Khai mở năng lực thông linh (phần 3)
Đây là phần thứ ba của chương “Khai mở các quyền năng thông linh”, trích trong quyển Esoteric Psychology II của Chân sư DK. Do chương khá dài, chúng tôi chia thành 4 phần khác nhau để các bạn tiện theo dõi. Khi đọc các sách của đức DK, các bạn sẽ nhận thấy cách giảng dạy của Ngài đều nhằm hướng đến việc khai mở trí tuệ và trực giác của người đọc. Đó là cách giáo huấn đệ tử truyền thống của Huyền Môn. Ví dụ, trong bài trước, thỉnh thoảng Ngài đưa ra một vài câu nói ẩn ý (“hints”)—mà theo thuật ngữ Ngài dùng là “drop a hint”, và người đọc lướt qua sẽ không nhận ra những ẩn dụ đó. Những ai đọc sách kỹ lưỡng, chăm chú từng dòng, cố hiểu hết những gì Ngài nói, sẽ thấy và hiểu được các ẩn dụ đó. Một điểm khác là những gì Ngài dạy thường nằm rải rác ở nhiều sách, do đó người đọc phải có phương pháp khoa học để ghi chép lại những gì đọc được, sau đó liên kết với những cái tương tự nằm ở chỗ khác. Sau nhiều năm tháng, người đọc sẽ ngày càng hiểu sâu hơn giáo lý Ngài dạy. Cách đây vài chục năm thì việc tra cứu những điều Ngài dạy mất rất nhiều thời gian vì phải làm thủ công, mở từng quyển sách để tra phần index, xong lại mở quyển sách để ghi chép lại những dòng nội dung đó. Ngày nay, với phương tiên máy tính, chúng ta học hỏi nhanh hơn rất nhiều. Với phần mềm trên DVD của Lucis Trust chứa tất cả 24 quyển sách của A.A. Bailey, việc tra một từ, hoặc nhiều từ, rất nhanh chóng. Trong tích tắc chúng ta có kết quả của từ đó trong toàn bộ 24 quyển sách. Thành ra, theo thời gian với tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, con người học đạo lý sẽ tiến bộ nhanh hơn rất nhiều so với trước đây. Chúng tôi nhớ Ngài nói rằng bản thân các Chân Sư và các điểm đạo đồ cũng tiến hoá theo thời gian. Một Chân sư thời kỳ Atlantide sẽ có trình độ thấp hơn một Chân sư ngày nay. Ngài cũng nói, các điều kiện để điểm đạo cũng sẽ thay đổi theo thời gian, theo chiều hướng ngày càng khó hơn. Những gì mà một điểm đạo đồ bậc 3 cần phải có cách đây vài thế kỷ thì bây giờ trở thành điều kiện để được điểm đạo bậc 1 và 2. Còn điều kiện để được điểm đạo bậc 1 và 2 ngày xưa bây giờ thành điều kiện để làm đệ tử tập sự. Con đường đạo cũng như mọi thứ khác trong vũ trụ cũng tiến hoá không ngừng, và bổn phận chúng ta là bắt nhịp kịp với sự tiến hoá chung của vũ trụ.
Sau đây là những gì các bạn cần lưu ý khi đọc phần 3 này. Phần này do Nam Phương dịch:
- Trong khi giảng dạy về các quyền năng thông linh cao và thấp, Ngài lướt sơ qua về cấu trúc các luân xa và hệ thống từ đạo (hay kinh lạc theo Đông Y). Ngài nói rằng luân xa chính (Major center) là nơi mà các từ đạo nadis giao nhau 21 lần. Khi các từ đạo giao nhau 14 lần, ta có một luân xa thứ yếu. Còn luân xa tế vi (minute center) là nơi các từ đạo giao nhau 7 lần. Đây là định nghĩa thuần tuý về mặt kỹ thuật của các luân xa chính, thứ yếu, và tế vi.
- Ngài nói Tham Thiền là một Khoa học—Khoa học về Tham thiền. Khoa học này có mục đích “tạo ra sự lưu chuyển tự do của tất cả các mãnh lực đến con người, sao cho không có trở ngại nào đối với dòng năng lượng của linh hồn tại bất kỳ điểm nào”. Và Khoa học Tham Thiền sẽ bao gồm luôn Khoa Laya-Yoga ở phương diện cao nhất của khoa này. Như vậy, tham thiền huyền môn chắc chắn phải đụng đến các vấn đề về bộ máy năng lượng của con người, các luân xa, các phương pháp thở để điều khiển các dòng năng lượng đó… Nhưng những điều này chỉ được truyền dạy trực tiếp cho người đệ tử tại các trường Nội môn.
- Ngài nói một Chân sư hoặc một nhân vật huyền môn bậc cao khi dùng nhãn thông nhìn vào một người có thể nói chính xác trình độ tiến hoá của người đó, y đã sống bao lâu và sẽ còn sống bao lâu nữa. Hệ thống kinh lạc (nadis) và tình trạng các luân xa nói lên điều này.
- Tại sao các cấu tạo kinh lạc nadis lại nói lên trình độ tiến hoá của một người? Trong bài viết Ngài giải thích như sau:
Khi cuộc tiến hóa diễn tiến và các dòng sinh khí ngày càng chảy tự do hơn dọc theo các từ đạo “nadis”, đi qua các luân xa—luân xa chính, luân xa thứ yếu, và luân xa tế vi—thì sự lưu chuyển và phân phối càng nhanh chóng, kéo theo sự chói sáng của cơ thể gia tăng đều đặn. Các bức tường ngăn cách bên trong lớp vỏ bao quanh các kênh năng lượng tế vi cuối cùng cũng bị tan rả (dưới tác động của mãnh lực của linh hồn) và do đó biến mất. Khi đó các từ đạo “nadis” của các đệ tử cao cấp khoác một hình thức mới cho thấy rằng anh ta bây giờ, chủ yếu và do đó, có bản chất lưỡng phân. Y đã trở thành phàm ngã gắn kết—là linh hồn và phàm ngã. Bây giờ thì mãnh lực của linh hồn có thể chảy thông suốt không trở ngại qua kênh trung tâm của từ đạo “nadi”, còn tất cả các mãnh lực khác có thể chảy không trở ngại xung quanh nó. Chính là trong khi quá trình này đang diễn ra và các lực bên trong các từ đạo “nadis” đang được hòa lẫn và do đó tạo thành một năng lượng mà hầu hết các bệnh tật của nhà thần bí xuất hiện, đặc biệt là những bệnh tật liên quan đến tim.
Đoạn văn trên cũng thuộc dạng “hints” mà Ngài thường nói. Xin giải thích thêm để các bạn rõ. Nhưng trước hết các bạn hãy nhờ lại cấu trúc của từ đạo nadis trong bài trước. Mỗi nadi bao gồm năm ống dẫn nằm trong một vỏ bọc chung. Năm loại prana khác nhau chảy trong 5 ống dẫn này, còn bên ngoài là một lực khác. Khi người đệ tử tiến hoá đến một mức độ nào đó, thì năng lượng của linh hồn tuôn xuống mạnh, các lực lưu chuyển trong các nadis càng nhanh chóng hơn, khiến cho các lớp vỏ bao quanh năm kênh dẫn năng lượng bị phá huỷ, biến mất. Bấy giời cấu trúc của từ đạo nadi chỉ đơn giản là một ống dẫn năng lượng của linh hồn bên trong và xung quanh nó các mãnh lực khác lưu chuyển. Các bạn xem hình sau đây sẽ thấy rõ. Cấu trúc này của các từ đạo được gọi là cấu trúc lưỡng phân, vì con người bấy giờ trở thành “phàm ngã gắn kết” và linh hồn, không còn 4+1 như trước nữa. Các bạn thấy, muốn hiểu được những gì Chân sư DK nói chúng ta phải đọc và nhớ nhiều yếu tố khác nhau.
- Song song với sự thay đổi trong cấu trúc của các nadis, người đệ tử có thể sử dụng hai đường từ đạo Ida va Pingala nằm dọc theo cột sống. Năng lượng bấy giờ có thể lưu chuyển lên và xuống theo 2 kênh Ida và Pingala, từ 2 kênh này sẽ đến các luân xa nằm dọc theo cột sống. Từ các luân xa sẽ phân bổ ra các nadis kế cận luân xa, từ nadis đến các vùng cơ thể xung quanh…
- Ngài nói các bài tập thở đều có hiệu quả nhất định lên các từ đạo và các luân xa (“Đừng ai nghi ngờ về hiệu quả của các bài tập thở…”). Việc tập khí công Pranayama có thể dẫn đến khai mở quá sớm các luân xa và các nadis, dẫn đến những tai hoạ khác nhau. Ta hãy nghe Ngài dạy:
Tôi đã đề cập điều này một cách chi tiết bởi việc thực hành các bài tập thở chắc chắn di chuyển các lực chảy qua các đường từ lực “nadis” và tổ chức lại chúng, thường là quá sớm. Nó thúc đẩy quá trình phá bỏ các bức tường ngăn cách bốn mãnh lực với năng lượng thứ năm, và thúc đẩy quá trình đốt cháy các lưới bảo vệ dọc theo cột sống. [1] Nếu điều này được thực hiện trong khi trọng tâm của đời sống là bên dưới cơ hoành và người đó chưa phải ngay cả là một người mộ đạo hay thông minh, khi đó nó sẽ gây ra sự kích thích quá độ đời sống tình dục, và cũng mở cánh cửa vào cõi trung giới, và do đó gặp nhiều khó khăn về thể chất và bệnh tật. Nói một cách huyền linh, nó “phóng thích những ngọn lửa hạ cấp và con người sẽ bị phá hủy bởi lửa”; khi đó y sẽ không được (như được dự định) là “đám lửa cháy vĩnh viễn và không thể bị phá hủy”. Nếu sự cháy này diễn ra theo một tiến trình cưỡng bức và không phải là theo đúng đường hướng, chắc chắn là sẽ có khó khăn. Khi một người trên Con đường Tinh luyện hoặc Con đường Tập sự, hoặc đang trong giai đoạn đầu của Con đường Đệ tử, y tập trung ý định của mình trên cơ hoành, khi đó sẽ có nhiều nguy cơ của việc phát triển quá mức của tính Vị kỷ, sự kích thích thái quá luân xa tim (hậu quả là sự xuất hiện của các hình thức khác nhau của bệnh tim và tính đa cảm, phát sinh do điều kiện nhóm) và các rắc rối liên quan đến tuyến giáp và bộ não, cũng như các khó khăn liên hệ chủ yếu với tuyến yên. [2]
Chúng tôi cũng xin giải thích thêm đoạn văn ở trên, đối với một số bạn có thể cũng khá khó hiểu. Khi Ngài việc tập các bài tập thở sẽ phá huỷ bức tường ngăn cách bốn mãnh lực và năng lượng thứ năm, thì chúng ta có thể hiểu bốn lực là bốn lực của tứ nguyên hạ (Lower Quaternary), bao gồm thể xác, thể dĩ thái, thể cảm xúc, và thể hạ trí. Khi năng lượng xuất phát từ các thể này, ngọi gọi nó bằng tên gọi “lực”, hay “mãnh lực” (forces), còn một năng lượng (energy) là năng lượng của linh hồn.
Lưới bảo vệ dọc theo cột sống: các bạn đọc lại loạt bài nói về các luân xa. Giữa hai luân xa dọc theo cột sống có lưới dĩ thái bảo vệ. Lưới dĩ thái này có tác dụng ngăn cản sự lưu chuyển năng lượng sớm qua các luân xa trên cột sống. Khi lưới này bị phá huỷ thì năng lượng có thể lưu chuyển hoàn toàn tự do giữa các luân xa, điều này bao gồm các tai hoạ có thể xảy ra.
Người có trọng tâm đời sống dưới cơ hoành là những người có luân xa dưới cơ hoành phát triển mạnh, các luân xa trên cơ hoành chưa phát triển. Những người như thế còn sống nặng về cảm tính, dục vọng, chịu ảnh hưởng mạnh của phàm ngã.
Ngược lại, người có trọng tâm đời sống trên cơ hoành là người mà linh hồn đã bắt đầu chi phối phàm ngã, các luân xa phía trên cơn hoành đã thức tỉnh, năng lượng đã chuyển từ luân xa thấp lên luân xa cao.
- Ngài cũng giảng giải bệnh tật của các nhà tu thần bí (mystic), những người “tu tâm” hay tu theo con đường nhãn pháp (Doctrine of the Eye). Ngài nêu ra bốn loại khó khăn, bệnh tật mà các nhà thần bí hay mắc phải. Đây cũng là phần đặc sắc nhất mà Ngài giải thích cho ta hiểu vấn đề của các nhà tu Thần bí. Khó khăn thông thường nhất là sự mất sinh lực, khiến nhà thần bí có sức khoẻ kém, bạc nhược, thậm chí dẫn đến cái chết. Lí do là:
nhà thần bí tập trung suy nghĩ vào Đấng Christ, cho rằng Ngài ở một nơi nào đó trên Thiên Đàng ở bên ngoài y, và những những ước vọng của y biến Ngài thành mục tiêu của tất cả ham muốn của y, thì thường hay mắc bệnh và cơ thể bị suy nhược. Tại sao như thế? Đó là vì nguồn năng lượng tìm đường thâm nhập vào y và lan tỏa đến toàn bộ các cơ quan chỉ đến được luân xa tim và từ đó thường xuyên bị quay ngược trở lại và bị đẩy ra khỏi cơ thể do bởi năng lượng điều khiển của tư tưởng của nhà thần bí.
Nhưng con đường thần bí là chặng đường cần thiết và hữu ích mà mỗi người trong giai đoạn nào đó của cuộc tiến hoá của mìnhsẽ phải trải qua. Có điều Ngài khuyên chúng ta:
miễn là nó không được tiến đến điểm của sự điên rồ, ảo giác, sự cuồng tín điên loạn và biến chứng tâm thần. Nếu được thể hiện đúng cách, nó là một quá trình hữu ích và cần thiết, nhờ đó thể tình cảm được định hướng lại và các khát vọng tâm linh bắt đầu để thay thế cho dục vọng. Cần thiết để có linh ảnh, bởi vì “nơi không có linh ảnh, con người sẽ hư hỏng”.
Một vài giải thích trên hi vọng sẽ giúp các bạn hiểu rõ thêm giáo lý của đức DK, để thấy rằng việc học hỏi là điều hứng thú, chứ không phải những điều quá khó khăn, giống như húc đầu vào tường đá. Mong rằng chúng ta sẽ cùng học hỏi được những điều vô giá trên con đường tu học của mình qua loạt bài này.
**********************
Luân xa là nơi các từ đạo nadis giao nhau—Centers are where nadis cross together
Nơi các đường lực giao nhau, khi chúng lặp lại trong tiểu thiên địa các vòng cung thăng thượng tiến hóa và giáng hạ tiến hoá của đại thiên địa, ở đó tạo thành năm khu vực trên cột sống và hai trong đầu là nơi mà các năng lượng mạnh hơn ở những nơi khác vì chúng được tập trung nhiều hơn . Do đó, bạn có sự xuất hiện của các trung tâm lực chính yếu (hay luân xa chính). Xuyên suốt toàn bộ cơ thể, các sự giao cắt và táigiao cắt xảy ra và nhờ thế các Trung tâm lực xuất hiện:
Where the lines of force cross and recross, as they repeat in the microcosm the involutionary and evolutionary arcs of the macrocosm, there are formed five areas up the spinal column and two in the head where the energies are more potent than elsewhere, because more concentrated. Thus you have the appearance of the major centers. Throughout the entire body, these crossings and recrossings occur and so the equipment of energy centers is brought into being:
1. Where the lines of force cross 21 times, a major center is found. Of these there are seven.
Nơi mà các đường lực cắt nhau 21 lần, ta có một luân xa chính. Có bảy luân xa như thế.
2. Where they cross 14 times, you have the appearance of the minor centers, to which I earlier referred.
Nơi mà các đường lực cắt nhau 14 lần, ta có một luân xa thứ yếu mà tôi đã đề cập đến trước đây.
3. Where they cross 7 times, you have tiny centers and of these minute centers there are many hundreds.
Nơi mà các đường lực cắt nhau 7 lần, ta có một luân xa tế vi, và có hằng trăm luân xa như thế.
Một ngày nào đó người ta có thể lập bản đồ của toàn bộ thể dĩ thái, khi đó ta sẽ nhìn thấy các chiều hướng chung của các đường lực. Chiều hướng lớn của các nguồn năng lượng sẽ trở nên rõ ràng, và người ta sẽ xác định mức tiến hóa của một người dễ dàng hơn, cũng như tình trạng tâm linh có thể xác định không sai lạc. Tuy nhiên, sự phức tạp của vấn đề là rất lớn, do sự khác biệt trong sự phát triển tiến hóa của các dẫn thể, của giai đoạn mở rộng tâm thức và khả năng tiếp thu kích thích của con người.
Some day the entire etheric body will be charted and the general direction of the lines of force will then be seen. The great sweep of the energies will be apparent, the point in evolution more easily established and the psychic situation infallibly indicated. The intricacy of the subject is, however, very great, owing to just this difference in the evolutionary development of the vehicles, the stage of the expanding [593] consciousness and the receptivity to stimulation of the human being’.
Khoa học Tham Thiền cuối cùng sẽ hấp thu khoa học laya-yoga, nhưng chỉ ở hình thức cao nhất của khoa này. Mục đích của việc tham thiền là để tạo ra sự lưu chuyển tự do của tất cả các mãnh lực đến, sao cho không có trở ngại nào đối với dòng năng lượng của linh hồn tại bất kỳ điểm nào. Nhờ thế, không có sự cản trở và tắc nghẻn; cũng không có sự thiếu thốn năng lực—hồng trần, cảm dục, trí tuệ và tinh thần—có thể được tìm thấy trong bất kỳ phần nào của cơ thể. Điều này có nghĩa là không chỉ có sức khỏe tốt và khả năng sử dụng đầy đủ và tự do tất cả các quan năng (cao và thấp) mà còn là sự tiếp xúc trực tiếp với linh hồn. Nó sẽ tạo ra sự đổi mới thường xuyên của cơ thể vốn là đặc trưng của các biểu hiện cuộc sống của các bậc điểm đạo đồ và của Chân sư, cũng như của các đệ tử, tuy chỉ ở một mức độ thấp hơn. Nó sẽ tạo ra sự biểu hiện tiết điệu của sự sống thiêng liêng bên trong hình tướng. Dưới nhãn thông của Chân sư khi Ngài nhìn vào một đệ tử hoặc người chí nguyện, nó tạo ra:
The Science of Meditation will eventually absorb the science of laya-yoga, but only in the highest form of the latter. The goal of meditation is to bring about the free play of all the incoming forces so that there is no impediment offered at any point to the incoming energy of the soul; so that no obstruction and congestion is permitted and no lack of power—physical, psychic, mental and spiritual—is to be found in any part of the body. This will mean not only good health and the full and free use of all the faculties (higher and lower) but direct contact with the soul. It will produce that constant renewing of the body which is characteristic of the life expression of the initiate and the Master, as well as of the disciple, only in a lesser degree. It will produce rhythmic expression of the divine life in form. To the clairvoyant view of the adept as He looks at the aspirant or disciple, it causes:
- Nhịp điệu của sự biểu lộ. Đây là nguyên nhân của sự xuất hiện và sự biến mất của hình thể. Bằng cách nhìn vào cơ thể, Chân sư có thể nói nó đã giáng sinh bao lâu và sẽ còn “tồn tại” bao lâu nữa. Trạng thái của các đường từ lực prana tiết lộ điều này một cách chính xác, đặc biệt là những người tập trung dưới cơ hoành. Luân xa đáy cột sống, nơi trú của ý chí-sinh tồn (quản lý hạt giống của nguyên khí sự sống ở tim) tiết lộ điều này.
The rhythm of manifestation. This is the cause of the appearance and the disappearance of the form. The adept, by looking at the body, can tell just how long it has been in incarnation and how long it will still continue to “appear”. The state of the pranic channels reveals this accurately, particularly those found below the diaphragm. The center at the base of the spine, where is found the seat of the will-to-live (governing the seed of the life principle in the heart) reveals this.
- Các nhịp điệu của cuộc sống tâm linh. Điều này, trong thực tế, là sự tiết lộ về nơi mà con người đứng trong mối quan hệ với tâm thức và các tiếp xúc của nó. Vị Chân sư khi tìm kiếm thông tin về điểm này, trước hết Ngài quan sát luân xa tùng thái dương, và sau đó là luân xa tim và đỉnh đầu, bởi vì qua ba trung tâm lực này và qua “ánh sáng và độ chói sáng rạng rỡ” tương đối của chúng, toàn bộ câu chuyện của con người được tiết lộ. Đối với người bình thường hoặc dưới mức bình thường thì luân xa đỉnh đầu là trung tâm lực giữa chân mày (luân xa Ajna). Trong trường hợp của người chí nguyện, của nhà thần bí và của đệ tử, nó là trung tâm đỉnh đầu cao nhất.
The rhythm of the psychic life. This is, in reality, the revelation of where the man stands in relation to consciousness and its contacts. The adept, when seeking information upon this point, looks first of all at the solar plexus center and then at the heart and head, for in these three centers and in their relative “light and radiant brightness”, the whole story of the individual stands [594] revealed. The head center, looked at for the average or below average man, is the center, between the eyebrows. In the case of the aspirant, mystic and disciple, it is the highest head center.
Khi cuộc tiến hóa diễn tiến và các dòng sinh khí càng chảy tự do hơn dọc theo các từ đạo “nadis”, đi qua các luân xa—luân xa chính, luân xa thứ yếu, và luân xa tế vi—thì sự lưu chuyển và phân phối càng nhanh chóng, kéo theo sự chói sáng của cơ thể gia tăng đều đặn. Các bức tường ngăn cách bên trong lớp vỏ bao quanh các kênh năng lượng tế vi cuối cùng cũng bị tan rả (dưới tác động của mãnh lực của linh hồn) và do đó biến mất. Khi đó các từ đạo “nadis” của các đệ tử cao cấp khoác một hình thức mới cho thấy rằng anh ta bây giờ, chủ yếu và do đó, có bản chất lưỡng phân. Y đã trở thành phàm ngã gắn kết—là linh hồn và phàm ngã. Bây giờ thì mãnh lực của linh hồn có thể chảy thông suốt không trở ngại qua kênh trung tâm của từ đạo “nadi”, còn tất cả các mãnh lực khác có thể chảy không trở ngại xung quanh nó. Chính là trong khi quá trình này đang diễn ra và các lực bên trong các từ đạo “nadis” đang được hòa lẫn và do đó tạo thành một năng lượng mà hầu hết các bệnh tật của nhà thần bí xuất hiện, đặc biệt là những bệnh tật liên quan đến tim.
As evolution proceeds and the life forces flow ever more freely along the “nadis” and through the centers—major, minor, and minute—the rapidity of the distribution and of the flow, and the consequent radiance of the body steadily increases. The separating walls within the enclosing sheath of the tiny channels of force eventually dissolve (under the impact of soul force) and so disappear and thus the “nadis” of the advanced disciple take a new form indicating that he is now
Cùng lúc với sự xuất hiện của bản chất lưỡng phân của các từ đạo “nadis”, người đệ tử có thể sử dụng hai kênh ida và pingala dọc theo cột sống, mỗi kênh ở một bên của kênh trung tâm. Bấy giờ, dòng năng lượng có thể lưu chuyển tự do lên và xuống dọc theo hai “đường lưu dẫn năng lực “, và từ đó tuôn ra các từ đạo “nadis”, sử dụng khu vực xung quanh bất kỳ luân xa chính nào như là khu vực phân phối ,và do đó có thể kết nối tuỳ ý bất kỳ bộ phận nào của cơ thể vào hoạt động, hoặc toàn bộ cơ thể thành hành động phối hợp. Bấy giờ, người đệ tử đã đạt đến đỉnh điểm trong sự phát triển của mình, các lưới dĩ thái phân cách các trung tâm lực dọc theo cột sống đã bị thiêu đốt bởi các ngọn lửa của sự sống. Kênh “sushumna” hoặc kênh trung ương có thể được sử dụng từ từ. Điều này diễn ra song song với giai đoạn trong đó có dòng chảy tự do của mãnh lực của linh hồn thông qua kênh trung tâm bên trong các từ đạo “nadis”. Cuối cùng thì kênh trung tâm này hoạt động đầy đủ. Tất cả điều này có thể được nhìn thấy bằng nhãn thông của Chân Sư.
Simultaneously with this appearance of duality in the “nadis”, the disciple finds himself able to use the two channels—ida and pingala—which are found up the spinal column, one on each side of the central channel. There can now be the free flow of force up and down these two “pathways of the forces” and thus out into the “nadis”, utilizing the area around any of the major centers as distributing areas and thus galvanizing, at will, any part of the mechanism into activity, or the whole mechanism into coordinated action. The disciple has now reached the point in his development where the etheric web, which separates all the centers up the spine from each other, has been burned away by the fires of life. The [595] “sushumna” or central channel can be slowly utilized. This parallels the period wherein there is the free flow of soul force through the central channel in the “nadis”. Eventually this central channel comes into full activity. All this can be seen by the clairvoyant eye of the Master.
Hai trường hợp nguy hiểm do việc thực hành các bài tập thở
Two cases of danger when premature awakening of centers by breathing exercises
Tôi đã đề cập điều này một cách chi tiết bởi việc thực hành các bài tập thở chắc chắn di chuyển các lực chảy qua các đường từ lực “nadis” và tổ chức lại chúng, thường là quá sớm. Nó thúc đẩy quá trình phá bỏ các bức tường ngăn cách bốn mãnh lực với năng lượng thứ năm, và thúc đẩy quá trình đốt cháy các lưới bảo vệ dọc theo cột sống. [1] Nếu điều này được thực hiện trong khi trọng tâm của đời sống là bên dưới cơ hoành và người đó chưa phải ngay cả là một người mộ đạo hay thông minh, khi đó nó sẽ gây ra sự kích thích quá độ đời sống tình dục, và cũng mở cánh cửa vào cõi trung giới, và do đó gặp nhiều khó khăn về thể chất và bệnh tật. Nói một cách huyền linh, nó “phóng thích những ngọn lửa hạ cấp và con người sẽ bị phá hủy bởi lửa”; khi đó y sẽ không được (như được dự định) là “đám lửa cháy vĩnh viễn và không thể bị phá hủy”. Nếu sự cháy này diễn ra theo một tiến trình cưỡng bức và không phải là theo đúng đường hướng, chắc chắn là sẽ có khó khăn. [2] Khi một người trên Con đường Tinh luyện hoặc Con đường Tập sự, hoặc đang trong giai đoạn đầu của Con đường Đệ tử, y tập trung ý định của mình trên cơ hoành, khi đó sẽ có nhiều nguy cơ của việc phát triển quá mức của tính Vị kỷ, sự kích thích thái quá luân xa tim (hậu quả là sự xuất hiện của các hình thức khác nhau của bệnh tim và tính đa cảm, phát sinh do điều kiện nhóm) và các rắc rối liên quan đến tuyến giáp và bộ não, cũng như các khó khăn liên hệ chủ yếu với tuyến yên.
I have dealt with this in detail as the practice of breathing exercises definitely moves the forces flowing through the “nadis” and reorganizes them—usually prematurely. It hastens the process of breaking down the walls separating four forces from the fifth energy, and hastens the burning of the protecting etheric webs up the spinal column. [1] If this is done whilst the emphasis of the life is below the diaphragm and the man is not even an aspirant or intelligent, then it will cause the over-stimulation of the sex life, and also the opening up of the astral plane and hence much physical difficulty and disease. It occultly “releases the lower fires and the man will be destroyed by fire”; he will not be then (as is intended) the “burning bush which burns forever and cannot be destroyed”. If this burning takes place by a forced process and is not under right direction, there must inevitably be difficulty. [2] When the man is on the Path of Purification or Probation or is in the early stages of discipleship, with the emphasis of his intention above the diaphragm, then there is much danger of over-development of the sense of egotism, over-stimulation of the heart center (with the consequent appearance of various forms of heart disease and of emotionalism, evoked over group conditions) and of troubles related to the thyroid gland and the brain, as well as difficulties connected principally with the pituitary body.
Ở đây, tôi có thể đưa cho bạn một số bài tập thở mà có thể có ích cho một số người trong việc tổ chức lại các thể sinh lực, và do đó tái cơ cấu thể dĩ thái, nhưng những nguy hiểm liên quan đến đa số độc giả của tôi khiến tôi phải từ bỏ ý định này. Qui luật xưa buộc người chí nguyện phải tìm đường vào một trường nội môn hay bí truyền vẫn còn giá trị. Tất cả những gì mà tôi có thể làm—như tôi đã làm, là chỉ ra những phương hướng nhất định và dạy những qui luật mà mọi người thường biết và an toàn, những qui luật sẽ đặt nền móng cho những công việc cao cấp hơn phải được thực hiện dưới sự giám sát cá nhân cẩn thận. Vì lý do này, một khi cuộc khủng hoảng trên thế giới hiện nay kết thúc, cần phải đặt nền tảng cho các trường nội môn thực sự. Những trường nội môn như thế chưa tồn tại.
I could give you here certain forms of breathing exercises which might prove helpful to some people in the work of reorganizing the vital body and consequently the etheric body, but the dangers involved in the case of the majority of [596] my readers negate any such action. The old rule that aspirants must find their way into an esoteric or mystery school still holds good. All I can do—as I have done—is to give certain directions and teach certain safe and generally well-known rules which will lay the foundation for the more advanced work which must be carried forward under careful personal supervision. For this reason, once this present world crisis is duly ended, there must be laid a foundation of true esoteric schools. Such do Not as yet exist.
Ngày nay, những người chí nguyện và các đệ tử đang làm việc trong các trường nội môn hiện đại (như Trường Arcane và Trường Bí Giáo của Hội Thông Thiên Học— tôi chỉ đề cập đến hai trường quan trọng nhất ở đây) và ở đó họ học hỏi một số trong những chân lý nền tảng của Huyền Linh học; họ bắt đầu để kiểm soát bản chất tình cảm và thể trí; họ tìm hiểu cách thanh lọc cơ thể và để hiểu những định đề cơ bản của Minh Triết Muôn đời. Sau đó, về mặt nội tại, họ được đặt dưới sự hướng dẫn của một số đệ tử cao cấp, những người có sự hiểu biết chân lý tiếp theo cần thiết và đã tự khai mở bên trong mình “ý thức tiếp xúc” và quyền năng của nhận thức trực quan. Đó đây một vài người đang chắc chắn làm việc dưới sự chỉ đạo của một trong những Chân sư. Chỉ nơi nào có sự chỉ đạo, có sự hiểu biết về các cung chi phối cùng những chỉ dẫn chiêm tinh về “con đường đời sống” của người đó, khi đó người ta mới có thể đưa ra những qui luật thật sự, nhưng nguy hiểm, sẽ dẫn đến:
Today, aspirants and disciples are working in the modern esoteric schools (such as the Arcane School and the Esoteric Section of the Theosophical Society—to mention two of the most important) and there they learn some of the foundational truths of esotericism; they begin to gain control of the emotional nature and the mind; they learn to purify the body and to apprehend the basic postulates of the Ageless Wisdom. They are then under the direction subjectively of some senior disciple who knows the needed next truth and has unfolded in himself the “sense of contact” and the power of intuitive perception. A few persons, here and there, are definitely working under the direction of one of the Masters. Only where there is direction, a knowledge of a man’s governing rays and a grasp of the astrological indications as to a man’s “path of life” can the true, but dangerous, rules be given, which will lead to:
- A right distribution of energy.
- The focusing of the forces in the centers.
- The burning of the separating walls and of the dividing etheric webs.
- The lifting of the energies ever higher in the body by the power of the directed will.
- Việc phân phối năng lượng đúng cách.
- Việc tập trung các mãnh lực tại các luân xa.
- Việc đốt bỏ các bức tường ngăn cách và các lưới dĩ thái phân tách giữa các luân xa.
- Việc chuyển các năng lượng ngày càng lên cao hơn trong cơ thể bằng sức mạnh của ý chí được điều khiển.
Ngày nay, các nhà huyền bí học và thần bí học gặp phải nhiều khó khăn do họ không ý thức được rằng thực sự họ “đang đùa với lửa”. Họ không tuân theo một trình tự phát triển đúng đắn như nêu ở trên mà lại chạy theo những bài tập luyện trong khi họ chưa hề sẵn sàng; những bài luyện tập này không được sửa đổi để phù hợp với thể xác hồng trần của người phương Tây, và họ tập luyện trong khi hoàn toàn mù mờ về quá trình cũng như kết quả của những bài tập này. Một khi họ chưa nắm được luật cơ bản “năng lượng đi theo tư tưởng” thì kết quả cuối cùng chắc chắn sẽ hết sức tai hại.
Many of the difficulties of mystics and occultists today are due to the fact that they are literally “playing with fire” and are [597] not aware of it; that they are not preserving the right or ordered sequence of development, as outlined above; that they are following practices for which they are not ready, which have not been modified to suit the occidental type of body, and which they blindly follow without any understanding of the process or results. Unless the basic rule is grasped that “energy follows thought”, it is inevitable that dire results must eventuate.
Cho ví dụ, nhà thần bí tập trung suy nghĩ vào Đấng Christ, cho rằng Ngài ở một nơi nào đó trên Thiên Đàng ở bên ngoài y, và những những ước vọng của y biến Ngài thành mục tiêu của tất cả ham muốn của y, thì thường hay mắc bệnh và cơ thể bị suy nhược. Tại sao như thế? Đó là vì nguồn năng lượng tìm đường thâm nhập vào y và lan tỏa đến toàn bộ các cơ quan chỉ đến được luân xa tim và từ đó thường xuyên bị quay ngược trở lại và bị đẩy ra khỏi cơ thể do bởi năng lượng điều khiển của tư tưởng của nhà thần bí.
The mystic, for instance whose thought is focused on the Christ, regarding Him as somewhere in Heaven, but as outside himself, and whose aspiration makes Him the objective of all his desire, is frequently debilitated and physically ill. Why is this the case? Because the energy which is seeking to enter him and permeate his whole organism only reaches as far as the heart center and is from there constantly turned back and driven out of the physical body by the directing power of the mystic’s thought.
Với y thì đấng Christ tồn tại ở một nơi nào đó. Do suy nghĩ của y hướng ra ngoài cơ thể nên năng lượng sẽ tuôn trào ra khỏi thể xác y. Đây là vấn đề mà ngày nay các điểm đạo đồ mang ra thảo luận với nhau nhiều. Họ tự hỏi phải chăng tình trạng sức khoẻ suy kiệt chung của nhân loại có phải phần nào do những ước vọng và suy nghĩ của con người thường xuyên hướng đến một mục tiêu nào đó bên ngoài chứ không hướng đến trung tâm của sự sống và tình yêu tồn tại bên trong con người như đáng lẽ ra phải như thế. Và vì lý do này mà con người đã tự làm suy kiệt gần hết nguồn năng lượng cần thiết.
Christ, for him, is elsewhere. Outside himself lies his thought and the energy consequently streams out of his body. It is a much discussed problem among initiates today as to whether the generally debilitated condition of the human race is not due in part to the fact that the aspiration and thought of mankind, having been constantly directed to some outside goal and not (as should have been the case) to the center of life and love within each human being, has drained man of much needed energy.
Bất chấp việc đã được truyền dạy trong nhiều thế kỷ rằng Thiên Quốc tồn tại bên trong chính chúng ta, những người phương Tây chưa chấp nhận điều đó hoặc làm việc trên giả thiết đó, họ cứ đi tìm thực tại ở bên ngoài và chú tâm đến Phàm ngã của Đấng đã dạy cho họ một chân lý chính yếu. Ngài không bao giờ mong cầu hay tìm kiếm lòng sự sùng bái của họ. Họ đã phải trả giá nhiều lần cho sự bóp méo chân lý này bằng sự suy kiệt của cơ thể và nhà thần bí bậc trung không thể sống một cuộc sống thực tế nhưng thiêng liêng trên cõi trần này.
In spite of the fact that he has been taught for centuries that the kingdom of God is within, the peoples in the occident have not accepted the statement or worked on the premise presented, but have sought for reality without and have turned their attention to the Personality of the One who taught them a major truth. At no time did He desire or seek their devotion. The price of this distortion of the truth has been paid again and again by a devitalized body and by the [598] inability of the average mystic to live a concrete, and yet divine, life upon earth.
Tôi muốn nói thêm một chút về các khó khăn cũng như những vấn đề gặp phải với quyền năng thông linh khi chúng khai mở trong nhân loại trên vòng cung xoắn ốc cao hơn so với quá khứ. Trong quá trình tiến hóa, các đệ tử sẽ đạt được những khả năng thông linh của loài người và loài thú . Nhân loại chọn cách tiến hóa thông qua phương pháp “thử và sai”. Nhìn ở nhiều góc độ thì đây là cách lựa chọn hợp lý nhưng nó chậm và dẫn đến những thời điểm khủng hoảng và những lúc khó khăn cùng cực trong lịch sử nhân loại.
There is little more that I can say here in connection with the problems and the difficulties of the psychic powers as they unfold in humanity and on a higher turn of the spiral than in the past. As evolution proceeds, the human and animal psychic faculties become available to the disciple. Humanity has chosen to proceed by means of the “trial and error” method and it is in many ways a sound choice, but it is slow and leads to points of crisis and moments of almost intolerable difficulty in the history of the race.
Trong trường hợp của nhà thần bí và của người đệ tử đang nỗ lực chế ngự những bản năng cố hữu này thì vấn đề ngày nay đã trở nên nghiêm trọng hơn bởi sự kiện sinh lực hồng trần của con người quá thấp và con người cũng quá ít hiểu biết về điều này, do đó không thể chăm sóc cơ thể đúng cách. Điều này làm cho cơ thể suy yếu, dẫn đến việc những năng lực thông linh bậc thấp dễ biểu lộ hơn so với thông thường. Do vậy, các quyền năng bậc thấp này được khai mở sớm hơn bình thường, trước khi người ta hiểu được bản chất và chức năng của chúng, cũng như nắm được cách kiểm soát chúng. Việc chấp nhận tuyên bố này sẽ giúp soi sáng và con người cũng sẽ đạt được nhiều tiến bộ nếu họ chấp nhận một số tiên đề mà tôi đã đưa ra như những giả thiết khả dĩ và làm việc trên những giả thiết đó. Kết quả sẽ mở ra cánh cửa cho một sự hiểu biết mới về các quyền năng thông linh. Nhờ đó mà Tâm lý học và y học sẽ phong phú hơn.
In the case of the mystic and the disciple who is endeavoring to gain control of these inherent instincts, the problem is today enhanced by the fact that the physical vitality of the race is so lowered and also so little understood and the proper care of the body is consequently so poorly rendered that the unhealthy condition of that body releases the lower powers more easily than would otherwise be the case. They therefore unfold prematurely and before their nature and function is understood or the laws of their control grasped. The acceptance of this statement would be found enlightening and much progress would be made if the various premises I have made were accepted as valid hypotheses and acted upon. The result would open the door to a new understanding of the psychic faculties. Psychology and medicine would be thereby enriched.
Bây giờ chúng ta sẽ nói đến hai vấn đề nữa liên quan đến quyền năng thông linh bậc cao, nhưng chúng thuộc về cấp bậc còn cao hơn và phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của bản chất trí tuệ hơn là tâm thức luân xa tùng thái dương.
We come now to two more problems which are related to the higher psychic powers but are of a more advanced kind and dependent upon the development of the mind nature more than upon the solar plexus consciousness.
Vấn đề do sự Phát Triển Nhãn Quang Thần Bí – Problem of the Development of the Mystical Vision
Tiến trình này của việc cảm nhận mục tiêu, tiếp xúc với các lý tưởng và thấy nhiều biểu tượng che dấu linh hồn—những cái miêu tả một cách hình tượng điểm đến cuối cùng và mục đích tối hậu, là những đặc quyền được công nhận của người chí nguyện thần bí. Như bạn biết, văn chương thần bí của tất cả các tôn giáo trên thế giới đầy những linh ảnh như thế, trải dài từ cách tiếp cận có tính cách tình dục nhiều hơn như trong Bài Ca của Salomon (Song of Solomon) hay trong các tác phẩm của nhiều nhà thần bí nữ của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, cho đến những tiết lộ đáng kinh ngạc cho trong các Puranas cổ đại hay trong sách Khải huyền (Apocalypse). Tất cả những điều này bao gồm tất cả lãnh vực từ những hình thái của “đời sống mơ ước” cao cấp của các nhà thần bí cho tới những tiên đoán thực sự về tương lai của nhân loại như ta có thể thấy trong các tác phẩm của các nhà Tiên Tri trong các Kinh điển. Tôi không có ý định đi vào chi tiết của điều này. Chúng đã được xem xét bởi các nhà tâm lý học hiện đại và các huấn sư tôn giáo, các văn sĩ của Giáo hội tôn giáo. Họ đã đề cập nhiều về chúng. Tôi chỉ muốn nêu ra những tác động mà những kinh nghiệm này tác động lên chính nhà thần bí. Tôi sẽ đề nghị bạn nên nhớ rằng tôi chỉ nêu lên khái quát và không đi vào cụ thể.
This process of sensing the goal, of contacting the ideal and of visioning the many symbols that veil the soul, which [599] portray pictorially the ultimate destination and the final purpose, are the recognized prerogative of the mystical aspirant. The mystical literature of all the world religions is, as you know, full of these visions, ranging all the way from the more sexual approach of the Song of Solomon or the writings of many of the feminine mystics of the Church to the amazing revelations given in the ancient Puranas or in the Apocalypse. These cover all the ground from the formulation of the high-grade “wish-life” of the mystics to the true prevision as to the future of the race as found in the writings of the prophetically Scriptures. With the detail I do not intend to deal. It has been considered by the modern psychologist and the religious instructor and Church writers and dealt with by them at great length. I want only to touch upon the effects that these experiences have upon the mystic himself. I would ask you also to remember that I am generalizing and not being specific.
Các khó khăn mà các nhà thần bí như thế mắc phải thường là bố dạng sau đây:
- Mất sinh lực. Các nhà thần bí bị liên tục kéo “đi lên” (như nhà thần bí gọi như thế) đến vùng trời mơ ước của mình, đến con người lý tưởng của mình hoặc đến cái lý tưởng thiêng liêng (được nhân cách hoá hay không nhân cách hoá) của nguyện vọng của mình, khiến y đảo ngược tiến trình bình thường và thông thường của “Con đường thường xuyên hiện thực hóa Chân lý”. Y sống hoàn toàn trong thế giới của khát vọng của mình và do đó bỏ qua cuộc sống trên cõi trần gian, trở thành không chỉ phi thực tế mà còn thụ động với cõi hồng trần. Y rút tất cả mãnh lực của cuộc sống của mình đi lên sao cho thể hồng trần và sự sống trên cõi trần bị tổn hại. Nói một cách kỹ thuật, mãnh lực của luân xa tùng thái dương không được chuyển lên vào luân xa tim như đáng lẽ ra phải vậy, cũng như năng lượng của luân xa tim tuôn tràn ra ngoài trong tình thương nhân loại vị tha; tất cả chúng tập trung vào và được phân phối trên những phân cảnh cao của cõi trung giới, và được gửi đến nuôi dưỡng thể tình cảm. Do đó, họ đảo ngược quá trình bình thường và cơ thể vật chất bị tổn hại năng nề thông qua điều này.
The difficulties to which such mystics are prone are four:
- Devitalization. The mystic is drawn so constantly “upwards” (as he regards and terms it) to the land of his dreams, to the person of his idealism or to the spiritual ideal (personified or non-personified) of his aspiration that he reverses the normal and wholesome process of “the Way of the constant materializing of the Real”. He lives entirely in the world of his aspiration and thus neglects life on the physical plane, becoming not only impractical but negative to the physical plane. He draws all his life forces upward so that the physical body and life on the physical plane suffers. Technically, the forces of the solar plexus are not drawn upward into the heart center, as they should be, nor is the energy of the heart poured out in selfless love of humanity; they are all focused and distributed in the highest level of the astral consciousness and sent to feed the forces of the astral body. They reverse, [600] therefore, the normal process and the physical body suffers grievously through this.
Một nghiên cứu về đời sống của các vị thánh và các nhà thần bí sẽ tiết lộ nhiều về khó khăn này, thậm chí trong cả các trường hợp tương đối hiếm gặp mà đã có một số phụng sự nhất định cho nhân loại, những động cơ thường (frequenly) (tôi có thể nói, thường xuyên—usually) là sự gặp gỡ của một yêu cầu hoặc nghĩa vụ được cảm nhận vốn sẽ phục vụ các nhà thần bí, khiến y thỏa mãn tình cảm và được khen thưởng. Sự mất sinh lực này thường nhiều đến nỗi nó đưa đến không chỉ sự suy nhược thần kinh, tình trạng mê man (trance) và các phát triển bệnh lý khác, mà còn đôi khi dẫn đến cái chết.
A study of the lives of the saints and mystics will reveal much of this difficulty, and even in the relatively rare cases where there has been some definite service to humanity, the motives were frequently (I might say, usually) the meeting of a sensed requirement or obligation which would serve the mystic, bringing him emotional satisfaction and reward. This devitalization was often so excessive that it led not only to nervous debility, trance conditions and other pathological developments, but sometimes to death itself.
- Ảo tưởng. Cuộc đời mơ mộng của nhà thần bí và sự bồi đắp liên tục các linh ảnh (dù thuộc loại nào đi nữa), trong nhiều trường hợp, cũng dẫn đến khó khăn tâm lý nghiêm trọng nếu không được nhận ra. Cái linh ảnh hấp thụ toàn bộ sự chú ý của thần bí và thay vì chỉ cho y một mục tiêu mà y có thể ngày nào đó đạt được, hoặc hiện hữu trong ý thức của mình như là biểu tượng của một thực tại bên trong mà y sẽ một ngày nào đó sẽ biết, bởi vì nó sự thật là thế, y lại luôn luôn sống trong hình tư tưởng của riêng y về mục tiêu này. Giấc mơ mạnh mẽ này, hình tư tưởng xác định này (được xây dựng qua nhiều năm tháng bằng nguyện vọng, lòng tôn thờ và sự khao khát) kết thúc bằng sự ám ảnh y đến mức cuối cùng y chấm dứt bằng nhầm lẫn biểu tượng cho cái hiện thực. Đôi khi y chết do bởi sự xuất thần gây ra bởi sự đồng hoá bản thân mình với hình ảnh đó. Tuy nhiên, tôi muốn nêu ra ở đây rằng việc đạt được thực sự mục tiêu thần bí—do đó không còn nhìn thấy nó nữa, mà là được nhận thức như sự thực—chưa bao giờ giết chết ai cả. Chỉ có ảo tưởng mới giết chết. Chỉ khi trọng tâm của cuộc sống là ở cõi trung giới, và khi năng lượng linh hồn cũng tuôn xuống đó, và khi các luân xa tim được cung cấp sinh lực quá mức mà nhà thần bí chết như là kết quả của ước vọng của mình. Khi cái chết không xảy ra (và điều này là hơi bất thường) thì những tâm lý khó khăn nghiêm trọng lại dễ xuất hiện. Những điều này nhiều lần đã là mối quan tâm của các giáo sĩ và các nhà tâm lý học hiện đại, và đã khiến toàn bộ chủ đề của việc khai mở thần bí (mystical unfoldment) chịu tiếng xấu, đặc biệt là trong thời đại khoa học hiện đại này.
- Delusion. The drama life of the mystic and the constant cultivation of the vision (whatever that might be) led also in many cases to serious if unrecognized psychological trouble. The vision absorbed the mystic’s whole attention and instead of indicating to him a goal to which he might some day attain, or existing in his consciousness as the symbol of an inner reality which he would some day know, as it in truth was, he lived always within his own thought-form of this goal. This powerful dream, this defined thought-form (built year by year through aspiration, worship and longing) ended by obsessing him to such an extent that he finally ended by mistaking the symbol for the reality. Sometimes he died of the ecstasy induced by his identification with his vision. Nevertheless, I would point out here that the true attainment of the mystical goal, so that it is no longer seen but is realized as fact, has never yet killed anyone. It is delusion which kills. It is only when the focus of the life is in the astral body, when the downflow of soul force is there also and when the heart center is over-energized that the mystic dies as a result of his aspiration. Where death does not take place (and this is somewhat unusual) serious psychological difficulties are apt to be found. These have brought much concern to Churchmen at [601] all times and to the modern psychologist and have brought the whole subject of the mystical unfoldment into disrepute, particularly in this modern scientific age.
Chính sự hiện hình của linh ảnh trong vật chất cõi trung giới, sự phát triển của nó thông qua sức mạnh của cảm xúc (giả mạo như là lòng sùng kính) và sự thất bại của các nhà thần bí, hoặc để bước vào lĩnh vực nhận thức trí tuệ hoặc để khiến cho giấc mơ lý tưởng của mình biểu hiện trên cõi trần gian, là gốc rễ của sự khó khăn. Con người bị đánh lừa bởi cáí tốt nhất trong y; y là nạn nhân của một ảo giác vốn thể hiện cái cao nhất mà y biết; y bị khuất phục bởi huyễn cảm của đời sống tinh thần; y không phân biệt được giữa linh ảnh và Thiên cơ, giữa cái không thực được tạo ra qua bao thời đại bởi các hoạt động thần bí và Sự Thực vốn luôn luôn đứng trong hậu trường của cuộc sống của con người tích hợp.
It is the materializing of the vision in astral matter, its development through the power of emotion (masquerading as devotion) and the failure of the mystic either to enter into the realm of mental perception or to bring his idealistic dream down into physical expression which lies at the root of the trouble. The man becomes deluded by the best that is in him; he is the victim of an hallucination which embodies the highest he knows; he is overcome by the glamor of the spiritual life; he fails to distinguish between the vision and the Plan, between the manufactured unreal of the ages of mystical activity and the Real which stands ever in the background of the life of the integrated human being.
Chớ nên quên rằng linh ảnh (về thiên đàng, của Thượng đế, của Chúa Kitô, hay của bất kỳ nhà lãnh đạo tinh thần—ở bất kỳ thiên niên kỷ nào) được đặt nền tảng, trong phần lớn các trường hợp, trên những ước mơ và khát vọng của các nhà thần bí qua nhiều thời đại, những người đã thắp sáng con đường thần bí, những người đã sử dụng các thuật ngữ tương tự và cùng một biểu tượng để thể hiện điều mà họ cảm nhận được, và cái mà họ vô cùng ao ước, mong mỏi. Tất cả họ đều cảm nhận được cùng Thực tại đằng sau huyễn cảm của những nguyện vọng của thế giới; tất cả họ đều dấu những ham muốn và khao khát của họ trong cùng một hình thức biểu tượng, như là việc kết hôn với đấng Thân Yêu, cuộc sống trong Thánh Địa, tham gia vào một số linh ảnh xuất thần về Thiên Chúa, tôn thờ một số đấng được tôn sùng và yêu quí, chẳng hạn như Đức Christ, Đức Phật, hoặc Shri Krishna, bước đi với Thiên Chúa trong khu vườn của đời sống, trong khu vườn của Chúa, đạt đến đỉnh núi nơi tìm thấy Thiên Chúa và tất cả được tiết lộ. Đó là một vài trong số các hình thức mà khát vọng của họ khoác lấy và ý thức lưỡng phân của họ tìm thấy sự thoả mãn. Những ý tưởng này tồn tại như các hình tư tưởng mạnh mẽ trên cõi trung giới và chúng thu hút, giống như thanh nam châm, nguyện vọng của các tín đồ từ thế kỷ này đến thế kỷ khác đi theo cùng con đường tìm kiếm khao khát, biểu hiện tưởng tượng của “đời sống mơ ước” tinh thần chôn sâu và một cảm xúc bùng phát ra bên ngoài hướng về thiêng liêng, đôi khi được mô tả như là “nâng trái tim đến Chúa.”
Forget not that the vision (of Heaven, of God, of Christ, of any spiritual leader—or of any millennium) is based in the majority of cases upon the dreams and aspirations of the mystics down the ages who have blazed the mystical trail, who have used the same terminology and employed the same symbols to express that which they sense, and to which they aspire and for which they long so yearningly. They all sense the same Reality, lying behind the glamor of the world aspiration; they all couch their desire and longing in the same symbolic forms—marriage with the Beloved, life in the Holy City, participation in some ecstatic vision of God, adoration of some deified and loved Individuality, such as the Christ, the Buddha, or Shri Krishna, walking with God in the garden of life, the garden of the Lord, the attainment of the mountain top where God is to be found, and all stands revealed. Such are a few of the forms in which their aspiration clothes itself and their sense of duality finds satisfaction. These ideas exist as powerful thought forms on the astral plane and they [602] attract—like magnets—the aspiration of the devotee which follows century after century the same path of yearning search, imaginative expression of a deep seated spiritual “wish-life” and an emotional surging outward towards divinity, described sometimes as “the lifting of the heart to God.
Sự mất sinh lực và ảo tưởng là lịch sử thường xuyên của các nhà thần bí hoàn toàn cảm xúc. Khi chu kỳ cảm xúc này qua đi và sau này y (và có lẽ trong kiếp sống khác) đi vào trạng thái tâm trí đối nghịch của sự nghi ngờ thẳng thắn, lúc đó y khôi phục lại sự cân bằng và một khai mở trọn vẹn hơn sẽ trở thành khả dĩ. Những thành quả chân thật và có giá trị của kinh nghiệm thần bí quá khứ không bao giờ mất. Các chứng ngộ tinh thần bên trong vẫn còn tiềm ẩn trong nội dung của sự sống, để sau đó được phục hồi lại thành biểu hiện thật sự của nó, nhưng sự không rõ ràng và ý nghĩa nhị nguyên cuối cùng phải được chuyển hoá thành một sự trong sáng trí tuệ được nhận thức; nhị nguyên phải nhường chỗ cho những kinh nghiệm của sự hợp nhất và sương mù phải tan đi. Các nhà thần bí nhìn thấy mờ ảo thông qua một thấu kính nhưng một ngày nào đó phải Biết, ngay cả như y được biết đến.
Devitalization and delusion are the frequent case history of the purely emotional mystic. When this astral cycle is over and he later (and probably in another life) swings into a frankly agnostic state of mind, there comes a restoration of balance and a more wholesome unfoldment becomes possible. The true and valuable fruits of the mystical experience of the past are never lost. The inner spiritual realization remains latent in the content of the life, later to be resurrected to its true expression but the vagueness and the sense of duality must eventually be transformed into a realized mental clarity; dualism must give place to the experience of the at-one-ment and the mists must roll away. The mystic sees through a glass darkly but some day must Know, even as he is known.
Khi trong những thời kỳ hiện đại này, người có khuynh hướng thần bí chịu sự chăm sóc của một nhà tâm lý thông thái, người mà sẽ khuyên bảo nhẹ nhàng và dần dần phát triển trong y một chu kỳ của sự nghi ngờ, thậm chí dẫn đến chủ nghĩa hoài nghi tạm thời. Kết quả sẽ nhanh chóng tạo ra một trạng thái cân bằng mong muốn. Tôi muốn bạn bạn lưu ý các từ “nhẹ nhàng và dần dần”. Sự khuyến khích một đời sống hồng trần bình thường, với những mối quan tâm bình thường của nó, việc hoàn thành các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình và các hoạt động trần gian thông thường của thiên nhiên sẽ tạo ra nhiều định hướng lành mạnh và cần thiết.
When, in these modern times, the mystically oriented person comes under the care of a wise psychologist, the latter would be well advised gently and gradually to develop in him a cycle of doubt, leading even to a temporary agnosticism. The result would be a rapid establishing of the desired equilibrium. I would call your attention to the words “gently and gradually”. The encouraging of a normal physical life, with its ordinary interests, the fulfiling of its obligations and responsibilities and the usual physical functioning of the nature should bring about much wholesome and needed orientation.
- Tình trạng mê sảng. Tôi dùng từ ngữ mạnh mẽ này một cách có chủ ý khi đề cập đến các giai đoạn nguy hiểm và khó khăn của đời sống thần bí. Khi ảo tưởng của một nhà thần bí và sự mất sinh lực của y đã đi xa hơn một điểm nào đó, y đạt đến một giai đoạn mà y không còn sự kiểm soát bên trong thực sự; y phát triển giác quan huyền bí đến điểm mà y không còn ý nghĩa về tính chừng mực, nơi mà những qui ước (đúng hay sai), đào tạo xã hội, trách nhiệm kinh tế, nghĩa vụ con người và tất cả các khía cạnh của cuộc sống hàng ngày vốn tích hợp con người vào toàn bộ nhân loại không còn ngăn chặn bản chất thấp hèn. Biểu hiện bên ngoài của y trở nên bất thường và y (từ ý thức cao nhất và tốt nhất của các giá trị) chống lại xã hội.
- Delirium. I use this powerful word with deliberation when dealing with the dangerous and difficult stages of the mystical life. When the delusions of the mystic and his devitalization have gone beyond a certain point, he arrives at a stage where he has no real inner control, he develops the [603] mystical sense to the point where he has no sense of proportion, where the conventions (right or wrong), social training, economic responsibility, human obligations and all the aspects of daily life which integrate the human part into the whole of humanity fail to police the lower nature. His outer expression becomes abnormal and he (from the highest and best sense of values) anti-social.
Một thái độ phản kháng xã hội như vậy sẽ trải dài từ một sự cuồng tín tương đối bình thường khiến người sở hữu nó chỉ thấy một quan điểm duy nhất từ nhiều quan điểm khả dĩ, cho đến một số hình thái rõ ràng và dễ nhận biết của sự điên rồ. Khi đó nhà thần bí bị ám ảnh bởi ý nghĩ kỳ cục của riêng y về chân lý và thực tại. Y chỉ có một ý tưởng trong đầu của mình. Trí của y không hoạt động, bởi vì bộ óc của y đã trở thành công cụ của bản chất cảm dục và chỉ ghi nhận lòng sùng tín cuồng tín của y và sự ám ảnh xúc cảm của mình. Luân xa Ajna hoạt động trước khi có bất kỳ sự gắn kết thực sự của toàn thể con người, và bất kỳ mục đích hữu ích thực sự cho hoạt động của nó.
Such an anti-social attitude will range all the way from a relatively usual fanaticism which forces its possessor to see only one point of view out of the many possible, to certain pronounced and recognizable forms of insanity. The mystic is then obsessed by his own peculiar thought-form of truth and of reality. He has only one idea in his head. His mind is not active, for his brain has become the instrument of his astral nature and registers only his fanatical devotion and his emotional obsession. The ajna center swings into activity before there is any true integration of the whole man, and any true useful purpose to its activity.
Một thời kỳ tiếp theo trong đó con người tự thể hiện mình bằng nhiều cách không mong muốn, bao gồm sự nhất tâm quá mức (too strenuous one-pointed-ness), sự cuồng tín thực sự, nỗ lực tàn bạo với một động lực được cho là tinh thần, (như được thấy trong các Tòa án dị giáo) và một số hình thức suy sụp tâm trí. Nói một cách huyền bí, “linh ảnh bốc lửa bắt đầu thiêu đốt nạn nhân của nó và như thế phá hủy sợi chỉ giữ tâm trí và não bộ của y trong mối quan hệ thân thiết.” Cơn sốt xúc cảm (burning astral fever) này nhất thiết phải tạo ra một hiệu ứng trên cơ thể hồng trần cũng như trên các biểu hiện của phàm ngã, và khi đó những người khác có thể nhận thấy các rắc rối là có thực và nghiêm trọng trong các hậu quả và tác dụng của nó. Rất thường, có rất ít điều có thể làm được; đôi khi không thể tìm thấy nỗ lực nào khả dĩ để giúp đỡ .
A period ensues wherein the man expresses himself in many undesirable ways which include a too strenuous one-pointed-ness, real fanaticism, sadistic effort with a supposed spiritual motive, (such as was seen in the Inquisition) and certain forms of mental breakdown. Occultly speaking, “the fiery vision proceeds to burn its victim and thus destroys the thread which holds his mind and brain in friendship close.” This burning astral fever necessarily produces an effect upon the physical body as well as on the personality expression, and the trouble can then be recognized by others as real and serious in consequences and effects. Frequently, there is little that can be done; sometimes no attempts to help prove availing.
Nhà thần bí trong kiếp sống này đã tự làm mình tổn thương không thể khắc phục. Tác dụng chữa lành của cái chết, và giai đoạn gián đoạn sau đời sống trần gian phải làm công việc hữu ích của nó trước khi con người có thể đạt được trạng thái bình thường trở lại và bắt đầu biến linh ảnh của y về Chân, Thiện Mỹ thành thể hiện trên cõi trần gian của cuộc sống hàng ngày; khi đó y sẽ mang tâm trí của mình để soi xét các vấn đề; khi đó y sẽ phát hiện rằng linh ảnh chỉ là sự phản ánh của các kế hoạch của Thượng đế. Y sẽ biết rằng sức mạnh để cá nhân hoá khát vọng phải được chuyển thành sức mạnh để phi cá nhân hóa chính mình, trước khi phụng sự thế giới và hợp tác với Thánh đoàn.
The mystic has, for this one life, done himself irreparable damage. The healing influence of death, and the interlude of the life beyond the physical plane must do their beneficent work before the man can again achieve normality and begin [604] to transmute his Vision of the Good, the Beautiful and the True into working expression upon the plane of daily living; he will then bring his mind to bear upon the problem; he will then discover that the vision is but the reflection of the Plan of God. He will know that the power to personalize aspiration must be transformed into the power to depersonalize oneself, prior to world service and cooperation with the Hierarchy.
- Thoát ly. Đây là một trong những vấn đề lớn về tâm lý dẫn đến hiện tượng phổ biến của sự chia cách nhân cách (cleavage). Nó là một trong những vấn đề khó khăn nhất để xử lý. Nhà thần bí vốn không thể nhìn thấy điều gì khác ngoại trừ linh ảnh của mình, ghi nhận linh ảnh đó chỉ trong các hình thức biểu tượng, của sự khao khát tình dục, của nguyện vọng đau đớn và một “đời sống mơ ước” mạnh mẽ của giấc mơ và mong muốn cuối cùng có thể thành công trong việc cắt đứt mọi quan hệ, ngay cả trong chính bản thân y (với cơ thể hồng trần ở một nơi, đời sống tình cảm của y chuyển tới một nơi khác, và thể trí của y bận rộn ở một nơi khác nữa); cắt đứt với môi trường xung quanh và những trách nhiệm xã hội, để y sống hoàn toàn trong một thế giới do y tự tạo ra, tách biệt, không động đậy, và không bị ảnh hưởng bởi công việc bình thường hoặc tiếng gọi của con người. Điều này đôi khi cũng bị gây ra do một mong muốn không được công nhận nhằm thoát khỏi trách nhiệm, thoát khỏi những đau đớn và sự chán ngầy của cuộc sống hàng ngày, thoát khỏi những bàn tay bám víu của những người yêu mến y; nó cũng có thể được mang lại từ một kiếp sống của kinh nghiệm thần bí khác, mà trong kiếp sống này, nên được vượt qua vĩnh viễn vì nó đã phục vụ mục đích hữu ích của nó và đã thực hiện một công việc cần thiết. Đây là một dạng buông xả sai lầm.
- 4. Detachment. This is one of the major psychological difficulties which leads to the common phenomenon of cleavage. It is one of the hardest to handle. The mystic who can see naught but his vision, who registers that vision in terms only of symbolic forms, of sexual longing, of agonizing aspirations and an intense “wish-life” of dream and desire may eventually succeed in severing all right relations both within himself (with his physical body in one place, his emotional life directed to another and his mind preoccupied elsewhere) and with his surroundings and environing responsibilities, so that he lives entirely in a world of his own manufacturing—detached, unmoved, and untouched by normal affairs or human calls. This is sometimes also brought about by an unrecognized desire to escape from responsibility, from the pain and irk-someness of daily living or from the clinging hands of those who love him; it can be brought over from another life of mystical experience which should, in this life, be permanently transcended and outgrown, having served its useful purpose and done a needed work. This is a detachment of the wrong kind.
Tôi biết rằng khi tôi cung cấp cho bạn giáo lý về những khó khăn của đời sống thần bí—mất sinh lực, ảo tưởng, mê sảng và thoát li—rằng những ai đã thu được nhiều lợi ích từ các nhà thần bí hoặc những người ở thời điểm này có khuynh hướng thần bí sẽ phản đối dữ dội. Tôi muốn các bạn hiểu rõ tôi hơn về những điểm này. Con đường thần bí là con đường đúng đắn cho con người ở một giai đoạn nhất định của quá trình tiến hóa, là giai đoạn tâm thức Atlantean, miễn là nó không được tiến đến điểm của sự điên rồ, ảo giác, sự cuồng tín điên loạn và biến chứng tâm thần. Nếu được thể hiện đúng cách, nó là một quá trình hữu ích và cần thiết, nhờ đó thể tình cảm được định hướng lại và các khát vọng tâm linh bắt đầu để thay thế cho dục vọng. Cần thiết để có linh ảnh, bởi vì “nơi không có linh ảnh, con người sẽ hư hỏng“.
I realize as I give you this teaching upon the difficulties of the mystical life—devitalization, delusion, delirium and detachment—that those who have gained much from the mystics or those who are at this time mystically inclined will violently disagree. I would seek to make myself clear on these [605] points. The mystical way is the right way for people at a certain stage of evolution, the Atlantean stage, provided it is not carried to the point of insanity, hallucination, furious fanaticism and psychopathic complications. It is, rightly expressed, a useful and needed process whereby the astral body is reoriented and spiritual aspiration begins to take the place of desire. It is necessary to have vision for “where there is no vision, the people perish”.
Linh ảnh thật sự trong thực tế là phản ánh trên cõi trung giới của Thiên Cơ, được phản ánh vào các phân cảnh giới cao của tâm thức trung giới của hành tinh. Ở đó nó được tiếp xúc và cảm nhận bởi những con người mà trọng tâm trong cuộc sống có bản chất rất cao cấp, những người mà “ý định là hướng về Thượng đế và sự công chính”, nhưng lại là những người sống nội tâm vào lúc này, những người không có nhiều kiến thức kỹ thuật hoặc của định luật thiêng liêng hoặc của cấu tạo của con người hay của cuộc sống hành tinh, và trí tuệ không hoạt động gì cả, không thắc mắc tra vấn ngoại trừ theo cảm tính và để làm giảm các đau khổ tinh thần riêng của nhà thần bí và ước vọng hòa bình và sự thỏa mãn. Cho ví dụ, có rất ít trong các tác phẩm của các nhà thần bí của thời trung cổ, (hoặc ở phương Đông hay ở phương Tây) mà có thể tìm thấy bất kỳ dấu hiệu của một ý thức về nhu cầu thế giới hoặc đòi hỏi của nhân loại về sự giác ngộ, soi sáng.
True vision is, in reality, the astral reflection of the divine Plan, reflected into the higher levels of the astral consciousness of the planet and there contacted and sensed by those human beings whose focus in life is of a very high grade nature, whose “intention is towards God and righteousness” but who are introverted at this time, who lack much technical knowledge either of divine law or of the constitution of man or of the planetary life, and whose minds are quiescent and non-questioning except in an emotional sense and for the relief of the mystic’s own spiritual distress and desire for peace and satisfaction. There is, for instance, little in the writings of the mystics of the middle ages, (either in the East or in the West) which gives any indication of a sense of world need or of humanity’s demand for enlightenment.
Linh ảnh là sự phản ảnh trung giới của Thiên Cơ. Ở đó, những sinh lực của bản chất thần bí trần gian, của thể cảm dục và của linh hồn (hai mãnh lực và một năng lượng) kết hợp lại và từ đó chúng tạo ra một biểu hiện mạnh mẽ của lòng ham muốn tập trung, của sự khao khát lộn xộn sâu xa, của trí tưởng tượng sống động và và sự kiến tạo một hình tư tưởng, thể hiện tất cả những nhà thần bí mong muốn tiếp xúc hoặc thấy hiển thị.
The astral reflection of the Plan—such is the vision. There the life forces of the mystical physical nature, of his astral body and of his soul (two forces and one energy) unite and there they produce a powerful expression of focused desire, deep inchoate longing, vivid imagination and the construction of a thought form, expressing all that the mystic desires to contact or to see expressed.
Khi thời gian qua đi, phương pháp thần bí này sẽ ngày càng ít đi. Công việc nhận thức vẻ đẹp và bản năng vươn ra tiếp cận thiêng liêng hiện đang cắm rễ trong ý thức nhân loại sâu xa đến nỗi công việc cân bằng của tâm trí và việc thể hiện Thiên Cơ thay cho linh ảnh có thể được tiến hành một cách an toàn. Những đứa trẻ của nhân loại, những người vẫn cò trong tâm thức Atlantean sẽ tiếp tục với cách tiếp cận thần bí và vẻ đẹp của sự đóng góp đó vẫn sẽ là di sản của nhân loại. Nhưng chu kỳ của các nỗ lực và kinh nghiệm thần bí sẽ được rút ngắn đáng kể và được kiểm soát một cách khoa học vì mục đích của nó, vị trí của nó trong việc khai mở nhân loại và đóng góp của nó cho “giáo lý về Thực Tại” sẽ được hiểu rõ hơn.
There will be, as time goes on, less and less of this mystical approach. The work of realizing beauty and the instinct to reach out towards divinity are now so deeply rooted in the racial consciousness that the balancing work of the mind and the presentation of the Plan in the place of the Vision can [606] safely proceed. The children of the race who are still Atlantean in consciousness will continue with the mystical approach and the beauty of that contribution will still be the heritage of the race. But the cycle of the mystical effort and experience will be considerably shortened and scientifically controlled because its purpose, its place in racial unfoldment and its contribution to the “doctrine of Reality” will be better understood.
Chu kỳ thần bí này là sự tương ứng với chu kỳ “vị thành niên” trong đời sống của những người trẻ, có giá trị, có tầm nhìn xa và làm sống lại, thúc đẩy sự định hướng đúng đắn và ổn định các tiêu chuẩn và giá trị nhất định. Tuy nhiên, chu kỳ như thế sẽ được xem như không được mong muốn khi đã đến lúc mà một tập hợp mới và cao siêu hơn của các giá trị, và một kỹ thuật tinh thần và được kiểm soát nhiều hơn sẽ thay thế nó. Một mục đích của cuộc sống, một kế hoạch được công nhận và một hoạt động được hướng dẫn đúng đắn cuối cùng phải thay thế tất cả khao khát trẻ tuổi, những ước mơ, khát vọng giàu trí tưởng tượng và khát vọng trong cuộc sống của cá nhân và của nhân loại.
This mystical cycle is the correspondence to the “adolescent” cycle in the life of the young, valuable, visionary and life-giving, spurring on to right orientation and stabilizing certain standards and values. Such a cycle will, however, be recognized as undesirable when the time has come that a new and higher set of values and a more spiritual and controlled technique should take its place. A life purpose, a recognized plan and a correctly directed activity must eventually supersede all adolescent yearnings, dreams, imaginative longings and aspiration in the life of the individual and of the race.
Xin các bạn đừng hiểu nhầm tôi. Linh ảnh là hình ảnh của thực tại. Đấng Mơ tưởng Vĩnh Cửu đang mơ và nhà Thần bí vĩ đại nhất chính là Thượng đế. Nhưng giấc mơ của Ngài phải được ghi nhận trong tâm thức của chúng ta như là Kế Hoạch của Thượng đế (Thiên Cơ) và linh ảnh thần bí là sự phát triển cần thiết mặc dù chỉ là tạm thời trong con người về khía cạnh “mơ ước” của bản chất của Thượng đế. Hãy suy gẫm về điều này, bởi vì nó tiết lộ cho những ai suy nghĩ một cách đúng đắn.
Mistake Me Not. The vision is a vision of reality. The Eternal Dreamer dreams and the greatest of all Mystics is the divine Logos Himself. But His dream must be registered in our consciousness as God’s Plan and the mystical vision is the necessary though passing development in the human being of the “dreaming” aspect of God’s Nature. Ponder on this, for it holds revelation to those who ponder rightly.
(Còn tiếp)
jupiter nguyen
jupiter nguyen
jupiter nguyen
jupiter nguyen
Nguyen Khac Thanh
webmaster
Nguyen Khac Thanh
webmaster
webmaster