HÀO QUANG CON NGƯỜI – CHƯƠNG BẢY

Download toàn bộ quyển sách dạng song ngữ ở đây

7. Sự lan toả của hào quang

Sự lan toả của hào quang có thể đạt được thông qua những bài tập đơn giản, một số dựa trên khoa học yoga; nhưng không thể có sự toả rộng rãi nếu không có những thay đổi căn bản trong cách tư duy, và đặc biệt là qua sự điều chỉnh các thái độ. Trong chiêm tinh học, thái độ thuộc sự cai quản của Nhà Thứ Nhất trong lá số, và trùng hợp thay, đây chính là nhà vốn là Nhà của Linh hồn. Tuy nhiên, những người thực hành yoga thường có thể bị lầm lạc nặng nề khi tin rằng họ đang ảnh hưởng đến sự phát triển hào quang của mình chỉ bằng những bài tập thể dục. Một số tin rằng đạt được sức khoẻ cường tráng đồng nghĩa với sự an lạc tinh thần. Tất cả chúng ta, đều đã từng biết đến vinh quang của sự toàn hảo thể chất qua những kiếp sống trong các thể xác được ban cho bởi những nền văn minh Lemuria vĩ đại. Tuy nhiên, trong khi làm chủ thể xác là mục tiêu của sự khai mở tinh thần vào thời ấy, thì ngày nay điều đó không còn đúng nữa.

Tác giả từng có một buổi thuyết giảng trước một nhóm yoga nổi tiếng ở Johannesburg, nơi lời nói của ông đã được đón nhận đầy nhiệt thành. Tuy nhiên, sáng hôm sau, lãnh đạo của nhóm bị ngập trong các cuộc gọi từ học viên, hỏi xem họ có thể bắt đầu thực hành Raja Yoga như thế nào. Lời nói của tôi đã khích lệ họ tìm kiếm thêm. Vị lãnh đạo ấy đã khoe khoang rằng bà có thể mang lại sức khoẻ cường tráng cho toàn thể môn sinh của mình và rằng họ sẽ “ngủ như ngựa” sau khi thực hành các phương pháp của bà. Nhưng mục tiêu đích thực cho giống dân gốc của chúng ta thì rất khác. Sức khoẻ cường tráng là điều đáng quý, nhưng không phải với cái giá phải trả là sự nhạy cảm. Trong thời đại ngày nay, một khí cụ thể chất nhạy cảm, tiếp nhận những mệnh lệnh từ chân ngã bất tử của nó, tức Linh hồn, là điều được đòi hỏi. Ngủ như ngựa thì khó mà thuận lợi cho sự tiếp nhận. Ngay cả khi có một thể xác nhạy cảm, nhiều người vẫn gặp khó khăn lớn trong việc ghi nhớ nội dung giấc mơ, nội dung các cuộc tham thiền, v.v… Những cá nhân được ban phúc lành với sự tiếp nhận cao đối với Linh hồn hiếm khi sở hữu những thể chất cường tráng, như lịch sử cho thấy. Hào quang của họ rộng lớn và thuộc phẩm chất cao nhất. Ngay cả với tư cách phàm ngã, chúng ta phải chấp nhận rằng những định luật khác bắt đầu chi phối con người, một khi y bước đi trên con đường trở về, và tiêu chuẩn cho sự hiện hữu của y cũng thay đổi. Chúng ta, chẳng hạn, phải sẵn sàng hy sinh sức khoẻ cường tráng, hay đánh đổi nó để có được “sức khoẻ nhạy cảm.”

Gương Thánh

Trong hình mẫu của vị thánh và, thật vậy, trong chính vị thánh lý tưởng, chúng ta có một bài học sống động về sự phổ truyền của hào quang. Sidney Ransom, nhà Thông Thiên Học nổi tiếng, đã viết một bài báo tiết lộ trong The Theosophist tháng 9 năm 1958 có liên quan đến điều này. Ông viết rằng danh sách các đức hạnh cần thiết để được bước vào Nước Trời chính là chuỗi những câu ngắn gọn đầy thách thức gọi là “Các Mối Phúc”. “Phước cho ai nghèo khó” gần như đã tiên báo giáo huấn của Thánh Francis. Các thánh nhân sau này đã chứng minh chân lý của mối phúc khác: “Phước cho các ngươi, khi người ta lăng mạ các ngươi, bắt bớ các ngươi, và vì Ta mà vu khống đủ điều gian ác chống lại các ngươi…” Và niềm hy vọng của một số vị thánh hiện đại được tìm thấy trong lời tiên tri ngắn gọn ấy: “Phước cho ai kiến tạo hoà bình.”

Không còn nghi ngờ gì nữa, một trong những đức hạnh cần có của một vị thánh là Ngài phải học cách sống cùng nhau với các huynh đệ thánh nhân, học cách hợp tác trên mọi bình diện, cùng nhau làm việc và vui chơi, tất cả đều “vì vinh quang của Thượng đế.” Khoa học về đời sống cộng đồng, ngay cả khi không có sự thánh thiện, cũng rất giá trị, nhưng sẽ không bao giờ tồn tại một Utopia bền vững nếu thiếu cả hai yếu tố này.

Trong trường hợp của Thánh Augustine, những nỗ lực của Ngài, giống như những vị thánh khác, được hướng đến việc chinh phục những dục vọng xác thịt, nhưng khi chiến thắng này đã đạt được ở mức độ lớn, Ngài nhanh chóng nhận ra rằng những kẻ thù tiếp theo cần phải chiến đấu là sự kiêu hãnh và ngạo mạn, và dù từ kinh nghiệm cá nhân hay từ việc đọc tiểu sử, chúng ta đều biết bao nhiêu cách tinh vi và bất ngờ mà sự kiêu hãnh có thể ngóc đầu dậy!

Điều đối nghịch với kiêu hãnh là khiêm nhường, nhưng chúng ta cần cẩn trọng xem loại khiêm nhường nào mới là điều nhắm đến. Bản chất của sự khiêm nhường đích thực là hoàn toàn tự nhiên, không hề có chút giả vờ nào — đó là sự khiêm nhường mà một nhà thiên văn trẻ có thể có khi quan sát bầu trời hùng vĩ bằng kính viễn vọng của một cậu bé. Cái gọi là “giả khiêm tốn” chỉ là một sự sa sút đáng buồn về mặt xã hội và, dĩ nhiên, chỉ là một hình thức khác của tội lỗi xưa cũ — kiêu hãnh. Khiêm nhường thường được học qua con đường khó khăn là trải nghiệm cảm giác bị hạ nhục, cũng như cách khó khăn và nhanh nhất để học ý nghĩa của công bằng có thể là trải nghiệm một sự đối xử bất công nào đó. Vậy nên, những gì các vị thánh khao khát hướng tới đôi khi có thể được chỉ ra ngay trong những kinh nghiệm mà các Ngài đã chịu đựng — và đôi khi vui mừng trong đó.

Một hình thái sớm của khiêm nhường, dĩ nhiên, chỉ là sự phù phiếm đơn giản! — ví dụ, sự tự mãn về vẻ bề ngoài của mình. Nếu kiêu hãnh là tội lỗi “khiến các thiên thần sa ngã,” như Hồng y Wolsey từng nhận ra, thì chúng ta cũng không cần quá xấu hổ khi thừa nhận một trong vô số cách mà nó biểu lộ.

Tiểu sử của nhiều hồng y cho thấy những cám dỗ to lớn khiến họ ngạo mạn yêu thích quyền lực, ảnh hưởng và địa vị xã hội, và chính sự kiêu hãnh đã đưa đến sự sa ngã; kiêu hãnh về thành tựu của bản thân, và đôi khi là kiêu hãnh về quốc gia hay giáo hội của mình.

Điều mà một vị thánh nói trong một bài giảng hay một lời cầu nguyện trước công chúng không phải lúc nào cũng phù hợp với bản chất và hành vi của Ngài trong đời sống riêng tư; nhưng khi cái bên ngoài và cái bên trong hài hòa, thì lời nói của một vị thánh như vậy mới có thể được chấp nhận là giáo huấn chân chính. Một vị thánh như thế chính là Thánh Francis:

Lạy Chúa, xin hãy biến con thành khí cụ của Bình An Ngài —

Nơi nào có hận thù, xin cho con gieo Tình thương;

Nơi nào có tổn thương, xin cho con gieo Tha thứ;

Nơi nào có hoài nghi, xin cho con gieo Đức tin;

Nơi nào có tuyệt vọng, xin cho con gieo Hy vọng;

Nơi nào có bóng tối, xin cho con gieo Ánh sáng;

Nơi nào có buồn sầu, xin cho con gieo Niềm vui.

Kỷ luật để Xử lý Hào quang

Người sơ cơ thường lo lắng quá mức về những kỷ luật cần thiết để xử lý hào quang. Thực ra chúng rất đơn giản và thường được thực hiện trong tiến trình sống hằng ngày. Nhưng một chỉ dẫn là cần thiết. Có lẽ, căn bản là sự quan trọng của thái độ. Một phần rất lớn trong đời sống hằng ngày của chúng ta bị chi phối bởi những thái độ mà chúng ta chọn, quan điểm, chính sách và ý định của mình. Thái độ quan trọng nhất trong tất cả chính là “vô tổn hại”. Bằng cách tỉ mỉ để không làm tổn thương ai bằng ý nghĩ, lời nói và hành động của mình, chúng ta lập tức giảm bớt gánh nặng nghiệp quả và đưa vào hào quang một yếu tố mở rộng. Những ranh giới ngoài cùng của hào quang được kéo dài ra để vòng-giới-hạn của nó trở nên rộng lớn hơn, và sự hiện diện của chúng ta được “cảm nhận” ở những khoảng cách ngày càng xa hơn và bởi ngày càng nhiều sinh linh hơn. Người ta nói rằng hào quang của Đức Phật có thể được cảm nhận trong một bán kính ba dặm.

Làm việc quá sức có thể ức chế, thậm chí làm tổn hại hào quang. Đúng là chúng ta có thể thay đổi công việc để giảm bớt gánh nặng trên một điểm nào đó trong hào quang, nhưng điều này không hiệu quả bằng việc nghỉ ngắn hoặc làm mới bản thân bằng những công việc vui vẻ (tập thể dục chỉ vì bản thân nó thì không được khuyến khích). Sir Francis Bacon, một kiếp trước của Bá tước St Germain, và là một Chân sư Minh triết, đã khuyên “những khoảng nghỉ sáng suốt và những giây phút hạnh phúc” để duy trì một hào quang năng động. Robert Browning, thi sĩ, và nguyên là một Chân sư người Anh, cũng đã khuyên các đệ tử của mình nên có những công việc nhẹ nhàng, vui vẻ, như làm vườn, để làm mới hào quang. Ông cũng nghĩ rằng việc đi dạo qua chợ mỗi ngày là một hành động làm tươi mới, giúp giảm căng thẳng hào quang. Đọc và viết thường xuyên, và dĩ nhiên cả việc học tập, tạo ra những tác động hào quang lên những phần liên quan đến khuôn mặt, vốn là đồng hồ mặt trời của con người. Hơi thở của trí tuệ nhanh chóng xoá bỏ sự trống rỗng của một cuộc đời non nớt và đưa vào đồng hồ mặt trời của Con Người tính cách đích thực.

Có được và duy trì sự tích hợp trí tuệ

Những bà lão lắm lời và những người hưu trí nhiều chuyện trên các băng ghế trong công viên có thể trông như vô hại, nhưng những câu chuyện đó có thể làm cứng lại những khu vực nhất định của hào quang vốn cung cấp prana cho vỏ não của bộ não và thúc đẩy, một cách không thương xót, sự khởi phát của chứng lú lẫn. Thói quen viết vài đoạn mỗi ngày trong nhật ký tinh thần hay tâm lý làm tăng năng lực chính xác. Thể trí, nhờ thói quen viết, tự sắp xếp chính xác hơn với khuôn mẫu của thể dĩ thái vốn thâm nhập vào cấu trúc thể chất và tiếp sinh lực cho chúng.

Sự lơ là việc viết không chỉ dẫn đến chính tả kém mà còn dẫn đến sự thiếu chính xác trong tư duy và sự phối hợp kém giữa thể trí với hai thể còn lại. Việc giữ một cuốn nhật ký tinh thần một cách cẩn thận mỗi ngày mang lại cho chúng ta sự tuôn đổ năng lượng từ cõi trí, và tuỳ thuộc vào phẩm chất tinh thần của những tư tưởng đứng sau các ghi chép, còn có cả năng lượng từ những cõi tinh thần cao hơn nữa.

Một số nhận xét của Francis Bacon về nghệ thuật đọc sách có liên quan ở đây. Ông nói rằng có những cuốn sách chỉ để nếm, có những cuốn để nuốt, và có một số ít để nhai và tiêu hóa. Nghĩa là, có những cuốn chỉ nên đọc từng phần; có những cuốn nên đọc nhưng không quá tò mò; và có một số ít cần được đọc toàn bộ, với sự siêng năng và chú tâm. Một số sách cũng có thể được đọc gián tiếp, và trích đoạn của chúng được ghi lại bởi người khác. Vào những nhận xét này, tác giả muốn thêm rằng việc chép ra hai hay ba câu trích dẫn có giá trị cao trong nhật ký tinh thần từ một cuốn như The Voice Of The Silence có tác động to lớn đến hào quang phổ truyền.

Francis Bacon cũng đã viết rằng: “Đọc sách tạo nên một con người đầy đủ; đàm luận tạo nên một con người linh hoạt; và viết lách tạo nên một con người chính xác.” Ông nói: “Lịch sử làm cho con người khôn ngoan; thi ca làm con người dí dỏm; toán học làm con người tinh tế; triết học tự nhiên làm con người sâu sắc; luân lý làm con người nghiêm trang; logic và tu từ làm con người có khả năng tranh luận.”

Tác động của những kỷ luật như vậy lên phàm ngã của người đọc không có lời giải thích nào khác ngoài cơ chế của hào quang.

Bài tập tập trung để phát tán hào quang

Tập trung, như một bài tập, được thực hiện vào buổi sáng vào thời khắc sớm nhất có thể ngay sau khi người chí nguyện thức dậy. Y không được ngồi dậy để mở rèm cửa hay làm bất kỳ hành động không cần thiết nào khác. Nếu thân thể thoải mái, y nên lập tức thư giãn và bắt đầu tập trung. Điều này rất quan trọng, vì tinh thần vừa mới trở về từ thế giới dục vọng, hay cõi cảm dục, vào khoảnh khắc thức giấc, và vào lúc đó sự tiếp xúc có ý thức với thế giới ấy dễ dàng được khôi phục hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong ngày.

Chúng ta nhớ rằng trong lúc ngủ, các dòng chảy của thể dục vọng luân lưu, và các xoáy của nó chuyển động và quay với tốc độ khổng lồ. Nhưng ngay khi nó nhập vào thể đậm đặc, các dòng chảy và các xoáy hầu như bị dừng lại bởi chất liệu đậm đặc và các dòng thần kinh của thể sinh lực, vốn truyền tải thông tin đến và đi từ bộ não. Mục đích của bài tập này là khiến cho thể đậm đặc bất động ở cùng mức độ trì trệ và vô cảm như trong giấc ngủ, mặc dù tinh thần bên trong hoàn toàn tỉnh táo, linh hoạt và có ý thức. Như vậy chúng ta tạo ra một trạng thái trong đó các trung tâm giác quan của thể dục vọng có thể bắt đầu quay vòng trong khi vẫn ở bên trong thể đậm đặc.

“Tập trung” là một từ khiến nhiều người bối rối và chỉ có ít người thấu hiểu ý nghĩa của nó, vì vậy chúng ta sẽ nỗ lực làm rõ tầm quan trọng của nó. Từ điển đưa ra nhiều định nghĩa, tất cả đều có thể áp dụng cho ý tưởng của chúng ta. Một định nghĩa là “hội tụ vào một trung tâm”; một định nghĩa khác, trong hoá học, là “giảm đến mức tinh khiết và mạnh mẽ tối đa bằng cách loại bỏ các thành phần vô giá trị.” Áp dụng cho vấn đề của chúng ta, một trong những định nghĩa trên cho biết rằng nếu chúng ta tập trung tư tưởng vào một trung tâm, một điểm, thì chúng ta gia tăng sức mạnh của chúng theo nguyên lý rằng năng lực của các tia mặt trời được tăng cường khi hội tụ vào một điểm bằng kính lúp. Bằng cách loại bỏ khỏi tâm trí trong một thời gian mọi đối tượng khác, toàn bộ năng lực tư tưởng của chúng ta sẽ sẵn có để sử dụng nhằm đạt được mục tiêu hoặc giải quyết vấn đề mà ta đang tập trung. Chúng ta có thể trở nên quá đắm chìm vào đối tượng của mình đến mức nếu một khẩu pháo được bắn ngay trên đầu, chúng ta cũng không nghe thấy. Con người có thể trở nên quá lạc vào một cuốn sách đến nỗi không nhận biết gì ngoài nó, và người chí nguyện cho thị kiến tinh thần phải đạt được khả năng đắm chìm hoàn toàn vào ý tưởng mà y đang tập trung để có thể loại bỏ thế giới giác quan khỏi tâm thức và dồn toàn bộ sự chú ý vào thế giới tinh thần. Khi y học được điều đó, y sẽ thấy được khía cạnh tinh thần của một đối tượng hay ý tưởng được soi sáng bởi ánh sáng tinh thần, và như thế y sẽ đạt được tri thức về bản chất nội tại của sự vật mà người thế tục không bao giờ mơ tưởng đến. Khi điểm ly trần ấy đã đạt tới, các trung tâm giác quan của thể dục vọng bắt đầu quay chậm bên trong thể đậm đặc và như thế tạo cho chúng một chỗ đứng. Điều này theo thời gian sẽ trở nên ngày càng rõ ràng, và sẽ cần ít nỗ lực hơn để làm cho chúng vận hành.

Đối tượng của sự tập trung có thể là bất kỳ lý tưởng cao đẹp nào, nhưng nên thuộc loại có thể đưa người chí nguyện thoát khỏi những điều bình thường của giác quan, vượt ngoài thời gian và không gian; và một công thức tuyệt hảo chính là năm câu đầu tiên của Phúc âm Thánh Gioan. Đem chúng ra làm đề tài, từng câu một, buổi sáng này nối tiếp buổi sáng khác, sẽ dần dần mang lại cho người chí nguyện một sự thấu hiểu tuyệt vời về sự khởi nguyên của vũ trụ chúng ta và phương pháp sáng tạo — một sự thấu hiểu vượt xa bất kỳ kiến thức sách vở nào.

Sau một thời gian, khi người chí nguyện đã học được cách giữ vững không lay chuyển trong khoảng năm phút ý tưởng mà y đang tập trung, y có thể thử buông bỏ ý tưởng ấy đột ngột và để tâm trống rỗng, không nghĩ gì khác và đơn giản chờ xem liệu có điều gì nhập vào khoảng không đó không. Theo thời gian, những cảnh tượng và hình ảnh của thế giới dục vọng sẽ tràn ngập không gian trống rỗng ấy. Khi người chí nguyện đã quen thuộc với điều đó, y có thể đòi hỏi điều này, điều kia xuất hiện trước mặt. Nó sẽ đến, và rồi y có thể khảo sát nó.

Điểm chính yếu, tuy nhiên, là bằng cách tuân theo những chỉ dẫn trên, người chí nguyện đang tự thanh luyện mình. Hào quang của y bắt đầu toả sáng và chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của một vị Thầy, Ngài sẽ cử ai đó đến giúp khi cần cho bước tiến kế tiếp. Ngay cả khi nhiều tháng hay nhiều năm trôi qua mà không mang lại kết quả hiển nhiên, hãy tin chắc rằng không một nỗ lực nào là vô ích; Các Đại Huấn Sư thấy và trân trọng nỗ lực của chúng ta. Các Ngài cũng khát khao có sự trợ giúp của chúng ta như chúng ta khao khát được phụng sự. Các Ngài có thể thấy những lý do khiến cho việc chúng ta đảm nhận công việc cho nhân loại trong kiếp này hay vào lúc này là chưa thích hợp. Một ngày nào đó, những điều kiện ngăn trở sẽ qua đi, và chúng ta sẽ được bước vào ánh sáng, nơi chúng ta có thể tự mình nhìn thấy.

Im lặng và hào quang

Nhiều người hỏi: “Tôi có thể làm gì? Tôi không thể tham thiền.” Dù đúng là tham thiền, hơn bất kỳ kỷ luật nào khác, có thể là tác nhân chuyển hoá mạnh mẽ nhất của hào quang, vẫn còn những năng lực khác có thể được phát triển khi việc tham thiền không thể thực hiện. Năng lực biết lắng nghe và hoãn lại sự phán đoán về những gì ta nghe được là một phương tiện phổ truyền mạnh mẽ các năng lượng tinh thần trong hào quang. Nhiều người có thể ngạc nhiên khi biết rằng nam diễn viên chính trong vở kịch truyền hình nhiều tập Dallas có một ngày “im lặng” mỗi tuần, trong đó ông hoàn toàn ngưng mọi hoạt động phát ngôn.

Điều vô cùng đúng đắn là hào quang tăng trưởng sức mạnh trong điều kiện tĩnh lặng. Ngay cả các Chân sư vĩ đại cũng tìm kiếm những điều kiện trong đó, phần lớn thời gian của Các Ngài, Các Ngài có thể sống trong tĩnh lặng.

Cũng đúng là bản chất của hào quang là vàng (không chỉ là màu sắc) và Con Người luôn ngồi trong màn sương tinh tế của nó. Chúng ta cũng nói “Im lặng là vàng.” Thật vậy, sự im lặng, hào quang và các phẩm tính của vàng có mối tương quan mạnh mẽ. Một truyền thuyết cổ kể rằng việc đào kho báu phải được thực hiện trong tĩnh lặng của đêm và trong sự im lặng tuyệt đối; chỉ cần thốt ra một từ trước khi kho báu được khai quật an toàn thì nó tất yếu sẽ biến mất. Đó là một dụ ngôn thần bí ám chỉ việc tìm kiếm sự soi sáng tinh thần. Nếu chúng ta ngồi lê đôi mách hay kể lại cho người khác nghe những trải nghiệm trong giai đoạn tập trung, chúng ta sẽ đánh mất chúng; vì chúng không thể chịu đựng sự truyền đạt bằng lời nói và sẽ tan biến thành hư vô. Qua tham thiền, chúng ta phải trích xuất từ những trải nghiệm ấy một tri thức đầy đủ về các định luật vũ trụ nền tảng. Khi đó chính trải nghiệm sẽ không còn được kể lại, vì chúng ta sẽ thấy nó chỉ là vỏ bọc che giấu hạt nhân giá trị. Định luật là giá trị phổ quát, điều này sẽ hiển nhiên ngay tức thì, vì nó sẽ giải thích những sự kiện trong đời, và dạy chúng ta cách tận dụng những điều kiện nhất định và tránh những điều khác. Định luật có thể được phát biểu công khai tuỳ theo quyết định của người khám phá, vì lợi ích của nhân loại. Khi ấy, trải nghiệm vốn đã hé lộ định luật sẽ được nhìn nhận đúng trong ánh sáng thật sự của nó như chỉ là mối quan tâm thoáng qua và không đáng để lưu ý thêm. Do đó, người chí nguyện nên coi mọi điều xảy ra trong suốt quá trình tập trung là điều thiêng liêng và nên giữ kín cho riêng mình.

Nếu không thể làm gì khác ngoài việc học cách ngồi trong tĩnh lặng, bạn cũng sẽ tìm thấy đủ phần thưởng trong tiến trình ấy để trấn an rằng hào quang của bạn đã bắt đầu phổ truyền một cách to lớn. Những khoảng thời gian im lặng cho phép linh hồn nắm bắt các vận cụ của nó và nâng cao hào quang của chúng.

Cuối cùng, hãy cẩn trọng đừng coi các bài tập như một gánh nặng. Hãy đánh giá chúng đúng với giá trị thực: đó là những đặc quyền cao cả nhất của chúng ta. Chỉ khi được nhìn nhận như thế, chúng ta mới có thể thực hiện chúng một cách xứng đáng và gặt hái đầy đủ lợi ích từ chúng.

Leave Comment