xa giữa trán.
Đây là thời điểm để bạn chỉnh hợp với các thành viên tam giác của mình (xem tác phẩm Meditation, the Theory and Practice của tác giả). Mỗi người trong các bạn có thể hình thành một tam giác với hai người tham thiền khác. Nền tảng của sự sắp xếp này là để thiết lập những tam giác ánh sáng—những sự giao thoa của năng lượng băng qua hành tinh.
Đây cũng là lúc để giữ tư tưởng của bạn tập trung vào chủ đề cho lần tham thiền trăng tròn tiếp theo, và lúc để chiêm nghiệm về những sự kiện sắp đến, cũng như cách bạn sẽ đối diện với chúng—với sự quan tâm đầy tình thương, v.v. Hãy hình dung bạn đang hành động như một vị thánh trong ngày sắp tới, và kiên định với kế hoạch của mình. Tất cả đều cần thời gian! Đây là lý do bạn cần đi ngủ sớm. Những chiến binh lão luyện trên Thánh đạo thường đến với tôi và than phiền về sự tiến bộ của họ. Thường thì tôi phát hiện ra họ đi ngủ sau nửa đêm và rồi hút thuốc cho đến khi ngủ thiếp đi. Mỗi giờ ngủ trước nửa đêm giá trị gấp đôi giờ ngủ sau, xét về prana.
Việc chiêm nghiệm về các sự kiện trong ngày có thể được thực hiện trong khi bạn rửa mặt, tắm rửa và cạo râu. Hãy chắc chắn rằng bạn giữ cho tất cả các lỗ tự nhiên được sạch sẽ trong lúc tẩy rửa. Đặc biệt giữ cho tai luôn sạch, dùng một chút dầu trên bông gòn (tôi dùng glycerine và phenol) để làm mềm ráy tai. Các lỗ mũi cũng nên được giữ sạch; hít một ít nước muối sẽ giúp màng mũi tiết dịch ra.
Đây là lúc để thực hiện các bài tập mắt mà tôi đã mô tả trong sách The Opening of the Third Eye. Chuẩn bị cho mình bước vào tham thiền, trước tiên xoay mắt hướng lên trên, ra ngoài, rồi vào trong, xoay chúng theo mọi hướng. Điều này tránh tình trạng căng cứng cơ mắt và giúp thúc đẩy sức khỏe tổng quát. Tiếp theo hãy tập thở ống bễ, mà tôi đã mô tả trong sách Meditation, the Theory and Practice. Thực hiện ngay bây giờ, vào buổi trưa và một lần nữa vào buổi tối. Tất cả các hình thức thở theo nhịp đều tác động lên luân xa Alta Major; nó cũng áp đặt một nhịp điệu lên thể cảm dục và giúp thể này được tích hợp. Sau khi hoàn tất tất cả những điều này, bây giờ hãy tham thiền, nếu bạn có thời gian. Nếu không, hãy thực hiện vào buổi tối—hoặc cả hai. Bao lâu? Khoảng bằng thời gian một cây nhang cháy hết.
Nếu bạn không thể có hẳn một căn phòng dành riêng cho tham thiền, hãy thiết lập một góc phòng của bạn, hoặc một không gian kín nào đó—chỉ cần nó được dùng duy nhất cho mục đích này. Giữ cho nó thật sạch sẽ. Hãy coi việc dọn dẹp phòng như một hành vi dâng hiến, bất kể nó có cần dọn dẹp hay không. Nó chỉ cần là một cử chỉ mang tính biểu tượng—không cần phải bật máy hút bụi vào lúc sáu giờ sáng! Cũng như bạn đã từng làm trong những kiếp trước, khi bạn phụng sự trong các ngôi đền điểm đạo, hãy thực hiện hành vi biểu tượng của việc thay hoa, mở cửa sổ để thanh lọc không khí, v.v. Hãy có thêm nhạc nền cho việc này nếu bạn muốn… nhịp điệu… nhịp điệu… nhịp điệu. Các trung tâm tinh thần của thế giới yêu thích điều đó và sẽ dễ dàng làm việc với bạn hơn nếu bạn có căn phòng đặc biệt của riêng mình.
XỬ NỮ MỌC: XỬ NỮ ở DẤU HIỆU MỌC
Hãy chuyên tâm vào sự phụng sự Ta; làm mọi hành vi vì Ta, các ngươi sẽ đạt sự toàn thiện.—Bhagavad Gita.
Mặt Trời và vị trí của nó trong lá số chiêm tinh cho thấy bản chất của phàm ngã và ảnh hưởng đến hành vi của nó. Tuy nhiên, trong chiêm tinh học thế kỷ 21, sức trội của phàm ngã được giảm nhẹ và Chân Ngã được xem là quan trọng hơn nhiều. Cái sau được biểu trưng trong lá số chiêm tinh bởi dấu hiệu mọc. Dấu hiệu mọc, còn gọi là ascendant, chỉ dấu hiệu hoàng đạo đang ở đường chân trời phía đông vào thời khắc sinh. Một lá số chiêm tinh chỉ ra điều này ngay tức khắc ở vị trí “chín giờ” trên lá số. Các bạn không cần sinh ra dưới Xử Nữ mới có dấu hiệu này mọc; thực tế, xác suất là một phần mười hai. Vì dấu hiệu trên dấu hiệu mọc thay đổi mỗi hai giờ khi Trái Đất tự quay, Xử Nữ mọc khoảng hai giờ mỗi ngày. Do đó điều quan trọng là phải biết giờ sinh trước khi có thể xác định các bạn có dấu hiệu mọc nào.
Trong chiêm tinh học mới, dấu hiệu mọc có tầm hệ trọng hàng đầu và được xem là có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với dấu hiệu mặt trời. Thật vậy, toàn bộ khoa chiêm tinh đang chuyển dần sang nhấn mạnh dấu hiệu mọc, dưới ánh sáng của các nghiên cứu khoa học cho thấy chính dấu hiệu mọc, hơn bất cứ điều gì, đem lại một mức độ xác chứng khoa học cho chiêm tinh học.
Dấu hiệu mặt trời và dấu hiệu mọc thường khác nhau, dù có thể trùng nếu cá nhân sinh gần lúc bình minh. Có thể xảy ra trường hợp người sinh có Xử Nữ là dấu hiệu mặt trời cũng đồng thời có Xử Nữ mọc. Điều này có nghĩa cả Mặt Trời và Xử Nữ đều ở đường chân trời vào lúc sinh. Đây là một phối trí rất mạnh, và nó sẽ ảnh hưởng toàn bộ lá số. Nó sẽ nhấn mạnh lại mọi ảnh hưởng Xử Nữ trong đời sống và cũng sẽ định hướng mạnh cho những phương diện trong hiện hữu của người đó vốn là tinh thần.
Khi Xử Nữ mọc hoặc ở dấu hiệu mọc, chúng ta nói rằng dấu hiệu này chi phối sự tăng trưởng tinh thần của cá nhân, hay mục đích của linh hồn:
Đá rơi xuống đất thấp;
Sông đổ ra đại dương;
Mọi chuyển động đều có cùng một tận đích;—
Còn tận đích của ngươi là gì, hỡi linh hồn dấu yêu?
—John Byrom, Khuynh Hướng của Linh Hồn về Trung Tâm Chân Thực của Nó.
Dấu hiệu mọc thúc đẩy phàm ngã hướng về mục tiêu tinh thần của nó và tiết chế những nỗ lực của phàm ngã khi mục tiêu không mang tính tinh thần. Nó cũng chỉ ra tiềm lực sâu nhất của một người, thứ thông thường có thể không bao giờ nổi lên nếu dấu hiệu này không được kích hoạt hay không mạnh. Trong chiêm tinh học cao cấp, có thể xác định mục đích đầu thai của linh hồn qua việc khảo sát dấu hiệu mọc và các góc hợp hình thành với nó. Quả vậy, khi một người đang bước trên Con Đường khai mở tinh thần, thì đúng đắn hơn là lấy dấu hiệu mọc của y, nơi của Chân Ngã, làm đại diện cho y, hơn là dấu hiệu mặt trời của y:
… dẫu vậy, không phải ý muốn của con, mà ý của Ngài được thành tựu.—Lu-ca 22:42
Trong những chuyến lưu diễn giảng dạy gần đây, tôi đã ấn tượng mạnh mẽ trước sự đáp ứng phi thường của nhiều bạn trẻ, những người rõ ràng đã tiến hóa rất cao, nhưng xét theo các tiêu chuẩn thế gian thì họ chẳng là ai cả, không thể bộc lộ bản thân. Tuy nhiên, khi nhìn sâu hơn, có thể thấy rằng họ sở hữu những phẩm tính tinh thần mà người khác phải vật lộn nhiều năm mới có thể tích hợp, và vậy mà họ lại không có mong muốn được công nhận hay nổi bật.
Hiện tượng kỳ diệu như vậy gợi nhớ ong thợ, được chi phối bởi Xử Nữ mọc, một biểu tượng đẹp cho những ai tiến hóa rất cao nhưng sẵn sàng làm việc ở hậu trường và không ở vị thế quan trọng. Ong thợ bằng lòng làm việc của nó mà không than phiền. Nó lao lực bất tận (dấu hiệu mọc), quanh nhân vật trung tâm là “người mẹ” đồng trinh và nữ hoàng của nó, hiến trọn cả đời cho điều đó. Thật vậy, dấu hiệu mọc này có thể chỉ một dự án quan trọng kéo dài suốt một đời. Dẫu ít nhất một trong những xung lực phía sau dự án như vậy có thể bắt nguồn từ libido, hoài vọng của nó có thể hướng tới biểu hiện cao cả và tinh tế nhất.
Biểu tượng ong thợ hữu ích để ghi nhớ khi xét các vấn đề tinh thần. Một trong những khó khăn lớn của nhiều nhóm huyền môn là thường có quá nhiều “thủ lĩnh” mà lại thiếu “chiến binh”. Ai cũng muốn vị trí cao, thay vì nhận làm những công việc khó nhọc vô danh, khuất tầm nhìn—những việc Xử Nữ đặc biệt cần. Cũng không nên quên rằng cũng có những “đại thủ lĩnh” đang đầu thai mà chưa chắc đã được thấy hay được nghe tới.
Do đó, nhu cầu lớn lao của Xử Nữ ở dấu hiệu mọc là nhận ra vai trò phụng sự trong thế giới. Những người phụng sự đang rất cần thiết. Một thời gian trước, Alice Bailey đã chật vật để hình thành điều Bà gọi là “Nhóm Người Phụng sự Thế giới Mới”. Khi gần đây tôi đề nghị tên gọi ấy cho một nhóm trong lĩnh vực này, không người nào muốn dính dáng đến danh xưng ấy. Dẫu vậy, nhu cầu phụng sự thế giới theo một cách nào đó vẫn còn đó.
Không nên quên rằng vài độ của điểm mọc thường nằm trong nhà mười hai, vốn được Song Ngư cai quản. Điều này mang đến cho chúng ta hình ảnh sau: “Nữ hộ lý phục vụ cá trên một chiếc đĩa trắng cho hết bệnh nhân này đến bệnh nhân khác”, một sự hoán đổi các biểu tượng cơ bản, vốn lặp lại chủ đề của điểm mọc Xử Nữ ba lần và đồng thời bao hàm các yếu tố của cả cung một và cung mười hai. Người hộ lý, sự phụng sự, chiếc đĩa trắng và các bệnh nhân đều thuộc về mọc Xử Nữ, trong khi con cá—biểu tượng của Đức Christ, đấng cứu rỗi và nguồn dưỡng nuôi từ tiềm thức—thuộc về Song Ngư. Sự tương đồng ở đây với câu chuyện Đức Jesus hóa bánh và cá cho năm ngàn người ăn thật sự rất gần gũi, gợi ý việc phụng sự nhân loại bằng sự dưỡng nuôi mà y cần, thông qua giảng dạy hoặc chữa lành.
Phụng sự hành tinh ở bất cứ lĩnh vực nào đem lại điều kiện xứng đáng để tìm và gặp “Đức Cha trên trời”. Khi ấy Xử Nữ mọc có thể nói, một cách chân thực, “Tôi đang phụng sự nhân loại hết khả năng của mình; tôi đã lập công như một kỵ sĩ, và nay tôi có quyền đi tìm Chén Thánh, Đức Cha trên trời”. Đó là tinh túy của Xử Nữ mọc.
Trước đó, tôi đã nói về hình tượng Madonna và hài nhi liên hệ đến dấu hiệu này. Trong thực hành chiêm tinh, biểu tượng ấy hàm ý một người cha vắng mặt, một gia đình đơn thân, hoặc thậm chí trường hợp người cha hiện diện về mặt thể chất nhưng vắng mặt trong việc làm cha. Chẳng hạn, cha có thể là một thủy thủ thương thuyền xa nhà trong phần lớn của năm. Khi Xử Nữ mạnh trong lá số chiêm tinh, hoặc ở dấu hiệu mọc hoặc ở chỗ khác, có thể không có người cha thể chất hiện diện trong đời chủ lá số, nhưng lại có một cảm thức mạnh mẽ về sự hiện diện (thiêng liêng) của ông. Ông có thể đã qua đời hay biến mất khi đứa trẻ còn nhỏ, nhưng sự hiện diện của ông vẫn còn và khơi dậy lòng mộ đạo. Đôi khi những phụ nữ mang sắc thái Xử Nữ mạnh khao khát có con mà không kết hôn hay bất kỳ trở ngại nào đối với độc lập và đời làm việc của họ. Xét biểu tượng Madonna và hài nhi ở tầng tinh thần, nó hàm ý rằng người cha, tức chân thần, ở trên trời; ngài vắng mặt và phải được kiếm tìm. Công việc phụng sự mở ra một con đường đến Chân Ngài.
Thường thì thái độ của Xử Nữ mọc đi kèm những quan niệm trinh khiết suốt đời. Trong trị liệu huyền môn, chẳng hạn, có thể có những nỗ lực thanh giáo để tránh dùng thuốc hoặc loại trừ nhiễm độc hay bất kỳ tiến trình nhiễm bẩn nào khỏi bệnh nhân, như hút thuốc, uống rượu, hoặc chế độ ăn không lành mạnh. Quả thật, dấu hiệu mọc này trước hết (nhà một) là người theo chủ nghĩa thanh khiết ở mọi tầng, và sẽ sớm cho thấy điều đó trong thái độ của ông, dẫu chưa chắc trong hành động.
Sự tán thành bất kỳ vấn đề nào được ghi nhận ở bên trong. Hầu như không có biểu hiện ra ngoài và chẳng bao giờ là bộc lộ rộn ràng. Đó là một chuyện rất nội tâm, giống như tiếng rù rì dịu nhất mà một chú mèo hướng nội cất lên, khẽ đến mức các bạn phải kề tai vào lồng ngực nó mới nghe được. Nó cùng phẩm tính với mối tương giao giữa mèo mẹ và mèo con; một sự chia sẻ niềm hoan hỷ và an lạc nội tâm khi nó đang phụng dưỡng mèo con bằng sữa trong những ngày đầu đời của nó.
Sư Tử mọc học cách “cúi đầu”, còn Xử Nữ mọc thì “bồng ẵm” và tháo dỡ mọi cảm thức tổn thương, bất an và sợ hãi. Nó hướng nội, hy sinh, tinh khiết và thường bị gạt ra ngoài lề—Lọ Lem và Bà tiên đỡ đầu là những biểu tượng tương liên rất thích hợp. Những dấu hiệu như Bạch Dương và Bọ Cạp trỗi dậy để chinh phục, nhưng Xử Nữ ở dấu hiệu mọc gợi ra một tiếp cận như gợi ý trong tựa vở kịch của Goldsmith, She Stoops to Conquer.
Một người nam rất thụ động có Xử Nữ ở nhà một có thể hành xử như một “người vợ” với các cộng sự hay bạn bè, hạnh phúc phụng sự một cộng đồng nam giới bằng việc chăm nom mọi nhu cầu vốn thường là phần việc của nội trợ, ví dụ nấu nướng, dọn dẹp và đi chợ. Điều ngược lại hầu như hiếm gặp. Điều này không nên bị nhầm với nguyên mẫu mà chúng ta gọi là “Đức Mẹ Thế giới”, được biểu trưng bởi Song Ngư ở nhà chín.
Bất cứ điều gì được trích dẫn hay đặt trong dấu ngoặc kép nói chung thuộc dấu hiệu mọc, trong khi Xử Nữ hàm ý các vấn đề y khoa. Do đó, ở dấu hiệu mọc, nó gợi ra những câu như “Thưa bác sĩ, ông đang trực”, hàm ý rằng tên các bạn có trong danh sách để gọi và rằng các bạn phải đứng bên, canh giờ, sẵn sàng phụng sự các nhu cầu của hành tinh.
Đừng quên rằng một thành tố của góc hợp chiêm tinh cho lương tâm (Mặt Trăng ở Bọ Cạp) là Mặt Trăng, chủ tinh của Xử Nữ. Do đó Xử Nữ mọc khiến một người rất nhạy cảm với các vấn đề liên quan lương tâm, nhất là những điều liên quan phụng sự qua dạy dỗ và chữa lành. Sự nhạy cảm ấy cũng chịu ảnh hưởng bởi nội dung của nhà trong lá số nơi Bọ Cạp đặt trên đỉnh nhà.
Tuy Xử Nữ mọc ưa giữ đúng giờ một cách kỹ lưỡng, thường có một nỗi sợ vô căn cứ về việc đến trễ một cuộc hẹn, kèm theo một lương tâm cắn rứt về chuyện đó. Tương ứng nội môn của điều này là một dạng thái độ cứu thế: người con (của Thượng Đế) có việc phải làm, được người khác cần đến, luôn đến muộn hơn ông cảm thấy mình nên đến, và việc ấy là quan trọng. Theo nghĩa này, câu nói thường “Đêm qua tôi về rất muộn” là thích đáng và đáng suy ngẫm.
Dấu hiệu mọc này khuyến khích và được lợi bởi những buổi ngủ sớm. Một người mẹ hiền (Madonna) nuôi con thơ nhất thiết phải đi ngủ sớm ban đêm, cũng như người mẹ mang thai. Người đệ tử trên Đường Đạo khó lòng tiến bộ nếu không có ít nhất ba đêm ngủ sớm mỗi tuần, nếu ông cũng mong đứa hài nhi đang lớn trong ông đem lại sự tái sinh cho ông. Những phẩm chất của nhà một cho Xử Nữ sự bền bỉ để kết tinh những cấu trúc tinh vi nhất.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi với điểm mọc này, bữa ăn thường đạm bạc, kèm theo nhiều tự thắc mắc về chế độ ăn uống. Chứng biếng ăn tâm thần ngày càng trở thành một căn bệnh phổ biến hơn nơi những thiếu nữ trẻ, họ ngừng ăn và có thể lặng lẽ chết đói. Vai trò của người mẹ thường liên quan đến sự khởi phát của rối loạn thần kinh khủng khiếp này.
Cùng một điểm mọc này có thể bao trùm một người mẹ, vốn tuyệt vọng muốn biến con trai hoặc con gái mình thành người nổi tiếng bằng mọi giá, và sẽ chịu cảnh nô lệ cũng như hy sinh bản thân trong nỗ lực ấy. Điều này rất dễ trở thành một tôn giáo hoặc một lý tưởng mà đối tượng quan tâm của Bà ta không hề chia sẻ. Cung sáu của Sùng tín và Lý tưởng mạnh nhất ở Xử Nữ và Song Ngư, và lòng trung thành, sự tận tụy và lòng mộ đạo có thể bị đẩy đến mức cực đoan vô lý. Đó là một sự trung thành khiến ai đó cam chịu làm nô lệ cho một ông chủ cũ, ngay cả khi được mời nhận công việc khác với mức lương cao hơn, và được biểu trưng bằng sự tận hiến của Đức Mẹ Maria đối với Người Con trên Thập Giá và những sự kiện sau đó. Tâm thức cảm xúc của Xử Nữ thường tập trung nơi luân xa tùng thái dương, vốn cũng do cung sáu chi phối.
Những phụ nữ có điểm mọc Xử Nữ thậm chí có thể ăn mặc giống như một Đức Mẹ Đồng Trinh, với sở thích là y phục nhiều nếp gấp điển hình của Đức Mẹ. Ngay cả ở đàn ông, việc chất chồng chăn mền quanh mình theo kiểu phồng lên cũng có thể ứng nghiệm. Trong bối cảnh huyền linh học, điều này ngụ ý “ngủ giữa những đám mây bồng bềnh” cao xa trên mặt đất, luôn “tìm kiếm sự bao bọc trong những điều thuộc về thiên giới.”
Điểm mọc Xử Nữ đem lại sự nhạy cảm và khả năng cảm thụ phong cảnh quê hương mà người khác không thể cảm nhận với độ sắc bén như thế. Ở đây, sự nhấn mạnh nằm nơi những cảnh vật có đường chân trời và những cấu trúc tinh tế từ đất vươn lên, như tán cây; loại chi tiết được thể hiện rõ trong tranh của Constable đối với người Anh.
Khi điểm mọc này bị xung khắc, người mang nó có thể rất mơ hồ về các sự kiện. Dấu hiệu cùng hành thổ với Xử Nữ là Kim Ngưu yêu sự kiện và việc nêu lên sự kiện, chẳng hạn như “Điều cốt yếu là…” hoặc “Sự thật là…” Tuy nhiên, Xử Nữ có xu hướng thu thập các sự kiện, thường ở dạng danh sách. Thay vì nêu ra, y sẽ đánh dấu chúng bằng con mắt phân tích tỉ mỉ, đảm bảo rằng mọi thứ đều theo trật tự. Tuy nhiên, Sao Hải Vương ở khía cạnh gần với điểm mọc sẽ làm cho danh sách ấy bị bỏ sót nhiều chỗ trống.
Trong kinh doanh, những dự án thành công hơn khi khởi sự dưới điểm mọc này sẽ là những dự án phát triển nhờ việc tính phần trăm phí dịch vụ, như một kiến trúc sư hoặc kế toán tính phí dựa trên phần trăm tổng chi phí xây dựng hoặc giá trị cuộc kiểm toán.
Chúng ta đã thấy rằng Xử Nữ chi phối sự khảo hạch, điều tra và phân tích. Với các phẩm tính bổ sung của điểm mọc, có khả năng đi vào chi tiết to lớn, đặc biệt từ góc nhìn kiểm tra và kế toán. Xử Nữ mọc đặt câu hỏi không ngừng. Ngược lại, Song Ngư “không biết” và buộc phải dựa vào đức tin.
Tôi từng biết một người rất tài năng đã dành phần lớn cuộc đời để khảo cứu bằng chứng về Hoàng đạo Glastonbury, đi sâu vào phân tích lịch sử của từng con đường, cánh đồng, lùm cây và ngôi làng liên quan. Khi đọc tài liệu được tập hợp, bất kỳ ai có một chút lương tri cũng sẽ vẫn tìm kiếm một mục đích cho một công trình đồ sộ như vậy. Sau khi thảo luận với nhà nghiên cứu ấy, tôi nhanh chóng nhận ra rằng ngay cả Bà cũng không bị thuyết phục, và dường như cũng chẳng bận tâm 😊. Bà đã sẵn sàng tìm kiếm những hoàng đạo khác!
Nhiều nhà chiêm tinh gặp khó khăn với việc giải đoán bởi ngôn ngữ của họ quá cứng nhắc. Nhà chiêm tinh có Xử Nữ mọc thường bị lạc trong chi tiết mà y không thể diễn đạt. Lòng tôn kính chi tiết và sự cẩn trọng tỉ mỉ của điểm mọc này là lý tưởng cho các ngành khoa học chuyên sâu như vi trùng học và y học dự phòng, đặc biệt khi liên quan đến việc phục vụ thức ăn, hoặc truy tìm nguồn gốc ngộ độc thực phẩm, v.v. Dấu hiệu Sư Tử sẽ đặt mọi thứ dưới kính để trưng bày, nhưng Xử Nữ đặt chúng dưới kính vì mục đích vô trùng, vệ sinh, khử nhiễm và nuôi cấy (ví dụ: nuôi cấy vi khuẩn trong đĩa thạch). Ở đây có một niềm yêu thích việc giữ mọi thứ trong hộp nhỏ, đặc biệt là gia vị, thảo dược, thuốc men, nữ trang, v.v. Kiểu người này thấy khó mà cưỡng lại việc mua bao bì nhỏ đẹp mắt thay vì bao bì lớn rẻ hơn nhưng kém hấp dẫn.
Trong nghề nghiệp, một Bà quản lý bệnh viện, một trưởng bồi bàn, một nhà vi trùng học, một quản khoang tàu hoặc một kế toán sẽ là điển hình cho ảnh hưởng của điểm mọc này. Nghề dạy học cũng được chỉ định, bởi với Xử Nữ mọc, Song Tử (dấu hiệu của học đường) thường nằm trên đỉnh nhà mười, tức là nhà của nghề nghiệp.
Khi Xử Nữ mọc trong lá số của một giáo viên, có thể sẽ có sự quan tâm nhiều hơn đến việc kiểm soát học sinh trong hành vi và thói quen của chúng hơn là vào việc giảng dạy thực sự. Ngoài ra, nếu Sao Hỏa gây ảnh hưởng xấu đến điểm mọc như thế, sẽ có một bản tính hay chỉ trích ác ý, không bao giờ ngừng bới móc lỗi của người khác và tự đề cao phẩm hạnh của mình. Khía cạnh này cũng mạnh mẽ khi hoàn cảnh liên quan đến luật lệ và quy định công nghiệp nhằm đảm bảo an toàn và bồi thường cho tai nạn lao động.
Điểm mọc Xử Nữ rất khắt khe với quy định và việc tuân thủ thủ tục, kiểm tra chức danh của người khác, v.v., đặc biệt là các bác sĩ trong danh sách y khoa! Ngay cả khi nguy hiểm đến tính mạng, y cũng có thể không chịu lái xe qua vạch trắng giữa đường. Nơi ba người trở lên tụ họp, Bảo Bình mọc sẽ lập nhóm, trong khi Xử Nữ mọc sẽ xếp hàng. Sự dễ dàng mà một số phụ nữ xếp hàng (đặc biệt ở Anh) không chỉ là di sản của thời phân phối khẩu phần trong chiến tranh; đó là vấn đề thuộc về Xử Nữ, cho thấy sự thấu hiểu nhu cầu kiên nhẫn, khiêm nhường, trật tự và phục tùng quy định (công khai hay ngầm định). Đàn ông thấy điều này khó hơn nhưng dẫu vậy vẫn vui lòng xếp hàng trong các tổ chức lớn để thăng chức, chẳng hạn như chờ đợi để bước vào vị trí của những người đã qua đời hoặc, như nhân vật Mr. Micawber của Charles Dickens, để chờ “một điều gì đó xảy đến.” Sự chấp nhận thụ động những gì như thế gợi nhớ đến thời nô lệ (ngôi nhà thứ sáu và Xử Nữ).
Chúng ta có thể hiểu bây giờ rằng khao khát trải nghiệm mới không phải là một động lực đặc trưng của điểm mọc này. Y thích khảo sát những trải nghiệm của người khác và rút ra kết luận từ đó, hơn là tự mình bị vấy bẩn hoặc hoen ố bởi việc trải qua những điều mạo hiểm như vậy. Nhà văn Xử Nữ thường chỉ rút ra từ tài liệu thư viện hoặc từ kinh nghiệm của mình trong việc phụng sự người khác ở một khía cạnh nào đó.
Cuối cùng, không nên quên rằng Xử Nữ có liên hệ với các câu chuyện cổ tích và, khi nằm ở điểm mọc, nó tạo ra tình yêu với những truyện ngụ ngôn, thần thoại và truyền thuyết xưa cũ gần kề với huyễn tưởng, đặc biệt nơi có đề cập đến thần linh, quỷ lùn và các loài tiên khác. Ngàn Lẻ Một Đêm là một ví dụ hay, nhớ rằng Xử Nữ chi phối Trăng Lưỡi Liềm Ả Rập. Bộ sưu tập khoảng 200 câu chuyện này có lẽ là tác phẩm văn học Ả Rập nổi tiếng nhất trong các nước nói tiếng Anh trên thế giới.
Hình ảnh cho Xử Nữ Mọc:
Ước tính; thanh lọc (tẩy uế tinh thần); luyện ngục; trưởng bồi bàn; nhà hàng hạng nhất; cực kỳ phân tích; điều tra cấp quốc gia; câu hỏi bất tận; Dịch vụ Y tế Quốc gia; xếp hàng, với kiên nhẫn và khiêm nhường; trước hết là một người thanh khiết trong các thái độ của mình; khắt khe với phép tắc; đi vào chi tiết mênh mông; lao động bền bỉ; ong thợ lao lực bất tận; Lọ Lem và Bà tiên đỡ đầu; bền bỉ kết tinh những cấu trúc tinh vi nhất; là người mẹ cho đứa trẻ bên trong; bệnh nhân hết người này đến người khác; “Thưa bác sĩ, ông đang trực”; vệt bắn bột trắng trên tấm y phục dệt mịn rất khó tẩy sạch.
MẶT TRĂNG: CHỦ TINH NỘI MÔN của XỬ NỮ
Ấy là vầng trăng xinh—nàng vươn lên
Chầm chậm vầng trán trắng giữa
Những làn mây đồng thau—sóng rút dạt trôi
Mờ dần, mờ dần xa tít.
—John Freeman, Những Cây Đá.
Khoa học nay thừa nhận rằng các nhịp sinh học của sinh vật sống được điều kiện hóa bởi những chu kỳ Thái dương và Âm lịch. Như Frank A. Brown, Giáo sư Sinh học tại Đại học Northwestern, người đã nghiên cứu một phạm vi rộng lớn các loài thực vật và động vật, gần đây phát biểu:
Những sinh vật khác biệt như khoai tây và cua fiddler cho thấy những chu kỳ hằng năm (Thái dương) và hằng tháng (Âm lịch) một cách không thể nhầm lẫn. Những nhịp điệu này điển hình bị suy giảm mạnh vào kỳ trăng mới, và hoạt hóa nhất vào kỳ trăng tròn; chúng thờ ơ với nhiệt độ, thậm chí cả với thuốc. Một con chuột, trong điều kiện kiểm soát, ở lồng tối, hoạt động nhiều gấp đôi khi Mặt Trăng ở trên đường chân trời so với khi ở bên dưới; qua đó xác nhận lời chứng nài nỉ của bao thế hệ các “Bà lão” và người làm vườn.—John Anthony West, The Case for Astrology, trang 329.
Những thí nghiệm do Tiến sĩ Leonard J. Ravitz thuộc Trường Y Đại học Duke thực hiện đã cho thấy những dao động rõ rệt trong điện thế phát ra từ cơ thể, trùng khớp với các pha của Mặt Trăng và với các mùa. Tiến sĩ Ravitz báo cáo rằng vì con người là một hệ điện và từ như mọi sinh vật, “thật khó hình dung y không bị ảnh hưởng theo những cách đo đếm được” bởi các pha thay đổi của Mặt Trăng, vốn ảnh hưởng đến các thuộc tính điện của khí quyển.
Tất cả vật chất sống đều phát ra một nhịp đập ổn định của dòng điện một chiều trực tiếp. Hiện tượng điện học này gần với những bí mật sâu xa nhất của sự hiện tồn, vì Tự Nhiên, trong việc tạo ra hình tướng của thực vật, động vật và con người, đã sử dụng các phương pháp điện học. Các thiên thần (deva) và các hành khí (elemental) – những công nhân vô hình của thiên nhiên xây dựng nên thân thể chúng ta – được kích thích bởi nhịp điệu điện-từ của chu kỳ mặt trăng, khi Mặt Trăng chuyển từ non sang tròn rồi lại trở về non. Cũng như Mặt Trăng nâng thủy triều trong đại dương, nó cũng tạo ra những “thủy triều” trong các trường điện-từ của Trái Đất, và từ đó ảnh hưởng đến hoạt động của các thiên thần, tạo nên các chu kỳ sinh trưởng và suy tàn. Đây chính là điều mà nhà Thông Thiên Học lừng danh Helena Blavatsky ám chỉ khi Bà nói rằng: “Từ lực mặt trăng sinh ra sự sống, bảo tồn và hủy diệt nó, cả về mặt tâm linh lẫn thể chất.” (Giáo Lý Bí Nhiệm, Tập I, trang 394). Người xưa đã đặt nền tảng cho các nghi thức thờ phụng mặt trăng dựa trên khía cạnh huyền bí này của tự nhiên, vốn quen thuộc với những sự kiện và nguyên lý mà nay đã tái hiện trong tư tưởng khoa học hiện đại.
Người ta phải nhìn vào lịch sử của mối liên hệ lâu dài vô cùng giữa Mặt Trăng và Trái Đất để thấu hiểu phần nào bản chất của ảnh hưởng này. Một lực điện hoặc từ trực tiếp vẫn chưa được chứng minh, và bất kỳ ảnh hưởng nào như vậy có thể chỉ là một tính chu kỳ được gây ra trong nhịp sinh học điện của Trái Đất qua hàng triệu năm. Mặt Trăng không có từ trường toàn cầu riêng, nhưng các sứ mệnh Apollo đã phát hiện rằng một số đá trên bề mặt của nó có biểu hiện từ dư, cho thấy có thể đã từng có một từ trường toàn cầu trong buổi đầu lịch sử của Mặt Trăng. Điều này hỗ trợ cho quan điểm huyền bí rằng vệ tinh của Trái Đất từng là một ảnh hưởng “sống động” và từ tính, từng hiện ra gần gũi và to lớn hơn nhiều trên bầu trời của chúng ta (xem tác phẩm Life on Other Planets của tác giả), và đã tác động mạnh mẽ hơn đến sự sống trên Trái Đất.
Giáo lý huyền linh cũng nói rằng đã từng có sự sống trên Mặt Trăng, và rằng nó đã tạo ra những hình thái sống này khá nhanh chóng, phản ánh bản chất nhạy cảm của vệ tinh này. Mặt Trăng chắc chắn đã là một sinh thể đáp ứng trong vô số thiên niên kỷ. Kể từ đó, nó đã trôi xa dần khỏi Trái Đất và những phản ứng của chúng ta với nó không còn rõ rệt như xưa. Tuy vậy, Mặt Trăng vẫn là thiên thể gần nhất với chúng ta trong toàn hệ mặt trời, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi ảnh hưởng của nó vẫn mạnh mẽ và chúng ta nhạy cảm với nó theo nhiều cách. Vai trò mà Mặt Trăng đã đóng qua ảnh hưởng trực tiếp lên nhân loại đã để lại dấu ấn trên mỗi tế bào sống trong thân thể y. Chẳng hạn, nó đã khắc chu kỳ riêng của nó vào cơ chế nội tiết tố của phụ nữ. Ở những mức tinh vi hơn mức thể chất thuần túy, nó cũng đã ảnh hưởng đến cấu trúc trí tuệ và cảm xúc của nhân loại, tác động đến tâm trạng, đặc biệt là vào lúc trăng tròn. Tác động trực tiếp của Mặt Trăng dễ dàng biểu hiện nhất nơi trẻ em và các giống dân trẻ của Trái Đất.
Bất kỳ sự thấu hiểu nào về ảnh hưởng của Mặt Trăng cũng đều trở nên phức tạp hơn bởi thực tế rằng các tác động chiêm tinh của nó đang dần giảm sút, do bản chất tiến hóa của tâm thức chúng ta và sự giảm bớt tương ứng về phản ứng cảm xúc. Trong trường hợp những người tiến hóa tinh thần cao hơn, ảnh hưởng của nó đang phai nhạt nhanh chóng hơn nữa.
Không bao giờ được quên rằng mười hai hành tinh trong chiêm tinh học vốn mô tả về tâm thức con người. Thế kỷ hai mươi đã mang lại những biến đổi to lớn trong nền văn minh và lối sống của chúng ta, và tâm thức chúng ta cũng thay đổi tương ứng. Alice Bailey, trong cuốn Chiêm Tinh Học Nội Môn xuất bản vào thập niên 1940, là người đầu tiên thay thế chủ tinh cũ của Xử Nữ, là Sao Thủy, bằng Mặt Trăng, nhưng Bà chỉ áp dụng điều này cho những người tiến hóa tinh thần. Tuy nhiên, sau năm mươi năm, những biến đổi đã diễn ra đến mức trong Chiêm Tinh Học Mới, chúng ta có thể tin tưởng sử dụng Mặt Trăng làm chủ tinh của Xử Nữ cho toàn thể nhân loại phương Tây. Những thay đổi như vậy đang diễn ra đến mức có thể nói rằng ngay cả sự cai quản của Mặt Trăng đối với Xử Nữ rồi cũng sẽ bị đặt vào tình trạng nguy ngập.
Dù trong phần lớn các trước tác chiêm tinh nội môn cổ điển, người ta đồng thuận rằng Mặt Trăng nay là một hành tinh chết, hay như Madame Blavatsky đã từng gọi nó, “một xác chết đang phân hủy”, nó vẫn là một biểu tượng đầy sức sống, liên tục ở trong tâm điểm chú ý của nhân loại — dù đó là những thủy thủ quan sát thủy triều lên xuống (đặc biệt là thủy triều xuân), các nhà thiên văn luôn phải tính đến ảnh hưởng của Mặt Trăng trong việc quan sát bầu trời, những người quản lý các bệnh viện tâm thần nơi trăng tròn có thể tạo ra sự bồn chồn trong số bệnh nhân, những kẻ si tình nằm ngoài cánh đồng dưới ánh trăng, hay thậm chí là những cư dân các đảo Nam Thái Bình Dương tụ tập trên bãi biển để xem giun palolo tràn ngập vào lúc trăng tròn tháng Mười.
Trong thời cổ đại, Mặt Trăng, với vị trí là thiên thể nổi bật thứ hai trên bầu trời Trái Đất, chắc chắn đã hiện diện như một thần linh trong thần thoại của tất cả các nền văn hóa lớn. Nó đã được gắn với nhiều vị thần khác nhau và vì vậy có một huyền thoại phức tạp. Vị nữ thần nổi bật nhất ở Hy Lạp cổ đại là Artemis trinh nguyên, bạn và người bảo hộ của tuổi trẻ. Chúng ta cũng phải kể đến nữ thần trinh khiết của La Mã, Diana, vốn thường được miêu tả với cây cung và con nai, và sau này trở thành nữ thần bảo hộ cho nô lệ. Có lẽ ban đầu Diana không có mối liên hệ nào với Mặt Trăng, nhưng sau này Bà đã hấp thụ sự đồng nhất của Artemis với nữ thần Luna hay Selene, vốn cũng được đồng nhất với Mặt Trăng. Từ “lunar” bắt nguồn từ tiếng Latin luna, nghĩa là Mặt Trăng.
Mặt Trăng là một trong những biểu tượng quan trọng nhất của khoa học luyện kim. Madame Blavatsky đã đưa ra những bình luận sau:
“Biểu tượng cổ xưa này là biểu tượng thi vị nhất trong tất cả các biểu tượng, cũng như là biểu tượng triết học nhất. Người Hy Lạp cổ đã làm nó trở nên nổi bật, và các thi sĩ hiện đại đã khiến nó trở nên sáo mòn. Nữ Hoàng của Đêm, cưỡi trong vẻ uy nghi của ánh sáng vô song trên trời, che khuất tất cả, kể cả Hesperos, trong bóng tối, và trải tấm áo bạc của mình lên toàn thể thế giới tinh tú, từ lâu đã là chủ đề yêu thích của tất cả các thi sĩ Kitô giáo, từ Milton và Shakespeare cho đến những thi sĩ mới nhất. Nhưng ngọn đèn rực rỡ của đêm, với đoàn tùy tinh vô số, chỉ nói lên điều gì đó với trí tưởng tượng của kẻ phàm tục. Cho đến gần đây, Tôn giáo và Khoa học không hề liên quan gì đến thần thoại tuyệt đẹp ấy. Tuy nhiên, mặt trăng lạnh lẽo và trinh khiết, nàng, theo lời của Shelley:
Ai khiến mọi vật trở nên đẹp đẽ dưới nụ cười của nàng
Ngôi đền lang thang của ngọn lửa dịu dàng mà băng giá,
Luôn biến hóa, nhưng vẫn là một,
Sưởi ấm nhưng không soi sáng…
“… có mối liên hệ gần gũi hơn với Trái Đất so với bất kỳ tinh tú nào khác. Mặt Trời là đấng ban sự sống cho toàn bộ hệ hành tinh; Mặt Trăng là đấng ban sự sống cho địa cầu chúng ta; và các giống dân sơ khai đã thấu hiểu và biết điều đó, ngay từ buổi ấu thơ của họ. Nàng là Nữ Hoàng và nàng là Nhà Vua, và đã từng là Vua Soma trước khi trở thành Phoebe và Diana trinh khiết. Nàng nổi bật là nữ thần của người Kitô giáo, qua người Do Thái Môsê và Kabbalah, dù thế giới văn minh có thể đã không biết điều đó trong suốt nhiều thời đại; thực ra, kể từ khi vị Giáo Phụ cuối cùng của Giáo hội được điểm đạo qua đời, mang theo xuống mộ những bí mật của các ngôi đền ngoại giáo. Vì các “Giáo Phụ” — như Origen hay Clemens Alexandrinus — coi Mặt Trăng là biểu tượng sống động của Giê-hô-va: đấng ban sự sống và ban cái chết, đấng định đoạt sự hiện tồn — trong thế giới của chúng ta. Vì, nếu Artemis là Luna trên Trời, và, với người Hy Lạp, là Diana trên Trái Đất, người chủ trì sinh nở và sự sống; thì với người Ai Cập, nàng là Hecate nơi Địa Ngục, nữ thần của cái chết, người cai quản ma thuật và bùa chú.” — Giáo Lý Bí Nhiệm, Tập I, trang 386.
Ánh sáng của Mặt Trăng rõ rệt và có hiệu lực nhất vào ban đêm, khi Mặt Trời đã lặn dưới đường chân trời (đừng quên rằng Xử Nữ chi phối các đường chân trời). Mặt Trăng ban đêm chắc chắn khơi dậy những phản ứng mạnh mẽ dưới nhiều hoàn cảnh khác nhau, và ánh sáng của nó tạo ra những hiệu ứng vừa lãng mạn vừa kỳ lạ, như ảo giác rằng các vật vô tri chuyển động. Tôi đặc biệt nhận thấy điều này trong Thế Chiến II, trong trải nghiệm khi làm nhiệm vụ gác đêm dưới ánh trăng. Trăng tròn thường được chọn để trùng với một “cuộc tấn công lớn”, khi nó soi sáng chiến trường và các mục tiêu đang di chuyển trên đó, hoặc tạo bóng mục tiêu trên đường chân trời, đôi khi được hỗ trợ bởi pháo binh. “Gặp nhau trong ánh trăng…” (Giấc mộng đêm hè) là một sự thật hiển nhiên đối với nhiều chàng trai trẻ đi tuần cùng “binh lính bộ binh khốn khổ”. Người La Mã cổ đại cảm thấy rối loạn cảm xúc nếu ngủ dưới ánh trăng, và một binh sĩ La Mã, khi đi nghỉ ban đêm, thường thích che mình dưới một tấm vải trắng để phản chiếu lại tia sáng của Mặt Trăng.
Người ta nhìn những hình bóng trên bề mặt Mặt Trăng theo nhiều cách khác nhau. Có hình ảnh quen thuộc lâu đời về “Người đàn ông trên Mặt Trăng”; gương mặt tưởng tượng với đôi mắt lớn ngước nhìn trời. Tôi thì thuộc nhóm thấy một cỗ xe ma quái với những con ngựa phi nhanh qua bề mặt nó. Trong chiêm tinh học, Mặt Trăng cũng có thể gắn với thức ăn thay thế và các vật liệu khác thuộc loại ersatz, hay những gì chỉ là phản chiếu của thực tại.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng nhà tự nhiên của Mặt Trăng, nhà thứ sáu, nằm ngay dưới đường chân trời, nơi Mặt Trăng lặn. Nếu Mặt Trăng ở trong nhóm tập trung các hành tinh dưới đường chân trời, nó có thể tạo ra ánh sáng nhân tạo hoặc ánh sáng ban đêm có thể làm méo mó, như ánh trăng thường làm méo mó. Vào những lúc như vậy, các yếu tố thuộc về “rìa điên loạn” trong tâm lý con người có thể tự do phô bày. Khi Mặt Trăng ở đáy lá số (nadir), các phản ứng với sự kiện có thể khơi dậy một nỗi trầm uất sâu xa.
Những người “thuộc về Mặt Trăng” có thể trượt vào những giai đoạn được dồn nén rồi cũng nhanh chóng lắng xuống, giống như thủy triều:
Ta phải trở về biển khơi,
theo tiếng gọi của dòng thủy triều
Tiếng gọi dữ dội và rõ ràng
không thể nào khước từ…
— John Masefield, Sea Fever.
Những ý niệm không có cơ sở thực tế có thể kéo theo khi một “thủy triều” như vậy dâng lên, những ý niệm thoáng qua, như thủy triều, trỗi dậy rồi xẹp xuống thành hư vô. Một số người xuất sắc trong những giai đoạn khi giác quan thứ sáu của họ được nhấn mạnh, còn những người khác thì bị quấy rầy bởi sự xâm nhập của mặt trăng, đặc biệt là phụ nữ khi thời kỳ trong tháng của họ trùng với lúc trăng tròn.
Biểu tượng (glyph) của Mặt Trăng, vốn rất quen thuộc với chúng ta, gợi ý nhiều phẩm chất của Xử Nữ, và những hình cong mà ta gắn với chúng, vốn mang tính chất mặt trăng (không phải kiểu Sư Tử, vốn quay ngược lại chính nó).
![]()
Một chồng đĩa, xếp chồng lên nhau, khi nhìn từ góc làm nổi bật các cạnh hình lưỡi liềm, sẽ cho thấy đường cong mang tính mặt trăng như vậy. Do đó, đĩa ăn thuộc về Xử Nữ thông qua hình thái học của Mặt Trăng và các pha cong nổi tiếng của nó. Một chiếc đĩa ăn trắng tròn cũng gợi hình ảnh của trăng tròn. Đĩa cũng liên quan đến việc phục vụ thức ăn, một khía cạnh quan trọng của Xử Nữ, như chúng ta đã thấy. Hồi còn nhỏ, chúng tôi thường hát nghêu ngao theo vần điệu này, vốn gợi nhớ hình ảnh của Xử Nữ (dấu hiệu cũng chi phối thanh niên):
Cốc và tách,
Đĩa và dĩa,
Đây đến chàng trai trẻ
Mặc quần vải thô.
Mặt Trăng, do đó, gợi ra một đường cong, giống như cây cung bổ sung cho mũi tên Nhân Mã, hay lưỡi gươm cong của người Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư. Nó hiện diện đặc biệt khi những đường cong ấy đẹp đẽ, tinh tế và chính xác, không như những đường cong phồng to, căng tròn của Sao Mộc, hay những đường cong uốn lượn của Sư Tử, mà là những đường cong tinh vi, gọn gàng. Chữ D bắt chước Mặt Trăng, và theo cách riêng của nó, con số 6 cũng vậy, biểu thị ngôi thứ sáu (ngôi nhà của Mặt Trăng trong chiêm tinh học), cũng như tháng thứ sáu, năm thứ sáu, và v.v.
![]()
Trong khi Sư Tử chi phối ban ngày (bởi chủ tinh của nó là Mặt Trời và chu kỳ ban ngày), thì Mặt Trăng chi phối tháng. Chu kỳ của vệ tinh này cho chúng ta một tháng âm lịch dài 28 ngày rưỡi, và thực sự, người xưa đã từng dùng Mặt Trăng để đo thời gian thay vì Mặt Trời. Các cụm từ như “nhiều trăng trước đây” gợi lên phẩm chất nguyên mẫu của hành tinh này.
Mặt Trăng đặt ở Nhân Mã gợi nhớ đến người da đỏ bản địa Bắc Mỹ, và chiếc lông vũ cong trên băng đô của Minnehaha, cô gái da đỏ trong thiên trường ca huyền thoại Bài ca Hiawatha của H. W. Longfellow:
Bên bờ Gitche Gumee,
Bên làn nước Biển Lớn sáng lấp lánh,
Đứng túp lều của Nokomis,
Con gái của Mặt Trăng, Nokomis.
Sau lưng tối sẫm rừng già vươn lên,
Những cây thông đen u ám,
Những cây linh sam với quả nón;
Trước mặt sáng rực nước,
Sóng đập vào dòng nước trong xanh,
Sóng đập vào Biển Lớn sáng lấp lánh.
Mặt Trăng, dĩ nhiên, chi phối ánh sáng phản chiếu trên nước, trên khung cửa sổ, gương soi, và mặt kính của các tòa nhà chọc trời. Chính tấm gương lại thuộc về Sư Tử vì nó chứa hình ảnh trực tiếp của người soi, nên không được nhầm với Mặt Trăng. Tuy nhiên, dùng gương để phản chiếu ánh sáng trực tiếp, như trong kính tín hiệu (heliograph), lại là thuộc về Mặt Trăng. Kim loại bạc cũng được gắn với Mặt Trăng bởi màu ánh bạc của nó:
Chậm rãi, lặng lẽ, giờ đây trăng
Bước đi trong đêm với đôi giày bạc.
— Walter de la Mare, Peacock Pie, “Silver”.
Với bản chất phản chiếu của nó, thật thích hợp khi trong chiêm tinh học, Mặt Trăng thể hiện một nguyên lý mang tầm vóc vũ trụ: nguyên lý của sự đáp ứng. Nó đại diện cho các đáp ứng của tất cả Bảy cung, nhưng đặc biệt nhất là Cung hai của Bác ái – Minh triết, Cung bốn của Hài hòa qua Xung đột và Cung sáu của Sùng tín và Lý tưởng.
Ảnh hưởng của Mặt Trăng hướng đến bất cứ “thủy triều” nào được khơi dậy, dù là trong các vấn đề vũ trụ hay công việc nhân loại. Bản chất phản chiếu của Mặt Trăng tiếp nhận và truyền đi những ảnh hưởng tác động đến nó. Nó đi theo dòng thủy triều như một mảnh vụn trôi nổi, và đôi khi, tùy vào lá số, con người nắm lấy nó và bị nó cuốn đi. Khi xét các đặc tính mặt trăng trong chiêm tinh học, do đó, chúng ta luôn phải tìm kiếm tính chất đáp ứng với một tình huống được đưa ra.
Chúng ta có thể dùng một ví dụ khác, mang tính sinh lý, để nói rằng các phản ứng của Mặt Trăng giống như của túi mật, vốn liên quan đến việc tiêu hóa thức ăn béo. Thức ăn có hàm lượng chất béo cao tất yếu tạo ra một phản ứng mạnh từ túi mật và ống mật, chúng co lại, phóng thích mật vào tá tràng để nhũ tương hóa chất béo. Các hình ảnh sau đây đều gợi lên phản ứng mang tính chất mặt trăng:
• Két sắt mở ra khi mã số đúng được quay trên nút xoay.
• Trẻ em quay lại trường (hay công việc) sau kỳ nghỉ.
• Thịt cần mù tạt.
• Máy trả lời điện thoại phản hồi khi bạn gọi đến.
• Cảm xúc của một người tất yếu dâng lên khi những sự kiện nhất định xảy ra.
• Con mèo đáp lại bằng cái chớp mắt trìu mến khi bạn nói với nó.
• Tiếng kêu “Cứu!” khi ta bị cướp.
• Thiết bị gắn vào cửa để khiến nó đóng lại nhẹ nhàng.
• Nhiệt độ cơ thể tăng lên khi bị sốt.
• Bàn chân gõ nhịp khi nghe nhạc ragtime.
• Nước mắt tuôn trào trước nỗi buồn.
• Những động tác tay không thể thiếu trong lời nói của một người Pháp.
• Nước phun ra khi bóp súng nước.
• Bất kỳ điều gì làm nguội đi một vật đang nóng.
• Một cuộc đình công sau một tranh chấp lao động.
• Còi báo động vang lên khi đường phố bị kẹt xe.
• Tình trạng hạ thân nhiệt khi giá lạnh kéo dài.
Khác với Mặt Trời là một hành tinh hướng ngoại, toả sáng, bất biến và cố định, Mặt Trăng là hướng nội, đáp ứng và biến đổi. Việc Mặt Trăng không có ánh sáng riêng mà chỉ phản chiếu ánh sáng Mặt Trời được phản chiếu trong khả năng Xử Nữ sống để phụng sự người khác, không tìm kiếm sự công nhận cá nhân. Như chúng ta đã thấy trong chương bốn, vị trí của Mặt Trăng và Xử Nữ trong lá số, cùng các hành tinh ở ngôi thứ sáu, là một trong những yếu tố chính chỉ cho người có định hướng tinh thần biết lĩnh vực nào của đời sống họ có thể phụng sự tốt nhất. Vị trí của Mặt Trăng trong lá số cũng là nơi chỉ sự thanh khiết, vệ sinh, tiết dục, bệnh tật (như một quá trình thanh lọc), y học và lao động nặng nhọc. Sự phụng sự được thể hiện ở đây (đặc biệt trong việc phục vụ ăn uống và điều dưỡng, nơi lao động nặng nhọc là đặc điểm nổi bật), những phản ứng vốn tự nhiên đối với linh hồn như các phản ứng cảm xúc vốn tự nhiên đối với phàm ngã.
Mặt Trăng cho chúng ta từ lunacy (điên loạn), nghĩa là bệnh tâm thần, mà phụ nữ dễ mắc hơn đàn ông. Các cơ quan sinh sản của nữ vốn nằm bên trong và cao hơn trong cơ thể so với nam, chủ yếu do Mặt Trăng chi phối. Bộ phận sinh dục nam được Sao Hỏa chi phối, bởi vì chúng nằm bên ngoài và “nhô ra” giống như bản chất của hành tinh này. Tử cung của phụ nữ được Song Ngư chi phối, vì Song Ngư cai quản hang động và nơi ẩn giấu. Mặt Trăng ở khía cạnh xấu với Song Ngư sẽ gây ra các bệnh như lạc nội mạc tử cung hay vô kinh.
Mặt Trăng phản chiếu các phẩm chất của tất cả những gì nó tiếp xúc. Nó nổi tiếng về việc hấp thụ và nhấn mạnh phẩm chất của các hành tinh khác mà nó tạo góc. Khi kết hợp với một hành tinh hiền lành như Kim Tinh chẳng hạn, Mặt Trăng mang lại những phẩm chất rất đẹp và tinh tế. Tương tự, nếu một hành tinh có bản chất hung hãn hơn, Mặt Trăng sẽ nhấn mạnh những phẩm chất kém dễ chịu của nó. Nó sẽ gia tăng, phóng đại, nhấn mạnh hoặc thêm vào các phẩm chất của hành tinh, dù là tích cực hay tiêu cực.
Các ví dụ sau đây cho thấy cách Mặt Trăng có xu hướng nhuộm màu và nhấn mạnh các hành tinh khi nó đến gần chúng trong khía hợp:
• Kim Tinh và Mặt Trăng (hoặc Kim Tinh ở ngôi thứ sáu) gợi những cảnh tượng được thấy dưới ánh trăng, lãng mạn theo một nghĩa và đầy ngưỡng mộ kinh ngạc theo nghĩa khác. Đây là đôi mắt ngây dại nhìn trăng: “Đồng tiền vàng, đồng tiền vàng, y kêu lên; đôi mắt y là những vầng trăng!”
• Thủy Tinh và Mặt Trăng (hoặc Thủy Tinh ở ngôi thứ sáu) ngụ ý “hiếm như trăng xanh” (once in a blue Moon) tức là một dịp vô cùng hiếm hoi.
• Trái Đất và Mặt Trăng (hoặc Trái Đất ở ngôi thứ sáu) gợi cụm từ “với tới Mặt Trăng”, nghĩa là nắm bắt những điều không thể với tới.
• Thiên Vương nghịch hành và Mặt Trăng (hoặc Thiên Vương nghịch hành ở ngôi thứ sáu) gợi cảm giác “vui sướng tột cùng” (over the Moon), tức là trạng thái tâm lý cực kỳ phấn khích.
• Mặt Trời và Mặt Trăng (hoặc Mặt Trời ở ngôi thứ sáu) là cảnh tượng “thẫn thờ dưới ánh trăng” (mooning the day away) trong sự lười biếng hoặc trong lúc mơ mộng về triển vọng của mình.
• Vulcan và Mặt Trăng (hoặc Vulcan ở ngôi thứ sáu) ngụ ý một kẻ ngu xuẩn, quái dị hay quái vật (mooncalf). Điều này cũng là “moonshine” nghĩa là lời nói nhảm nhí.
• Diêm Vương (và đôi khi Sao Hỏa) và Mặt Trăng (hoặc Diêm Vương hay Sao Hỏa ở ngôi thứ sáu) gợi ra hình ảnh rượu lậu (moonshine) được sản xuất, uống vào và thậm chí gây ra hành vi bạo lực hay ầm ĩ.
Đây là một hành tinh di chuyển rất nhanh. Mặt Trăng quá cảnh hoàn tất một vòng tròn của lá số trong 27,32 ngày (một tháng sao), chỉ ở lại hơn 2¼ ngày trong mỗi dấu hiệu. Do đó, khi nó đi quanh lá số, nó sẽ “kích hoạt” và nhấn mạnh bản chất của từng hành tinh và khía cạnh trong lá số, và điều này mang lại cho người học chiêm tinh vô số cơ hội để quan sát hiệu ứng của nó, cũng như chọn thời điểm thuận lợi để hành động về một vấn đề liên quan. Tất cả các khía cạnh trong đời sống chúng ta đều được biểu lộ theo một cách nào đó qua các dấu hiệu hoàng đạo. Do đó, những ai có Xử Nữ mọc sẽ được trao vô số cơ hội đa dạng để biểu lộ tinh thần, khi chủ tinh của điểm mọc của họ đi quanh lá số.
Mặt Trăng quá cảnh di chuyển nhanh đến mức các hiệu ứng của nó chỉ thoáng qua và ngắn ngủi. Để có hiệu ứng lâu dài hơn, chúng ta phải xét đến Mặt Trăng trong tiến trình của nó. Tiến trình thứ cấp, hay sự di chuyển tượng trưng của các hành tinh liên hệ đến tuổi đời của một người, cung cấp một kỹ thuật hữu ích cho việc giải đoán và dự đoán của nhà chiêm tinh.
Trong tất cả các hành tinh, Mặt Trăng là một trong những hành tinh quan trọng nhất cần xét khi nghiên cứu tiến trình. Nó tiến trình trung bình 13 độ mỗi năm, mất hơn 27 năm để đi một vòng quanh lá số, ở lại khoảng 2¼ năm trong mỗi dấu hiệu hoàng đạo. Do đó, một người trẻ sẽ vẫn còn cả một vùng đời chưa được quyết định xét theo Mặt Trăng tiến trình. Với một người lớn tuổi, Mặt Trăng có thể đã đi quanh lá số hai lần hoặc nhiều hơn, và bản chất của các vòng ấy sẽ trở nên hiển nhiên hơn. Những vòng này có thể lần lượt biểu hiện như tốt, tốt hơn và tốt nhất; hoặc nếu mang tính hung hãn, như xấu, xấu hơn và tồi tệ nhất.
Mặt Trăng tiến trình giúp nhà chiêm tinh xác định những niềm vui hay khó khăn nào đang chờ phía trước trong đời. Ngay cả Mặt Trăng tiến trình cũng di chuyển khá nhanh, nên bất kỳ khó khăn nào nó nêu bật cũng vẫn tương đối ngắn ngủi, và sự giải thoát rốt cuộc sẽ đến. Mặt Trăng tiến trình nhấn mạnh những phản ứng với một tình huống phát triển. Nó là kẻ gây nổ, kích hoạt cao trào của sự bành trướng hay phát triển của một điều gì đó, như một nhọt mủ hay thậm chí một khủng hoảng tâm lý.
Mặt Trăng tiến trình soi sáng các dấu hiệu và các hành tinh trong đó khi nó đi quanh lá số, làm tăng cường những phản ứng vốn đã hiện hữu. Khi có các yếu tố bị chặn, nghịch hành hay những yếu tố “ràng buộc” khác trong lá số, những giới hạn này sẽ được nhấn mạnh và do đó phản ứng sẽ bị kìm hãm mạnh mẽ. Mặt Trăng tiến trình đặc biệt có ảnh hưởng khi nó nằm giữa và kết hợp với hai hành tinh.
Chúng ta biết rằng Xử Nữ chi phối ruột non, và thật phù hợp khi nói rằng Mặt Trăng tạo thành các phản ứng ở ruột, và những dao động (giống như thủy triều), đặc biệt đối với khủng hoảng và khoái lạc, nhất là khi liên hệ đến Mặt Trời và những dục vọng gắn với phàm ngã của nó. Mặt Trời chi phối sự sống và Mặt Trăng tiến trình đáp lại nó bằng những thay đổi và giai đoạn của sự sống.
Vị trí khai sinh của Mặt Trăng quan trọng đối với sự biểu hiện của Mặt Trăng tiến trình về sau trong đời. Mặt Trăng khai sinh sẽ tìm cách biểu hiện qua bất kỳ hành tinh, dấu hiệu hay ngôi nhà nào mà nó đi qua trong tiến trình. Bất kỳ điều gì nó gợi ra, sẽ được mang quanh lá số và “trả lại cho bạn”, được biến đổi bởi các yếu tố khác trong lá số. Trong lá số của chính tôi, Mặt Trăng nằm ở Song Tử trong ngôi nhà thứ chín, gợi nhớ đến các lĩnh vực như y học, giảng dạy, chữa bệnh, in ấn, xuất bản, tiêu chuẩn học thuật và khả năng thấy trước. Tất cả những yếu tố này đã chạm đến hầu hết các lĩnh vực biểu lộ của tôi trong nhiều giai đoạn của cuộc đời.
Mặt Trăng tiến trình “chuyển đổi khung cảnh” khi nó đi từ dấu hiệu này sang dấu hiệu khác. Khung cảnh có thể chuyển đến nhà hàng, hoặc nơi có phục vụ thức ăn, và thời gian thậm chí có thể trở nên quan trọng. Bất kỳ điều gì liên quan đến công việc — lao động nặng nhọc hơn là vấn đề nghề nghiệp — có thể được giải quyết như một phản ứng với Mặt Trăng tiến trình hoặc trở nên phức tạp hơn. Người bồi bàn hoặc người hầu có thể bắt đầu phản ứng thái quá. Khi còn là một thanh niên ở Nam Phi, tôi nhận thấy rằng những người hầu Zulu của chúng tôi, khi đối diện với điều gì đó họ không hiểu, sẽ phản ứng quá mức và dọa bỏ đi, nói rằng “Hãy đưa tôi giấy phép. Tôi muốn đi!”
Đối với người có định hướng tinh thần, luôn có một yếu tố công việc phụng sự gắn với Mặt Trăng. Tiến trình của nó có thể chỉ ra lúc cần thay đổi hình thức công việc phụng sự hoặc dấn thân nhiều hơn vào hoạt động như vậy. Tinh thần được biểu lộ khi một người nâng cao tâm thức của người khác cũng như chính mình. Điều này có nghĩa là, một người phụng sự ở một cương vị nào đó, vốn là một trong ba yếu tố thiết yếu của địa vị đệ tử:
• Nghiên cứu các kinh điển huyền bí.
• Tham thiền.
• Công việc phụng sự.
Mặt Trăng tiến trình có thể đưa vào đời sống những yếu tố như bác sĩ, bệnh tật và căn bệnh. Nó có thể chỉ ra chẩn đoán thành công của một tình trạng y khoa vốn khó nắm bắt. Nó đặc biệt quan trọng trong các vấn đề y khoa của phụ nữ.
Các vấn đề vệ sinh có thể được làm nổi bật hoặc giải quyết với Mặt Trăng tiến trình. Có thể có những điều như các cơn viêm ruột, hay viêm ruột non, đặc biệt khi ở nước ngoài (Nhân Mã), trong bệnh viện (Song Ngư) hoặc từ thức ăn ở trường học (Song Tử).
Mặt Trăng tiến trình cũng sẽ kích thích việc đặt câu hỏi — Ai? Cái gì? Ở đâu? Như thế nào? Tại sao? — trong khi dấu hiệu nó ở sẽ ảnh hưởng đến bản chất các câu hỏi đó. Ở Nhân Mã chẳng hạn, nó dẫn đến sự chất vấn về tương lai. Có khuynh hướng phân tích rất kỹ bất kỳ câu trả lời nào.
Các dịch vụ thuộc bất kỳ loại nào cũng có thể sụp đổ khi tạo góc vuông với Mặt Trăng tiến trình, hoặc có thể được thuận lợi hóa với góc tam hợp. Sao Hỏa trong liên hệ với Mặt Trăng tiến trình sẽ là các “dịch vụ” tình dục. Thêm yếu tố Kim Ngưu vào thì đó là dịch vụ của con bò đực trong nông trại. Với Song Ngư thì là cắt bỏ tử cung tại bệnh viện. Một tình huống giận dữ hay khó chịu (Sao Hỏa với Mặt Trăng tiến trình) có thể phát triển. Điều này có thể như muối xát vào vết thương, hoặc có thể dịu đi. Một điều gì đó có thể bùng nổ từ sự chỉ trích nặng nề, hoặc lời công kích, để rồi nổ tung dữ dội. Một nhọt kín có thể mưng mủ. Ở cấp độ tâm lý, một cuộc khủng hoảng có thể phát triển từ hư không (với Hải Vương), tài chính (với Vulcan) hay hôn nhân (với Thiên Vương). Một đợt thủy triều lớn (thủy triều xuân) có thể dâng lên trong chuyện tình cảm (Sư Tử), hoặc một sự chia ly có thể xảy ra (Song Tử).
Thiền Trăng Tròn
Trong sinh lý học huyền linh, người ta dạy rằng dòng chảy của nước trong các ống bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các pha của Mặt Trăng. Sức hút của lực nguyệt đối với thủy triều của Trái Đất cũng có thể được chứng kiến trong dao động mực nước ở các giếng artesian tại Tây Úc. Chúng gần như là những mao quản, và ta đã lưu ý rằng các mao mạch—những mạch máu mỏng manh thành mỏng của cơ thể—do Xử Nữ và Mặt Trăng chủ quản.
Trong khoa học huyền linh cũng dạy rằng, qua ảnh hưởng của chúng lên dòng chảy các vật chất hòa tan trong nước của mạch gỗ thực vật, các pha của Mặt Trăng tác động đáng kể lên cây cối. Vì thế, có những thời điểm gieo trồng mang lại lợi ích tối ưu cho sự sinh trưởng mạnh mẽ. Tính liên hệ với con người là ở ảnh hưởng nguyệt lên huyết dịch và hệ bạch huyết của người. Các mao mạch máu có lòng mạch nhỏ đến mức vô hình với mắt thường. Các động mạch tận ở não dồn máu trực tiếp vào nhu mô não, và ảnh hưởng nguyệt đã được ghi nhận suốt nhiều thế kỷ, nhất là trên những người mất cân bằng cảm xúc. Như thi hào từng viết:
Ấy chính là lỗi lầm của vầng trăng:
Nàng ghé gần trần gian hơn lệ thường,
Và khiến kẻ phàm nhân hóa điên loạn.
—William Shakespeare, Othello.
Không cần nhấn mạnh ở đây rằng căng thẳng tiền kinh nguyệt thường nặng hơn khi trùng kỳ trăng tròn. Có một liên hệ với thiền định ở đây; những cá nhân giàu cảm xúc thường thấy một số thời kỳ trong tháng thuận lợi hơn cho việc “an tọa” so với thời kỳ khác.
Không bao giờ được quên rằng, ở bình diện thể chất, phụ nữ đặc biệt còn giữ chu kỳ nguyệt, và niêm mạc tử cung là một cơ quan rất giàu mạch máu, dẫu là tạm thời. Vào thời trăng tròn, cả Trái Đất đáp ứng ở các bình diện tinh thần như thể nó là một “niêm mạc tử cung của địa cầu”.
Thật vậy, chu kỳ khuyết-tròn của Mặt Trăng có một ý nghĩa huyền linh quan trọng. Nó tương ứng với sự hít vào và thở ra của chính hành tinh. Cũng như những tiềm năng tâm linh nhất định gắn với hô hấp cá nhân của ta, thì cũng có những tiềm năng gắn với chu kỳ 28 ngày của quỹ đạo Mặt Trăng quanh Trái Đất. Hành vi hít vào mang quyền năng cho bất kỳ tư tưởng nào được giữ trong thể trí. Sự thu nạp sinh khí prana làm mạnh hình tướng của tư tưởng hoặc giúp hình thành một tư tưởng mới. Khi nín hơi trước khi thở ra, hình tư tưởng được củng cố. Khi ta thở ra, hình tư tưởng có thể được phát ra ngoài hay được hướng đến mục tiêu. Tại khoảnh khắc thở ra hoàn toàn, hình tư tưởng hoặc bị tiêu giải hoặc được giữ tiềm tàng.
Khi Mặt Trăng đang khuyết thành tròn, nó tương ứng với hơi hít vào của hành tinh và những ý niệm mới có thể được củng cố, xây dựng. Trong ba ngày kỳ trăng tròn, các ý niệm như thế có thể được củng cố vững hơn; rồi, trong thời kỳ trăng tàn, các mẫu hình được quán tưởng có thể được phóng chiếu đến đích đến như những bản thiết kế cho một nỗ lực dưới thế gian, hoặc để gia cường ở bình diện vi tế cho một dự án đã khởi sự. Điều này đem đến cho bất cứ ai sẵn lòng hy sinh thời giờ vào kỳ trăng tròn cơ hội để cùng tham dự vào việc kiến tạo các lý tưởng, hoặc vào sự hủy bỏ có kế hoạch các dự án đã thiết lập, trên quy mô hành tinh.
Vào lúc trăng tròn, nhiều ánh sáng được rải xuống địa cầu hơn bất cứ lúc nào khác trong chu kỳ 28 ngày. Ở thời khắc chính xác đó, Trái Đất chịu một áp lực ghê gớm khi nó lơ lửng đúng giữa Mặt Trời và Mặt Trăng, cả ba thẳng hàng. Bất ổn tâm linh bộc lộ qua những xao động ghi nhận trong các bệnh viện tâm thần vào thời điểm này. Đây là một khoảnh khắc mang tính vũ trụ và được mọi người trên Trái Đất biết trước rất lâu. Người ở trên Đường Đạo nhạy cảm với áp lực—tinh thần và các loại khác—đặt lên hành tinh vào lúc trăng tròn. Nó có thể được dự liệu và chuẩn bị. Hàng triệu người khắp thế giới có thể hợp tác trong các buổi nhóm trăng tròn để chuyển hướng nguồn năng lượng dư thừa đang được rưới xuống Địa Cầu vào lúc ấy.
Nếu bạn phải chọn một khoảnh khắc trong thời gian để kêu gọi mọi người đồng thiền, ắt sẽ có khó khăn về hệ thống thời gian. Giờ trung bình Greenwich không phù hợp cho Bắc Mỹ. Giờ New York không phù hợp cho Honolulu. Tuy vậy, có một chiếc “đồng hồ hành tinh” mà ai cũng có thể dùng: đó là khoảnh khắc—giờ phút chính xác—khi trăng tròn. Trăng tròn là trăng tròn cho mọi người, bất kể họ ở đâu trên hành tinh. Trong nhiều năm, tri thức này đã được dùng cho lợi ích tinh thần. Các buổi nhóm trăng tròn được tổ chức khắp thế giới và có hàng ngàn người tham dự—“số ít” mà kỳ thực lại là nhiều. Bạn nên tham gia những buổi nhóm này và trợ lực cho thiền định hành tinh. Nếu không thể, bạn có thể hòa nhập cùng những người khác trong thiền định hành tinh ngay trong tĩnh lặng căn phòng của mình.
Hãy đánh dấu trước trên lịch của bạn các kỳ trăng tròn 12 tháng tới (Phong trào Thiện chí Thế giới hay bất cứ niên lịch tốt nào cũng có thông tin này). Trong khoảng ba ngày quanh kỳ trăng tròn, hãy tập trung chú ý vào các lực tinh thần đang dồn tụ trên hành tinh, ghi nhớ rằng những người có ý thức tinh thần là các hồ chứa cho những lực ấy.
Hãy học thuộc Lời Khẩn Nguyện Vĩ Đại (in ở cuối sách này) để bạn có thể đọc thuộc trong lúc thiền. Nó không thuộc về riêng ai và không độc quyền của bất kỳ tôn giáo, giáo phái hay nhóm nào. Đó là một Lời Cầu nguyện của thế giới, được dịch ra hơn năm mươi ngôn ngữ và phương ngữ, và được dùng rộng rãi vào thời trăng tròn. Trong lúc bạn trì tụng, hãy quán tưởng các luân xa trên cơ hoành của bạn được tràn đầy bởi các năng lượng được mô tả trong từng khổ:
1. Từ điểm của Ánh Sáng (Luân xa Ajna)
2. Từ điểm của Tình Thương (Luân xa Tim)
3. Từ trung tâm nơi (Luân xa Đầu)
4. Từ trung tâm mà (Luân xa Cổ họng)
Trong khoảng mười hai giờ khi Mặt Trăng đang tiến gần đến độ tròn nhất, hãy dùng Đại Khấn Nguyện để hấp dẫn và gia tăng các năng lượng này. Rồi, khi trăng suy tàn, hãy hướng chúng đến những người đang cần, mỗi chu kỳ chọn một mục tiêu khác nhau cho năng lượng tinh thần của bạn. Luôn cố gắng liên kết với những người khác trong công việc này.
