Những nguy hiểm cần tránh khi tham thiền (2)

Những điểm cần lưu ý trong bài này:

  1. Đức DK nhấn mạnh đến công việc phụng sự trong khi người môn sinh bước vào đường đạo—

mục tiêu mà một người bước vào đường đạo không phải là nhằm phát triển bản thân, mà là tự trang bị để phụng sự nhân loại tốt hơn.

Chăm chăm phát triển bản thân mà không quan tâm đến việc phụng sự là bước vào con đường tà đạo.

– Việc phụng sự trước tiên phải bắt đầu từ những nhóm có liên hệ gần gũi nhất với y: gia đình, cơ quan, đoàn thể. Khi năng lực phụng sự của y gia tăng, y sẽ nới rộng môi trường phụng sự ra lớn hơn nữa như quốc gia, thế giới …

  1. Ngài cũng giải thích các nhóm liên kết với một môn sinh trên ba cõi giới khác nhau:

– Cõi hồng trần: bao gồm gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, đoàn thể phụng sự mà y tham gia. Nhiệm vụ của y chỉ đơn giản là lo làm tròn bổn phận của mình đối với nhóm để có thể trả sạch nghĩa vụ nghiệp quả và tiến lên hướng về sự giải thoát cuối cùng. Ngoài ra, y phải đưa nhóm của mình lên những tầm mức cao thượng hơn và hữu ích hơn. Nếu vì chăm lo tu tập và tham thiền mà sẽ bỏ quên nghĩa vụ đích thực của mình, y sẽ làm chậm trễ mục đích của kiếp sống hiện tại và sẽ phải thực hiện trong một kiếp khác. Đọc đến những lời dạy này của đức DK chúng ta nhớ đến giáo huấn nhà Phật khi một người muốn xuất gia phải được sự chấp thuận của gia đình và hoàn tất những nghĩa vụ của mình.

– Cõi tình cảm: cũng có ba nhóm mà một người trực thuộc vào. Trong đó có một chi tiết mới lạ: con người cũng có nhóm trên cõi trung giới, và nhóm này chính thực là nhóm của y hơn là gia đình mà y đầu thai ở cõi trần; khi gặp nhau ở cõi trần, họ dễ dàng nhận ra nhau.

– Và cõi trí: nhóm của Chân Nhân và nhóm đệ tử mà y có liên hệ.

  1. Ngài giải thích kỹ cho ta hiểu những hiểm nguy trên cõi giới nội tại do các thực thể trên cõi giới gây ra. Điểm đầu tiên mà một người dễ bị một sinh linh trên cõi thanh ám hoặc tấn công là do y thụ động tiêu cực trong khi tham thiền.

“Người môn sinh phạm sai lầm là làm cho toàn thể phàm ngã trở nên thụ cảm. Thay vì làm cho phàm ngã trở nên vững vàng, tích cực đối với những yếu tố chung quanh, với mọi tiếp xúc ở cõi thấp, và thay vì chỉ để cho “đỉnh chóp của thể trí” thụ cảm và mở ra đối với những gì được truyền xuống từ các cấp độ trừu tượng hoặc của thể nguyên nhân và thậm chí từ cõi trực giác, thì người môn sinh lại để cho thụ cảm từ mọi phía. Chỉ có một điểm bên trong bộ não là nên để cho thụ cảm, tất cả những gì còn lại trong tâm thức đều phải được phân cực đến mức có thể ngăn được mọi xâm nhập từ bên ngoài…”

Ngài nêu bốn nguyên nhân khiến một thực thể ngoại tại có thể xâm nhập vào một cá nhân và các phuong pháp chữa trị. Thông thường là trường hợp lưới dĩ thái bảo vệ giữa cõi trần và cõi trung giới bị rách hay bị suy yếu. Điều này có thể do nhiều nguyên do: bẩm sinh, lối sống thụ động, rượu, chất kích thích …

Chúng ta cũng nên lưu ý những cảnh báo tràn đầy minh triết và sâu sắc của Ngài. Chúng đáng cho ta ghi nhớ trong quá trình tu tập bản thân:

Khi một người bắt đầu theo đuổi con đường hành thiền huyền môn, y phải cần khoảng mười bốn năm để tái tạo các thể thanh cũng như thể xác của y. Trong suốt thời gian đó, y không nên chạm đến những điều chưa biết để giữ an toàn. Vì chỉ những người nào có thể xác mạnh mẽ đã được tinh luyện, có thể cảm dục quân bình, ổn định, đã chủ trị, và thể trí có vân thích hợp, mới được vào những cảnh giới cao siêu và thực sự làm việc với Fohat, vì đó là việc làm của đệ tử huyền môn. Thế nên, ở khắp nơi tất cả các Huấn sư minh triết đều nhấn mạnh rằng Con đường Tinh luyện phải đi trước Con đường Khai ngộ. Các Ngài nhấn mạnh rằng phải kiến tạo khả năng tinh thần trước khi được phép mở quan năng thần thông an toàn. Các Ngài đòi hỏi môn sinh phải phụng sự nhân loại hằng ngày, trong suốt cuộc đời, trước khi y được phép vận dụng những sức mạnh của thiên nhiên, được phép chế ngự các tinh linh, hợp tác với các thiên thần và được học các phương thức và nghi lễ, những câu thần chú và các khẩu quyết để làm phát lộ các mãnh lực ấy.

Ngày 2-8-1920.

Những nguy hiểm do các liên kết tập thể. Dangers attendant on group affiliations.

Sáng nay, tôi sẽ nói vắn tắt về các nguy hiểm trong tham thiền do các liên kết nhóm của người môn sinh, dù đó là nhóm ngoại môn hay nội môn. Không thể nói nhiều về vấn đề đặc biệt này trừ những chỉ dẫn tổng quát. Mỗi vấn đề tôi đã đề cập đến đều có thể viết thành một thiên khảo luận dày, do đó tôi không có ý định nói đủ mọi điều mà chỉ vạch ra vài khía cạnh của vấn đề—và những điều này nếu được suy ngẫm cẩn thận—sẽ mở ra cho người tìm chân lý nhiệt thành nhiều con đường để mở mang sự hiểu biết. Mọi sự huấn luyện huyền môn đều nhắm đến điều này,—đó là đưa cho người môn sinh một tư tưởng gốc nào đó, và khi được nghiền ngẫm trong sự bình lặng của tâm hồn, sẽ mang đến cho y [115] nhiều thành quả thật có giá trị, mà y có thể thực sự xem là của chính mình. Những gì chúng ta đạt được do phấn đấu và nỗ lực thì mãi mãi vẫn còn là của chúng ta, và không thể nào bị quên lãng như những tư tưởng ta đọc trong sách hay những lời giảng dạy của một vị huấn sư, dù Ngài có được tôn kính đến đâu.

Very briefly would I seek this morning to take up the question of the dangers involved in meditation that are incidental to a man’s group affiliations, whether exoteric or esoteric. There is not much that can be said on this particular matter, save broad indications. Each of these various subjects that I have touched upon might warrant the writing of a weighty treatise, and I shall not, therefore, attempt to cover what might be said but only point out certain aspects of the matter that will (if pondered on with care) open up to the earnest seeker after truth many avenues of knowledge. All occult training has this in view,—to give to the pupil some seed thought which (when brooded over in the silence of his own heart) [115] will produce much fruit of real value, and which the pupil can then conscientiously consider his own. What we produce through wrestling and strenuous endeavour remains forever our own, and vanishes not into forgetfulness as do the thoughts that enter through the eye from the printed page, or through the ear from the lips of any teacher no matter how revered.

Khi người môn sinh bước vào con đường dự bị và khởi sự tham thiền, thì y thường không để ý đến một điều: mục tiêu y cần nhắm đến chủ yếu không phải là hoàn tất sự phát triển của chính bản thân, mà là tự trang bị để phụng sự nhân loại. Sự phát triển và tăng trưởng của riêng y là cần thiết nhưng đó không phải là mục tiêu nhắm đến. Hoàn cảnh trực tiếp quanh y và những người cộng sự thân cận ở cõi trần là những đối tượng để y phụng sự. Nếu trong khi cố gắng đạt một số khả năng hay đức tính nào đó, y lại bỏ bê các nhóm mà y đang kết hợp, thờ ơ không phụng sự họ một cách khôn ngoan, và không trung thành vì lợi ích của nhóm, là y đang lâm vào mối nguy của sự kết tinh (crystalisation), đang rơi vào sự mê hoặc của lòng kiêu căng tội lỗi, và thậm chí có thể dấn bước đầu tiên vào con đường tà đạo. Nếu sự tăng trưởng nội tâm không biểu lộ trong việc phụng sự tập thể thì người môn sinh đang đi vào con đường nguy hiểm.

One thing that is oft overlooked by the pupil when he enters upon the path of probation and starts meditation is that the goal ahead for him is not primarily the completing of his own development, but his equipping for service to humanity. His own growth and development are necessarily incidental but are not the goal. His immediate environment and his close associates on the physical plane are his objectives in service, and if in the endeavour to attain certain qualifications and capacities he overlooks the groups to which he is affiliated and neglects to serve wisely and to spend himself loyally on their behalf he runs the danger of crystallisation, falls under the spell of sinful pride, and mayhap even takes the first step toward the left-hand path. Unless inner growth finds expression in group service the man treads a dangerous road.

Ba loại nhóm liên kết với môn sinh. Three types of affiliated groups.

Có lẽ ở đây tôi có thể đưa ra một vài chỉ dẫn về các nhóm của người môn sinh trên những cảnh giới khác nhau. Có nhiều nhóm khác nhau như thế và trong những giai đoạn khác nhau của đời người các nhóm ấy có thể thay đổi, khi người môn sinh thanh toán được sự bó buộc của nghiệp quả chi phối các liên kết đó. Chúng ta cũng nên nhớ rằng khi một người mở rộng khả năng phụng sự thì đồng thời y cũng gia tăng kích thước [116] và số nhóm mà y tiếp xúc, cho đến khi trong một kiếp nào đó về sau thế giới là trường phụng sự của y và vô số người được y giúp đỡ. Y phải phụng sự bằng ba cách trước khi được phép đổi đường lối hành động và bước sang một công tác khác,—thuộc hành tinh, thái dương hệ hay vũ trụ.

Perhaps I could here give some indications of the groups on the various planes to which a man is assigned. These groups are many and diverse and at different periods of a man’s life may change and differ, as he works out from under the obligating karma that governs the affiliations. Let us remember too that as a man enlarges his capacity to serve he at the same time increases the size and number of the groups he contacts till he reaches a point in some later incarnation when the world [116] itself is his sphere of service and the multitude those whom he assists. He has to serve in a threefold manner before he is permitted to change his line of action and pass on to other work,—planetary, systemic or cosmic.

 

  1. Trước hết, y phụng sự thông qua hoạt động, bằng cách sử dụng trí thông minh, dùng những khả năng cao của trí tuệ và tài năng của mình để giúp đỡ những người con của nhân loại. Y từ từ khai mở những quyền năng lớn của trí tuệ và vượt qua cạm bẫy của lòng kiêu hãnh. Bấy giờ y đem trí thông minh linh hoạt của mình đặt dưới chân toàn thể nhân loại, và đem hết khả năng ra phụng sự loài người.
  2. Y phụng sự bằng tình thương và theo thời gian trở nên một trong những vị cứu thế hiến trọn cuộc đời mình cho các huynh đệ với tình thương toàn hảo. Rồi đến một kiếp nào đó y sẽ hy sinh trọn vẹn và chết trong tình thương để cho những người khác được sống.
  3. Sau đó là phụng sự bằng quyền lực. Trong lò lửa tôi luyện, y đã chứng tỏ là không có tư tưởng nào khác ngoài việc nghĩ đến những gì tốt đẹp cho mọi người chung quanh. Y được tin cậy để giao phó quyền năng, sau khi đã áp dụng tình thương tích cực một cách khôn ngoan. Y làm việc hợp với định luật và dùng tất cả ý chí của mình để bày tỏ quyền năng của định luật trong ba lĩnh vực của cõi tử (là tam giới).

Trong cả ba ngành phụng sự này, bạn sẽ nhận thấy rằng khả năng làm việc với các nhóm là tối quan trọng. Như tôi đã nói, những nhóm này rất đa dạng và thay đổi trên những cảnh giới khác nhau. Chúng ta hãy kể ra tóm tắt như sau:—

a—He serves first through activity, through the use of his intelligence, using the high faculties of mind and the product of his genius to aid the sons of men. He builds slowly great powers of intellect and in the building overcomes the snare of pride. He takes, then, that active intelligence of his and lays it at the feet of collective humanity, giving of his best for the helping of the race.

b—He serves through love, becoming, as time elapses, one of the saviours of men, spending his life and giving of his all through perfect love of his brothers. A life then comes when the utmost sacrifice is made and in love he dies that others may live.

c—He serves then through power. Proved in the furnace to have no thought save the good of all around, he is trusted with the power that follows from active love intelligently applied. He works with the law, and bends all his will to make the power of the law felt in the three-fold realms of death.

In all these three branches of service you will notice that the faculty of working with groups is one of paramount importance. These groups are diverse, as before I have said, and vary on different planes. Let us briefly enumerate them:—

 

1. Ở cõi trần. Có những nhóm sau đây—On the physical plane. The following groups will be found:—

  1. Gia đình là nhóm y thường quan hệ vì hai lẽ. Một là để giải quyết nghiệp quả và thanh toán các món nợ tiền kiếp. Hai là để nhận một xác thân thuộc loại mà Chân nhân cần để biểu lộ đầy đủ. [117]
  2. Các cộng sự viên và bạn bè, những người mà hoàn cảnh đưa đẩy y đến với họ, những người cộng sự kinh doanh, các liên hệ với giáo hội, những người quen biết, những người bạn gặp gỡ tình cờ và những người mà y tiếp xúc trong một thời gian ngắn rồi thôi. Y cũng có hai việc cần làm với họ: một là phải thi hành một nghĩa vụ nào đó nếu y đã chuốc lấy món nợ. Hai là để thử thách khả năng y gây ảnh hưởng lành cho những người chung quanh, biết nhận trách nhiệm và biết chỉ đạo, giúp đỡ. Trong thử thách này, các vị Hướng đạo nhân loại thấy được hành động và phản ứng của hành giả, khả năng phụng sự của y và cách y đáp ứng nhu cầu của những người chung quanh.
  3. Đoàn phụng sự mà y gia nhập, là nhóm của một Đấng Cao cả, được kết hợp rõ rệt để làm công tác huyền môn, tinh thần. Đó có thể là một đoàn phụng sự trong giáo hội chính thống (những người sơ cơ đều được thử thách trong nhóm này). Đó cũng có thể là đoàn công tác xã hội như trong phong trào lao động hay chính trường, hoặc có thể thuộc những phong trào tiền phong của thế giới như Hội Thần triết, phong trào Khoa học Công giáo, những người thuộc phái Tân Tư tưởng và những nhà Giáng thần học. Tôi có thể thêm một chi nhánh hoạt động nữa khiến bạn ngạc nhiên,—đó là phong trào Xô-viết ở Nga và tất cả những đoàn thể mạnh mẽ, cấp tiến đang thành tâm phụng sự theo các lãnh tụ của họ (dù có khi bị lạc hướng và mất thăng bằng) để nâng cao điều kiện sinh hoạt của đại khối quần chúng.

a—His family group to which he is usually affiliated for two reasons, one to work out karma and repay his debts; the second, to receive a certain type of physical vehicle that the Ego needs for adequate expression. [117]

b—His associates and friends; the people his environment throws him with, his business associates, his church affiliations, his acquaintances and casual friends, and the people he touches for a brief period and then sees no more. His work with them is twofold again; first to repay an obligation should such a debt have been incurred; and secondly to test out his powers to influence for good those around him, to recognise responsibility and to direct or help. In doing thus, the Guides of the race find out the actions and reactions of a man, his capacity for service, and his response to any surrounding need.

c—His associated band of servers, the group under some Great One that is definitely united for work of an occult and spiritual nature. It may be either a band of church workers among the orthodox (beginners are tried out here); it may be in social work such as in the labor movements or in the political arena; or it may be in the more definitely pioneer movements of the world, such as the Theosophical Society, the Christian Science movement, the New Thought workers and the Spiritualists. I would add to this, one branch of endeavour that may surprise you,—I mean the movement of the Soviet in Russia and all the aggressive radical bodies that sincerely serve under their leaders (even when misguided and unbalanced) for the betterment of the condition of the masses.

Như thế, các bạn thấy rằng mỗi người đều thuộc vào ba nhóm ở cõi trần. Y có bổn phận đối với họ và phải làm tròn. Vậy có gì nguy hiểm khi tham thiền? Đơn giản là khi nghiệp quả còn ràng buộc người môn sinh với một nhóm nào đó thì y phải lo làm tròn bổn phận của mình. Nhờ thế y có thể trả [118] sạch nghĩa vụ nghiệp quả và tiến lên hướng về sự giải thoát cuối cùng. Ngoài ra, y phải đưa nhóm của mình lên những tầm mức cao thượng hơn và hữu ích hơn. Vì thế, nếu tham thiền không thích hợp, y sẽ bỏ quên nghĩa vụ đích thực của mình, làm chậm trễ mục đích của kiếp sống hiện tại và sẽ phải thực hiện trong một kiếp khác. Nếu y đưa vào thể nguyên nhân của nhóm ấy (là sản phẩm kết hợp của nhiều đường hướng) những gì không thích đáng, thì y không giúp được gì mà chỉ gây trở ngại và đây cũng lại là điều bao gồm nguy hiểm. Tôi xin minh họa để giải rõ hơn:— Một môn sinh ở trong nhóm có nhiều người sùng tín quá mức, y gia nhập với mục đích rõ rệt là làm quân bình đức tính này bằng một yếu tố khác, đó là sự phân biện khôn ngoan và thăng bằng trí tuệ. Nếu y để cho mình bị hình tư tưởng của nhóm chi phối và tự trở thành một người sùng tín luôn hành thiền theo lối sùng tín và thiếu khôn ngoan mà bỏ quên việc làm quân bình thể nguyên nhân của nhóm ấy, thì y lâm vào mối nguy, chẳng những tự hại mình mà còn làm hại luôn cả nhóm hiện hữu.

Thus on the physical plane you have three groups to which a man belongs. He owes a duty to them and he must play his part. Now wherein could danger enter through meditation? Simply in this: that as long as a man’s karma holds him to some particular group the thing that he must aim at is to play his part perfectly, so that he may work out from under karmic obligation [118] and advance toward ultimate liberation; besides this he must carry on his group with him to greater heights and usefulness. Therefore, if through meditation of an unsuitable nature he neglects his proper obligation he delays the purpose of his life, and in another incarnation he will have to play it out. If he builds into that group’s causal body (the composite product of the several lines) aught that has not its place properly there, he aids not but hinders, and again that involves danger. Let me illustrate, for clarity is desired:—A student is affiliated with a group that has an over-preponderance of devotees, and he has come in for the express purpose of balancing that quality with another factor, that of wise discrimination and mental balance. If he permits himself to be overcome by the group thoughtform and becomes himself a devotee, following a devotional meditation and unwisely omitting to balance that group’s causal body, he runs into a danger that hurts not only himself but the group to which he belongs.

2. Ở cõi tình cảm. Trên cảnh giới này y thuộc vào nhiều nhóm, như là— On the emotional plane: Here he belongs to several groups such as:—

  1. Nhóm gia đình của y ở cõi tình cảm, nhóm này chính thực là nhóm của y hơn là gia đình mà y đầu thai ở cõi trần. Các bạn sẽ thấy điều này được chứng nghiệm nhiều lần trong cuộc sống, khi những người thuộc một gia đình ở cõi tình cảm gặp lại nhau ở cõi trần. Họ nhận biết nhau ngay.
  2. Lớp học trong Phòng Học tập mà y được xếp vào, và nhận được nhiều giáo huấn trong đó.
  3. Đoàn Cứu trợ Vô hình mà có thể y đang cộng tác, và Đoàn Người Phụng sự.

Y có những nghĩa vụ và công việc phải làm trong các nhóm này và tất cả đều phải được xem xét khi nghiên cứu [119] áp dụng cho y một phương pháp thiền đúng đắn. Tham thiền phải làm tăng khả năng trả nợ nghiệp quả của môn sinh, phải đem lại cho y cái nhìn sáng tỏ, sự xét đoán khôn ngoan và hiểu biết được công việc nào phải thi hành ngay. Bất cứ những gì đi ngược lại điều này đều nguy hiểm.

a—His emotional plane family group, which is more thoroughly his own group than the family into which he happens to be born on the physical plane. You will see this demonstrated many times in life when members of an emotional plane family contact each other on the physical plane. Instant recognition ensues.

b—The class within the Hall of Learning to which he is assigned and in which he receives much instruction.

c—The band of Invisible Helpers with whom he may be working and the band of Servers.

All these groups involve obligation and work and all must be allowed for in studying the wise use of meditation. [119] Meditation should increase a man’s capacity to discharge his karmic debts, giving clear vision, wise judgment and a comprehension of the work of the immediate moment. Anything that militates against this is dangerous.

3. Ở cõi trí. Những nhóm trên cõi này có thể kể ra như sau— On the mental plane: The groups to be found there may be enumerated as follows: —

  1. Những nhóm đệ tử Chân sư mà y có liên hệ và đang làm việc với họ. Đây thường chỉ là trường hợp mà người môn sinh đang thanh toán nghiệp quả của mình một cách nhanh chóng và đang đến gần cửa Đạo. Vì thế, y nên được Chân sư của y trực tiếp hướng dẫn cách tham thiền, và bất cứ phương thức nào đem áp dụng mà không phù hợp với nhu cầu của y đều đem đến những yếu tố nguy hiểm, vì những rung động và những mãnh lực phát sinh ở cõi trí thì mạnh mẽ hơn ở các cõi thấp rất nhiều.
  2. Nhóm Chân nhân của y. Nhóm này quan trọng nhất, vì nó liên hệ đến sự cứu xét cung của môn sinh khi ấn định phương pháp thiền. Vấn đề này đã phần nào được đề cập đến.

Như các bạn thấy, tôi không đặc biệt nói đến những mối nguy hiểm riêng cho một thể nào. Không thể bàn vấn đề theo cách đó. Sau này, khi tham thiền huyền môn được mọi người hiểu biết nhiều hơn và vấn đề này được nghiên cứu một cách khoa học, thì bấy giờ tùy theo khả năng các môn sinh sẽ soạn thảo những dữ liệu cần thiết và những thiên khảo luận về toàn bộ vấn đề. Tuy nhiên, tôi xin có lời khuyến cáo rằng tôi chỉ vạch ra con đường,—các huấn sư nội môn ít khi nào làm hơn điều đó. Chúng tôi nhắm đến việc đào tạo, phát triển những nhà tư tưởng, những người có tầm mắt sáng tỏ, có khả năng suy luận hợp lý. Chúng tôi làm việc đó bằng cách dạy mọi người tự phát triển, tự mình suy nghĩ, tự suy xét để giải quyết các vấn đề khó khăn của mình, và tự trau giồi đức hạnh. Đó là Đường Đạo….

a—The groups of pupils of some one Master to Whom he may be attached, and with Whom he may be working. This is usually only the case when the man is rapidly working out his karma and is nearing the entrance to the Path. His meditation, therefore, should be directly under the guidance of his Master, and any formula followed that is not adjusted to a man’s need carries with it elements of danger, for the vibrations set up on the mental plane and the forces engendered there are so much more potent than on the lower levels.

b—The egoic group to which he belongs. This is most important for it involves the consideration of the man’s ray in the apportioning of meditation. This matter has already been somewhat touched upon.

As you will see, I have not specified certain dangers attacking any particular body. It is not possible to cover the subject thus. In later days, when occult meditation is more comprehended and the matter scientifically studied, students will prepare the necessary data and treatises covering the entire subject as far as then may be. I sound, however, a note of warning, I indicate the way,—the teachers on the inner side seldom do more. We aim at developing thinkers and men of clear vision, capable of logical reasoning. To do this we teach men to develop themselves, to do their own thinking, reason out their own problems, and build their own characters. Such is the Path…. [120]

 

Ngày 03-8-1920.

Những nguy hiểm do các mãnh lực tinh vi gây ra. Dangers arising from subtle forces.

. . . Sáng nay chúng ta bàn đến phần cuối của vấn đề các nguy hiểm có thể phát sinh trong tham thiền. Chúng ta đã bàn đôi điều về những nguy hiểm sẵn có trong ba hạ thể. Chúng ta đã đề cập đến những nguy hại có thể xảy ra khi không để ý đến nghiệp quả của nguời môn sinh và các liên kết của y với nhóm. Vấn đề hôm nay thật khó khăn. Chúng ta phải bàn đến những nguy hiểm do những người, những mãnh lực, những sinh linh và những nhóm đang hoạt động ở các cảnh giới ẩn vi hơn cõi trần gây ra. Sự khó khăn này có ba lý do:—

  1. Người môn sinh trung bình không hiểu được tính chất của các mãnh lực này và không biết được thành viên của các nhóm ở những cõi ẩn vi.
  2. Mối nguy khi tiết lộ những điều không cần thiết trong một cuốn sách công truyền.
  3. Mối nguy về mặt huyền môn mà người chưa được điểm đạo ít biết đến. Điều này là do khi bàn thảo các vấn đề này tất yếu sẽ phát sinh việc tập trung tư tưởng. Điều này sẽ phát sinh các sóng tư tưởng, tiếp xúc với những dòng mãnh lực và hình tư tưởng lưu chuyển gây sự chú ý của các đối tượng đang bị bàn đến. Điều này đôi khi có thể đưa đến những hậu quả không hay. Vì thế, tôi sẽ chỉ bàn vắn tắt thôi. Ở các nội giới, chúng ta sẽ có được sự bảo vệ và ánh sáng hiểu biết cần thiết.

…We have for our topic this morning the final section of our letter on the dangers incidental to meditation. We have dealt somewhat with individual dangers inherent in the three bodies; we have touched upon the risks that may be run when the karma of the student and his group affiliations are overlooked. Today the subject involves real difficulty. We have to deal with the dangers that may arise from forces and persons, from entities and groups working on the subtler planes. The difficulty arises in three ways:—

l—The ignorance of the average student as to the nature of those forces and as to the personnel of the groups on the subtler planes.

2—The risk of revealing more than would be wise in an exoteric publication.

3—An occult risk that is little comprehended by the uninitiated. It lies in the fact that in the concentration of thought that necessarily arises in discussing these problems, thought-waves are set in motion, currents are contacted and thoughtforms circulated that attract the attention of those under discussion. This may lead at times to undesirable results. Therefore, I shall with brevity touch upon the subject. Upon the inner planes the needed light and protection are afforded.

 

Ba nhóm thực thể:—

Có thể xếp các nhóm thực thể này thành ba hạng:—

  1. Những nhóm vong linh lìa trần, ở trong thể cảm dục hay thể trí.
  2. Các thiên thần, làm việc riêng hay từng nhóm.
  3. Những huynh đệ Hắc đạo. [121]

Chúng ta hãy xem xét kỹ từng phần, và trước hết đặt nền tảng cho sự hiểu biết bằng cách nêu ra rằng những nguy hiểm phát sinh do tình trạng ba hạ thể của người môn sinh đôi khi có thể là hiệu quả của tham thiền. Các tình trạng đó là:—

Three groups of entities:—

These groups of entities can be differentiated in a threefold manner:—

l—Groups of discarnate beings on either the emotional or the mental planes.

2—Devas, either singly or in groups.

3—The dark Brotherhood. [121]

Let us take each division and deal with it carefully, first laying the foundation of knowledge by pointing out that the dangers arise from a threefold condition of the bodies of the student which may be the result sometimes of meditation. These conditions are:

Tình trạng tiêu cực khiến cho cả ba hạ thể Phàm nhân trở nên yên lặng và thụ cảm, và do đó bỏ ngỏ cho những dân cư của các cõi khác đang chờ chực tấn công.

Tình trạng dốt nát hay khờ dại, cố liều lĩnh sử dụng một vài phương thức và những câu chú mà không được phép của vị Huấn sư, khiến người môn sinh liên hệ đến một số nhóm thiên thần, khiến y tiếp xúc với các thần của cõi cảm dục hay cõi trí. Do hành động thiếu hiểu biết này, y làm bia cho họ tấn công và làm món đồ chơi cho bản năng hủy hoại của họ.

Tình trạng ngược lại với tình trạng trên, khiến cho người môn sinh trở thành tích cực và vì thế mà trở thành đường truyền cho thần lực và quyền năng. Trong trường hợp này, người môn sinh tiến hành vận dụng dòng điện lưu của các cõi ẩn vi theo định luật hay quy luật huyền môn và dưới sự hướng dẫn của Sư phụ y. Y trở thành một trung tâm chú ý của những người chống lại Chánh đạo.

A negative condition that makes the entire three bodies of the personality receptive and quiescent, and open therefore to the attack of the watching denizens of other planes.

A condition of ignorance or foolhardiness that, in attempting to use certain forms and mantrams without the permission of the Teacher, involves the student with certain groups of devas, bringing him into contact with the devas of the emotional or mental planes and making him therefore (through his ignorance) the butt of their attack and the plaything of their destructive instincts.

A condition which is the reverse of the above, which makes a man positive and a channel, therefore, for force or power. When this is the case, the man proceeds, under occult rule or law and with the aid of his Teacher, to wield the electrical fluid of the inner planes. He becomes then a centre of the attention of those who strive against the Brothers of Light.

Hai tình trạng đầu là hậu quả của việc hành thiền không khôn ngoan và thiếu hiểu biết, còn tình trạng cuối thường là phần thưởng của sự thành công. Trong hai trường hợp đầu việc chữa trị do chính người môn sinh thực hiện bằng cách khôn ngoan sửa đổi loại tham thiền và áp dụng thận trọng hơn. Trong trường hợp thứ ba thì có nhiều cách đối trị sau này tôi sẽ chỉ dẫn.

The first two conditions are all the result of meditation unwisely and ignorantly practised, the last state of affairs is frequently the reward of success. In the first two, the remedy lies within the student himself and in the wise correction of the type of meditation and its more careful following; in the third case the remedy must be sought in various ways which I will later indicate.

 

Những nguy hiểm của sự ám ảnh. Dangers of obsession.

Các vong linh thoát trần thường gây ra những mối nguy ám ảnh rõ rệt, hoặc là chỉ tạm trong thời gian ngắn, hay kéo [122] dài lâu hơn. Thậm chí nó có thể kéo dài trong suốt một kiếp sống. Trước đây tôi có viết cho các bạn một bức thư nói về vấn đề này và các bạn có thể dùng để tham khảo thêm. Vì thế, không cần lặp lại ở đây. Chính yếu tôi muốn nhấn mạnh điểm căn bản là sự xâm nhập mà chúng ta gọi là ám ảnh này phần lớn là do thái độ tiêu cực của người môn sinh khi y dại dột thực hành một phương pháp thiền không thích hợp. Do háo hức muốn đón nhận ánh sáng từ cõi trên, do ý quyết tự ép mình cho được tiếp xúc với các huấn sư hay ngay cả Chân sư, và trong cố gắng loại trừ tất cả những tư tưởng và những rung động thấp, người môn sinh phạm sai lầm là làm cho toàn thể phàm ngã trở nên thụ cảm. Thay vì làm cho phàm ngã trở nên vững vàng, tích cực đối với những yếu tố chung quanh, với mọi tiếp xúc ở cõi thấp, và thay vì chỉ để cho “đỉnh chóp của thể trí” (xin tạm gọi như thế) thụ cảm và mở ra đối với những gì được truyền xuống từ các cấp độ trừu tượng hoặc của thể nguyên nhân và thậm chí từ cõi trực giác, thì người môn sinh lại để cho thụ cảm từ mọi phía. Chỉ có một điểm bên trong bộ não là nên để cho thụ cảm, tất cả những gì còn lại trong tâm thức đều phải được phân cực đến mức có thể ngăn được mọi xâm nhập từ bên ngoài. Đây là nói về thể tình cảm và thể trí, dù rằng với đa số nhân loại hiện nay điều này chỉ liên quan đến thể tình cảm mà thôi. Trong thời kỳ đặc biệt này của lịch sử thế giới, dân cư ở cõi tình cảm quá đông đảo, và sự ứng đáp của cõi trần với cõi tình cảm hiện đang trở nên rất mực phù hợp, thế nên mối nguy hiểm của sự ám ảnh lại càng to lớn hơn bao giờ hết. Nhưng các bạn cũng nên mừng vì kết quả ngược lại cũng rất tốt, sự ứng đáp của cõi trần đối với cõi thiêng liêng và sự đáp ứng lẹ làng với nguồn cảm hứng cao siêu thật lớn lao hơn trước rất nhiều. Nguồn cảm hứng thiêng liêng hay “nhập thể thiêng liêng” vốn là đặc ân của những linh hồn tiến hóa, trong những năm tới sẽ được nhiều người hiểu rõ, và nhất định sẽ là một trong những phương [123] pháp được Đức Chưởng Giáo và các Đấng Cao cả phụ tá Ngài sử dụng khi lâm phàm để giúp đỡ thế gian.

Dangers from discarnate entities are frankly those of obsession, either of a temporary nature and lasting for a few moments or more enduring and lasting for a longer [122] period. It may even be permanent and lasting through a lifetime. I have earlier written to you a letter upon this subject which you might here incorporate. We never duplicate effort if it can be avoided. I seek primarily to emphasise the point that this entrance which we call obsession is effected largely through the negative attitude assumed through the unwise following of an unsuitable meditation. In his anxiety to be the recipient of light from above, in his determination to force himself to a place where he can contact the teachers or even the Master, and in his endeavour to eliminate all thought and lower vibrations, the student makes the mistake of rendering his entire lower personality receptive. Instead of making it firmly positive to environing factors and to all lower contacts, and instead of only allowing the “apex of the mind” (if I may use so unusual a term) to be receptive and open to transmission from the causal or the abstract levels and even from the intuitional, the student permits reception from all sides. Only a point within the brain should be receptive, all the rest of the consciousness should be so polarised that outer interference will not be possible. This refers to the emotional and to the mental bodies, though with the majority these days it refers solely to the emotional. At this particular period of the world’s history the emotional plane is so densely populated and the response of the physical to the emotional is now becoming so exquisitely attuned, that the danger of obsession is greater than ever heretofore. But for your cheering—the reverse holds good also, and response to the divine and rapid reaction to the higher inspiration has never been so great. Divine inspiration or that “divine obsession” which is the privilege of all advanced souls, will be understood in the coming years as never before, and will be definitely one of the [123] methods used by the coming Lord and His Great Ones for the helping of the world.

Điều cần nhớ là trong trường hợp có ám ảnh sai lạc thì con người chịu sự chi phối của thực thể ám ảnh và cộng tác trong diễn tiến này, dù vô tình hay miễn cưỡng. Trong sự nhập thể thiêng liêng hành giả tự nguyện hợp tác hữu thức với Đấng muốn linh cảm, nhập thể hay sử dụng các hạ thể của y. Động lực nội tâm của y bao giờ cũng là muốn giúp đỡ nhân loại nhiều hơn trước. Sự giáng nhập như thế không phải là kết quả của một tình trạng tiêu cực mà là sự cộng tác tích cực, tiến hành đúng định luật, trong một thời khoảng cụ thể…Khi nhân loại ngày càng phát triển sự liên tục tâm thức giữa cõi trần và cõi cảm dục và sau đó là cõi trí, thì việc chuyển nhượng các thể sẽ xảy ra thường xuyên hơn và được hiểu biết nhiều hơn.

The thing to be remembered is that in the case of wrong obsession the man is at the mercy of the obsessing entity, and is unconsciously or unwillingly a partner in the transaction. In divine obsession the man consciously and willingly co-operates with the One Who seeks to inspire, or to occupy or employ his lower vehicles. The motive is ever the greater helping of the race. The obsession is then not the result of a negative condition but of a positive collaboration and proceeds under law and for a specific period….As more and more of the race develop continuity of consciousness between the physical and the emotional and later the mental, this act of transference of the vehicles will be more frequent and more understood.

 

Ngày 9-10-1919.

Những Nguyên nhân của Ám ảnh – Causes of Obsession.

Một trong những việc làm trước mắt của người đạo sinh là nghiên cứu và xem xét vấn đề này một cách khoa học. Trong nhiều cuốn sách huyền môn, chúng ta được biết rằng sự ám ảnh và sự điên cuồng có liên quan mật thiết với nhau. Sự điên cuồng có thể có trong cả ba hạ thể, chứng điên cuồng trong thể xác ít tai hại nhất, còn điên cuồng trong thể trí thì kéo dài nhất và khó chữa trị nhất. Điên cuồng trong thể trí là số phận nặng nề giáng xuống những ai đã nhiều kiếp sống trong độc ác ích kỷ, cố ý dùng trí thông minh của y để phục vụ những mục tiêu ích kỷ, dù vẫn biết đó là quấy. Nhưng loại điên cuồng này là một phương tiện mà đôi khi Chân nhân dùng để chặn đứng một người đang tiến về tà đạo. Theo ý nghĩa này thì nó tiềm ẩn một ân huệ. Giờ đây chúng ta hãy bàn trước về những nguyên nhân của sự ám ảnh, còn vấn đề điên [124] cuồng thì hãy để ngày khác. Có bốn nguyên nhân ám ảnh và mỗi nguyên nhân đều có cách chữa trị khác nhau:—

One of the activities ahead of the occult student is the study and the scientific observation of this matter. We have been told in various occult books that obsession and insanity are very closely allied. Insanity may exist in all three bodies, the least harmful being that of the physical body, whilst the most enduring and the hardest to cure is that of the mental body. Insanity in the mental body is the heavy fate that descends upon those who for many incarnations have followed the path of selfish cruelty, using the intelligence as a means to serve selfish ends and using it willfully, knowing it to be wrong. But insanity of this type is a means whereby the Ego sometimes arrests the progress of a man towards the left-hand path. In this sense it is a disguised blessing. Let us deal first with the causes of obsession, leaving the subject of insanity [124] for another day. These causes are four in number and each responds to a different treatment:—

Một nguyên nhân là sự suy yếu rõ rệt của thể dĩ thái ở tấm lưới ngăn cách, giống như một chỗ nới dãn và đàn hồi khiến cho một thực thể ngoại lai trên cõi cảm dục có thể xâm nhập được. Cửa vào hình thành bởi lưới này không được đóng chặt, nên ảnh hưởng bên ngoài có thể xâm nhập. Đây là nguyên nhân thuộc thể xác và là kết quả của sự điều chỉnh sai các chất liệu trong thể xác. Đó là do nghiệp quả có trước khi sinh và biểu hiện ngay khi đứa bé chào đời. Thường thì người bệnh có thể xác yếu đuối, trí tuệ suy kém, nhưng lại có thể cảm dục rất mạnh, bị ám ảnh, cố phấn đấu, chiến đấu mãi để ngăn chặn sự xâm nhập. Sự ám ảnh thỉnh thoảng xảy ra và thường tấn công nữ giới hơn là nam giới.

One cause is a definite weakness of the etheric double, in the separating web, which like a piece of relaxed elastic permits entry of an extraneous entity from the emotional plane. The door of entrance which is formed by this web is not closed tight, and entrance can be effected from without. This is a physical plane cause, and is the result of the maladjustment of physical plane matter. It is the result of karma, and is prenatal, existing from the earliest moment. Usually the sufferer is physically weak, intellectually feeble, but possessed of a powerful emotional body which suffers and fights and struggles to prevent entrance. The attacks are intermittent, and more frequently attack women than men.

Một nguyên nhân khác nữa là do thể tình cảm, sự thiếu điều hợp giữa thể tình cảm và thể xác. Thế nên ban đêm lúc ngủ khi hành giả hoạt động trong thể tình cảm, y khó trở về với xác thân. Các sinh linh khác thừa dịp này nhập vào thân xác y, và Chân nhân không thể vào trú ngụ. Đây là hình thức ám ảnh thông thường nhất, ảnh hưởng đến những người có thể xác khỏe, các rung động tình cảm mạnh mẽ nhưng thể trí yếu kém. Trong sự chống chỏi của nạn nhân, tình trạng ám ảnh này đưa đến sự la hét trong điên loạn và những cơn động kinh. Nam giới dễ bị ám ảnh lối này hơn nữ giới, vì nữ giới thì được phân cực rõ rệt hơn trong thể cảm dục.

Another cause is due to emotional reasons. A lack of co-ordination exists between the emotional and the physical and when the man functions in the emotional body (as at night) the moment of re-entry is attended with difficulty, and opportunity exists for other beings to enter the physical vehicle, and prevent its occupation by the real Ego. This is the most common form of obsession, and affects those with powerful physical bodies and strong astral vibrations, but with weak mental bodies. It leads, in the ensuing struggle, to the violent scenes of screaming lunatics and to the paroxysms of the epileptic. Men are more subject to this than women, as women are usually more definitely polarised in the emotional body.

Ám ảnh trong thể trí là loại ít khi xảy ra. Trong thời gian tới, khi thể trí ngày càng được phát triển, có lẽ trường hợp này sẽ có nhiều hơn. Ám ảnh thể trí tức là sự xâm chiếm trên cõi trí—vì vậy ít khi xảy ra. Thể xác và thể tình cảm vẫn còn hợp thành một đơn vị, nhưng Người suy tưởng (Linh hồn) [125] bị bỏ lại trong thể trí, trong khi thực thể ám ảnh (dùng lớp áo bằng vật chất cõi trí) nhập vào hai thể kia. Trong trường hợp ám ảnh thể tình cảm thì linh hồn bị bỏ lại trong thể tình cảm và thể trí mà không có thể xác. Còn trong trường hợp sau (ám ảnh thể trí) thì linh hồn không ở trong thể tình cảm cũng như thể xác. Nguyên do là thể trí phát triển quá độ, còn thể tình cảm và thể xác thì tương đối yếu ớt. Đối với hai thể này thì linh hồn quá mạnh nên không thèm sử dụng chúng. Người này chỉ thích làm việc trên cõi trí, vì thế mà tạo cơ hội cho các thực thể ám ảnh khống chế. Như tôi đã nói, điều này ít khi xảy ra và là kết quả của sự phát triển thiên lệch. Nam giới và nữ giới đều có thể bị tấn công. Tình trạng này thường biểu lộ từ bé thơ và rất khó chữa trị.

A rarer kind of obsession is the mental. In coming days as the mental body develops, one may expect perhaps to see more of it. Mental obsession involves the displacement taking place on the mental levels—hence its rarity. The physical body and the emotional body remain as a unit, but the Thinker is left in his mental body, [125] whilst the obsessing entity (clothed in mental matter) enters the two lower vehicles. In the case of emotional obsession the Thinker is left with his emotional body and his mental body but with no physical. In this latter case he is left with neither emotional nor physical. The cause lies in the fact of the over-development of the mental, and of the relative weakness of the emotional and physical bodies. The Thinker is too powerful for his other bodies and disdains their use; he is too interested in work on mental levels, and thus gives opportunity to obsessing entities to assume control. This, as I said before, is rare and is the result of lop-sided development. It attacks women and men equally; it principally shows itself in childhood and is difficult to cure.

Một nguyên nhân ám ảnh khác hiếm có hơn nữa và rõ ràng là việc làm của các Anh em Hắc đạo. Đó là việc cắt đứt sợi dây từ điện nối liền Chân nhân với thể xác, để người ấy ở trong thể tình cảm và thể trí. Thường điều này làm chết thể xác, trừ trường hợp vị Hắc đạo dùng thể xác ấy, nhập vào nó và nối kết nó với sợi dây từ điện của y. Những trường hợp này không thường thấy và chỉ liên hệ đến hai hạng người:—

A still rarer cause of obsession is definitely the work of the dark Brothers. It takes the form of snapping the magnetic link that attaches the Ego to the lower physical body, leaving him in his emotional and mental bodies. This would normally result in the death of the physical body, but in cases such as these the dark Brother, who is to use the physical body, enters it and makes connection with his own cord. These cases are not common. They involve only two classes of people:—

Những người đã tiến hóa cao trên Đường Đạo, nhưng trong một kiếp đã vì một khuyết điểm cố ý nào đó nên thất bại và tự để cho lực lượng hắc ám chi phối. Tội lỗi (như các bạn thường gọi) trong phàm nhân của người đệ tử tạo nên một nhược điểm, và nhược điểm này bị lợi dụng. Loại ám ảnh này biểu lộ trong sự biến đổi mà đôi khi chúng ta thấy một linh hồn cao cả bỗng nhiên lao vào con đường đồi trụy rõ rệt, khi y hoàn toàn chuyển hướng cuộc đời và dùng bùn nhơ bôi bẩn bản tánh đẹp đẽ của mình. Việc làm này tất sẽ mang lại hình phạt, vì ở nội giới người đệ tử theo dõi điều đó, trí y [126] đau khổ khi thấy hạ thể bôi nhọ danh dự vị chủ nhân thực sự của nó và khiến cho một sự nghiệp đáng quý phải mang tiếng xấu.

Người ít tiến hóa thì có cấu tạo yếu kém nên không thể chống lại được sự ám ảnh này.

Those who are highly evolved and on the Path, but who through some wilful shortcoming fail for some one incarnation and so lay themselves open to the evil force. Sin (as you call it) in the Personality of a disciple leads to a weakness in some one spot, and this is taken advantage of. This type of obsession shows itself in the transformation that is sometimes seen when a great soul suddenly plunges on an apparent downward path, when he changes the whole trend of his existence and besmirches a fair character with mud. It carries with it its own punishment, for on the inner planes the disciple looks [126] on, and in agony of mind sees his lower vehicle dishonouring the fair name of its real owner and causing evil to be said of a loved cause.

The little evolved, weakly organised, and so unable to resist.

Các loại thực thể ám ảnh. The Kinds of Obsessing Entities.

Nếu nói chi tiết thì có rất nhiều loại, nhưng tôi chỉ kể ra đây vài loại thôi.

  1. Những sinh linh hạng thấp đã từ trần, đang chờ đầu thai, có ý muốn và chực chờ cơ hội ám ảnh, ở trường hợp một và hai.
  2. Những người tự tử, đang băn khoăn muốn chuộc lại hành động sai lầm này và muốn trở lại cõi trần.
  3. Những vong linh quyến luyến cõi trần, dù tốt hay xấu, họ đang khắc khoải âu lo cho những người thân yêu của họ, về công việc làm ăn, hay nóng lòng muốn làm một việc quấy hoặc chuộc lại một hành động độc ác nào đó, họ xâm nhập để chiếm thể xác như trong trường hợp một và hai.
  4. Các vị Hắc đạo thường lợi dụng các trường hợp ba và bốn như tôi đã nói. Họ cần những thể đã phát triển cao, chứ không dùng những thể yếu ớt hay chưa được tinh luyện. Trong trường hợp ba, sự yếu kém chỉ là tương đối, do quá chú ý đến thể trí.
  5. Những loài tinh linh và những sinh linh thấp kém hơn con người, có tính độc ác, chúng rình rập bất cứ cơ hội cỏn con nào và ở nơi nào chúng thấy có sự rung động tương ứng.
  6. Vài loại thiên thần bậc thấp, vô hại nhưng ưa phá khuấy, vì tinh nghịch và đùa giỡn mà tìm cách nhập vào một cơ thể khác giống như trẻ con ưa mặc quần áo lạ kiểu để làm trò.
  7. Những du khách từ các hành tinh khác, đôi khi đến và nhập vào một số cơ thể tiến hóa cao vì mục đích riêng. Nhưng trường hợp này rất, rất hiếm hoi…

These are too numerous to mention in detail but I might enumerate a few.

l—Discarnate entities of a low order awaiting incarnation, and who see, in cases one and two, their wanted opportunity.

2—Suicides, anxious to undo the deed and to again get into contact with earth.

3—Earth-bound spirits, good and bad, who from anxiety over loved ones, over their business affairs, or eager to do some wrong or to undo some evil act, rush in and take possession of cases one and two.

4—Dark Brothers as aforesaid, who avail themselves principally of the third and fourth cases already cited. They require highly developed bodies, having no use for weak or unrefined bodies. In case three the weakness is entirely relative, due to over-accentuation of the mental vehicle.

5—Elementals and subhuman entities of a malicious nature who rush in on the slightest opportunity and where kindred vibration may be felt.

6—Some of the lower devas, harmless but mischievous[1] who, from sheer freakishness[2] and fun, enter another body in much the same way that a child loves to dress up.

7—Occasional visitors from other planets who enter certain highly evolved bodies for purposes of their own. This is very, very rare…. [127]

 

Giờ đây tôi chỉ cho các bạn một vài phương pháp mà rốt cuộc sẽ là những cố gắng đầu tiên để chữa trị.

Let me now give you some of the methods that eventually will be the first attempts at cure.

Trong những trường hợp thuộc loại đầu tiên, đối với người có thể chất yếu kém, thì trước hết sự chữa trị phải chú trọng vào việc kiến tạo thể chất mạnh mẽ, cả thể xác và dĩ thái, nhất là thể dĩ thái. Trong những năm sau này, điều đó sẽ được thực hiện với sự giúp đỡ trực tiếp của các vị thiên thần tạo hình (những thiên thần màu tím hay những thiên thần ở các cấp dĩ thái). Việc tăng cường lưới dĩ thái sẽ được trợ giúp bằng cách dùng ánh sáng tím, với âm thanh tương ứng của nó, áp dụng trong những dưỡng đường yên tĩnh. Cùng với việc chữa trị này là cố gắng tăng cường thể trí. Khi thể xác được tăng cường, những cuộc tấn công sẽ thưa dần để cuối cùng dứt hẳn.

In the first type of cases, those due to physical plane weakness, the stress of the cure will be laid first on building up a strong physical body in both its departments, though especially the etheric body. This will be done in future years with the direct aid of the devas of the shadows (the violet devas or devas of the ethers). The strengthening of the etheric web will be aided by means of the violet light, with its corresponding sound, administered in quiet sanitariums. Coincident with this treatment will be the attempt to strengthen the mental body. With the strengthening of the physical body will come longer and longer periods of freedom from attack. Eventually the attacks will cease altogether.

Khi nguyên nhân là thiếu sự điều hợp giữa thể xác và thể tình cảm thì những phương pháp chữa trị đầu tiên sẽ là cách trừ tà nhờ những câu chú và nghi lễ (như nghi lễ tôn giáo). Những người có đủ khả năng sẽ dùng các câu chú này vào ban đêm, khi người ta cho rằng thực thể ám ảnh vắng mặt lúc bệnh nhân ngủ. Các câu chú này sẽ kêu gọi vị chủ nhân thực sự (của các thể) trở lại, sẽ tạo một bức tường bảo vệ sau khi chủ nhân nhập xác, và bắt buộc kẻ ám ảnh phải ở ngoài. Khi chủ nhân thực sự đã trở về, thì việc sau đó là giữ y lại trong thể xác. Việc giảng huấn ban ngày và biện pháp bảo vệ ban đêm cho bệnh nhân, thực hiện trong thời gian lâu hoặc mau, sẽ từ từ loại ra kẻ chiếm đoạt hay mượn xác bất hảo, và theo thời gian nạn nhân sẽ tiếp tục được thêm an toàn. Vấn đề này về sau tôi sẽ nói thêm.

When the cause is lack of co-ordination between the physical and the emotional vehicles the first methods of cure will be definite exorcism[3] by the aid of mantrams and ceremonial (such as religious ritual). Qualified persons will use these mantrams at night when the obsessing entity may be supposed to be absent during the hours of sleep. Those mantrams will call the real owner back, will build a protective wall after his re-entry and will seek to force the obsessing one to stay absent. When the real owner has returned, the work then will be to keep him there. Educative work during the day and protective measures at night for longer or shorter periods will gradually eliminate the evil occupant, or unwanted tenant, and in the course of time the sufferer will continue to procure immunity. More anent this can later be given.

Trong trường hợp ám ảnh thể trí thì vấn đề càng khó hơn. Hầu hết những cuộc chữa trị thành công trong tương lai đều tập trung vào hai nhóm bệnh nhân đầu tiên. Chứng ám ảnh thể trí phải đợi có sự hiểu biết rộng rãi hơn, dù cần phải [128] thí nghiệm ngay từ đầu. Hầu hết công việc sẽ phải làm đều từ cõi trí, bởi những người có thể hoạt động ở đó một cách tự do, để tiếp xúc với linh hồn trong thể trí của y. Phải có sự hợp tác của linh hồn bệnh nhân để phối hợp mở cuộc tấn công vào thể tình cảm và thể xác đã bị ám ảnh. Ban đêm, phương pháp chữa trị của hai trường hợp đầu sẽ được đem dùng phần lớn, nhưng trong trường hợp sau, linh hồn phải chiếm lại cả hai thể xác và tình cảm, vì thế nên hết sức khó khăn. Thường thì kết quả là cái chết.

Trong trường hợp cắt đứt sợi dây từ điện thì hiện nay chưa có cách nào trị được.

Where mental obsession is involved the matter is more difficult. Most of the first cures achieved in the future will centre around the first two groups. Mental obsession must await greater knowledge, though experimentation [128] from the very first should be undertaken. The work will have to be done mostly from the mental plane by those who can function there freely and so contact the Thinker in his mental body. The co-operation of the Thinker must then be procured and a definite attack conjointly made on the obsessed physical and emotional bodies. During the night much of the work in the first two cases of cures will be done, but in the latter case the Thinker has to win back his physical and his emotional bodies as well, hence the exceeding difficulty. Death often eventuates in these cases.

In the severing of the magnetic cord naught can be done as yet.

Những nguy hiểm từ trường tiến hóa thiên thần. Dangers from the deva evolution.

Điểm thứ nhì này còn phức tạp hơn. Các bạn nhớ chăng trước đây tôi đã nói rằng có thể tạo sự tiếp xúc với các thiên thần bằng những câu chú và những phương thức đặc biệt, và sự tiếp xúc này có thể gây nguy hiểm cho kẻ bất cẩn. Hiện nay, điều này thật nguy hiểm lạ thường, vì các lý do sau đây:

This second point is more complex. You will remember how it has been said earlier in these letters that contact with the devas can be brought about through specific forms and mantrams and that in this contact lies peril for the unwary. This danger is curiously real now, owing to the following reasons:

a. Sự nhập cuộc của cung màu tím, tức là Cung Nghi thức hay Cung bảy đã làm cho sự tiếp xúc này được thực hiện dễ dàng hơn từ trước đến nay. Vì thế, đây là cung giúp hai trường tiến hóa liên kết (nhân loại và thiên thần) có thể tiến đến gần và gặp gỡ nhau, bằng cách sử dụng nghi lễ và những phương thức ấn định sẵn, kết hợp với chuyển động chuẩn mực nhịp nhàng. Vấn đề này sẽ rõ rệt khi sử dụng các nghi thức, và những người đồng tử đều xác nhận sự thực là điều này đã được chứng minh trong cả nghi lễ của giáo hội Thiên Chúa và Hội Tam điểm. Sự tiếp xúc này ngày càng nhiều, và có nguy cơ không tránh khỏi bị nhiều người biết, và vì thế mà ảnh hưởng đến những kẻ bất cẩn theo nhiều lối khác nhau. Như [129] các bạn biết, hiện nay Thánh Đoàn của Địa cầu đang có nỗ lực rõ rệt nhằm truyền đạt cho giới thiên thần phần hành của họ trong Thiên cơ, và phần việc mà Nhân loại cũng phải thực hiện. Nỗ lực đó đang được từ từ tiến hành và tất sẽ mang lại một số kết quả nhất định. Trong những bức thư này, tôi không có ý bàn với các bạn về vai trò của nghi lễ và các câu chú đặt sẵn, trong cuộc tiến hóa của thiên thần và nhân loại. Tôi chỉ nêu ra mối nguy cho con người khi họ khờ dại sử dụng những phương thức kêu gọi các thiên thần, khi họ thử dùng Thánh ngữ với mục đích tiếp xúc với các vị thần kiến tạo (vốn chịu ảnh hưởng của Thánh ngữ rất lớn), và khi họ cố tọc mạch muốn biết những bí mật của nghi lễ và các chi tiết phụ thuộc về màu sắc và âm thanh. Về sau, khi người môn sinh đã bước qua cửa điểm đạo, y sẽ biết được điều đó cùng những kiến thức cần thiết để làm việc đúng định luật. Khi theo đúng luật thì không có ẩn chứa mối nguy nào cả.

a—The coming in of the violet ray, the seventh or Ceremonial Ray, has rendered this contact more easy of attainment than heretofore. It is therefore the ray on which approximation is possible, and in the use of ceremonial and of set forms, coupled to regulated rhythmic movement, will be found a meeting place for the two allied evolutions. In the use of ritual this will be apparent, and psychics are already bearing witness to the fact that both in the ritual of the Church and in that of Masonry this has been evidenced. More and more will this be the case, and it carries with it certain risks that will inevitably work themselves into common knowledge and thus affect in various ways the unwary sons of men. [129] As you know, a definite effort is being made at this time by the Planetary Hierarchy to communicate to the devas their part in the scheme of things, and the part the human family must likewise play. The work is slow, and certain results are inevitable. It is not my purpose to take up with you in these letters the part that ritual and set mantric forms play in the evolution of devas and of men. I only desire to point out that danger for human beings lies in the unwise use of forms for the calling of the devas, in experimenting with the Sacred Word with the object in view of contacting the Builders who are so largely affected by it, and in endeavouring to pry into the secrets of ritual with its adjuncts of colour and of sound. Later on, when the pupil has passed the portal of initiation, such knowledge will be his, coupled with the necessary information that teaches him to work with the law. In the following of the law, no danger lurks.

b. Nhân loại đang có quyết tâm cao độ muốn xuyên thấu bức màn bí mật, và muốn tìm ra những gì chưa biết trong cõi vô hình. Ở bất cứ đâu người ta cũng ý thức được những quyền năng đang khai mở trong tâm họ mà tham thiền làm tăng cường. Họ nhận thấy rằng nếu thận trọng theo đúng một số qui luật, họ sẽ trở nên nhạy cảm hơn đối với những hình ảnh và âm thanh của các cảnh giới nội tại. Họ thoáng thấy những điều chưa được biết. Thỉnh thoảng, trong những giây phút hiếm hoi, nhãn quan bên trong tạm thời khai mở, họ nghe thấy được trên cõi tình cảm hay cõi trí. Họ thấy được những thiên thần trong cuộc gặp gỡ có dùng nghi thức. Họ nghe được âm thanh hay tiếng nói cho họ biết những sự thực mà họ nhìn nhận là đúng. Con người đang bị cám dỗ quá mạnh muốn phải có sự tiếp xúc, muốn kéo dài giờ tham thiền, muốn thử một vài phương pháp hứa hẹn tăng cường khả năng thần thông của họ. Họ cưỡng bách làm những điều đó một cách bất cẩn và rước lấy thảm họa. Tôi xin đưa ra đây một vài lời ngụ [130] ý:— Có thể nói theo nghĩa đen rằng tham thiền tức là đùa với lửa. Các thiên thần ở cõi trí vận dụng những luồng lửa tiềm ẩn của thái dương hệ, nên đương nhiên họ vận dụng được các loại lửa ẩn tàng của con người ở nội tâm. Thật là đáng tiếc nếu chúng ta để cho mình trở thành món đồ chơi của họ và bị hủy diệt trong tay họ. Điều tôi nói đây là sự thực, chứ không phải là lời lẽ của một bộ óc ưa tưởng tượng chuyện kỳ lạ, hão huyền. Hãy cẩn thận khi đùa với lửa.

b—The race is possessed of a strong determination to penetrate within the veil, and to find out what lies on the other side of the unknown. Men and women everywhere are conscious within themselves of budding powers which meditation enhances. They find that by the careful following of certain rules they become more sensitive to the sights and sounds of the inner planes. They catch fleeting glimpses of the unknown; occasionally and at rare intervals, the organ of inner vision temporarily opens and they hear and see on the astral or the mental plane. They see devas at a meeting in which ritual has been employed; they catch a sound or a voice that tells them truths that they recognise as true. The temptation to force the issue, to prolong meditation, to try out certain methods that promise intensification of psychic faculty is too strong. They unwarily force matters and dire disaster results. One hint here I give:- In meditation [130] it is literally possible to play with fire. The devas of the mental levels manipulate the latent fires of the system and thus incidentally the latent fires of the inner man. It is woefully possible to be the plaything of their endeavour and to perish at their hands. A truth I speak here; I give not voice to the interesting chimeras[4] of a fanciful brain. Beware of playing with fire.

c. Giai đoạn chuyển tiếp này có rất nhiều điều nguy hiểm kể trên. Hiện nay chưa kiến tạo được loại cơ thể thích hợp để gìn giữ và vận dụng mãnh lực huyền bí, nên việc sử dụng những thể hiện có trong công việc nói trên chỉ mang lại tai ương cho người môn sinh nhiều tham vọng. Khi một người bắt đầu theo đuổi con đường hành thiền huyền môn, y phải cần khoảng mười bốn năm để tái tạo các thể thanh cũng như thể xác của y. Trong suốt thời gian đó, y không nên chạm đến những điều chưa biết để giữ an toàn. Vì chỉ những người nào có thể xác mạnh mẽ đã được tinh luyện, có thể cảm dục quân bình, ổn định, đã chủ trị, và thể trí có vân thích hợp, mới được vào những cảnh giới cao siêu và thực sự làm việc với Fohat, vì đó là việc làm của đệ tử huyền môn. Thế nên, ở khắp nơi tất cả các Huấn sư minh triết đều nhấn mạnh rằng Con đường Tinh luyện phải đi trước Con đường Khai ngộ. Các Ngài nhấn mạnh rằng phải kiến tạo khả năng tinh thần trước khi được phép mở quan năng thần thông an toàn. Các Ngài đòi hỏi môn sinh phải phụng sự nhân loại hằng ngày, trong suốt cuộc đời, trước khi y được phép vận dụng những sức mạnh của thiên nhiên, được phép chế ngự các tinh linh, hợp tác với các thiên thần và được học các phương thức và nghi lễ, những câu thần chú và các khẩu quyết để làm phát lộ các mãnh lực ấy.

c—This transition period is largely responsible for much of the danger. The right type of body for the holding and the handling of the occult force has not yet been built, and in the interim the bodies now in use but spell disaster to the ambitious student. When a man starts out to follow the path of occult meditation, it takes well-nigh fourteen years to rebuild the subtle bodies, and incidentally the physical. All through that period it is not safe to tamper with the unknown for only the very strong refined physical body, the controlled stable and equalised emotional body and the properly striated mental body can enter into the subtler planes and literally work with Fohat, for that is what the occult does. Therefore is the emphasis laid by all wise Teachers everywhere on the Path of Purification, which must precede the Path of Illumination. They lay the emphasis on the building in of spiritual faculty before psychic faculty can be safely permitted; they demand service to the race every day throughout the scope of life before a man may be permitted to manipulate the forces of nature, to dominate the elementals, to co-operate with the devas, and to learn the forms and ceremonies, the mantrams and the key-words, that will bring those forces within the circle of manifestation.

3 Comments

  1. jupiter nguyen

    Đây là lần đầu mà tôi hiểu được lời dạy này ” – Chăm chăm phát triển bản thân mà không quan tâm đến việc phụng sự là bước vào con đường tà đạo”. Phải chăng chỉ lo cho chính mình là dọn sẵn cho mình sự đau khổ, phiền não và cô đơn ? Và phải chăng cô đơn ( hay cô độc ) là kết quả của sự ích kỷ?

  2. jupiter nguyen

    ” Con đường Tinh luyện phải đi trước Con đường Khai ngộ. Các Ngài nhấn mạnh rằng phải kiến tạo khả năng tinh thần trước khi được phép mở quan năng thần thông an toàn. Các Ngài đòi hỏi môn sinh phải phụng sự nhân loại hằng ngày, trong suốt cuộc đời, trước khi y được phép vận dụng những sức mạnh của thiên nhiên, được phép chế ngự các tinh linh, hợp tác với các thiên thần và được học các phương thức và nghi lễ, những câu thần chú và các khẩu quyết để làm phát lộ các mãnh lực ấy. ” Đúng vậy nếu ta chưa loại bỏ được cái trung tâm bản ngã đó ( lòng ích kỷ dưới bất cứ hình thức nào ) thì việc đeo đuổi các phép luyện thần thông chỉ hoàn toàn vô ích và mất thì giờ ( vì ta sẽ không thể đạt được ) và sẽ gặp tai họa mà thôi.

  3. jupiter nguyen

    … ” Những gì chúng ta đạt được do phấn đấu và nỗ lực thì mãi mãi vẫn còn là của chúng ta “. Đúng vậy , bởi vì không ai có thể lấy đi của ta điều gì mà ta mãi mãi không muốn mất và bởi vì sự tiến hóa là một định luật nên tâm thức của linh hồn ngày càng khôn ngoan và minh triết hơn chứ không thể đi ngược lại. Ôi! giáo huấn của chân sư D.K thật là tuyệt diệu và minh triết vô cùng vì tôi đọc và nghiền ngẫm hoài mà không thấy chán bao giờ. Ôi! giáo huấn của chân sư D.K là giáo huấn siêu đẳng chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

Leave Comment