HÀO QUANG CON NGƯỜI – CHƯƠNG NĂM

Chương 5, file Word song ngữ

Download toàn bộ quyển sách dạng song ngữ ở đây

5. Tái cấu trúc hào quang

Bản chất tâm linh của hào quang

Hào quang là một hiện tượng điện từ phát sinh từ sự tác động và tương tác lẫn nhau của một lực điện từ nằm sâu trong lõi của hành tinh mà chúng ta đang sống và chúng ta là một phần trong đó; và một lực điện từ khác, tích cực hơn lực đầu tiên, phát ra từ Trái tim của Mặt trời, mà mỗi con người cũng là một phần trong đó. Nếu chúng ta hướng về tư duy Cơ đốc giáo, chúng ta có thể đề cập một cách lỏng lẻo đến phần Con người được cung cấp năng lượng bởi cốt lõi của hành tinh chúng ta, với tên gọi “Đức Thánh Linh”. Tương tự, chúng ta có thể đề cập đến hiện tượng Con người hiện hữu chủ yếu bắt nguồn từ Tâm Mặt trời với tư cách là trạng thái “Con”. Khi hai lực này tương tác, chúng cho phép sự tiến hóa của một hình tướng.

Khi xem xét lại toàn bộ quá trình tiến hóa của sự sống trên hành tinh này, chúng ta thấy rằng nó bị chi phối bởi ưu thế của “Thánh Linh”, cho đến khi đạt đến giai đoạn Con người. Với sự xuất hiện của Con người và sự sắp đặt của một thiên thần mặt trời bên trong con người, vị trí đã thay đổi và thực thể vinh quang này, một biểu hiện của “Con”, hợp nhất với Đức Thánh Linh của con người, và sau đó Phương Diện thứ ba không còn được nhấn mạnh nữa, mà là khía cạnh thứ hai.

Khi Con Người được hợp nhất đủ đầy như một phàm ngã và các mãnh lực tuôn ra từ lõi hành tinh được phối hợp đầy đủ với Lửa Thái Dương của khía cạnh thứ hai nơi y, y trải qua phép rửa bằng lửa. Y được tái sinh khi Ngọn Lửa Thiêng này giáng xuống y và tuần tự biểu hiện một cách có trật tự xuyên qua y. Ngọn lửa này là khía cạnh “Đức Cha” của tam nguyên và có nguồn gốc từ Trung Tâm của Mặt trời. Cuộc hội ngộ của ba Ngọn Lửa này diễn ra trong ba ống dĩ thái Ida, Sushumna và Pingala, trùng hợp với cột sống.

Một số bộ ba bây giờ có thể được xem xét:

Cha

Con

Chúa Thánh Thần

Tinh thần

Hình tướng

Vật chất

Quyền Năng

Phẩm Tính

Hoạt động

Nhân

Trường lực

Electrons

Lửa Tinh thần

Lửa Thái Dương

Lửa do ma sát

Hào quang là kết quả của sự tác động qua lại giữa các yếu tố của những tam nguyên này. Nó là sự tuôn đổ, tràn ra và phát lưu của bất kỳ điểm hội tụ nào của các tam nguyên, dưới bất kỳ hình thức nào mà chúng có thể thể hiện—dù là nguyên tử, thực vật, động vật, Con Người hay thiên thần.

Các giới thấp mang tương đối nhiều mãnh lực hành tinh—được gọi là kundalini, tức khía cạnh Đức Thánh Linh—trong chúng. Nhưng nơi Con Người tiến bộ về mặt tâm linh, khía cạnh thứ hai, tức khía cạnh Con, được nhấn mạnh hơn hai khía cạnh còn lại. Ở những ai đã tiến hóa cao, tức những người được tuyển chọn của nhân loại—các vị Nirmanakaya, các điểm đạo đồ và các thánh nhân—Lửa Thiêng, tức khía cạnh Cha, được nhấn mạnh nhiều nhất. Khi ngọn lửa này giáng xuống, đó là kết quả của sự đánh thức ngọn lửa hành tinh Kundalini, một mãnh lực âm, vốn kêu gọi đáp ứng từ mãnh lực dương của Lửa Thiêng từ Trung Tâm của Mặt trời.

Kinh nghiệm này đưa điểm đạo đồ vào một “trạng thái ân sủng”. Y được hợp nhất với “Toàn Thể”, với tâm thức phổ quát, và chia sẻ quyền năng cũng như sự toàn tri của Đấng đó. Hào quang của y được lấp đầy và tuôn tràn ra môi trường xung quanh, và thậm chí có thể được cảm nhận bởi những người chưa được điểm đạo gần y. Khi ấy, chúng ta nghe thấy câu nói “chén ta đầy tràn”, được áp dụng một cách đúng đắn và chân thực.

Các giác quan nội tại của y bắt đầu vận hành. Thay cho thị giác thông thường, y trải nghiệm tầm nhìn nội tâm. Điều này có thể được gây nên bởi một sự soi sáng nội tâm mãnh liệt, khi ánh sáng của mười ngàn mặt trời chiếu rọi trên y. Sự soi sáng nội tâm này biểu lộ như một sự toàn tri trong đó mọi sự đều được biết đến. Những điều này có thể không thể diễn tả nổi, bất khả ngôn, đến mức người được soi sáng buộc phải giữ im lặng.

Thay cho xúc giác, có trải nghiệm về sự ngây ngất, điều này cũng có thể biểu lộ như một cảm giác về quyền năng vĩ đại hay toàn năng—một cảm giác rằng mình đang ở trung tâm của vũ trụ, tâm trục của một bánh xe vĩ đại đang vận hành những bánh răng khổng lồ của dải ngân hà. Thứ ba, có cảm giác về sự phi thời gian, trong đó quá khứ, hiện tại và tương lai trở thành một cuốn sách mở; một cảm giác rằng toàn bộ thời gian có thể được bao quát, thao tác, thúc đẩy hoặc trì hoãn.

Trạng thái siêu thức này cực kỳ hiếm hoi và thường đi kèm với một đợt tràn ngập vĩ đại của lửa thiêng, một ngọn lửa thiêu rụi tất cả, thanh luyện và vĩnh viễn thay đổi quan điểm và thái độ, và truyền tải những niềm tin bền vững vào sự chắc chắn của tính bất tử của chính mình. Trải nghiệm siêu thức là kết quả của tiến trình tiến hóa thông thường qua vô số kiếp lâm phàm và trong nhiều hệ thống hành tinh khác nhau, nhưng nó cũng có thể đến thông qua việc thực hành các kỷ luật huyền môn và kinh nghiệm các cuộc điểm đạo tương ứng.

Con đường tinh thần đòi hỏi phải tái cấu trúc hào quang để cho phép thế giới vô hình và thiên giới thấm nhập nhiều hơn vào nó. Điều này không có nghĩa là hoàn toàn loại trừ thế giới vật chất, mặc dù đối với một số người chí nguyện quá nhiệt thành, điều đó có vẻ hấp dẫn. Hoàn toàn không phải vậy, như tác giả đã nhiều lần nhắc nhở các học viên của mình:

“Không phải chúng ta phải sống trong thế giới này ít hơn,

nhưng ở CẢ HAI thế giới NHIỀU HƠN!”

Con người bao gồm các tinh chất của cả hai thế giới… Đất, Nước, Không khí và Lửa của tất cả các cõi, vật chất, cảm dục và tinh thần. Con người có nghĩa là thể hiện bản thân trên tất cả các cõi giới này, là điểm kích thích, nâng cao và tổng hợp tâm lý cho tất cả những gì xung quanh y. Chính nhờ hào quang mà ảnh hưởng như vậy có thể đạt được một cách có ý thức và vô thức.

“Con người, nói chung, là một ‘bản chất thứ năm’ được chiết xuất từ cả hai thế giới và được tạo thành một bản thể. Y đã nhận được minh triết, lý trí và thành phần hữu cơ của cơ thể mình từ Astrum, thịt và náu từ các nguyên tố. ‘Vì vậy, con người là một bản chất thứ năm và là tiểu vũ trụ và là con của cả thế giới.’ “*

* PARACELSUS, Giới thiệu về Y học Triết học trong Kỷ nguyên Phục hưng, của Walter Pagel, Karger xuất bản, Basel.

00009.jpg

FOCUS: The Key to Alchemy (Image above)

Hào quang và sự phát triển tinh thần

Qua nhiều thế kỷ, hết lần này đến lần khác các nhà lãnh đạo tinh thần vĩ đại của nhân loại đã xuất hiện, những người đã dạy rằng có một cách để đạt được sự mở rộng tâm thức như vậy để cho phép một người đi vào các thế giới vi tế, vốn xuyên thấu hành tinh của chúng ta hoặc nằm ngay bên ngoài ngoại vi của nó. Điều này liên quan đến việc phát huy tác dụng của các khu vực ‘im lặng’ của não bộ và mài giũa tâm thức dĩ thái. Theo quan điểm tinh thần, con người hầu như chưa được đánh thức—anh ta là một phôi thai tinh thần, hình thành một nửa và đang chờ phát triển thêm. Bản thân các nhà lãnh đạo tinh thần của nhân loại đã thực hiện một số kỷ luật nhất định để mở rộng tâm thức của chính các Ngài vượt xa bất kỳ điều gì mà Con người bình thường biết đến, ngoại trừ trong những trạng thái hiếm hoi như giấc mộng tỉnh và trạng thái gây mê. Nơi chính bản thân các Ngài, các Ngài đã chứng tỏ một người bình thường có thể trở thành như thế nào trong một triệu năm nữa, không còn cần đến những khả năng phụ trợ của truyền hình và đài phát thanh nữa, hoàn toàn có khả năng nhìn thấu tương lai và quá khứ, nhìn thấu không gian xa xôi và thế giới nguyên tử. Sự tiến bộ tinh thần của các Ngài không dễ đạt được. Bất kỳ sự ‘chập mạch’ nào trong việc khai mở tinh thần chắc chắn sẽ gây tổn thương ở một mức độ nào đó, như cuộc đời biểu tượng của Chân sư esus đã chứng minh. Một trong những kỷ luật phải được thực hiện là tái tạo lại hào quang của con người.

Có nhiều cách để nhiệm vụ vĩ đại này có thể được thực hiện với tâm thức nỗ lực đầy đủ. Người ta có thể áp dụng sự chú ý của mình vào việc mở các cấu trúc giống như hoa sen mà chúng ta đã gọi là ‘luân xa’. Người ta có thể, thông qua các bài tập thở đặc biệt, tiếp tục mở rộng lumen của các vùng cột sống lớn Ida, Sushumna và Pingala để cho phép prana đi qua cơ thể dĩ thái một cách tự do hơn. Người ta có thể áp dụng các tư thế giúp tăng cường các dòng năng lượng đến một số khu vực của hào quang và ngăn chặn hướng của chúng ở các khu vực khác.

Phàm ngã là ngôi nhà của linh hồn

Phàm ngã của con người, bao gồm ba thể — trí tuệ, cảm dục và hồng trần — thường được ví như một ngôi nhà. Đây là một biểu tượng mà linh hồn chấp nhận, vốn thường xuyên cho chúng ta biết tình trạng của phàm ngã trong những giấc mơ của mình. Chúng ta có thể có một giấc mộng tỉnh, trong đó những mạng nhện phủ kín các cửa sổ của ngôi nhà mà ta đang ở. Đây là một giấc mơ gợi ý được linh hồn truyền đạt để báo cho phàm ngã thấp rằng phàm ngã của nó (ngôi nhà) thiếu sự sáng suốt hoặc đang cần dọn dẹp (kỷ luật hóa).

Giờ đây, người ta sẽ không bao giờ nghĩ đến việc tái thiết một ngôi nhà cũ mà không dọn sạch trước những mảnh vụn không cần thiết, gạch đá cũ, v.v… Khi chúng ta tái cấu trúc hào quang, chúng ta phải loại bỏ nhiều chất liệu cũ và đưa vào cái mới. Hào quang cũ có lẽ được xây dựng quanh ba luân xa bên dưới cơ hoành:

a. Luân xa ở Gốc cột sống.

b. Luân xa bao phủ vùng xương cùng.

c. Luân xa tại đám rối thần kinh mặt trời.

Trong thể dĩ thái, ba luân xa này tạo thành một tam giác mạnh mẽ mà quanh đó phàm ngã trung bình, với những thúc đẩy thông thường của nó, vận hành. Hào quang phù hợp với nền tảng này và thu hút vào nó những năng lượng thuộc trật rung động khá thấp. Tuy nhiên, khi con người bắt đầu bước đi trên con đường khai mở, y bắt đầu khai mở các luân xa bên trên cơ hoành và ở đó hình thành một tam giác có phẩm tính cao hơn nhiều. Ba trong số các luân xa trên cơ hoành rất dễ tiếp nhận năng lượng của linh hồn (khác biệt với phàm ngã):

Luân xa Tim tiếp nhận năng lượng của Bồ đề.

Luân xa Cổ họng tiếp nhận năng lượng của Manas.

Luân xa Đầu tiếp nhận năng lượng của Atma.

Khi con người bước đi trên con đường đệ tử, các tiến trình được thực hiện khiến hào quang trở nên tiếp nhận với ba năng lượng này, vốn tuôn đổ vào hào quang từ các cõi nơi linh hồn cư ngụ, tức các cõi Atma, Bồ đề và Manas (xem tác phẩm của tôi The Jewel In The Lotus). Ở đó, người ta nói rằng linh hồn tồn tại như một nụ hoa sen trong tiến trình khai mở. Lúc ban đầu, linh hồn non trẻ với ít kiếp sống trên trần gian có một cấu trúc hoa sen hầu như khép kín. Hoa sen có chín cánh và những cánh này được sắp xếp thành ba tầng, mỗi tầng gồm ba cánh (xem hình minh họa bên cạnh).

a. Một tầng bên ngoài của Cánh hoa tri thức,

b. Một lớp giữa của Cánh hoa tình yêu và

c. Một tầng bên trong của Cánh hoa hy sinh.

Với mỗi kiếp sống trên trái đất, những cánh hoa được khuấy động nhẹ nhàng mở ra bởi những trải nghiệm thích hợp. Chẳng hạn, một kiếp sống dành cho việc thu nhận kiến thức, học thuật, v.v., khuấy động các cánh hoa Tri thức và đồng thời có một sự trỗi dậy của năng lượng nằm xung quanh trung tâm Cổ họng của trường hào quang.

00010.jpg

Bằng cách thực hiện những điều chỉnh trong cuộc sống của bạn, mà bây giờ phải hướng tới linh hồn (chứ không phải hướng tới những động lực của phàm ngã), chúng ta ngày càng thể hiện ba năng lượng linh hồn trong cuộc sống hàng ngày của mình. Bằng cách hiểu được phẩm chất của những năng lượng linh hồn này, chúng ta có thể tái cấu trúc các hành động, suy nghĩ và nguyện vọng hàng ngày của mình một cách thích hợp để ba năng lượng đổ vào hào quang một cách nhất quán và, khi làm như vậy, việc tái cấu trúc nó sẽ diễn ra xung quanh linh hồn với tư cách là hạt nhân của nó.

Trí tuệ

Năng lượng của Manas không được biết đến trên hành tinh này mười chín triệu năm trước. Nhưng với sự xuất hiện của các Đấng Chúa tể của Lửa (các Hoả Đức Tinh Quân), từ một hệ sao Kim (chứ không phải hành tinh Sao Kim), những dòng chảy Manas đầu tiên vào hệ hành tinh này đã trở thành một đặc điểm của Trái đất.

Ở đây, Người-thú đã đạt đến một giai đoạn tiến hóa đã đi vào ngõ cụt. Trừ khi kích thích năng lượng Manas được áp dụng cho vỏ não của y, giống loài của y sẽ sớm tuyệt chủng, hoặc y sẽ sớm thụt lùi cùng với các loài người khác trên hành tinh. Với sự hiện diện của các Kumara với tư cách là Các Đấng Chúa tể của ngọn lửa, người-thú nhanh chóng tiến hóa thành một sinh vật có tương lai được đảm bảo. Một mặt, thực thể giờ đây được liên kết với một linh hồn cá nhân và mặt khác, liên tục được cung cấp năng lượng của Manas. Kể từ đó, phần con người của người-thú trở nên chiếm ưu thế và những con người ban đầu này có thể phân biệt được với những người vượn bởi khả năng mới đạt được của họ trong việc sử dụng năng lực trí tuệ. Nói một cách đơn giản, họ có thể suy nghĩ một cách trừu tượng. Động vật có thể suy nghĩ, nhưng chúng chỉ có thể suy nghĩ về nhu cầu của chúng, trong khi Con người có thể tập trung vào những vấn đề hoàn toàn không liên quan đến nhu cầu của y hoặc thậm chí là sự sống còn của y. Nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, triết gia và thánh nhân, là minh chứng cho khả năng này. Con người có khả năng làm việc với năng lượng của Manas hơn là với hai năng lượng kia—Atma và Buddhi—tạo nên bộ ba năng lượng linh hồn.

Con người nếu chỉ đơn thuần nắm bắt được năng lượng của Manas là chưa đủ—y phải học cách biến nó thành các dạng năng lượng mà bản thân chúng được phú cho sự sống. Khả năng xây dựng trong Manas cấu thành sự tưởng tượng sáng tạo; không phải là những hiệu ứng ngẫu nhiên do kích thích giác quan bên ngoài, mà thông qua việc sử dụng năng lượng của Manas một cách có ý thức và vô tư.

Sự tưởng tượng thông thường nằm ngoài tầm kiểm soát của ý thức. Nó được khơi dậy và thúc đẩy bởi các giác quan và các sản phẩm của nó thường sửa đổi, khuếch đại hoặc ngăn cản hành động của chúng ta. Tưởng tượng sáng tạo là một khả năng được phát triển một cách kiên nhẫn thông qua khoa học thiền định. Thông qua sự kiểm soát của các giác quan, hoạt động của tâm trí bị chậm lại cho đến khi các ý nghĩ thực sự trở nên ‘chia cách ra’ và sau đó, trong khoảng trống giữa các ý nghĩ, có thể tạo ra các hình thức trừu tượng của ý nghĩ từ năng lượng của Manas. Nếu chúng ta xây dựng một hình ảnh trừu tượng, chẳng hạn như hình ảnh cây thánh giá, ở vùng trán, thì sẽ có một nguồn năng lượng ngay lập tức được đưa vào từ cấp độ linh hồn hoặc Bản ngã cao hơn. Nếu chúng ta thay đổi hình ảnh sang một hình thức trực quan khác, chẳng hạn như búp sen, thì sẽ lại có một nguồn năng lượng đầu vào từ linh hồn nhưng có chất lượng khác với năng lượng dâng lên khi xây dựng cây thánh giá. Nhiều cá nhân có địa vị tâm linh cao liên tục xây dựng các hình thức trừu tượng vào hào quang của họ suốt cả ngày. ‘Suy nghĩ cao siêu’ này là một thủ tục tiếp thêm năng lượng và là một khía cạnh của thiền định thực sự. Toàn bộ khoa học tâm trí mới đang bắt đầu xuất hiện sẽ giúp Con người tiến một bước khổng lồ trong việc khai mở tâm thức của mình trong Thời đại Bảo Bình mới. Một số phát triển nhất định trong Thời đại Mới này đã bắt đầu ảnh hưởng đến hào quang chung của Nhân loại. Các tác động của điện trong suốt một trăm năm qua được nhân loại sử dụng có ý thức đang ảnh hưởng đến hào quang của nó và thể dĩ thái bên dưới.*

* Xem chuyên luận này trong cuốn sách Chữa bệnh bí truyền, Phần một của tôi

Bồ đề

Khi Con người được ban cho linh hồn (phú linh), một sợi dây năng lượng đã liên kết anh ta với cõi Bồ đề, nơi có thể tìm thấy ‘Trái tim của Thượng đế’. Nơi neo đậu của sợi chỉ này trong thể dĩ thái là luân xa tim. Khi chúng ta thực hành khả năng của Buddhi trong tâm thức tỉnh táo của mình, sẽ có một nguồn năng lượng của Buddhi ngay lập tức được đưa vào trung tâm này. Từ trung tâm này, năng lượng được phân phối đến tất cả các phần của hào quang và từ đó đi vào hào quang tập thể của nhân loại.

Bản chất của Buddhi là gì? Việc giải thích nó thông qua các tác động của nó đối với chúng ta sẽ dễ dàng hơn là đưa ra một mô tả hữu hạn về nó. Bất kỳ hành động nào của lòng trắc ẩn thực sự đều rèn luyện khả năng đưa Buddhi vào hào quang… lòng trắc ẩn đối với mọi sinh vật, thực hành vô tổn hại và tình thương vị tha. Những đặc điểm này trong tính cách con người là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của luân xa tim mạnh mẽ.

Học cách phân biện điều gì thuộc về Chân Ngã vĩnh cửu của bạn là một tiến trình Bồ đề. Trải nghiệm một tia trực giác thoáng chốc là dấu hiệu của một luân xa Tim đang hoạt động. Khi chúng ta bất ngờ nhận biết một chân lý vĩ đại trong khoảnh khắc, tức thì có một luồng năng lượng từ linh hồn tuôn nhập và điều này ghi nhận trong tâm thức của chúng ta như là trực giác. Điều đó có thể chỉ xảy ra một hoặc hai lần trong một năm, nhưng đó là một sự nhắc nhở về thiên tính bên trong bạn. Trong giống dân phụ đang xuất hiện (giống dân phụ thứ sáu), năng lực này sẽ được phát triển cao độ. Cũng giống như chúng ta ngày nay vận dụng năng lực của “trí tuệ linh hoạt”, Con Người của tương lai sẽ vận dụng trực giác của mình. Một số người trong chúng ta có hào quang trực giác, điều này đơn giản có nghĩa là luân xa Tim vận hành, vốn tạo thành một khu vực có tổ chức trong hào quang phía trước tán được gọi là “tấc vuông thiêng liêng”. Nó hoạt động như một màn ảnh, trên đó các biểu tượng và hình ảnh được hình dung xuất hiện một cách tự phát — tức là sự chuyển đổi các xung động Bồ đề thành thông tin có thể đọc được. Việc hình dung một quả cầu pha lê bên trong hào quang, tại vị trí trùng hợp với phần nhạy cảm này của hào quang (tức là trong tấc vuông thiêng liêng giữa hai chân mày), sẽ làm tăng cường năng lực ấy.

Atma

Năng lượng của Atma tạo thành phần thứ ba của bộ ba thâm nhập vào linh hồn và thể nguyên nhân của nó. Atma là biểu hiện của Ý chí thiêng liêng và hiếm khi được biểu hiện đầy đủ nhất so với hai biểu hiện còn lại. Trong khi một số cảm xúc có thể trỗi dậy trong chúng ta, thì Atma hay Ý chí được cảm nhận đang giáng xuống chúng ta. Cả ba năng lượng đều là Lửa trong một số biểu hiện của nó, nhưng trong ba năng lượng, Atma có thể được tập trung nhiều nhất. Có những biểu hiện đáng chú ý về nó ở những người đàn đã thực hiện các nhiệm vụ ở biên giới của nỗ lực con người, như Moses trong sa mạc ở Sinai, Ghandi lãnh đạo lực lượng kháng cự thụ động ở Ấn Độ, Scott ở Nam Cực, v.v.; những người có sự bền bỉ và ý chí thiêng liêng là điều không cần bàn cãi. Roger Bannister, một bác sĩ có trình độ y khoa, bộ trưởng nội các và vận động viên thể thao giỏi, là người đầu tiên chạy một dặm dưới bốn phút. Để đạt được mục tiêu của mình, ông đã mô tả năng lượng đã phát huy tác dụng như thế nào khi anh ấy phải chịu áp lực lớn nhất:

[Để biết mô tả về sự tiến hóa của Con người, hãy xem cuốn sách Anthropogeny của tôi.

Bí quyết của một nhà vô địch chạy là SỨC MẠNH TINH THẦN: bằng cách khai thác nguồn này, nhà vô địch khai thác được nhiều hơn bản thân mình mà anh ta biết mình sở hữu. Nguồn tinh thần này là gốc rễ của hầu hết các màn trình diễn thể thao tuyệt vời.

Anh ấy mô tả làm thế nào, gần cột chiến thắng khi năng lượng của anh ấy đang giảm dần, một lực lượng lớn đã xâm nhập vào anh ấy và đưa anh ấy tiếp tục đến cột.

Ba năng lượng mà chúng ta đã mô tả biểu lộ tốt nhất trong ba hiện thể của phàm ngã như sau:

Manas………Thể trí

Buddhi………cơ thể cảm xúc

Atma………… thể xác

Đặc điểm của Màu sắc trong Hào quang

Con người bị neo giữ trong hai thế giới. Hào quang là mối liên kết giữa cả hai. CW Leadbeater đã mô tả bản chất của sự tương tác giữa các thế giới dưới dạng hào quang trong cuốn sách Man, Visible and Invisible của ông. Cuốn sách có phần tưởng tượng và chi tiết nhưng nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc về ‘môi trường’ thực sự của các năng lượng thâm nhập vào Con người:

Một cơn giận dữ bùng phát sẽ khiến toàn bộ hào quang lóe lên những tia sáng đỏ thẫm trên nền đất tối, trong khi nỗi kinh hoàng bất ngờ sẽ trong giây lát biến mọi thứ thành một màu xám xịt kinh hoàng.

Hãy nhớ rằng các màu sắc của hào quang mang tính biểu tượng hơn là thực sự “nhìn thấy”, chúng ta có thể liên hệ màu sắc và cảm xúc theo cách sau: màu hồng biểu lộ tình cảm trong sáng; màu đỏ rực rỡ biểu lộ sự giận dữ và mãnh lực; màu đỏ sậm biểu lộ dục vọng và tính xác thịt; màu vàng tươi của quả chanh tinh khiết biểu lộ loại hoạt động trí tuệ cao nhất; màu cam biểu lộ trí tuệ được sử dụng cho những mục đích ích kỷ, sự kiêu ngạo và tham vọng; màu nâu biểu lộ lòng tham. Màu xanh lục là một màu có nhiều ý nghĩa khác nhau. Ý nghĩa gốc của nó là đặt bản thân vào vị trí của người khác, nhưng không phải là sự đồng cảm. Trong những khía cạnh thấp hơn, nó biểu lộ sự dối trá và ghen tuông; ở bậc cao hơn trong cung bậc cảm xúc, nó biểu lộ sự thích nghi; và ở mức cao nhất của nó — gần như màu lá cây — nó biểu lộ sự cảm thông, bản chất cốt lõi của việc nghĩ cho người khác. Ở một số sắc thái, màu xanh lục biểu trưng cho những năng lực trí tuệ thấp hơn và phê phán, hòa lẫn vào màu vàng. Màu xanh lam biểu lộ tình cảm tôn giáo và lòng sùng kính, các sắc thái khác nhau của nó được cho là tương ứng với các cấp độ sùng kính khác nhau, từ sự sùng bái vật tổ đến chủ nghĩa lý tưởng tôn giáo cao cả nhất. Màu tím biểu lộ năng lực thông linh, tính tinh thần, sự vương giả và quyền năng tinh thần phát sinh từ tri thức và sự ưu việt trong huyền bí học. Người ta nên tự xây dựng các tương ứng của riêng mình khi có thể. Hầu hết những mối liên hệ nêu trên đều được chứng nghiệm là đúng đối với tôi và dường như cũng phù hợp với các Cung tương ứng. Tác giả nhớ lại lần đầu tiên Ông từng thấy một “màu sắc” của hào quang. Đó là quanh đầu của một nghệ sĩ rất nổi tiếng ở Cape Town, Nam Phi, và đó là màu vàng nhạt trí tuệ, như đã mô tả ở trên. Các bạn có thể tìm thấy phần mô tả về những sắc đỏ của hào quang trong cuốn sách nhỏ tuyệt vời của Lobsang T. Rampa, The Third Eye:

Ra khỏi cửa, tôi vội vã… đến gần tôi là một bóng người bị bao phủ bởi làn khói xanh, bị bắn ra bởi những vệt đỏ giận dữ. Tôi thốt lên một tiếng ré lên báo động và chạy vội vào phòng. Những người khác nhìn lên vẻ mặt kinh hoàng của tôi. “Có một người đàn ông đang bốc cháy trong hành lang,” tôi nói. Lạt ma vội vã đi ra ngoài nhưng mỉm cười quay lại. “Lobsang, đó là một người dọn dẹp trong cơn nóng nảy. Hào quang của anh ấy có màu xanh khói và anh ấy chưa tiến hóa, và những đốm đỏ là biểu hiện của những xung động giận dữ.”

Mùi, mùi hương và hương

Trong những ngày đầu tiên trên hành tinh, Con Người nhìn thấy các hình thể dĩ thái một cách rõ ràng, và khi bộ não hồng trần của y phát triển, y vẫn tiếp tục có thị kiến dĩ thái nhưng với hiệu quả giảm dần. Đồng thời, y cũng đang phát triển một bộ máy thị giác có độ phức tạp phi thường trong vật chất hồng trần, và phải mất một thời gian dài hơn nhiều để hoàn thiện so với các giác quan hồng trần khác. Cho đến ngày nay, sự phát triển của đôi mắt con người vẫn còn là một sự mâu thuẫn đối với các nguyên lý Darwin về chọn lọc tự nhiên. Tuy nhiên, con người vẫn giữ lại được một số năng lực dĩ thái, vốn có thể được định vị khá dễ dàng trong khuôn mẫu dĩ thái của các phần thuộc bộ não nguyên thuỷ. Khứu giác là một năng lực rất cổ xưa, và trong những ngày đầu, kích thước của các thùy khứu giác lớn hơn rất nhiều so với phần còn lại của bộ não, so với ngày nay. Hơn thế nữa, các rễ của hệ khứu giác kết thúc ở những vùng của bộ não có liên quan mật thiết đến cảm xúc.

Ngày nay, hầu hết chúng ta cảm nhận các thế giới vi tế không nhiều qua thị giác mà qua một dạng khứu giác biến đổi — một mùi, một cảm giác, một cảm xúc, một giác quan thứ sáu. Ở một số người, khả năng này có thể được phát triển rất cao. Những thú nuôi trong nhà của chúng ta thường sử dụng khứu giác hơn là thị giác và thường xuyên tri giác được các cấu trúc cảm dục và dĩ thái mà chúng ta không thể.

Có vẻ như mỗi chúng ta đều toát ra một mùi hương riêng, và những con chó săn có thể dễ dàng lần theo dấu vết này. Nhưng dường như khứu giác, vốn được định vị trong vùng tương ứng của bộ não dĩ thái, cũng xác định những nét đặc thù của hào quang, và cùng với mùi của thể xác, chúng ta còn toát ra những phẩm tính của hào quang, vốn được một số người cảm nhận cùng với mùi ấy.

Tình trạng sức khỏe, trạng thái tinh thần của chúng ta, mỹ phẩm chúng ta sử dụng, hàm lượng khoáng chất trong mồ hôi, suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta dường như, ít nhất là một phần, được thể hiện cùng với mùi và hương thơm của cơ thể. Chúng ta vẫn nói về những người tỏa ra “hào quang u ám”, hay “mùi thánh thiện”.

Vào thời trung cổ, khi các vị thánh chiếm giữ vị trí trong tâm thức con người mà ngày nay chúng ta gán cho các “nguyên mẫu”, người ta nói rằng mỗi vị thánh đều toát ra đặc điểm và mùi hiện sinh của riêng mình. Từ các nhà sử học đầu tiên, chúng ta có những ghi chép rằng Thánh Catherine đã toát ra tinh dầu của hoa violet; St Cajetan của hoa cam; St Trevere, hoa loa kèn; St Teresa, hoa nhài và hoa diên vĩ; và St Lydwine, vỏ quế.

Những mùi hương như vậy gợi đến hào quang hơn là những chất tiết ra từ cơ thể. Chúng cũng không nên chỉ giới hạn trong lĩnh vực tinh thần. Các điều kiện hạn chế của chiến đấu trong chiến hào trong Thế chiến thứ hai buộc người ta phải ngửi thấy mùi của một đồng đội bị giam giữ cùng bạn trong một khu vực nhỏ, chẳng hạn như một cái hầm. Điều này đôi khi có thể là một trải nghiệm khó chịu nhất; và đối với những người khác, khi tình hình môi trường có thể còn tồi tệ hơn, nó không thể gây ra vấn đề gì cả. Một số người có mùi cơ thể ngọt ngào và dễ chịu ngay cả khi đổ nhiều mồ hôi. Những người khác thì ngược lại. Điều thứ hai thường trùng hợp với lòng bàn tay đẫm mồ hôi, một dấu hiệu chắc chắn về một thể cảm dục không thể tích hợp được.

Chúng tôi đã chỉ ra cách ‘bầu không khí’ của một căn phòng được đóng góp bởi sự phát xạ hào quang của mọi người trong đó cũng như của những người khác đã sử dụng nó. Phát thải thô nhất của con người dễ dàng được phát hiện bởi vật nuôi của chúng ta. Đôi khi một người cũng cực kỳ nhạy cảm với những điều này mà không cần phải là nhà ngoại cảm. Một trong những người như vậy là thám tử nổi tiếng người Pháp Vidocq, người đã từng nói: “Hãy đặt tôi vào một đám đông hàng nghìn người, và chỉ bằng khứu giác, tôi sẽ phát hiện ra mọi kẻ vi phạm luật đạo đức”. Ông tin rằng các loại tội phạm khác nhau có thể liên quan đến những mùi đặc biệt.

Dù thế nào đi nữa, chắc chắn là bất kỳ huấn sư nào với hai mươi năm kinh nghiệm đều có thể dễ dàng chỉ ra những đứa trẻ trong lớp có khả năng trở thành tội phạm khi trưởng thành. Thật đáng tiếc khi nhận thức sớm về rủi ro này ở một đứa trẻ không được tận dụng để đứa trẻ có thể nhận được sự giúp đỡ đặc biệt trong những năm tuổi vị thành niên, do đó tiết kiệm cho nhà nước một khoản tiền lớn để duy trì những kẻ phạm pháp đã lớn trong các trại giam của bang. Cảm giác liên quan ở đây cũng là một cảm giác liên quan đến hào quang hơn là hình thức bên ngoài.

Trong khoa học bí truyền, chúng ta liên hệ mùi hương cổ điển với các phẩm chất của Cung. Hoa Nhài có liên quan đến Cung Bác Ái – Minh Triết và cho đến nay là loại hương phổ biến nhất đối với những người mới nhập môn. Cũng đúng là các linh hồn của Cung Hai chiếm ưu thế trên hành tinh vào thời điểm đặc biệt này. Gỗ đàn hương có liên quan đến Cung Một Ý chí và Quyền Năng, một cung yêu thích của người bạn Swami Rama của tôi. Với những mối quan hệ về Cung của riêng tôi, tác giả có một sở thích đối với quế, vốn có mối tương quan với Cung Năm của Tri thức Cụ thể và, do đó, với những tâm trí khác, giống như của chính ông, vốn thuộc Cung thứ Năm của Khoa học Phân tích. Do đó, các Cung của trầm hương cũng có thể phản ánh một điều gì đó thuộc tính chất hào quang và những thiên hướng. Độc giả có thể tìm thấy biểu đồ ngược lại với một số hỗ trợ.

00011.jpg

Leave Comment