Download toàn bộ quyển sách dạng song ngữ ở đây
8. Tài liệu tham khảo cổ điển về hào quang
Có nhiều truyền thống huyền bí về hào quang của con người, và thần thoại cũng như các tôn giáo đều có những ám chỉ kinh điển về nó. Người ta nói rằng hào quang của Đức Phật lan rộng đến chín dặm và các đệ tử của Ngài có thể cảm nhận sự hiện diện của Ngài từ một khoảng cách rất xa. Khi Moses từ Núi Sinai xuống, con cái Israel nhận thấy một ánh sáng phi thường quanh ông, đến nỗi họ không thể nhìn thẳng vào ông khi ông mang theo các bia đá khắc Mười Điều Răn. Phao-lô, trên đường đến Damascus, đã trải nghiệm một luồng sáng chói loà trong lúc cải đạo sang Kitô giáo. Bộ lông Cừu Vàng là một ám chỉ mang tính thần thoại về hào quang. Người ta dùng lông cừu để giữ lại vàng trong các dòng suối núi ở Colchis. Con người tự thân cũng là một chiếc bẫy giữ lấy những năng lượng vàng của hào quang. Hào quang của Đức Christ đã được nhìn thấy trong sự biến hình của Đức Jesus, khi y phục của Ngài chiếu sáng với một độ rực rỡ không gì sánh được. Vầng hào quang, được nhìn thấy quanh đầu của Thánh Gia và của nhiều vị thánh trong các bức hoạ thời Phục Hưng, là sự tôn vinh dành cho hào quang của họ.
Các thánh nhân Trung cổ được bao quanh bởi những đám mây ánh sáng. Người ta nói rằng khi Ngài ở bàn thờ hoặc đang quỳ cầu nguyện, một luồng sáng từ gương mặt của Thánh Gioan Thánh Giá bừng phát ra.
Trong nghệ thuật Kitô giáo, quanh đầu của các vị thánh và những nhân vật thiêng liêng thường được vẽ vòng hào quang hoặc vầng sáng, vốn được cho là đại diện cho hào quang; đôi khi đám mây sáng được thể hiện quanh toàn thân cũng như quanh đầu, khi đó nó được gọi là hào quang toàn thể (aureola). Người ta cũng cho rằng màu sắc của cơ thể và y phục trong các bức tranh Trung cổ và tranh kính màu nhằm diễn tả màu sắc hào quang của cá nhân… Những vương miện và mũ đội đặc trưng của các vua chúa và tư tế thời cổ đại được cho là tượng trưng cho hào quang.
Trong nhiều sách thiêng liêng của phương Đông, các hình ảnh mô tả những bậc đạo sư và các bậc thánh nhân thường được thể hiện với ánh sáng lan toả quanh toàn thân. Có thể tìm thấy những ví dụ như vậy trong các hang động đền thờ ở Ấn Độ và Tích Lan, trong các sách Phật giáo Nhật Bản, cũng như ở Ai Cập, Hy Lạp, Mexico và Brazil.
Encycopaedia Of Occultism của Lewis Spence, Citadel Press, New Jersey.
The Christ Force—Mãnh lực Christ
Rất khó để tìm thấy những tham chiếu trực tiếp về hào quang trong các giáo huấn Kitô giáo, nhưng điều này có thể hiểu được khi có quá nhiều sự hiểu sai về bản chất của Đức Christ. Lực Christ có thể được diễn đạt tốt hơn như là sự chuyển động của năng lượng mà chúng ta liên kết với sự chữa lành và giảng dạy. Theo một nghĩa nào đó, mọi sinh thể đều tiếp nhận được năng lượng này và được đổi mới bởi nó tuỳ theo mức độ mà mục đích sống trên trần gian của chúng phù hợp với Thiên Cơ. Hào quang là một trường mãnh lực trong đó các năng lượng vũ trụ của Đức Christ được tự do vận hành, so với thể xác hồng trần, nơi mà hầu như không có sự tự do để Lực Christ có thể biểu lộ một cách hiệu quả và vô hình. Trong chữa lành, bất kể vị bác sĩ chủ trì tài giỏi đến đâu, ông ta chỉ đơn thuần hỗ trợ tiến trình. Điều này cũng đúng với các huấn sư và hành động giảng dạy. Sau cùng, minh triết đạt được qua một tiến trình vén mở hay cho phép Lực Christ tuôn chảy, hơn là kết quả của, chẳng hạn, việc học tập lặp đi lặp lại. Ngay cả khi không có sự can thiệp của người chữa lành và người thầy, Lực Christ vẫn hoạt động như một trong những dòng chảy nguyên hình liên tục nâng đỡ mọi sinh thể hướng về Chân lý, Cái Đẹp và Điều Thiện.
Qua sự thấu hiểu rằng con người về căn bản là một đơn vị năng lượng (biểu lộ thành các thể trong hào quang), chúng ta đi đến sự chấp nhận rằng “Đức Christ” là một mãnh lực vũ trụ, không phải một hữu thể nhân hình, mà là một phương diện của Bác Ái–Minh triết; và rằng những diễn giải tôn giáo về sự thật này dưới hình thức một nhân vật lịch sử như Jesus chỉ là những chiếc mặt nạ che giấu điều thiêng liêng.
H.P. Blavatsky luôn luôn rất rõ ràng về vấn đề này. Bà nói:
“Tôi phủ nhận hoàn toàn ‘Đức Christ’ do Giáo hội sáng chế, cũng như tất cả các giáo lý, mọi diễn giải và mọi giáo điều, cổ xưa lẫn hiện đại, liên quan đến nhân vật đó… Tôi cực kỳ ghét sự ‘sùng bái Christ’ của các Giáo hội. Tôi căm ghét những giáo điều và giáo lý đã làm suy đồi hình mẫu lý tưởng của Christos bằng cách biến nó thành một ngẫu tượng nhân hình lố bịch và phi lý. Jesus bị đóng đinh chẳng là gì ngoài một ảo ảnh, và câu chuyện về ông chỉ là một ngụ ngôn. Với tôi, Jesus Christ, tức là Con Người–Thần của các Kitô hữu, được sao chép từ các Đấng Hoá Thân ở mọi quốc gia, từ Krishna của Ấn Độ cũng như Horus của Ai Cập, chưa bao giờ là một nhân vật lịch sử. Ông ta là sự nhân cách hoá được thần thánh hoá của hình mẫu vinh quang của các Đại Tế sư của Đền thờ, và câu chuyện về ông được kể trong Tân Ước chỉ là một ngụ ngôn.”
Và bà lại nói rằng một Đức Christ thiêng liêng (hay Christos) chưa bao giờ hiện hữu dưới một hình tướng nhân loại bên ngoài trí tưởng tượng của những kẻ phạm thượng đã vật chất hoá một nguyên lý phổ quát và hoàn toàn vô ngã.
Có nhiều cách để Lực Christ có thể được khích lệ tuôn nhập vào các trường hào quang của Con Người. Việc giữ tâm thức trong vùng ấn đường và tập trung sự chú ý vào bất kỳ đối tượng nào được hình dung trong “tấc vuông thiêng liêng” của ấn đường mở ra hào quang để tiếp nhận một dòng nhập vào to lớn của Lực Christ, vốn sau đó có thể được dẫn truyền đến người khác trong sự chữa lành và giảng dạy. Thánh Phao-lô đã nói rõ: “Nếu mắt ngươi chỉ là một, thì cả thân thể ngươi sẽ tràn đầy ánh sáng.” Nếu bạn tập trung cả hai mắt vào một điểm duy nhất, bạn sẽ được tràn ngập bởi ánh sáng của Mãnh Lực Christ.
Hylozoism and the Aura—Hoạt vật luận và hào quang
Trong tác phẩm The Jewel in the Lotus, tác giả đã đưa ra bảy tiên đề vĩ đại làm nền tảng cho sự trưởng thành của con người vượt ra khỏi vương quốc của y để bước vào những cảnh giới cao hơn. Tiên đề đầu tiên trong số đó là Hylozoism. Nó khẳng định rằng mọi sự đều sống động, từ nguyên tử nhỏ bé nhất cho đến hành tinh vĩ đại nhất. Đây không phải là một ý tưởng mới. Aristotle đã dạy điều đó và nhà lãnh đạo Kitô giáo Origen cũng vậy. Đây là một tiên đề cần phải được “thực chứng,” và ngay khoảnh khắc chúng ta có thể quan niệm rằng một sự vật sống động, chẳng hạn một mảnh tinh thể thạch anh, thì tâm thức của chúng ta phần nào hợp nhất với sinh thể sống kia, và có một sự tăng trưởng tương ứng của chính hào quang chúng ta vào trong hào quang của nó:
Ôi Sự sống Ẩn giấu! rung động trong mọi nguyên tử;
Ôi Ánh sáng Ẩn giấu! chiếu sáng trong mọi sinh thể;
Ôi Tình thương Ẩn giấu! ôm trọn tất cả trong sự duy nhất;
Nguyện cho mỗi người cảm thấy mình là một với Ngài
Biết rằng nhờ đó y cũng là một với mọi sinh linh khác.
Shanti Kumar