DOWNLOAD FILE PDF SONG NGỮ Ở ĐÂY
GIỚI THIỆU: Chúng tôi xin giới thiệu với các bạn một quyển sách khác của Nhà Huyền bí học Douglas Baker, cũng đồng thời là một bác sĩ y khoa, viết về Cái Chết. Quyển sách cho chúng ta một cái nhìn khác bổ sung về những quyểnb sách của Hội Thông Thiên Học.
Table of Contents
Liệu chúng ta còn sống sau nấm mồ? 6
BUỔI GỌI HỒN — Trò lừa bịp hay Điềm báo 7
Đại Hoả hoạn Stockholm, 1759 11
Chúng ta tồn tại sau chết ở đâu? 16
Liệu chết có đau đớn không? 23
Đa số con người không biết rằng mình đã chết. 26
Chúng Ta Làm Gì Sau khi chết? 28
Vật Nuôi của Chúng Ta Sau Khi Chết thì Sao? 30
Trẻ Em Trong Thế Giới Cảm Dục 30
Giới Thiệu
Câu hỏi liệu chúng ta có còn tồn tại sau nấm mồ hay không đã ở trong tâm trí con người từ vô số thời đại và thực sự là một trong những viên đá nền tảng của mọi tôn giáo lớn trên thế giới, đặc biệt là của trào lưu gần đây là Giáo hội Thần linh học. Nhiều người đã nỗ lực trả lời câu hỏi này, có khi vì ám ảnh và sùng tín cá nhân, có khi như một hành vi phụng sự đồng loại, và thư viện của chúng ta đầy ắp những trước tác của họ — có trước tác minh triết hơn, có trước tác thì kém hơn.
Dr. Douglas Baker không chỉ am tường giáo lý của Minh Triết Ngàn Đời, mà còn là một bác sĩ y khoa đủ tư cách, đã đi nhiều nơi trên thế giới để khảo sát và thuyết giảng, và trong số nhiều đề tài khác có chính vấn đề trọng yếu này: sự sống sau khi chết.
Trong công trình này, Ông theo một lối phân tích rất lô-gic, tuần tự từng bước, về những dạng câu hỏi mà con người phương Tây đối mặt; người ấy, khi rũ bỏ giáo điều của Kỷ nguyên Song Ngư và mỏi mệt trước những câu chuyện về các thiên thần nhỏ má hồng chơi đàn hạc đến vĩnh cửu, đơn giản chỉ muốn những sự kiện cho các câu hỏi căn bản như: –
Chúng ta tồn tại sau nấm mồ bằng cách nào?
Chúng ta sống sót trong cái gì?
Môi trường sẽ như thế nào khi chúng ta sống sót?
Mục đích của sự sống sót là gì?
Hình thức hỏi-đáp súc tích của Dr. Baker khiến chủ đề chất chứa huyền bí này trở nên rất dễ hiểu cho những người tìm chân lý ở mọi lứa tuổi, và được xuất bản cùng với chuyến diễn thuyết công cộng rộng khắp của Ông ở Anh quốc nhằm đưa nhiều giáo lý gọi là huyền bí tới sự chú ý của công chúng khi chúng ta tiến vào Kỷ nguyên mà con người sẽ không còn bước đi bằng “đức tin mù quáng”, mà trở thành thức giả.
Lời Mở Đầu
Đã thành một thói quen thời thượng trong giới “học giả” là kiếm chút tiền dễ dàng bằng cách khảo sát tư liệu nghiên cứu thích hợp tại các thư viện khác nhau, rồi từ đó trích rút một loạt “sự kiện” (đôi khi hoàn toàn chẳng liên hệ) và ghép chúng thành một cuốn sách mạch lạc, hấp dẫn để các nhà xuất bản vồ lấy. Kết quả là một cuốn sách chỉ đơn thuần trình bày tư liệu trích lục, thiếu vắng yếu tố con người cũng như những nhận thức tinh tế gắn với các ấn phẩm giá trị hơn — được viết bởi những người thực sự tham dự vào nhiều sự kiện họ mô tả.
Để nhấn mạnh điều này, tác giả muốn cho thấy Ông đã trải nghiệm đủ những biến cố trong chính đời mình để tự thuyết phục về sự sống sau khi chết. Tuy ở đây trình bày nhiều quan điểm vô tư được gạn lọc từ tâm trí một số nhà quan sát nổi tiếng, nhưng không hề có chủ ý biến công trình về sự sống sau khi chết này thành một phân tích thuần khoa học.
Tác giả còn nhớ rất rõ sau cái chết của vài đồng đội thời chiến trên chiến trường, họ đã đến với Ông trong những giờ ngay trước khi thức giấc lúc bình minh, sống động và chuẩn xác đến mức Ông không thể gạt bỏ những biến cố ấy như chỉ là mộng mị. Có lẽ các sự kiện của những trải nghiệm ấy đã được mài sắc bởi sức ép của hoàn cảnh sống lúc bấy giờ, nhưng mục đích chính của chúng đã đạt được: đem đến niềm an ủi cá nhân trong thời khắc tuyệt vọng.
Dù chúng ta nhìn nhận đề tài sự sống sau khi chết thế nào đi nữa, luôn cần nhớ rằng một trình bày chưa hoàn hảo về chủ đề này vẫn có thể mang lại sự an ủi cho người chịu tang.
Liệu chúng ta còn sống sau nấm mồ?
Trong hai ngàn năm, người phương Tây chỉ dựa vào đức tin nơi giáo lý Cơ Đốc rằng con người sống sót sau nấm mồ. Nhưng, trong một trăm năm gần đây, đức tin ấy đã bị xói mòn lớn lao bởi những bước tiến của khoa học và chủ nghĩa duy vật tác động lên các giáo lý đó. Thêm vào đó, Kỷ nguyên Song Ngư — kỷ nguyên của “Tôi tin” — đã phai tàn, và ảnh hưởng chu kỳ của lòng sùng tín và chủ nghĩa lý tưởng phần lớn đã nhường chỗ cho Kỷ nguyên Bảo Bình với mệnh lệnh “Tôi biết” và “Tôi ôm trọn nhiều hơn”.
Ngày nay, giới trẻ đặc biệt không thích đặt tín điều của mình trên những điều thuộc đức tin. Họ muốn được cung cấp tất cả các sự kiện, và muốn được để tự mình xét đoán những sự kiện ấy chỉ ra điều gì. Chúng ta sẽ nhanh chóng đánh mất sự chú ý của họ nếu cố nhồi nhét đức tin vào cổ họng họ. Hãy đưa ra trước họ một vài sự thật, và họ sẽ sớm đi đến những kết luận đáng kinh ngạc về sự uyên bác và sáng suốt, bất kể họ ở độ tuổi nào.
Một phép đối chiếu chéo trong dân chúng đang xét đến vấn đề sống sót sau khi chết sẽ cho thấy mối bận tâm ban đầu với những giải thích cho: –
Chúng ta sống sót đằng sau nấm mồ bằng cách nào.
Chúng ta sống sót trong cái gì.
Môi trường nào bao quanh chúng ta khi chúng ta sống sót.
Mục đích của sự sống sót là gì.
Họ muốn biết thế giới mà con người sống sót ở đâu? Nó ở trên cao chúng ta chăng, và nếu vậy, vươn xa bao nhiêu vào không gian? Chúng ta có thể du hành vượt ra ngoài nó bằng các khoang tàu vũ trụ không? Hay thế giới ấy ở trong chúng ta — với đa số, đề nghị này xem ra nực cười. Nó ở dưới chúng ta chăng, và nếu vậy, sâu đến đâu? Làm sao hoà giải điều đó với các điều kiện hỏa ngục ở tâm của quả cầu này, gọi là Trái Đất?
Họ hỏi: “Nếu chúng ta sống sót như một linh hồn, và nếu linh hồn là vô hình tướng, làm sao có thể tồn tại không hình dạng hay kích cỡ mà vẫn là một thực thể có tỉ lệ, vẫn là một vận cụ cho tâm thức của chúng ta?”
Có nhiều giáo lý còn sớm hơn cả Ai Cập và Tây Tạng gợi mở lời giải cho những câu hỏi nêu trên. Nhưng, cho dù chúng ta đào sâu vào những giáo lý ấy hay vào các ký ảnh Akasha, vốn là ký ức phóng chiếu của nhân loại, hoặc cho dù chúng ta tìm đến lời chứng của một số người minh triết nhất của nhân loại, rốt cuộc chúng ta tất yếu sẽ mắc cạn nơi ghềnh đá của thuật ngữ bất cập, của truyền ngôn và của kinh điển bị bóp méo vì lợi ích của người dịch, v.v.
Theo ý tôi, những giải thích có vẻ thuyết phục nhất về cách chúng ta sống sót có thể thấy trong văn liệu đương đại, nhất là những tác phẩm viết từ kinh nghiệm cá nhân; gần đây nhất gồm cả lời chứng của hai nhà khoa học lỗi lạc là Sir Oliver Lodge và Sir William Crookes.
BUỔI GỌI HỒN — Trò lừa bịp hay Điềm báo
Trong cuốn This Is Spiritualism của Maurice Barbanell, ông cung cấp nhiều lịch sử về các ca hiện hình trong Buổi gọi hồn. Dù không khẳng định loại hiện tượng này là bằng chứng về một đời sống bên kia, ông tin rằng chúng chứng tỏ sự tồn tại của các định luật siêu-vật lý và của một trí tuệ không phát xuất từ thế giới này. Suy ra, nó thuộc về ai đó hoặc điều gì đó trong một thế giới đa chiều khác.
Nhiều nhân vật nổi tiếng đã đưa ra các quan sát sâu sắc về đề tài sống sót sau khi chết, trong đó có Sir Oliver Lodge, nhà hoá học vĩ đại người Anh, người đã mất con trai trong Thế chiến I. Ông đau buồn đến nỗi dành nhiều năm tìm kiếm bằng chứng rằng con trai mình có thể đã sống sót sau cái chết bi thảm. Ẩn danh tham dự các Buổi gọi hồn của những đồng tử nổi tiếng như Gladys Osborne Leonard, nhà khoa học lừng danh này đã bị thuyết phục rằng ông nhận được những thông điệp không thể chối cãi từ người con trai, Raymond, nạn nhân của Thế chiến thứ nhất. Thực vậy, tại một Buổi gọi hồn như thế, ông đã nhận diện một khuôn mặt tí hon gắn trong ngoại chất là của con mình (xem minh hoạ). Sir Oliver Lodge đã ghi chép bằng chứng các cuộc điều tra của ông trong Raymond và các sách khác.
Bức ảnh bình thường của Raymond Lodge. Khuôn mặt thu nhỏ trong bức ảnh trên đã được phóng to.
Nó được Ngài Oliver Lodge xác nhận là của con trai ông, Raymond, người đã tử trận trong Thế chiến I. Lodge còn đi xa hơn việc dự Buổi gọi hồn; ông tham gia các thí nghiệm nghiêm ngặt liên quan đến các lực siêu thường. Ông từng cung cấp hai chiếc nhẫn, mỗi chiếc làm từ một loại gỗ hoàn toàn khác nhau, để được phân rả, rồi lồng vào nhau bằng thao tác của một quyền lực vô hình, và hiện hình trở lại nhằm chứng minh những lực (huyền bí) như vậy. Kết quả thành công của thí nghiệm này được xem là “màn triển lãm tâm linh vĩ đại nhất trong lịch sử.” (Xem minh hoạ.)
Một thí nghiệm gọi hồn do Ngài Oliver Lodge đề xuất, người đã cung cấp hai chiếc nhẫn rắn chắc, mỗi chiếc làm từ một loại gỗ khác nhau. Trong một buổi gọi hồn với Margery Crandon ở Boston, Hoa Kỳ, hai chiếc nhẫn đã được lồng vào nhau bởi một quyền năng vô hình. Cho đến nay, theo như được biết, không có phương pháp bình thường nào có thể thực hiện được kỳ công này.
Ngoại chất trào ra từ lỗ mũi của đồng tử trong trạng thái xuất thần. Gắn trong ngoại chất là hai khuôn mặt tí hon. Đây là một trong loạt ảnh ở buổi gọi hồn do Bác sĩ Glen Hamilton chụp tại nhà ở Winnipeg.
Tiến sĩ J. M. Gully, thuộc Royal College of Surgeons, bắt mạch của một vong linh đã được hiện hình hoàn toàn trong phòng thí nghiệm của Ngài William Crookes, một trong những nhà hóa học vĩ đại nhất thời bấy giờ. Chính Ngài William đã chụp bức ảnh này. Buổi gọi hồn được tiến hành trong những điều kiện kiểm nghiệm do nhà khoa học đặt ra, người đã liệt kê những khác biệt về màu sắc, tóc, chiều cao, nhịp tim, v.v., giữa đồng tử và sự hiện hình.
Ngoài ra, Sir Oliver Lodge xuất hiện như nhân chứng hàng đầu trong một vụ án liên quan đến một đồng tử; trả lời câu hỏi, ông tuyên bố thế giới vật chất là thế giới ảo ảnh, còn thế giới tinh thần là thực tại tối hậu. Lời đáp của ông bị nhạo báng. Tuy nhiên, khoa học nay đã chứng minh một nửa khẳng định của ông, tức ảo tưởng của vật chất rắn, và nửa còn lại sẽ được chứng minh khi thời gian viên mãn.
Tương tự, lời chứng của Sir William Crookes, nhà vật lý cuối thế kỷ 19, về bản chất ngoại chất và việc sử dụng nó trong các Buổi hiện hình cũng có thể được viện dẫn ở đây, như có thể nhắc đến các công trình của nhà huyền bí học lừng danh, “Hoàng tử của các Thầy Thuốc”, Paracelsus. Tuy nhiên, thay vì vậy, tác giả chọn đưa đến sự chú ý của độc giả các quan sát của một nhà khoa học khác, đó là Emanuel Swedenborg.
Thế Giới Khác
Nhân vật sừng sững như một gã khổng lồ trong lĩnh vực thám hiểm đời sống bên kia là Emanuel Swedenborg. Ông nổi bật như một nhà thần bí và nhà tiên tri mà từ kinh nghiệm cá nhân có thể kể lại nhiều điều nhất về đời sống chúng ta sống sau khi chết.
Swedenborg là một nhà quý tộc, được trọng vọng ở quê hương Thuỵ Điển, và là một nhà khoa học danh tiếng quốc tế. Nếu không vì cuộc khảo cứu sau này của ông vào những điều gọi là huyền bí, tên tuổi ông hẳn được ghi vào biên niên sử như một trong những tư tưởng gia minh triết và dồi dào nhất của thời đại ấy — thực sự sánh ngang (có người nói cao hơn) những Francis Bacon, Kepler, Isaac Newton, Aristotle và Einstein.
Ông đạt những thành tựu cao nhất trong mọi lĩnh vực mà ông bước vào: nhà khoáng vật học, nhà toán học, nhà thiên văn, triết gia, nhà giải phẫu, và nhà Thông Thiên Học. Khi đã ở vị thế một nhà khoa học được quốc tế tán dương và ở độ tuổi trung niên, ông bỗng gác lại tất cả để tìm vào cái chưa biết.
Có người gọi ông là một Columbus tinh thần. Quả vậy, ông đã tìm kiếm, khám phá và khảo sát một tân thế giới, và như Columbus, ông ghi nhật trình tỉ mỉ những sự kiện mình trải nghiệm. Chúng được đặt trong một số lượng lớn các cuốn sách, xuất bản trong đời ông hoặc về sau. Riêng các nhật ký tinh thần của ông đã là bảy tập đồ sộ với hơn 6.000 trang.
Các tác phẩm huyền môn của ông thách thức tư duy khoa học đương thời lẫn thái độ của Giáo hội. Các giáo hội Cơ Đốc chính thống thế kỷ 18 rất mơ hồ về sự sống sau khi chết: họ mơ hồ về cách phục sinh xảy ra và dạng đời sống nào chờ đợi linh hồn đã sống lại. Trái lại, Swedenborg hết sức quả quyết trong những trước tác đồ sộ của mình về bản chất thiên đàng và địa ngục, và tuyên bố rằng các khẳng định được viết ấy là những sự kiện thực về đời sống tương lai. Hơn nữa, ông khẳng định rằng những điều ông nói là Linh từ của Thượng đế và Linh từ này mở rộng bao gồm cả chính các trải nghiệm của ông, tự thân là bằng chứng về tính bất tử của con người.
Swedenborg đối lập hoàn toàn với các quan niệm đương thời của các giáo hội, cả Tin Lành lẫn Công Giáo. Giáo hội nói rằng các thiên thần là một chủng loài thiên thượng, được tạo ra là thiên thần ngay từ đầu. Swedenborg phủ nhận. Ông nói rằng mọi cư dân của thiên đàng cũng như địa ngục đều từng sống như con người trên Trái Đất.
Dù mơ hồ trong các khẳng định, các giáo hội vẫn duy trì rằng con người phục sinh trong thể xác vật lý. “Không!” Swedenborg nói. Thể xác mục nát trong lòng đất và không bao giờ được phục sinh hay sử dụng lại. Chính Linh hồn, cùng với các thể vi tế và trong bản tính bất tử của nó, trỗi dậy sau khi chết và di chuyển vào các cõi thiên giới.
Trong diễn giải của họ về thiên đàng, các giáo hội cho rằng niềm vui thiên đàng chờ đợi linh hồn “được cứu” là thờ phượng Thượng đế liên miên và hát thánh vịnh đời đời. Swedenborg khẳng định đó là điều vô nghĩa. Trong cõi thiên giới, cũng như ở đây, mỗi người có công việc riêng; việc phụng tự trang nghiêm chỉ là một phương diện của đời sống thiên đàng… nó là một sinh hoạt thư thái hơn là một nghề nghiệp.
Swedenborg nói các thiên thần ăn uống. Ông nói họ làm việc, vui chơi, sống trong nhà cửa và quần tụ thành nhóm. Họ phân chia thành các xã hội theo phẩm tính cá tính, theo phụng sự, thiên bẩm, v.v.
Với tất cả chuyên môn khoa học và nền tảng rộng lớn về triết học, cảnh giới của linh hồn đã khiến ông bối rối đến mức ông gác lại mọi thứ khác để theo đuổi việc nghiên cứu linh hồn và cơ cấu của nó. Sau nhiều va đập, lo âu và thất vọng, cuối cùng ông nhận thấy mình “đã cập bến trên bờ của một Thế Giới Mới,” thế giới bên trong. Sau đây chỉ là bốn trong số hàng trăm trải nghiệm mà ông đã tận tâm và nhọc nhằn ghi chép lại, giống như trước đây ông từng làm với các phát kiến khoa học mới lạ.
Đại Hoả hoạn Stockholm, 1759
Bốn giờ chiều thứ Bảy, ngày 19 tháng Bảy năm 1759, Swedenborg đang ở cùng mười lăm thực khách khác tại nhà của William Castle, một thương gia danh tiếng ở Gothenburg, cách Stockholm chừng 300 dặm. Vào khoảng sáu giờ, Swedenborg rời bàn một lúc, trở lại với vẻ mặt tái nhợt và vô cùng bối rối. Ông bồn chồn và thường ra vườn.
Khi bị gặng hỏi, ông nói rằng một đám cháy nguy hiểm vừa bùng lên ở Nam Stockholm và đang lan rất nhanh, rằng nhà của một người bạn đã thành tro và nhà ông thì có nguy cơ bắt lửa. Tám giờ tối, sau khi lại đi ra ngoài, ông thốt lên đầy nhẹ nhõm: “Tạ ơn Trời! Lửa đã tắt ở căn thứ ba tính từ nhà tôi!”
Sáng Chủ nhật, Swedenborg được tỉnh trưởng mời đến và hỏi về tai hoạ. Ông tường thuật chi tiết vụ cháy, kể cách nó bắt đầu, kéo dài bao lâu và theo cách nào được dập tắt. Tối thứ Hai, một sứ giả từ Stockholm tới và diễn biến của vụ hỏa hoạn được mô tả chính xác như Swedenborg đã nói. Rồi đến thứ Ba, một sứ giả hoàng gia đến nhà tỉnh trưởng với những chi tiết đau buồn về tổn thất nhân mạng và tài sản do vụ cháy gây ra, và cũng như trước, báo cáo này không khác một mảy may so với mô tả mà Swedenborg đã đưa ra ngay khi lửa còn đang hoành hành.
Tờ Biên Lai Thất Lạc
Ông de Marteville, đại sứ Hà Lan tại Stockholm, qua đời tháng Tư 1770. Khoảng một năm sau, một thợ kim hoàn trình hoá đơn yêu cầu góa phụ thanh toán bộ đồ bạc đã bán cho chồng bà. Bà de Marteville sửng sốt trước yêu cầu ấy vì thói quen đúng hạn của chồng bà trong việc thanh toán. Dù tin chắc rằng hoá đơn trị giá 25.000 guilders Hà Lan đã được trả, bà không thể tìm thấy biên lai của thợ kim hoàn mặc cho mọi cuộc lục soát.
Bá tước Ostermann, đại sứ Nga và bạn của người quá cố, gợi ý rằng bà de Marteville có thể nhờ Swedenborg giúp đỡ. Chẳng lâu sau, bà làm quen với ông và nêu lời thỉnh cầu. Nếu như mọi người nói, Swedenborg có năng lực phi thường đàm thoại với linh hồn người quá cố, liệu ông có vui lòng hỏi chồng bà về vụ bộ đồ bạc?
Swedenborg không phản đối việc đáp ứng lời thỉnh cầu và hứa rằng nếu ông gặp ông de Marteville, ông sẽ nhắc việc đó. Vài ngày sau, khi gặp vị đại sứ trong cõi linh hồn, ông thực hiện điều ấy. Ông de Marteville bảo đảm với Swedenborg rằng ông sẽ “’về nhà tối nay và lo việc ấy.’ Nhưng tôi không nhận được lời đáp nào khác cho góa phụ,” Swedenborg nói thêm.
Theo bà de Marteville, tám ngày sau khi bà đến gặp Swedenborg, người chồng quá cố hiện về trong mộng và chỉ ra chỗ tờ biên lai nằm trong một bàn giấy kiểu Anh. Bà tỉnh dậy, kéo ngăn tủ ra hết cỡ, thấy tờ biên lai nằm phía sau, cùng với một cây trâm cài gắn kim cương tưởng đã mất.
Sáng hôm sau, Swedenborg đến thăm bà de Marteville và trước khi nghe bà nói gì, ông bảo rằng trong đêm ông đã thấy nhiều vong linh; trong số đó có ông de Marteville. Swedenborg muốn đàm thoại với vị đại sứ nhưng ông này từ chối vì nói rằng ông phải đến gặp vợ mình để nói điều hệ trọng. Sau đó, ông sẽ rời “khu cư trú” nơi ông ở khoảng một năm và đi vào một nơi phúc lạc hơn.
Bí mật của Hoàng Hậu
Tháng Mười năm 1791, Nữ hoàng Thuỵ Điển nhận thư của chị gái, Nữ công tước Brunswick, trong thư có nhắc đến một lời chê trách mà bà đọc được trên tờ Gottingen Gazette về một người ở Stockholm tự xưng là nói chuyện với người chết, và bà rất lấy làm lạ vì Nữ hoàng chưa từng đề cập chủ đề này trong thư từ.
Nữ hoàng liền hỏi điều ấy có thật không, và nếu có, liệu ông ta không bị điên. Bá tước Ulric Scheffer bảo đảm với bà rằng, trái với điên loạn, ông ta là một người sáng suốt và học rộng; thế là Lovisa Ulrika bày tỏ mong muốn gặp ông, cuộc gặp gỡ do Bá tước thu xếp vì ông thân quen với Swedenborg.
Khi được giới thiệu với Swedenborg, Nữ hoàng hỏi: “Có thật ông có thể đàm thoại với người chết không?” Sau câu đáp khẳng định, bà hỏi tiếp liệu ông có thể nói chuyện với mọi người đã khuất hay chỉ với một số người nhất định, Swedenborg trả lời: –
Tôi không thể đàm thoại với tất cả, mà với những ai tôi từng biết ở đời này; với tất cả bậc vương giả; với mọi anh hùng lừng danh hoặc các bậc vĩ nhân, học giả mà tôi biết trực tiếp hoặc qua hành trạng hay trước tác của họ; nói cách khác, với tất cả những ai tôi có thể hình dung; vì hẳn ông/bà cũng hiểu rằng tôi chẳng thể cũng chẳng muốn nói chuyện với một người tôi chưa từng biết hay về người đó tôi không thể hình dung.
Nữ hoàng hỏi ông có sẵn lòng đảm nhận một sứ vụ liên quan đến người anh mới qua đời của bà (Augustus William của Phổ[1], mất ngày 12 tháng Sáu, 1758) chăng, Swedenborg đáp: “Tôi rất sẵn lòng.” Bà liền đưa ông đến cửa sổ trong phòng và giao sứ vụ, ông hứa sẽ mang lại lời hồi đáp.
Sau đây là tường thuật những gì đã diễn ra, trích từ nhật ký của Bá tước Tessin (ghi ngày 18 tháng Mười Một, 1791), cấu thành lời chứng xác tín nhất về sự kiện “bí mật của Nữ hoàng”.
Swedenborg một lần nữa ra mắt Nữ hoàng và thỉnh cầu bà ban cho ông một buổi yết kiến riêng. Bà đáp rằng ông có thể truyền đạt bất cứ điều gì ông muốn nói trước mặt mọi người, nhưng Swedenborg quả quyết với Bà rằng ông không thể tiết lộ điều cần nói khi có nhân chứng hiện diện. Trước điều này, Nữ hoàng trở nên bối rối rồi yêu cầu Thượng nghị sĩ von Schwerin tháp tùng bà vào một căn phòng khác. Đặt Ngài de Schwerin đứng gác ở cửa, bà cùng Swedenborg đi đến đầu kia của căn phòng.
Ông nói với Nữ hoàng điều gì đó một cách riêng tư, mà ông bị bắt buộc phải giữ kín trước mọi người khác (Tessin viết). Lập tức, Nữ hoàng tái mặt và lùi vài bước như thể sắp ngã quỵ, nhưng chẳng bao lâu sau bà thốt lên xúc động: “Đó là điều không ai khác ngoài anh trai ta có thể nói cho ông biết!” Khi nhận thấy sự bàng hoàng tột độ của Nữ hoàng, Swedenborg bày tỏ hối tiếc vì đã đi quá xa.
Tessin viết: –
Tuy điều này có vẻ đáng kinh ngạc, cũng như những điều khác mà ông đã nói với tôi trong suốt một tiếng rưỡi, tôi vẫn cảm thấy an tâm hơn khi ghi chép lại, vì sự bàng hoàng rõ rệt của Nữ hoàng đã được tất cả những người có mặt trong phòng đồng loạt xác nhận. … Với tất cả những gì chúng ta thấy, lời tường thuật này rõ ràng đến mức và được xác nhận bởi nhiều chứng nhân đến nỗi nó hẳn phải được coi là đáng tin cậy. Còn về một lời giải thích sẽ như thế nào, hiện tại chúng tôi không dám đưa ra. Điều này dường như chắc chắn đối với chúng tôi: trạng thái tâm trí của Swedenborg hẳn phải là một sự pha trộn hết sức đặc biệt giữa sự thấu triệt, thậm chí cả khả năng tiên tri, và trí tưởng tượng không kiềm chế. Ông là một trong những nhân vật vô cùng hiếm hoi, những người sẽ luôn luôn là một ẩn số đối với các nhà nghiên cứu mà không nhất thiết, bởi lý do đó, nằm ngoài giới hạn của khả năng và sự thấu hiểu.
Bí mật gì đã được trao giữa Swedenborg và Nữ hoàng Thuỵ Điển? Ai ai cũng muốn biết, và mặc cho bị các quý ông trong triều thăm viếng và gạn hỏi, Swedenborg kiên quyết không tiết lộ. Nếu Swedenborg nói ra bí mật ấy, có thể nó sẽ dẫn đến những tiết lộ nghiêm trọng và các cáo buộc mới chống lại Nữ hoàng về tội phản nghịch và thông đồng với kẻ thù trong thời chiến, vì Thuỵ Điển khi ấy đang chiến tranh với Phổ. Chỉ vài năm trước đó, Lovisa Ulrika suýt bị buộc tội kích động cách mạng trong một nỗ lực mở rộng quyền lực hoàng gia.
Vụ Ám Sát Một Hoàng Đế
Một sự kiện khác liên quan đến hoàng gia, cùng thời kỳ lịch sử, được kể bởi một “Ông G” nào đó, nổi tiếng là “người kính sợ Thượng đế và yêu chân lý”: –
Năm 1762, đúng ngày Hoàng đế Peter III của Nga băng hà, Swedenborg có mặt tại một buổi tiệc (cùng “Ông G”). Giữa câu chuyện, sắc diện ông thay đổi và hiển nhiên linh hồn ông không còn trú nơi ông nữa, có gì đó (kỳ lạ) đang diễn ra. Vừa hoàn hồn, ông được hỏi có chuyện gì xảy ra. Ban đầu ông không chịu nói, nhưng sau nhiều lần nài ép, ông bảo: “Ngay lúc này đây, Hoàng đế Peter III đã chết trong ngục.”
Ông giải thích bản chất của cái chết và nói thêm: “Thưa quý vị, xin vui lòng ghi lại ngày hôm nay để đối chiếu với thông báo về cái chết của ông ấy sẽ xuất hiện trên các tờ báo.”
Chẳng bao lâu sau, báo chí loan tin Hoàng đế băng hà, đúng ngày mà Swedenborg đã nói.
Peter III được Nữ hoàng Elizabeth, cô của ông, chỉ định làm người kế vị và lên ngôi Nga ngày 5 tháng Giêng năm 1762. Không lâu sau, vợ ông, Nữ hoàng Catherine (một công chúa người Đức), cầm đầu một cuộc binh biến chống lại ông và tự xưng là người cai trị nước Nga. Ngày 17 tháng Bảy, Peter bị siết cổ trong ngục bởi một trong các kẻ mưu phản, và chính thảm kịch ấy, theo lời tường thuật, đã hiện ra trước mắt bên trong của Swedenborg!
Hình hài thể xác của con người là kết quả của các tiến trình được khởi động từ hàng tỷ năm trước. Nó chủ yếu là kết quả của việc hiện hình một thể có cơ trúc khởi đầu trong chất hạ trí, rồi kết đặc một đối phần cảm dục, rồi một khuôn dĩ thái trước khi cô đặc cuối cùng thành thể xác. Tiến trình hiện hình, hay nói đúng hơn là ngoại hiện, này được minh hoạ ở trên.
Các Bầu hành tinh A, B, C và D, theo thứ tự ấy, cung cấp phông nền cho trường kịch nhân loại, tự thân chúng đã được tích tụ trên các cõi riêng của chúng từ lâu trước khi các hiện thể của con người hiển lộ ở đó. Có thể nói rằng con người “cảm dục” đi trước con người “vật chất”, và “trí tuệ” trước khi “cảm dục”.
Sự cô đặc của hình thể con người xảy ra trên cung giáng hạ, nhưng cũng có cung thăng thượng, và chúng ta đã bắt đầu bớt đậm đặc khi tuần tự chuẩn bị cho một chuỗi đời sống trên các Bầu E, F và G (theo thứ tự) như hình trên.
Chúng ta tồn tại sau chết ở đâu?
Nếu chúng ta khảo sát giáo lý của minh triết cổ xưa — được gạn lọc từ Ai Cập và Tử Thư Ai Cập, các thánh thư Ấn Độ cổ, Tử Thư Tây Tạng, giáo lý Trung Hoa cổ, cũng như những điều được đưa vào các huyền môn Hy-La — và kết nối chúng với lời chứng của các trường phái tư tưởng huyền môn hiện đại như Hội Thập Tự Hoa Hồng và Thông Thiên Học, chúng ta thấy quan điểm chung của tất cả đều xem con người phức hợp hơn nhiều so với cái vỏ bên ngoài hay thể xác.
Bằng chứng của họ cho thấy con người sở hữu các hiện thể đan xen cho tâm thức của y ngoài những hiện thể thuộc các cõi đậm đặc, lỏng và khí mà chúng ta gọi là thể xác. Nếu Minh Triết Ngàn Đời là đáng tin cậy, thì có nhiều trạng thái của vật chất, trải rộng từ những trạng thái được chứng minh trong thế giới hồng trần của chúng ta, xuyên qua các trạng thái vật chất dĩ thái trong suốt, qua chất liệu cảm xúc và tư tưởng, cho đến các tinh chất tinh thần của linh hồn con người. Điều này không chỉ đúng với con người, mà còn với thế giới mà y đang sống.
Quả Đất của chúng ta thật ra chỉ là quả cầu bên ngoài nhất trong một chuỗi trải rộng từ cõi hồng trần xuyên qua sáu cõi khác cho đến cõi tinh thần, và con người có một đối phần sống động của chính mình trên mỗi cõi hay mỗi quả cầu ấy.
Thể vi tế gần gũi nhất trong số này, vốn chứa đựng tâm thức muôn vẻ của con người, được gọi là thể dĩ thái. Nó thật sự là khuôn mẫu của thể xác và hoạt động như một kênh dẫn cho các sinh lực quan trọng được chứa đựng trong bầu khí quyển của hành tinh chúng ta và đối phần dĩ thái của nó, vốn được gọi là anima mundi.
Thể dĩ thái này là một thực thể sinh lý, có trách nhiệm chính là phóng chiếu năng lượng sinh lực vào các cơ quan của thể xác.
Trái Đất phức hợp với các cõi xuyên thấu nhau
Năng lượng sinh lực này gọi là prana, có trong khí quyển đầy ánh dương và được hít vào với mỗi hơi thở.
Khuôn mẫu của thể xác chứa các cấu trúc như nadi, luân xa và các đường dẫn được triển khai từ chất dĩ thái. Nó được minh chứng thì tốt hơn là được thấy, dù cả hai đều khả dĩ.
Các Yogi đã chứng tỏ mạnh mẽ cách kiểm soát thể xác thông qua việc vận dụng đối phần dĩ thái của nó. Tuy nhiên, khi chết đi, thể dĩ thái tan rã sau khoảng một tuần, sau khi đã cho phép một thể đan xen vi tế hơn thoát khỏi điểm neo của nó trong hiện thể dĩ thái. Đó là thể cảm dục.
Thể cảm dục được tạo nên từ chất liệu cảm xúc, tinh tế và mong manh hơn phần nào so với các chất liệu của thể dĩ thái đã mô tả trước đó. Nó được cấu thành từ vô số triệu bọt nhỏ li ti của chất liệu cảm dục, vốn phản ứng mạnh mẽ cả với các tác động trí tuệ lẫn với các tác động từ thế giới bên ngoài được tiếp nhận qua thể dĩ thái.
Chính trong thể cảm dục mà thật sự chúng ta cảm nhận. Nó tiếp nhận những năng lượng to lớn trong trạng thái thô sơ từ cõi cảm dục hay quả cầu cảm dục. Những năng lượng thô sơ này được bức xạ ra ngoài thông qua một dòng phát xạ vào phần cảm dục của hào quang con người, hoặc được chuyển đổi thành năng lượng dĩ thái-hồng trần thông qua các trung tâm lực cảm dục hay luân xa.
Năng lượng cảm dục có thể được đồng nhất với libido của Freud. Nó biểu lộ trong thế giới như những thúc đẩy tâm lý của chúng ta. Nó đặc biệt thể hiện trong khao khát của chúng ta về sự an toàn, sự đáp ứng, sự công nhận và những trải nghiệm mới. Ở trẻ sơ sinh, chất liệu cảm dục chỉ đơn thuần là một cái vỏ, nhưng với sự phát triển thể xác, kinh nghiệm cảm xúc và sự kiểm soát trí tuệ, cái vỏ đó trở thành thể cảm dục — thật ra gồm có thể cảm dục thấp và thể cảm dục cao.
Thể cảm dục thấp thường được hình thành vào khoảng tuổi thiếu niên và là hiện thể dẻo, vốn đáp ứng với các tác động từ thế giới trí tuệ, cũng như từ thể trí và từ cõi cảm dục. Nó chịu trách nhiệm cho nội dung chính của đời sống giấc mơ. Nó đan xen với thể xác trong trạng thái tâm thức thức tỉnh bình thường, nhưng tách ra khỏi sự chỉnh hợp với thể xác trong trạng thái ngủ, trong thời gian đó nó có thể nạp lại năng lượng cảm xúc. Nó rất hiếm khi rời xa thể xác.
Thể cảm dục cao phát triển nhanh chóng từ khoảng tám tuổi, và sự tăng trưởng của nó phụ thuộc rất nhiều vào những tác động từ thể trí, bộ não và bầu khí hậu cảm xúc do bạn bè, cha mẹ, v.v… của đứa trẻ tạo ra. Thường thì từ khi chúng ta bắt đầu mơ thấy màu sắc, có thể nói rằng thể cảm dục cao đã đủ tích hợp để chúng ta trở nên sáng tạo về mặt cảm xúc như các nghệ sĩ, nhà thơ, kiến trúc sư, v.v… Nó cũng đánh dấu thời điểm khi trải nghiệm thoát xác có kiểm soát diễn ra và thậm chí có thể được điều chỉnh trong điều mà chúng ta gọi là phóng chiếu cảm dục.
Chính trong hiện thể này mà tâm thức tồn tại sau khi chết và trong khoảng thời gian chừng hai mươi năm, khi thể cảm dục thấp bị loại bỏ như một cái vỏ. Thật ra đây là chất liệu cảm dục được rút ra từ ba cõi phụ thấp nhất của thế giới cảm dục — đó là kama — và cái vỏ bị loại bỏ này chìm xuống vùng Kama-Loka, vốn nằm dưới mức của Trái Đất nhưng thuộc cõi cảm dục.
Tâm thức được giải thoát sau đó chuyển vào cõi trí, một thế giới trong đó hình tướng hầu như biến mất và trong đó biểu tượng cùng hình ảnh trở nên tối quan trọng. Trong thế giới trí tuệ, những khuôn mẫu hành vi, phản xạ và ký ức cuối cùng của phàm ngã từ từ bị loại bỏ, và sau một giai đoạn hai mươi năm, một “cái chết thứ hai” diễn ra khi những tàn tích cuối cùng của cấu trúc hình tướng con người được giải trừ. Tâm thức còn lại — thật sự là tinh chất tinh thần của mọi kinh nghiệm trong kiếp sống trước — bỏ lại đơn vị hạ trí và neo mình vào nguyên tử trường tồn trí tuệ trong cõi trời.
Rồi sao nữa?
MẶC KHẢI … Bông Hoa Nở
Linh hồn con người, được mô tả như một đoá sen khổng lồ đang trong tiến trình nở bung ra, đến gần các tinh chất vừa nói ở cõi trời, và trong khi tâm thức an hoà ấp ủ những biến cố tinh thần của kiếp sống đã qua, linh hồn trích xuất những yếu tố còn lại của Atma, Bồ đề và Manas, hướng vào tự thân, khuấy động hơn nữa sự mở ra các cánh hoa tâm thức của mình.
Tiến trình này thường kéo dài khoảng 1.000 năm trong trạng thái thiên giới, tuỳ theo Cung của linh hồn. Những linh hồn thuộc các Cung của Tình Thương – II (60%), IV (2%) và VI (7%) – cần khoảng 1.000 năm để hoàn tất tiến trình trừu nạp này trước khi tìm nhập thể lần nữa. Những linh hồn thuộc các Cung của Ý Chí — I (20%), III (5%), V (ít hơn 1%) và VII (6%) — cần ít hơn đôi chút, thường khoảng 700 năm. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng có vô vàn ngoại lệ đối với các quy tắc cơ bản này.
Sự khuấy động, mở ra và đi đến mãn khai của ba tầng cánh sen của linh hồn được nói là cần 777 lần lâm phàm trên Địa cầu.
“Gieo Gì Gặt Nấy”
Sự sống sau khi chết vì vậy có thể được nhìn như một cuộc hành trình leo lên một chuỗi các bậc thềm vào những trạng thái hiện hữu ngày càng vi tế, trong đó các yếu tố thô trọc nhất của bản tính chúng ta lần lượt được bỏ rơi. Đây thực sự là một tiến trình thanh lọc tuyệt đối thiết yếu cho sự khai mở của linh hồn. Nó cho phép loại bỏ mọi kinh nghiệm dưới mức tinh thần để đời mới mang lại những cơ hội hoàn toàn mới mẻ hầu tiến hoá và biểu lộ, không bị cản trở, ý hướng mới của linh hồn.
Tuy nhiên, bức tranh lý tưởng này được điều chỉnh bởi nghiệp quả của cá nhân, như nó được quy định bởi và qua các nguyên tử trường tồn của cá nhân để lại trên mỗi cõi mà y đã rời bỏ và tái cư ngụ suốt bao đời. Dù các oán hận, hằn cay, ám sợ và hận thù của đời trước bị vất bỏ, một ký lục về mọi kinh nghiệm ở các cấp độ hồng trần, cảm xúc và trí tuệ vẫn được mã hoá trong các nguyên tử trường tồn của chúng ta.
Tiếp đó, đến lượt cá nhân, khi xây dựng các vận cụ mới quanh những nguyên tử trường tồn ấy trong lần lâm phàm kế tiếp, phải không hành động theo những phẩm chất tiêu cực được mã hoá trong đó, mà trái lại, nhấn mạnh các yếu tố tích cực được khắc vào đó. Theo nghĩa này, con người có quyền chọn lựa tự do. Nơi tự do lựa chọn của y bị hạn chế là ở nghiệp quả.
Các Định luật của Nghiệp quả thực thi sự báo ứng: các hành động ác đã tạo trong những đời trước phải được hoá giải bằng các hành động thiện trong những đời sẽ đến. Sự tàn bạo đã gây ra được thuyên giảm bằng sự tàn bạo phải chịu trong đời này và các đời sau. Châm ngôn Cựu Ước “mắt đền mắt, răng đền răng” vẫn đúng.
Nếu chúng ta đã gieo hạt xấu trong những đời trước, chúng ta phải chịu mùa gặt của những hạt giống ấy trong đời này và các đời sau. Quả lắc không thể bị chặn lại. Nghiệp quả sẽ phải thực thi.
Tuy vậy, có những cách trong đó nghiệp quả có thể được hoá giải và định hướng. Hành động của chúng ta trong đời này có thể được hướng đến các thực hành giải nghiệp, như làm việc cật lực vì Nhân loại, đấu tranh cho các chính nghĩa cao quý, thực hành tính vô tổn hại trong tư tưởng, ngôn từ và hành động, v.v.
Cái chết và diễn tiến chết
Sự thật là chúng ta đã quen với việc chết. Hàng trăm kiếp sống trên Trái Đất của chúng ta luôn kết thúc bằng tiến trình rút lui khỏi chất liệu, điều mà chúng ta gọi là chết.
Thường thì chính hành vi của linh hồn khởi xướng cái chết, vì thường là linh hồn quyết định khoảnh khắc rút lui thực sự. Emanuel Swedenborg làm chứng cho điều này khi ông dự báo chính xác ngày lâm chung của mình. Đôi khi tai nạn giết chúng ta, nhưng dĩ nhiên, chúng chỉ giết được thể xác và khuôn dĩ thái của nó.
Tuy nhiên, còn có những cách chết khác.
Đức Jesus đã nói: “Mỗi ngày ta đều chết đi.” Ngài chỉ có thể muốn nói đến trạng thái chết đi vốn đi kèm với một số hình thức tham thiền cao nhất, trong đó chúng ta tái diễn những kinh nghiệm chết của nhiều kiếp sống, nhưng trong sự tỉnh thức trọn vẹn.
Cái chết có nhiều chức năng trọng yếu mà nếu thiếu, tính bất tử không thể khả hữu. Trong cái chết, chúng ta vứt bỏ những mảnh vụn sờn rách của vận cụ hồng trần, vốn đã bị hủ hoá bởi bệnh tật, lão suy và sự lạm dụng thuần tuý. Điều này rất giống việc con rắn lột lớp da ngoài mỗi năm khi nó đã lớn quá cỡ so với lớp da cũ.
Mỗi hành vi chết đi mang đến cho chúng ta một khoảng nghỉ trong các trạng thái thiên giới vốn hiện hữu cho chúng ta giữa những kiếp sống. Chúng ta có được những thoáng nhìn về cõi thiên. Chúng ta được tươi mới bởi thâm nghĩa và bởi các năng lượng tinh thần, và những kinh nghiệm này là điều thiết yếu cho vòng luân hồi vô tận của chúng ta vào sự tái sinh. Ngay cả khi chúng ta “chết đi mỗi ngày” (trong tham thiền), chúng ta cũng nếm trải sự bất tử và làm mới chính mình bằng thâm nghĩa cùng các năng lượng tinh thần.
* * * * *
Tang chết
Chẳng gì vui sướng hơn các tiến trình mô tả ở đây, vậy mà dại dột thay, chúng ta than khóc cái chết khi nó đến với người khác. Sự thật hiển nhiên là ai cũng muốn lên thiên đàng, nhưng không ai muốn chết.
Chúng ta không mất gì vì cái chết mà còn được nhiều từ đó: –
Tôi chết như khoáng vật để thành thảo mộc.
Tôi chết như thảo mộc để vươn lên thú vật.
Tôi chết như thú vật để thành Người.
Cớ chi sợ?
Có khi nào tôi kém đi vì cái chết?
Rồi tôi sẽ chết thêm lần nữa như một Con Người,
để bay cùng thiên sứ phúc lành; Nhưng ngay cả khỏi bậc thiên sứ,
Tôi vẫn phải đi tiếp.
Dẫu những lời này có nguồn gốc phương Đông, chúng đã được Emanuel Swedenborg thốt ra gần như cùng một cách qua lời chứng của ông.
Con người thích than khóc, và còn được “đại thương mại” khuyến khích. Nó rất giống Giáng Sinh và lời nguyền thương mại hoá của nó. Đám tang thì đắt đỏ và quan tài thì hoàn toàn không cần thiết.
HỎA TÁNG
HỎA TÁNG NHÂN TỪ HƠN VỚI NGƯỜI CHẾT, tốt hơn cho chính Nhân loại, và sẽ trở thành mối quan tâm lớn hơn nữa của những nhà môi trường học thao thức — như mọi Linh hồn Cung bảy — thanh lọc hành tinh và ngăn ngừa sự ô nhiễm thêm nữa.
Có gì tệ hơn việc làm ô uế đất đai của Địa cầu bằng những thân thể đầy bệnh tật bị vứt bỏ khi chết mà rất dễ bị hất văng khỏi nơi yên nghỉ bởi bất kỳ tai biến địa lý nào để rồi một lần nữa làm ô nhiễm Trái Đất? Không bao giờ được quên rằng những tác nhân vi rút thường gây chết chóc, như vi rút cúm, có cấu trúc tinh thể và có thể tồn tại vô hạn trong các thi thể trong lòng đất, đã gây ra nhiều trận dịch toàn cầu.*
* Riêng trận dịch năm 1918 được cho là đã gây nhiều tử vong hơn cả Thế chiến thứ nhất.
Hàng tỷ đã và đang được chi cho mai táng và than khóc ngày nay, và điều này xưa nay vẫn vậy.
Tập tục La Mã
Thời La Mã cổ, nếu một người La Mã chết không có nhiều thân nữ quyến để khóc than, người ta thuê các phụ nữ làm nghề khóc mướn; thù lao phụ thuộc vào dịch vụ cung ứng. Nếu những người khóc chỉ đơn giản đi theo linh cữu trong im lặng, họ nhận khoảng bốn xu mỗi người; nếu phải khóc, phí là sáu xu; gào thét, kêu la inh ỏi, cùng với việc giật tóc, đấm ngực và các dấu hiệu của nỗi bi thương tột độ, khiến thân nhân phải trả mười lăm xu cho mỗi người khóc siêng năng. Tại lễ tang của Titus có tới một nghìn năm trăm người khóc mướn được thuê, tất cả đều theo mức giá cao nhất.
Tập tục Ailen
Lễ thức canh tang kiểu Ireland là một ví dụ khác về nỗi sầu bi nhân tạo. Thi hài được đặt ngay trên giường cho mọi người nhìn thấy, và những người than khóc lấp đầy ngôi nhà, ở lại suốt đêm. Họ chuyện trò, hút thuốc và dùng đồ giải khát, kể cả một thùng bia porter lớn hoặc những loại thức uống tương tự. Khi đêm khuya dần, họ trở nên hơi ngà ngà. Nhiều lần trong đêm, những người phụ nữ khoác tay nhau thành vòng tròn quanh thi hài, gào khóc và cúi rạp xuống, và những tiếng khóc la ấy có thể kéo dài mười lăm phút mỗi lần. Nghi thức này được gọi là “ulogone.” Thường nó được khơi mào bởi một phụ nữ vào lúc tạm dừng giải khát, rồi người khác nhập cuộc; có những phụ nữ đạt tiếng tăm khá lớn nhờ tài than khóc. Họ sẽ nói, “Bà O’Flanagan thật tuyệt về ulogone,” cũng na ná như một người cổ vũ giỏi rất được săn đón tại một trận bóng.
Người Trung Hoa vốn rất thạo những chuyện như thế này, nhưng họ biết rằng để tang, nếu kéo dài, có thể nguy hiểm :-
Phong Tục Trung Hoa
Có một câu tục ngữ Trung Hoa nói rằng: “Bạn không thể ngăn những con chim sầu muộn bay lượn trên đầu mình, nhưng bạn có thể ngăn chúng làm tổ trong tóc bạn.” Câu tục ngữ đó cho thấy rằng có những người Trung Hoa không tán thành việc than khóc mất kiểm soát.
Mặc dù con người không phải lúc nào cũng than khóc cho người chết, y đã để lại, thông qua những nhân vật nổi tiếng, vài lời bình luận khác thường. Mark Twain đã nói: “Chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đến khi chết đi, ngay cả người lo việc mai táng cũng sẽ thấy tiếc thương!”
Montaigne viết :-
“Như tự nhiên sinh ta để sống, tự nhiên cũng sinh ta để chết. Đó là một phần của trật tự vũ trụ. Đó là điều dịu dàng nhất, bất kể bề ngoài nó có vẻ ra sao.”
Liệu chết có đau đớn không?
Chúng ta có chết trong đau đớn không? Chính tiến trình chết có đau đớn không? Những người trong chúng ta đã ở cận kề nó nói là KHÔNG. Chúng ta chỉ có thể đưa ra chứng từ cá nhân.
Tác giả đã đối diện với cái chết hai lần trong Đệ nhị Thế chiến. Một lần Ông bị thương rất nặng và, lần thứ hai, Ông cùng những người khác bị bỏ lại trong một cơn bão bụi gào thét suýt bị bỏ sót. Cả hai lần, Ông chịu nhiều đau đớn bởi bản chất các vết thương. Khi cái chết đến gần, nỗi đau rơi rụng dần, dù trong cả hai lần Ông đều không bị ảnh hưởng bởi morphin.
Stonewall Jackson, hôn mê ba ngày và sắp chết, bị hoại thư — một tình trạng cực kỳ đau đớn. Ông tỉnh lại và nói, “Hãy qua bên kia sông và nghỉ dưới bóng những hàng cây kia.”
Thomas Edison thoát hôn mê trước khi chết và nói, “Nơi đó rất đẹp.”
Lời cuối của đại thi sĩ Schiller là: “Nhiều điều đang trở nên giản dị và sáng tỏ với sự thấu hiểu của tôi.”
Daniel Webster nói, “Chúng ta vẫn sống.”
Louis IV trông đợi việc chết là điều khó khăn. Ông trị vì lâu hơn bất kỳ quân vương nào khác trong lịch sử ghi chép. Ông nói, “Tôi tưởng rằng việc chết khó khăn hơn thế.”
Lời cuối của Goethe là, “Ánh sáng, thêm ánh sáng!” Beethoven, người điếc, nói, “Ta sẽ nghe!”
Chết vì viêm phúc mạc — một tình trạng nổi tiếng đau đớn — lời cuối của Gerard Manly Hopkins là, “Tôi rất hạnh phúc, rất hạnh phúc.”
Tác giả phải đồng ý với Tạp chí Y khoa Anh, nơi đã viết :-
“Khoảnh khắc ngay trước cái chết vì bệnh tật là khoảnh khắc hoàn toàn vô cảm với mọi đau đớn, hoặc là một trạng thái buông xuôi êm dịu. . . .”
Không có sự chết. Sự sống là một tiến trình liên tục. Cái chết chỉ là một sự thay đổi trạng thái.
* * * * *
Cơ chế mà nhờ đó chúng ta tái sinh được minh họa trong sơ đồ dưới đây :-
Linh hồn trên chính cõi của mình, cảm nhận xung lực của “Ý Chí-Hiện Hữu” một lần nữa, đặt một phần của chính Nó xuống cõi trí.
Trên cõi trí, linh hồn làm rung động đơn vị trí tuệ, vốn được an trí thường trực ở đó trong và giữa các kiếp, rồi đơn vị này hấp dẫn về phía nó các nguyên tử trí có nhịp rung tương ứng để hình thành một lớp vỏ trí tuệ.
Trong lớp vỏ trí tuệ ấy, linh hồn khởi hoạt trên cõi cảm dục đơn vị cảm dục trường tồn và, theo cách tương tự, cấu thành lớp vỏ cảm dục.
Các lớp vỏ nay lơ lửng trên một trứng người đã thụ tinh, được linh hồn chọn trước. Dần dần, bào thai và thai nhi được chiếm dụng, nhất là trong thời kỳ thai máy khi các chồi chi bỗng phát triển mạnh.
Khi đứa trẻ trưởng thành thành người lớn, linh hồn có đầy đủ cơ hội củng cố sự nắm giữ ngày càng tăng của Nó trên thân xác. Điều này bị ảnh hưởng sâu sắc bởi mức độ định hướng tinh thần của phàm ngã được đảm nhận.
Phàm ngã biểu lộ ở một mức nào đó mục đích của linh hồn, làm mòn thể xác của mình và vứt bỏ nó vào cuối kỳ lâm phàm.
Tâm thức sau khi chết đánh mất các năng lực lý trí hóa của cõi hồng trần và đối phần dĩ thái của nó, nhưng sự sống tiếp diễn trong thể trí-cảm được hình thành từ lớp vỏ trí-cảm trong thời kỳ lâm phàm.
Thể cảm dục đã được vứt bỏ và tâm thức tiếp tục trên cõi trí trong thể trí, thể này rồi cũng được vứt bỏ trong cái gọi là “cái chết thứ hai”.
Sự đi qua cõi cảm dục và cõi trí mất khoảng năm mươi năm. Đời sống trong thể trí-cảm kéo dài chừng 20-25 năm, nhưng sau đó vỏ cảm dục bị loại bỏ. Có một giai đoạn sống tiếp theo trong thể trí dài hai mươi lăm năm.
Cái chết thứ hai xảy ra. Tàn tích cuối cùng của hình tướng bị vứt bỏ, tức là vỏ trí.
Tâm thức còn lại mang tính tinh thần, bao gồm những kinh nghiệm phù hợp với Atma, Bồ đề và Manas đã biểu lộ trong kiếp sống vừa rời bỏ ở Trái Đất. Những điều này, như một đơn vị năng lượng, bước vào trạng thái thiên giới, nơi linh hồn phủ bóng chúng, trừu xuất các yếu tố Atma, Bồ đề và Manas đến mức chẳng còn gì rốt ráo thuộc về phàm ngã cuối cùng. Linh hồn lưu lại trong cõi thiên cho đến khi Ý Chí-Hiện Hữu lại tự khẳng định và chu kỳ tái sinh khởi sự lần nữa.
Đời Sống Sau Chết
Sơ đồ của chúng ta cho thấy khi cởi bỏ thể xác, tâm thức cư ngụ trong thể trí-cảm, và đời sống trong các vận cụ này dường như hầu như không thay đổi. Sau khi chết, chúng ta gặp trên thế giới cảm dục những người khác đã qua đời, cũng như đôi khi gặp chính bạn bè và thân quyến của mình, những người tuy còn sống nhưng đang rời khỏi xác khi ngủ.
Những thực thể cảm dục không còn thân xác hiếm khi biết mình đã chết. Cũng như chúng ta thường không tỉnh thức trong trạng thái mộng và không chất vấn những thành tố lạ lùng cấu thành giấc mơ — dù chúng nực cười hay khốc liệt — những người chết trong thế giới cảm dục cũng không chất vấn những biến đổi đã xảy ra trong cuộc chuyển tiếp của họ qua tấm màn tử vong. Cần nhớ rằng bộ não tự nó đã bị vứt bỏ — chính là cơ quan bình thường làm công việc lý trí hóa. Không có nó, chẳng có khuynh hướng nào để đặt vấn đề về những đổi thay đã xảy đến khi ta đi từ thế giới ngoại hiện, đang sống, vào cõi cảm dục lúc chết.
Đa số con người không biết rằng mình đã chết.
Tác giả đã gặp những thực thể cảm dục mà Ông biết — do họ là các nhân vật nổi tiếng — rằng họ đã qua đời vài ngày hay vài tuần trước đó. Khi được hỏi, họ thường rất ngạc nhiên, thậm chí phẫn nộ, trước gợi ý rằng họ đã chết. Khi lưu ý họ đến một số điều bất thường tồn tại trong thế giới cảm dục, cuối cùng họ thừa nhận rằng có điều gì đã xảy ra. Tuy nhiên, họ vẫn cảm thấy lẽ ra ai cũng thấy rõ rằng họ không thật sự chết. Có người nói họ đã “đổi thay” hoặc “biến đổi, nhưng không chết.”
Bản chật của cõi cảm dục
Thế giới cảm dục rất mênh mông. Nó lan ra gần như xa đến tận Mặt Trăng, và thực vậy, đôi khi chồng lấn lên những gì từng là thể cảm dục của Mặt Trăng. Do đó, nó lớn hơn thể tích vật chất của Trái Đất hàng trăm lần.
“Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở” là một câu nói rất đúng, và hẳn là có đủ chỗ cho chúng.
Bản chất rất riêng của chất liệu cảm dục là tạo thành những khối cầu nhỏ, và những khối này có thể trở thành mang tính đại thiên địa theo nghĩa rằng chúng hình thành nên những khu vực riêng biệt, để có vô số vùng trong đó mọi kiểu nhóm người có thể nghĩ đến đều tìm thấy sự đồng cảm tự nhiên của mình. Có những khu vực hay “ngoại ô” của thế giới cảm dục nơi người nghệ sĩ, nhà thơ, nhà điêu khắc và ca sĩ opera sẽ tìm thấy sự bầu bạn vui tươi với những chúng sinh đồng điệu trong tư duy và hành động. Điều này cũng đúng với thế giới của chúng ta, nơi chúng ta tìm kiếm bạn bè và bạn đồng hành có sự tương hợp với mình.
Cũng đúng rằng những loại hình quốc gia, bộ lạc và cộng đồng cũng có xu hướng phân ngăn trong thế giới cảm dục. Rất hiếm khi loại hình da trắng, Mông Cổ và/hoặc da đen hòa lẫn nhau. Điều này không xuất phát từ bất kỳ cân nhắc chủng tộc nào, mà đơn thuần dựa trên tương hợp, thái độ, xung lực và khuynh hướng tình cảm.
Những cõi thấp nhất của nhân loại nằm ở các cõi phụ thấp nhất, hay các ngăn thấp nhất, của thế giới cảm dục. Những khu vực này trùng với những vùng nằm dưới mức của Trái Đất, nhưng trong chất liệu cảm dục. Đây là vùng được văn học Công giáo Rôma mô tả là “địa ngục”, những “âm phủ” và “luyện ngục”. Ở đây người ta bắt gặp nhiều hạng tội phạm, và ngay cả chúng cũng bị tách ra nhiều nhóm khác nhau, thí dụ, kẻ lừa đảo thuần khác hẳn với kẻ bạo lực và tàn ác bẩm sinh. Cũng hiếm khi trong thế giới cảm dục gặp hạng hung ác như ở Trái Đất vậy… ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.
Không ai ở mãi bất động trong vị trí của mình ở thế giới cảm dục. Chúng ta liên tục trút bỏ những lớp vỏ ngoài của thể cảm dục, cũng như ta trút bỏ những tế bào biểu mô trên bề mặt da của thể xác. Điều khác biệt là ta không tái tạo thể cảm dục. Nó không được làm mới một cách bình thường, và vì thế, cũng không cần dinh dưỡng hay ăn uống trong thế giới cảm dục. Thỉnh thoảng, ta vứt bỏ cả một lớp ngoài của thể cảm dục và cảm thấy tự do hơn hẳn trong vận cụ vi tế còn lại.
Khi đã thoát khỏi các yếu tố thô trọc của “vỏ cảm dục”, cư dân cảm dục có xu hướng chuyển vào những ngăn vùng ngày càng cao. Độc giả sẽ nhớ rằng vị đại sứ Hà Lan đã nói với Swedenborg rằng thật ngẫu nhiên may mắn khi ông gặp Swedenborg ngay đêm ấy, vì ông sắp chuyển vào một vùng thanh khí hơn của thế giới cảm dục.
Rốt cuộc, thường sau khoảng hai mươi đến ba mươi năm, tàn tích cuối cùng của thể cảm dục được trút bỏ (do đó phép ví con rắn lột da rất hữu ích). Khi ấy chỉ còn lại cho chúng ta cư trú trong thể hạ trí thuần túy.
Đến lúc này, tâm thức của thực thể đã thay đổi đáng kể. Nó đánh mất mọi phản xạ ham muốn, xung lực và đáp ứng. Nó chuyển vào bầu trí tuệ của hành tinh chúng ta, vốn còn vi tế hơn cả cõi cảm dục và còn bao la hơn.
Trong cõi trí, hình tướng hầu như không tồn tại. Thay vào đó là các cấu trúc năng lượng phát xạ màu sắc và âm thanh. Mọi thứ đều ở dạng hình ảnh và biểu tượng. Chính tại vùng này, các tập tính trí tuệ được trút bỏ và những thái độ cuối cùng, cũng như những thành tố trí tuệ nào không thuộc tinh thần, đều được gỡ bỏ.
Cuối cuộc lưu trú trên cõi trí — thường là một thời kỳ tương tự khoảng thời gian đã sống ở thế giới cảm dục — chỉ còn lại các tinh chất tinh thần, vẫn bao hàm ký ức về các sự kiện tinh thần của đời trước. Trong tình trạng ấy, cõi trời được bước vào, và tại đây, một thời kỳ an bình dài lâu trong những hoàn cảnh hài hòa và mỹ lệ nhất là phần thưởng dành cho những ai đã sống ở Trái Đất với đôi phần tinh luyện.
Chúng Ta Làm Gì Sau khi chết?
Tôi rất thương một người cô già, tôi sống cùng với bà vài năm trước khi bà mất. Bà có những phẩm tính nổi bật và những nét tướng mạo mà tôi thường ví với nước da và sắc diện của Thống chế Smuts. Vì thế, không mấy ngạc nhiên đối với tôi, ít lâu sau khi bà qua đời, khi phát hiện bà trong thế giới cảm dục ở một vùng nơi Smuts là một cư dân quen thuộc.
Gặp bà một lần trong cõi cảm dục, tôi thấy bà bận rộn chuẩn bị những tấm rèm mới cho căn nhà tranh xinh xắn mà bà thấy mình đang ở nơi đó. Chẳng mấy chốc, bà đã khiến nó tinh tươm và trang trí, bài trí đẹp đẽ chẳng kém nhà riêng của bà trên Trái Đất. Bây giờ bà đang bận tay treo những tấm rèm màu xanh táo và hồng nhạt nhất — hai màu bà đặc biệt yêu thích, lại theo đúng sự phối hợp ấy.
Thấy tôi, bà chỉ buông lời rằng mình may mắn thế nào khi mua được món hời như vậy, còn tôi chẳng bận lòng khuấy động bà bằng cách hỏi xem bà có biết mình đã bước sang một đời sống khác chưa. Bà mãn nguyện, an vui và viên mãn. Chuyến đi kế tiếp của bà sẽ là vào cõi trời, và bà — không hay biết — chỉ đang gom góp quanh mình những mảnh vụn hình tướng cuối cùng và thân thương nhất trước đại biến cố ấy.
Thiên Đường và Địa Ngục
Swedenborg nhìn toàn bộ nội dung các thế giới bên trong như là sự ngoại hiện của thân thể một Đấng vĩ đại. Mỗi khi ông mô tả cuộc gặp của mình với các thực thể cảm dục trong nội giới, ông định vị họ theo những bộ phận hay tế bào mà họ cấu thành trong một Leviathan vĩ đại. Đây là cách ông biểu thị quan niệm của Thánh Phao-lô rằng chúng ta sống trong thân thể của một Đấng Vĩ Đại, và Đấng ấy là Đấng Thiêng Liêng.
Thiên đường và địa ngục phần lớn là do chính chúng ta kiến tạo. Thể cảm dục của chúng ta liên tục tạo ra, trong các trạng thái cảm xúc khác nhau, nội dung của thế giới cảm dục. Những trật tự thấp nhất của cảm xúc tiêu cực hợp thành các cõi địa ngục; nhưng cũng vậy, các cõi cao hơn của cảm dục chịu ấn tượng sâu đậm bởi lời cầu nguyện của nhân loại. Chức năng chân chính của cầu nguyện, thực vậy, là tái cấu trúc các thế giới nội tâm của cõi cảm dục, nơi chính chúng ta rốt cuộc sẽ cư trú trong các thể cảm dục của mình.
Những Dạng Chết
Cái chết đến với con người dưới nhiều hình thức, và khoảng thời gian y lưu trú trong thế giới cảm dục phần lớn được quyết định bởi bản chất cái chết của y.
Tôi đã thấy một chàng trai trẻ chết trong một tai nạn xe hơi, bước vào thế giới cảm dục đột ngột, và vì một lẽ nào đó, bỏ qua giai đoạn sốc thường thấy. Anh ta rất ngạc nhiên vì mình đã sống sót qua tai nạn nếu so với những mảnh vụn của chiếc xe nằm vung vãi quanh anh. Anh cho rằng đó là một cuộc thoát hiểm kỳ lạ và diệu kỳ khỏi thương tổn và không hoàn toàn bị thuyết phục khi tôi chỉ ra rằng biến cố rủi ro ấy đã tước mất thân xác của anh. Cảm thức sống còn thường là cảm xúc thuyết phục nhất, còn mất mát một lối sống cũ thì không gây xáo trộn đến thế.
Những người như thế, bị cắt ngắn đời sống bởi tai nạn hoặc tự sát, đôi khi phải lưu lại trong thế giới cảm dục một thời kỳ dài bằng với đời sống của họ lẽ ra đã có trên Trái Đất theo định luật nghiệp quả.
Tôi cũng đã nhìn thấy, từ thế giới cảm dục và bằng con mắt cảm dục, cuộc vật lộn của một bệnh nhân trong tiến trình thải bỏ tim ghép, và chẳng bao giờ mong phải chứng kiến lại cảnh tượng khủng khiếp như vậy. Cái chết chậm rãi của ông, bắt đầu từ các nội giới lan ra ngoài thay vì theo hướng ngược lại, như thường lệ, là một quang cảnh khủng khiếp. Nó khiến tôi nhớ rất nhiều đến mô tả của Wilfred Owen về một người lính đang chết đuối trong biển màu xanh lục khí clo suốt Thế chiến I : –
. . . Lờ mờ qua khung kính mù sương và ánh xanh rậm,
Như dưới một biển xanh, tôi thấy anh chìm đắm.
Trong mọi giấc mơ tôi, trước mắt bất lực,
Anh lao về phía tôi, khò khè, nghẹt thở, chìm đắm.
Nếu trong những giấc mơ ngột thở nào đó, bạn cũng có thể lê bước
Sau cỗ xe mà chúng tôi đã quăng anh vào,
Và nhìn đôi mắt trắng héo lại trên gương mặt,
Gương mặt buông rủ, như quỷ dữ đã chán tội mình,
Nếu bạn có thể nghe, theo từng cú xóc, máu
Trào sủi từ những lá phổi mục nát bọt
Như nhai lại
Những vết loét ghê tởm vô phương chữa trên lưỡi non nớt —
Bạn ơi, hẳn bạn đã không nói với hào hứng kiêu hãnh thế
Với những đứa trẻ hăng say vì vinh quang tuyệt vọng nào đó,
Lời Dối Xưa: Dulce et decorum est
Pro patria mori.
Hoàn cảnh ở đây là thể cảm dục đã từ chối thể xác, nhưng bị buộc phải giữ nó lại dưới tác động của hóa trị.
Vật Nuôi của Chúng Ta Sau Khi Chết thì Sao?
Rất nhiều người hỏi về số phận những con vật yêu quý của họ. Trước đây thật khó để phải nói với họ rằng cánh cửa vào Giới Nhân loại vẫn còn đóng và việc bước vào cho những linh hồn vừa rời Giới Động vật thì chưa đến lúc. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với nhãn quan chín chắn hơn, đôi khi tôi đã quan sát thấy “sự tồn sinh” của các hình thể thú vật theo những cách mà tôi chưa thấy được dạy ở đâu.
Chính chúng ta, trong tiến trình thuần hóa, đã nuôi dưỡng vật cưng bằng chất liệu cảm xúc trực tiếp từ hào quang cảm dục của mình. Từ đó, chúng có thể nhanh chóng tạo tác một thể cảm dục — một tiến trình gần như hoàn toàn bị từ chối đối với chúng khi sống hoang dã. Khi một con vật thân yêu chết đi, tâm thức của nó tồn tại nhiều tháng (hơn là nhiều năm) trong thể cảm dục vừa tạo thành như thế.
Tôi cũng tận mắt chứng kiến những hình thể cảm dục như vậy nán lại trong khuôn viên môi trường gia đình mà chúng vừa rời bỏ trong cái chết. Khi có cơ hội để những hình thể cảm dục ấy với tâm thức của chúng hòa nhập vào thân xác của những thú cưng khác cùng loài, thì điều này có thể xảy ra.
Ngoài ra, một lượng lớn chất liệu cảm dục trong thể của chúng sẽ trở lại hòa vào hào quang của người chủ đã chăm nom chúng trong đời thực, nhất là vào những lúc người ấy nghĩ về hay ấp ủ nỗi niềm về thú cưng đã khuất.
Trẻ Em Trong Thế Giới Cảm Dục
Ngày trước, khi hầu như gia đình nào cũng từng trải qua mất mát một đứa con, người ta đã trăn trở rất nhiều về số phận của bé trai hay bé gái đã chết. Có vẻ khó tin rằng, ngay cả nếu cho rằng còn sống sau khi chết, những sinh linh mảnh dẻ như thế có thể tự tìm đường qua các thế giới nội tâm để tiến về trạng thái thiên giới.
Cách một đứa trẻ tồn sinh qua nấm mồ phụ thuộc rất lớn vào mức độ tích hợp của thể cảm dục của nó vào lúc chết. Có những đứa trẻ còn quá non đến nỗi thể cảm dục của chúng không hơn một lớp vỏ, và trong hoàn cảnh đó, bản tính cảm dục của chúng có thể nhanh chóng được hấp thu vào thể cảm dục của mẹ, thậm chí của cha.
Khi thể cảm dục của một đứa trẻ có hình dáng xác đáng hơn và phần nào đã tích hợp, việc tồn sinh như một hữu thể độc lập là khả hữu. Thường phải cẩn trọng dẫn dắt chúng qua một tiến trình trưởng thành về mặt cảm xúc, đi kèm với sự tích hợp thể cảm dục. Bằng cách này, chúng có thể lớn lên thành những cấu trúc người trưởng thành, thường với sự tinh luyện khác thường. Những trẻ em như vậy được những người giám hộ trông nom, họ được tuyển chọn kỹ lưỡng cho mục đích này.
Tôi không ngạc nhiên khi thấy rằng cựu Tổng thống Lyndon B. Johnson trong một thời gian đã đảm nhận vai trò người giám hộ trẻ em trong thế giới cảm dục. Ông đã chịu ảnh hưởng sâu đậm không chỉ bởi các cháu của chính mình, mà còn bởi những thảm họa tất yếu giáng xuống những đứa trẻ Việt Nam, và ông tìm sự an ủi trong nhiệm vụ giám hộ trẻ em ở hậu kiếp.
Vì thế, sẽ không ngạc nhiên khi khám phá rằng có nhiều nhà trẻ trong thế giới cảm dục, nơi trẻ em được ban cho mọi thứ đồ chơi có thể tưởng tượng, thường là những món chúng từng ưa thích trong đời sống, như tàu hỏa mô hình Hornby, lính thiếc, v.v. Ở đó, trong thế giới cảm dục, những người nam và nữ sẽ tìm cớ để dành thời gian chơi với những đứa trẻ này và, dĩ nhiên, với đồ chơi của chúng, như họ vẫn ưa làm trên cõi hồng trần.
Số phận của một người lính trẻ tử trận cho tôi thấy một tiến trình cảm dục khác dường như đã bị bỏ qua khá nhiều trong văn học Thông Thiên Học. Tôi nhận thấy rằng những người cha trẻ như vậy, một cách rất tự nhiên, bị thu hút về gia đình mình sau khi chết, và các gắn bó của họ mạnh đến mức thường thì thể cảm dục của người lính sẽ bắt đầu hòa nhập vào thể cảm dục đang trưởng thành của các con yêu dấu.
Tiến trình này không hề giới hạn các con, mà trái lại. Nó hoạt động như một số phức hợp bù đắp và củng cố được biết đến trong tâm lý học (thí dụ, Phức hợp Tập sự), nên trong khi những đứa trẻ có thể thiếu vắng người cha, chúng được bù đắp điều này trong các thế giới nội tâm bằng việc có được sự chú tâm trọn vẹn của người cha trên bình diện cảm dục trong vài năm, đồng thời còn hấp thu các tinh chất tình cảm của ông.
Rốt cuộc, khi đến lúc linh hồn của người lính đã chết phải rút khỏi thế giới cảm dục, thì cái vỏ cảm dục còn lại ít ỏi đến mức sự chuyển tiếp được thực hiện một cách dễ dàng cho người lính từ trạng thái cảm dục sang trạng thái trí tuệ, và từ trạng thái trí tuệ vào cõi trời.
Một phụng sự khác có thể thực hiện trong thế giới cảm dục bởi những ai có tâm thức trên cõi này là giúp đỡ người già qua đời. Thái độ hiện nay đối với cái chết thật đáng buồn, đặc biệt trong giới y khoa, nơi thân xác của người già và người bệnh trầm trọng thường xuyên bị đối xử hạ nhục. Bị trói buộc trong những tư thế kém phẩm giá, nhiều khi ống dẫn luồn tận cổ họng, người cao tuổi thường bị giữ lại thế gian lâu hơn rất nhiều so với thời kỳ mà linh hồn đã định cho kiếp sống ấy.
Trong thế giới cảm dục, sự bất lực và cảnh ngộ của người già bị kẹt trong những thân xác không thể vứt bỏ đòi hỏi lòng trắc ẩn của những ai nhìn họ bằng con mắt cảm dục. Thông thường, họ chỉ cần một tác động của ý chí kiên quyết để hoàn tất sự tách rời thể cảm dục khỏi đối phần thể xác vốn nay đã bất hiệu lực. Với sự khích lệ, tác động ý chí này có thể được khơi dậy và họ có thể được giải thoát khỏi những vận cụ hồng trần đã hư hoại của mình.
* * * * * *
Thống chế Không quân, Ngài Lord Dowding, vị chiến thắng của Trận Không chiến nước Anh, đã vô cùng quan tâm trong các năm 1940-41 trước những báo cáo từ các đồng tử và những người khác có nhãn quang cảm dục về cảnh ngộ của những phi công trẻ của ông, ngày ngày chết đi trong trận chiến giành ưu thế trên không với Luftwaffe. Vấn đề là những chàng trai này, vẫn còn tràn đầy những dục vọng trần thế tự nhiên, bị bứt khỏi thân xác với số lượng lớn. Người ta thấy họ lang thang thành từng nhóm trong thế giới cảm dục, hoang mang và rất cần sự an ủi và chỉ dẫn.
Từ hoàn cảnh của những ngày ấy đã nảy sinh khái niệm về các “đội cứu hộ”, ý tưởng là con người có thể được rèn luyện để duy trì tâm thức trong thế giới cảm dục và như vậy tiếp cận những hữu thể ngơ ngác nơi đây, những kẻ vừa bị tước mất thân xác.
Bản thân tôi đã được đặt vào những hoàn cảnh mà ở đó tôi phải đóng vai trong thế giới cảm dục để an ủi và dẫn dắt các nạn nhân của những vụ rơi máy bay, đôi khi lên đến hàng chục người. Có lần, tôi nhớ rất rõ một nhóm khoảng năm mươi nạn nhân như vậy khi chiếc máy bay lao vào sườn đồi. Họ tụ lại quanh đống tàn tích đang cháy, co cụm lại và rất đỗi kinh ngạc vì mình đã sống sót. Có nhiều hoang mang và tiếng khóc than. Tôi bỗng cảm thấy bị sức mạnh ẩn tàng của Chân sư tôi thôi thúc đến khu vực này.
Tôi đã cố gắng an ủi những nạn nhân, nhưng họ còn bối rối hơn khi tôi báo cho họ rằng họ giờ đã chết và rằng hiển nhiên họ vẫn còn tồn tại và giờ đây nên đảm nhận vị trí của mình trong thế giới cảm dục. Tôi chưa thật sự biết phải làm gì thêm cho họ thì một luồng ánh sáng rực rỡ vĩ đại đi xuyên qua tôi và tôi thấy mình đang làm dấu Thánh Giá và đồng thời đọc lại Kinh Lạy Cha.
Những tấm màn Lửa vĩ đại đi qua tôi và chiếu sáng cả khu vực. Chính các nạn nhân đồng thanh cất lời và một cảm thức nhẹ nhõm lớn lao lan khắp họ khi họ hấp thu những tinh chất từ những tia sáng rạng ngời đang truyền qua tôi vào họ. Rồi ánh sáng chuyển lên đỉnh một sườn đồi, và họ thu xếp đồ đạc, tiến lên hướng về tiêu điểm bình an và tĩnh tại ấy, và tôi không còn thấy họ nữa.
* * * * * *
Sau Đệ nhị Thế chiến, một thời kỳ mà bản chất của những trải nghiệm sang chấn đã khơi dậy nơi tôi sự tỉnh thức cảm dục, tôi quan sát thấy sự hỗn loạn tột độ trong thế giới cảm dục. Vấn đề là những lính Anh (Tommies), lính Mỹ (GI), cũng như người Đức và Ý, vốn một thời là lính tráng trên chiến trường trần gian và giờ đã chết, không hay biết tình trạng của mình đã thay đổi. Người Anh và Mỹ vẫn giao chiến với người Đức và Ý, và ngược lại. Khắp nơi là cảnh náo loạn.
Công việc của tôi, kéo dài đến tận giữa thập niên 1950, là làm dịu tình hình bằng cách giải tán những cuộc tụ tập của bọn Quốc Xã trong thế giới cảm dục, những kẻ đến lúc đó chẳng còn gì hơn ngoài những vỏ bọc và những cỗ máy tự động. Tất cả bọn họ vẫn đang đánh lại những trận chiến của ngày xưa. Trong khi dễ dàng để nói chuyện với các linh hồn người Anh và Mỹ không còn xác thân, thì không dễ để tiếp cận phía đối nghịch của họ; nhưng theo năm tháng, tình hình đã lắng xuống. Nó từng bị trầm trọng thêm bởi sự xâm nhập vào điều kiện cảm dục của hàng triệu nạn nhân trại tập trung bị thiêu trong những lò đốt khác nhau.
* * * * *
Tôi đã mô tả ở nơi khác, trong cuốn sách về chứng nghiện rượu của mình, số phận của những kẻ nghiện rượu tự kết liễu đời mình chỉ để rồi phát hiện rằng họ vẫn còn bị trói buộc vào cõi trần bởi sức hút hướng đến rượu và hơi rượu. Trong tác phẩm đó,* tôi cho thấy một trong những nguyên nhân chính của cả chứng nghiện rượu lẫn những khó khăn mà những người cố hồi phục phải trải qua — “cai rượu” hoặc dần trở lại bình thường qua thời kỳ dưỡng bệnh — là sự hút sinh lực liên tục vào cá nhân bởi những thực thể cảm dục vốn trước đây cũng là kẻ nghiện rượu.
*Chứng nghiện rượu – Ý nghĩa tiềm ẩn do của Bác sĩ Douglas M. Baker.
Trong cơn hôn mê do rượu, sự hút sinh lực cảm dục có thể xảy ra, vì trong trạng thái này, lá gan — đang bận rộn chuyển hóa rượu — không thể tách rời hoàn toàn khỏi thể cảm dục, và điểm liên kết này cung cấp một vùng hấp dẫn để các thực thể cảm dục “nhấp” vào những hơi rượu mang tính cảm dục-hồng trần trong khu vực này.
Người ta ước tính rằng vào một lúc nào đó, hơn một nửa nhân loại trải nghiệm những hiện tượng hiện hình nào đó. Những hiện hình này thường là tàn tích cảm dục của những hữu thể đã chết từ lâu.
Thường thì những người ấy đã dính líu vào một biến cố sang chấn nào đó trên Trái Đất đến mức nó quá “bừa bộn” khiến họ bị gọi trở lại trong cố gắng giải quyết những điều kiện đã tạo ra. Trong nhiều trường hợp, tâm thức của cá nhân đã rời thế giới cảm dục và tiến vào các trạng thái trí tuệ và thiên giới, nhưng vỏ cảm dục vẫn còn lưu lại phía sau, vẫn đang diễn lại khát vọng giải quyết điều “bừa bộn” ấy.
Trong một ngôi nhà cũ nơi ectoplasm đã từng tỏa ra từ cư dân của nó, các bức tường trở nên bão hòa, và những nơi như thế tạo điều kiện để các phần rời khỏi xác có thể hiện hình. Thông thường nhất, đó là gương mặt của người đã chết, đôi bàn tay hoặc thậm chí thanh quản, điều sau cùng cho phép diễn ra giao tiếp bằng tiếng nói.
Những hiện hình hay bóng ma này thường mang đặc trưng của những khuôn mẫu hành vi đã định hình lâu dài. Trước hết, chúng có xu hướng hiện hình ở những nơi tổ tiên, nhất là những phần cổ xưa nhất của căn nhà. Thường chúng thiếu một tâm thức riêng, cư xử rất giống bóng ma của Hamlet. Chúng là những cỗ máy tự động, lặp lại những hành vi cũ và ổn định, đôi khi cả những lời nói cũng tự động và lặp đi lặp lại.
Những cư dân kế tiếp của ngôi nhà như thế góp phần làm dày dặn nghi thức bề ngoài của những lần xuất hiện. Sự tròn khuyết của Mặt Trăng có thể tăng cường tính khả thi của hiện hình và, như thế, trao cho sự kiện một ý nghĩa nghi lễ gắn với các nhân tố thời gian.
Thường thì một ngôi nhà cổ đã bị thay đổi quá nhiều qua năm tháng đến nỗi khi thấy các hiện hình di chuyển, chúng dường như ở sai cao độ. Điều này thường là vì chúng đang dẫm theo một lối đi trên một tầng sàn đã bị phá bỏ từ lâu.
Hoàn toàn đúng rằng nỗi bi thương có thể tạo ra một môi trường thích hợp để những hiện tượng như vậy được khuếch đại. Dường như một khí hậu thuận lợi cho hiện hình được kiến tạo nhờ dòng tuôn cảm xúc của những người than khóc và những người chịu tang.
-
Hoàng tử Augustus William (August Wilhelm) của Phổ ↑