Tiều luận cuối năm học năm II của một Học viên Trường Morya Federation, viết về dòng tiến hoá thiên thần, trình bày song ngữ
DEVIC EVOLUTION AND ITS RELATION TO US
Synthetic Paper Year II
Morya Federation
Lam Van Kiet
2012
Table of Contents—mục lục
2. The Elemental and Elemental Essence: 11
Definition of Elemental Essence 13
Định Nghĩa của Tinh chất hành khí 13
Characteristics of the Elemental Essence— 19
Three Elementals related to the Personality 29
5. The lunar Pitris and the lunar lords: 42
6. The relations of the lunar lords and solar lords. The Path of Evolution. 56
Introduction—GIỚI THIỆU
The Army of the Voice, the devas in their serried ranks, work ceaselessly. Let the disciple apply himself to the consideration of their methods; let him learn the rules whereby that Army works within the veils of Maya. |
Đạo quân của Âm thanh, là hàng ngũ đông đảo các thiên thần, đang làm việc không ngừng nghỉ. Người đệ tử hãy chú tâm xem xét các phương pháp của họ; hãy học các qui luật mà Đạo quân này dùng làm việc bên trong các bức màn Ảo ảnh. |
Initiation: Human and Solar, p. 202 |
Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ, trang 202 |
Story of Devas is not new. They are mentioned in every culture—East and West, in folk lore and literature works, in ancient or modern time. Few that can see them, but this does not prevent many people believe that they coexist and share with us this planet, and their evolution is parallel to ours. They help us much, but the opposite is also true: our contribution to them is not less. In fact, the Deva and Humanity evolutions are two halves of the One Evolution. |
Câu chuyện về các Devas không phải là mới. Các Thiên thần được đề cập đến trong mọi nền văn hóa—Đông và Tây, trong các truyền thuyết dân gian và các tác phẩm văn học, thời cổ đại hay hiện đại. Rất ít người có thể nhìn thấy chúng, nhưng điều này không ngăn cản nhiều người tin rằng chúng tồn tại và chia sẻ với chúng ta hành tinh này, và quá trình tiến hóa của chúng song song với sự tiến hóa của chúng ta. Họ giúp chúng ta nhiều, nhưng điều ngược lại cũng đúng: sự đóng góp của chúng ta cho họ cũng không ít. Trên thực tế, sự tiến hóa của Deva và loài người là hai nửa của Một Sự Tiến hóa. |
In recent times, many clairvoyants like Geoffrey Hodson, C.W. Leadbeater, and Pogačnik … described the Deva Kingdom in their works. But seeing is not knowing, the knowledge of this kingdom is not revealed in depth until the appearance of the magnum opus A Treatise on Cosmic Fire of the sage commonly known as the Tibetan Master through the pen of Alice A. Bailey. For the first time a large amount of information was imparted about this evolution with their serried ranks: the Agnishvattas, Agnisuryans, and Agnichaitans …. The intricate relations of Deva Evolution and man are revealed, and this shows us the ways to cooperate with them for the advancement of both evolutions, macrocosmically as well as microcosmically. |
Trong thời gian gần đây, nhiều nhà thấu thị như Geoffrey Hodson, CW Leadbeater, và Pogačnik… đã mô tả Vương quốc các Deva trong các tác phẩm của mình. Nhưng nhìn thấy không phải là biết, kiến thức về vương quốc này không được tiết lộ cho đến khi tác phẩm vĩ đại A Treatise on Cosmic Fire của Chân sư DK xuất hiện. Lần đầu tiên một lượng lớn thông tin được truyền đạt về dòng tiến hóa này với các cấp bậc của các devas: Agnishvattas, Agnisuryans và Agnichaitans…. Các mối quan hệ phức tạp của dòng Tiến hóa Thiên thần và dòng Tiến hóa của nhân loại được tiết lộ, và điều này chỉ cho chúng ta cách hợp tác với các thiên thần vì sự tiến bộ của cả hai, về mặt vĩ mô cũng như vi mô. |
More than a century ago H.P. Blavatsky told us that “man is a life plus lives,”[1] and the saying of Plato as quoted by H.P. Blavatsky in The Secret Doctrine that the human soul or Ego is “a compound of the same and the other” revealves the same truth: “Man is literally deva substance, and a God,” as Master D.K reminded us in His masterpiece A Treatise on the Cosmic Fire. But although the revelation is magnificent, there are still some seemingly contradictory statements scattered here and there in the works of Master D.K. Perhaps, these await the next revelation to be clarified. Meanwhile, in this short paper on the Deva Evolution and Its relation to our own, I try to describe the general outline of this Evolution, Its characteristics and relations to Man, especially microcosmically, and the ways we can cooperate with that Evolution. Nor do I enter into many details, and repeat basic concepts of the Ageless Wisdom like Scheme of Evolution, Chain, Globe, etc. This can be referred to the books in the Bibliography. This paper can be considered as a continuation of the last year’s paper (on “the Solar Angel and the Egoic Lotus”) of the writer. In the paper, the quotations are in blue, and all boldings and underlinings (bold and underline) are of the writer. |
Hơn một thế kỷ trước, bà HP Blavatsky đã nói với chúng ta rằng “con người là sự sống cộng với sự sống,” và câu nói của Plato được HP Blavatsky trích dẫn trong The Secret Doctrine rằng linh hồn hay Bản ngã của con người là “một kết hợp của cái giống nhau và khác nhau”, nó tiết lộ cùng một sự thật mà Chân sư DK đã nói với chúng ta trong quyển A Treatise on the Cosmic Fire của Ngài “Con người, đúng thực theo nghĩa đen, là chất liệu chư thần, cộng với Thượng đế”. Nhưng mặc dù sự tiết lộ là của Chân sư DK là vô cùng tuyệt vời, vẫn có một số tuyên bố dường như mâu thuẫn rải rác đây đó trong các tác phẩm của Ngài. Có lẽ, những điều này đang chờ đợi sự tiết lộ tiếp theo để được làm sáng tỏ. Trong bài viết ngắn này về Sự tiến hóa Thiên thần và mối quan hệ của nó với chính chúng ta, tôi cố gắng mô tả khái quát về Dòng Tiến hóa này, những đặc điểm và mối quan hệ của nó với Con người, đặc biệt là về mặt vi mô, và những cách chúng ta có thể hợp tác với Dòng Tiến hóa đó. Tôi cũng không đi sâu vào nhiều chi tiết, lặp lại các khái niệm cơ bản của Minh Triết Thiêng Liêng như Hệ Hành tinh, Dãy Hành tinh, Các Bầu Hành tinh v.v. Điều này có thể được tham khảo trong các cuốn sách trong Thư mục. Bài viết này có thể được coi là phần tiếp theo của bài tiểu luận trước đây (về “Thái dương Thiên Thần và Hoa Sen Chân Ngã”). Trong bài viết, các câu trích dẫn có màu xanh lam, và tất cả các chữ in đậm và gạch chân ( in đậm và gạch chân ) là của người viết. |
1. THE CHARACTERISTICS OF THE DEVA EVOLUTION—CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA DÒNG TIẾN HÓA THIÊN THẦN
Deva Evolution is far more crowded than our own[2] and includes various classes of ethereal beings spreading from the unconscious, passive, and tiny lives to some magnificent Devas with the rank equivalent to a Chohan or an Initiate of Seventh Degree. The complexity of this evolution seems to overwhelm any intention to classify or systemize it. Another hindrance to its study is that Devas are normally invisible to most people except someone with specific vision, and even those who can see them cannot say being able to understand their operations. So, in this paper, I try to get only some glimpses into this magnificent evolution, refer to many books from the various sources–Theosophy, Max Heindel etc., but its bases are always the books of Master D.K. |
Dòng Tiến hóa Thiên thần đông đúc hơn chúng ta rất nhiều, và bao gồm nhiều cấp bậc sinh vật vi tế khác nhau trải dài từ các sự sống vô thức, thụ động và nhỏ bé đến một số Thiên thần với với cấp bậc tương đương với một vị Đế Quân Chohan hoặc Điểm đạo đồ bậc bảy. Sự phức tạp của dòng tiến hóa này dường như làm choáng ngợp những ai có ý định phân loại hoặc hệ thống hóa nó. Một trở ngại khác đối với nghiên cứu về nó là các Devas thường vô hình đối với hầu hết mọi người, ngoại trừ một người có nhãn quang cụ thể, và ngay cả những người có thể nhìn thấy chúng, cũng không thể nói là có thể hiểu được hoạt động của chúng. Vì vậy, trong bài viết này, tôi cố gắng chỉ tìm hiểu sơ lược về dòng tiến hóa tuyệt vời này, tham khảo nhiều sách từ các nguồn khác nhau—Thông Thiên Học, Max Heindel, v.v., nhưng cơ sở của nó luôn là sách của Chân sư DK. |
|
Literally, the Sanskrit word Deva means “the Shining Ones, the resplendent;” and it covers “spiritual beings of various degrees,” “some of them superior, others inferior, to man,”, and they include “entities from previous planetary periods, who take active part in the formation of new solar systems and the training of infant humanities, as well as unprogressed Planetary Spirits, who will, at spiritualistic séances, simulate human deities and even characters on the stage of human history.”[3] In general, there are two classes of Deva Evolution, the involutionary and the evolutionary. The term Elemental is usually used to indicate an involutionary devic entity, whereas the word Deva is reserved for devic being on the evolutionary arc. But there is not always conformity between various authors, and the use of many terms for one class of entities, or, on the other hand, the same term for many classes, has led to much confusion. We will return to this when considering the topic Elemental and Elemental Essence. |
Theo nghĩa đen, từ tiếng Phạn Deva có nghĩa là “Những Đấng Sáng chói, những vị chói lọi”, và nó bao gồm “những thực thể tâm linh ở nhiều cấp độ khác nhau”, “một số trong họ vượt trội hơn, những thực thể khác thấp kém hơn con người,” và chúng bao gồm “các thực thể từ các chu kỳ hành tinh trước, những vị tham gia tích cực vào việc hình thành các thái dương hệ mới và đào tạo nhân loại sơ sinh, cũng như các Tinh linh chưa tiến hoá, ở những phòng cầu đồng, giả dạng như các thần linh, và thậm chí cả các nhân vật trong lịch sử nhân loại. Nói chung, có hai nhóm Devas, nhóm thăng thượng tiến hóa và nhóm giáng hạ tiến hóa. Thuật ngữ Elemental thường được sử dụng để chỉ một thực thể trên đường giáng hạ tiến hóa, trong khi từ Deva được dành cho thực thể trên đường thăng thượng tiến hóa. Nhưng không phải lúc nào cũng có sự phù hợp giữa các tác giả khác nhau và việc sử dụng nhiều thuật ngữ cho một lớp thực thể, hoặc mặt khác, cùng một thuật ngữ cho nhiều nhoám khác nhau, đã dẫn đến nhiều nhầm lẫn. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này khi xem xét chủ đề Elementals và Elemental Essence. |
|
But what is the distinct characteristics of the Deva Evolution as contrasted to the Human Evolution? More than one century ago, in a letter to A.P. Sinnett Master K.H. taught that: |
Nhưng những đặc điểm khác biệt của Dòng tiến hóa Thiên thần so với Dòng Tiến hóa của con người là gì? Hơn một thế kỷ trước, trong một lá thư gửi cho ông AP Sinnett, Chân sư KH đã dạy rằng: |
|
“How could you make yourself understood, command in fact, those semi-intelligent Forces, whose means of communicating with us are not through spoken words, but through sounds and colors, in correlation between the vibrations of the two? For sound, light and color are the main factors in forming those grades of intelligences, those beings of whose very existence you have no conception, nor are you allowed to believe in them — Atheists and Christians, Materialists and Spiritualists, all bringing forward their respective arguments against such a belief — science objecting stronger than either of these to such a degrading superstition.”[4] |
“Làm thế nào bạn chính mình có thể hiểu được, thực tế là chỉ huy, những Mãnh Lực bán thông minh, những thực thể mà phương tiện giao tiếp với chúng ta không phải thông qua lời nói, mà thông qua âm thanh và màu sắc, trong mối tương quan giữa rung động của cả hai? Vì âm thanh, ánh sáng và màu sắc là những yếu tố chính hình thành nên những cấp độ thông minh đó, những sinh vật mà bạn không thể có ý niệm về sự hiện tồn của chúng, cũng như bạn không được phép tin vào chúng—những người theo thuyết vô thần và Cơ đốc giáo, Người duy vật và Người duy linh, tất cả đều đưa ra những lí luận của họ chống lại một niềm tin như vậy—khoa học phản đối mạnh mẽ hơn một trong hai điều này đối với một sự mê tín sa đọa như vậy”. |
|
Another author [5] reminded us that in considering the Deva Evolution we should “see that there are two different evolutions, which have totally different purposes, interests and methods,” and that we should “not to think as humans are thinking.” But perhaps it is best to quote those words of the One who know. In A Treatise Cosmic Fire, Master D.K summaries those distinct characteristics of this evolution as follows:[6] |
Một tác giả khác đã nhắc nhở chúng ta rằng khi xem xét Sự tiến hóa của Deva, chúng ta nên “thấy rằng có hai dòng tiến hóa khác nhau, có những mục đích, sự quan tâm và phương pháp hoàn toàn khác nhau,” và chúng ta nên “đừng nghĩ như con người đang nghĩ”. Nhưng có lẽ tốt nhất nên trích dẫn những lời của Người biết những điều đó. Trong Cosmic Fire, Chân sư DK tóm tắt những đặc điểm phân biệt của quá trình tiến hóa này như sau: |
|
1. Man is demonstrating the aspects of divinity. The devas are demonstrating the attributes of divinity. |
1. Con người đang thể hiện các trạng thái của thiên tính. Các devas thể hiện các thuộc tính (attributes) của thiên tính (divinity). |
|
2. Man is evolving the inner vision and must learn to see. The devas are evolving the inner hearing and must learn to hear. |
2. Con người đang phát triển nội nhãn thông (inner vision) và phải học cách thấy. Các devas đang phát triển nội nhĩ (inner hearing) và phải học cách nghe. |
|
3. Both are as yet imperfect, and an imperfect world is the result. |
3. Cho đến nay, cả hai đều chưa hoàn thiện và kết quả là một thế giới bất toàn. |
|
4. Man is evolving by means of contact and experience. He expands. The devas evolve by means of the lessening of contact. Limitation is the law for them. |
4. Con người đang tiến hóa bằng cách tiếp xúc và kinh nghiệm. Y đang mở rộng. Các devas tiến hóa bằng cách giảm bớt sự tiếp xúc. Giới hạn là định luật đối với họ. |
|
5. Man aims at self-control. Devas must develop by being controlled. |
5. Con người nhắm vào sự tự chủ (self-control). Devas phải phát triển bằng cách được kiềm chế (being controlled). |
|
6. Man is innately Love—the Force which produces coherency. The devas are innately intelligence,—the force which produces activity. |
6. Con người bẩm sinh là Bác Ái, – Mãnh Lực tạo ra sự cố kết (coherency). Các devas bẩm sinh là sự thông tuệ, − mãnh lực tạo ra sự hoạt động. |
|
7. The third type of force, that of Will, the balancing equilibrium of electrical phenomena, has to play equally upon and through both evolutions, but in the one it demonstrates as self-consciousness, and in the other as constructive vibration. |
7. Loại lực thứ ba, là lực Ý Chí, sự thăng bằng làm quân bình hiện tượng điện, phải đóng vai trò bằng nhau trên và qua cả hai hệ tiến hóa, nhưng trong một hệ, nó thể hiện dưới hình thức ngã thức, còn trong hệ kia, thì dưới hình thức rung động có tính xây dựng. |
|
It is apparent from the above passage that the rays that the Deva Evolution is rule primarily by Ray 3 and Man by Ray 1. Both evolutions share the common ray which is Ray 2. |
Từ đoạn văn trên, rõ ràng là dòng Tiến hóa Deva được cai quản chủ yếu bởi Cung 3, và Con người bởi Cung 1. Cả hai dòng tiến hóa đều chia sẻ chung Cung 2. |
|
In the book “A Learning Experience”[7], the author releases some unpublished instructions of Master D.K., and it may be useful to quote some passages related to the Deva Evolution. For convenience, the quoted information is put in a table: |
Trong quyển sách “Một Kinh Nghiệm Học Tập”, tác giả đưa ra một số phát biểu của Chân sư DK chưa được xuất bản, và có thể hữu ích nếu trích dẫn một số đoạn liên quan đến Dòng Tiến hóa Thiên thần. Để thuận tiện, thông tin trích dẫn được đưa vào bảng sau đây: |
Deva Evolution |
Human Evolution |
|
1 |
The deva evolution is feminine, negative and receptive |
The human evolution is masculine, positive and aggressive. |
2 |
The devas build. The same lesson of acquiescence in the will of the great One is learned. |
Man breaks |
3 |
The beauty of that will is learned by the devas through the SIGHT they have. |
The necessity of that will is learned by man and through HEARING the law, through the consequent breaking of that law and the succeeding pain man brings his will into line with the one Will. |
4 |
Devas learn to wield the Law because they recognise its effects. They SEE. |
Mankind learns to wield the laws because, through knowledge, they avoid subsequent pain. |
5 |
Devas learn through joy owing to clear vision, and subsequently the desire to produce the same effects they vision. |
Man learns through pain and subsequent discrimination. |
6 |
Devas obey the Law through innate obedience. They violate it not. Their problem is to copy and to build. |
Man obeys the Law through suffering; the violation of the Law brings karma and subsequent enlightenment. |
7 |
The devas suffer not, their rate of rhythm is steadier than the human, but nevertheless in line with the law. They learn through application and appreciation and joy in the forms built and the work achieved |
Man learns through discontent and the shattering of the form |
8 |
Devas SEE, they have the intuition which is the inner sight, developed. They are on the road to develop HEARING, hence the value of ceremonial and mantric effects in contacting them. |
Mankind is developing sight on all the planes; it is the inner vision, the development of the third eye, that is the goal of this manvantara, of this system. |
9 |
Devas are to develop hearing, sound, creative activity. |
Man is to develop sight, discrimination, intuition. |
10 |
Devas see and learn to hear the Sacred Word |
Man hears and learns to see the Sacred Word |
Dòng Tiến hóa Deva |
Dòng tiến hoá Nhân loại |
|
1 |
Dòng tiến hóa Thiên thần là âm, tiêu cực và thụ động |
Sự tiến hóa của con người là dương, tích cực và hiếu chiến. |
2 |
Các Devas kiến tạo. Bài học tương tự về sự vâng phục ý chí của các Đấng vĩ đại được học. |
Con người phá vỡ |
3 |
Vẻ đẹp của ý chí đó được các thiên thần học thông qua THỊ GIÁC mà họ có. |
Sự cần thiết của ý chí được con người học, thông qua việc NGHE Định luật, do hậu quả của sự vi phạm Định Luật dẫn đến phải chịu đau khổ, con người đưa ý chí của mình phù hợp với Ý Chí duy nhất. |
4 |
Các Thiên thần học cách vận dụng Định Luật vì họ hiểu rõ tác dụng của nó. Họ thấy. |
Nhân loại học cách sử dụng Định luật bởi vì thông qua kiến thức, họ tránh được những nỗi đau sau này. |
5 |
Các thiên thần học hỏi thông qua niềm vui nhờ tầm nhìn rõ ràng, và sau đó là mong muốn tạo ra những hiệu ứng tương tự những gì mà họ nhìn thấy. |
Con người học hỏi thông qua nỗi đau và sự phân biện sau đó. |
6 |
Thiên thần tuân theo Định Luật thông qua sự vâng lời bẩm sinh. Họ không vi phạm nó. Vấn đề của họ là sao chép và kiến tạo. |
Con người tuân theo Định Luật thông qua đau khổ; sự vi phạm Định Luật mang lại nghiệp quả và nhờ đó dẫn đến giác ngộ. |
7 |
Các thiên thần không bị đau khổ, nhịp điệu của họ ổn định hơn con người, tuy nhiên phù hợp với định luật. Họ học hỏi thông qua áp dụng, đánh giá cao và niềm vui trong các hình tướng được xây dựng và công việc đạt được |
Con người học qua sự bất mãn và sự phá vỡ các hình tướng. |
8 |
Các thiên thần THẤY, họ có trực giác là nội nhãn được phát triển. Họ đang trên đường phát triển sự NGHE, do đó giá trị của các hiệu ứng nghi lễ và mantram trong việc tiếp xúc với họ. |
Nhân loại đang phát triển tầm nhìn trên tất cả các cõi giới; chính nội nhãn bên trong, sự phát triển của con mắt thứ ba, là mục tiêu của manvantara này, của hệ thống này. |
9 |
Các thiên hướng đến phát triển thính giác, âm thanh, hoạt động sáng tạo. |
Con người hướng đến phát triển thị giác, phân biện, trực giác. |
10 |
Các thiên nhìn thấy và học cách nghe thấy Linh Từ |
Con người nghe và học cách nhìn thấy Linh Từ |
Bảng 1
From the above table, the first assertion is that the Deva Evolution is feminine and the Human Evolution is masculine. This can be easily comprehended when we continually read the next lines. Devas are innately obedient to the Law; they see, and enjoy in building the form. Their objective is developing hearing. Forget not that Devas communicate to each other by “the colour which can be heard, and sound which can be seen.” On the other hand, man develops by expanding and destroying limitations. Through breaking the Law, Karma brings sufferings and pain to him, and through suffering that man progress. His objective is to develop SIGHT, that inner vision on every plane. |
Từ bảng trên, khẳng định đầu tiên là Dòng Tiến hóa Thiên thần là âm, và dòng Tiến hóa Nhân loại là dương. Chúng ta có thể hiểu được điều này dễ dàng khi chúng ta đọc tiếp những dòng tiếp theo. Các Thiên thần bẩm sinh tuân theo Định Luật; họ thấy và vui thích trong việc xây dựng các hình tướng. Mục tiêu của họ là phát triển thính giác. Cũng đừng quên rằng các Thiên thần giao tiếp với nhau bằng “màu sắc có thể nghe và âm thanh có thể nhìn thấy”. Ngược lại, con người phát triển bằng cách mở rộng và phá hủy những giới hạn. Thông qua việc vi phạm Định Luật, Karma mang lại đau khổ và đau đớn cho con người, và thông qua đau khổ mà con người tiến bộ. Mục tiêu của con người là phát triển THỊ GIÁC, tầm nhìn bên trong trên mọi cảnh giới. |
||
Another characteristic of the Deva Evolution is that they, except some Greater Devas, always work in group: |
Một đặc điểm khác của dòng Tiến hóa Thiên thần là họ, ngoại trừ một số Đại Thiên Thần, luôn hoạt động theo nhóm: |
||
The devas do not work as individualised conscious units through self-initiating purposes as does a man, a Heavenly Man or a solar Logos (viewed as Egos) but they work in groups subject to: |
Các thiên thần không hoạt động như các đơn vị hữu thức được biệt ngã hóa, thông qua các mục tiêu tự khởi xướng như một người, một Hành Tinh Thượng Đế hay một Thái Dương Thượng Đế (được xem như là các Egos), mà họ hoạt động theo các nhóm phụ thuộc vào: |
||
a. Inherent impulse, or latent active intelligence. |
a. Xung lực có sẵn, hay sự thông tuệ linh hoạt tiềm tàng. |
||
b. Orders issued by the greater Builders. |
b. Các mệnh lệnh do các vị Kiến Tạo lớn hơn đưa ra. |
||
c. Ritual, or compulsion induced through colour and sound. [8] |
c. Nghi thức hay sự ép buộc được tạo ra thông qua màu sắc và âm thanh. |
||
And: |
Và: |
||
On the atomic subplane are the permanent physical atoms of all humanity and the appropriated atoms of the deva kingdom. The devas do not develop as do the human race. They reincarnate in groups, and not as individuals, though each group is composed of units, and has nothing of the nature of the involutionary group soul. The group soul on the involutionary path and that upon the evolutionary are unlike; one is passing on to differentiation and is composed of entities animated by one general life; the other has differentiated, and each entity is a separate unit of the one life, complete in itself, yet one with the whole. |
Trên cõi phụ nguyên tử tồn tại các nguyên tử trường tồn vật lý của toàn nhân loại và các nguyên tử được sử dụng của giới thiên thần. Các thiên thần không phát triển như nhân loại. Họ tái sinh theo nhóm, chứ không phải cá nhân, mặc dù mỗi nhóm bao gồm các đơn vị và không có gì mang bản chất của hồn nhóm trên con đường giáng hạ. Hồn nhóm trên con đường giáng hạ và trên con đường thăng thượng không giống nhau; một bên đang tiến đến sự phân hóa và được tạo thành từ các thực thể được sinh động hóa bởi một sự sống chung, trong khi bên kia đã phân hóa, và mỗi thực thể là một đơn vị riêng biệt của sự sống duy nhất, hoàn chỉnh trong chính nó, nhưng đồng thời hòa nhất với tổng thể. |
||
There are many types of life to be contacted on the four etheric levels, but we can only concern ourselves at present with the deva life, remembering that the deva evolution is of equal importance to that of the human. These devas are many in number, are of involutionary and evolutionary nature, and of all grades and types. [9] |
Có nhiều loại sự sống có thể tiếp xúc trên bốn cõi dĩ thái, nhưng hiện tại chúng ta chỉ có thể tập trung vào sự sống của thiên thần, nhớ rằng tiến hóa của thiên thần có tầm quan trọng ngang với tiến hóa của nhân loại. Các thiên thần này rất đông đảo, mang bản chất cả giáng hạ lẫn thăng thượng, và thuộc mọi cấp bậc cùng loại hình. |
||
The above paragraphs affirm many facts about the Deva Evolution: |
Các đoạn văn trên khẳng định nhiều sự kiện về dòng Tiến hóa Thiên thần: |
||
– They also reincarnate as we do, but in group. |
– Họ cũng tái sinh như chúng ta, nhưng theo nhóm. |
||
– They have their cycle of reincarnation, but perhaps theirs is more natural and sorrowless. |
– Họ có chu kì tái sinh của họ, nhưng có lẽ tự nhiên hơn và không có sự đau khổ. |
||
– On the inner planes, there are many other evolutions beside the Deva Evolution. So the complexity of life on the invisible planes is greatly high. |
– Trên các cõi giới bên trong, có rất nhiều sự tiến hóa khác ngoài dòng tiến hóa Thiên thần. Vì vậy, sự phức tạp của sự sống trên cõi giới nội tại là rất cao. |
2. The Elemental and Elemental Essence—
Hành khí và tinh chất hành khí
Elementals is perhaps a most confusing of the teachings on the Deva Evolution. In its commonest meaning the word Elementals is used to denote the devic entities on the involutionary arc, but in many cases it is also used to indicate evolutionary devas. In some places, it refers to the involutionary entities related to the personality (the physical, astral, and mental elementals). Thoughforms are also called elementals. As C.W. Leadbeater commented in one of his books: |
Elementals có lẽ là một trong những giáo lý khó hiểu nhất về dòng tiến hóa Thiên thần. Theo nghĩa phổ biến nhất, từ Elementals được sử dụng để biểu thị các thực thể thiên thần cung giáng hạ tiến hóa, nhưng trong nhiều trường hợp, nó cũng được sử dụng để chỉ các thực thể thiên thần trên cung thăng thượng tiến hoá. Ở một số nơi khác, nó cũng chỉ các thực thể tiến hóa liên quan đến phàm ngã (các tinh linh thể xác, cảm dục và trí tuệ). Hình tư tưởng cũng được gọi là một tinh linh. Như ông CW Leadbeater đã nhận xét trong cuốn sách của mình: |
As the name “elementary” has been given indiscriminately by various writers to any or all of man’s possible post-mortem conditions, so this word “elemental” has been used at different times to mean any or all non-human spirits, from the most god-like of the Devas down through every variety of nature-spirit to the formless essence which pervades the kingdoms lying behind the mineral, until after reading several books the student becomes absolutely bewildered by the contradictory statements made on the subject.[10] |
Vì tên “Elementaries” (ma hình) đã được các tác giả khác nhau đặt một cách không phân biệt cho bất kỳ hoặc tất cả các điều kiện sau khi chết của con người, nên từ “tinh linh” này đã được sử dụng vào những thời điểm khác nhau để chỉ bất kỳ hoặc tất cả các sinh linh không phải con người, từ các Devas gần giống như các vị thần nhất cho đến mọi hình thể của các sinh linh của tự nhiên, đến loài tinh hoa vô hình thấm nhập khắp các vương quốc nằm phía sau giới khoáng vật, cho đến sau khi đọc vài cuốn sách, người học viên trở nên hoàn toàn hoang mang trước những tuyên bố mâu thuẫn được đưa ra về chủ đề này. |
For that reason, C.W. Leadbeater and A. Besant used the word Elemental Essence to denote those formless essences preceding the mineral kingdom. Before them, the word Elementals seem to be used by H.P. Blavatsky to refer to both the Elemental Essence and the Nature Spirits. |
Vì lý do đó, Ông CW Leadbeater và Bà A. Besant đã sử dụng từ từ Elemental Essence để chỉ những tinh chất vô hình ở trước giới khoáng vật. Trước các vị, từ Elementals dường như được HP Blavatsky sử dụng để chỉ cả Elemental Essence và Tinh linh thiên nhiên. |
Some people, influenced by the autobiography of Alice A. Bailey, tend to think that all the teachings of C.W. Leadbeater are astralism[11]. But, as Master D.K. commented in Esoteric Psychology, in spite of some mistakes, he is an “advanced occultist,” and “yet of his sincerity and of his point of attainment there is no question.”[12] [13] |
Một số người, bị ảnh hưởng bởi cuốn tự truyện của bà Alice A. Bailey, có xu hướng nghĩ rằng tất cả những lời dạy của CW Leadbeater là astralism. Nhưng, như Chân sư DK đã nhận xét trong Tâm lý học Bí truyền, mặc dù có một số sai lầm, nhưng ông là một “nhà huyền bí học cao cấp” và “không có gì phải bàn cãi về sự chân thành và thành tựu của ông.” |
The word Elemental was first referred in a letter of Master K.H. sent to A.P. Sinnett, as quoted in the Occult World. Here we find some primeval teachings on the Elemental Essence: |
Từ Elemental lần đầu tiên được nhắc đến trong một bức thư của Chân sư KH gửi cho AP Sinnett, như được trích dẫn trong Thế giới huyền bí. Ở đây chúng ta tìm thấy một số giáo lý cơ bản về Elemental Essence: |
“EVERY thought of man upon being evolved passes into the inner world, and becomes an active entity by associating itself, coalescing we might term it, with an elemental that is to say, with one of the semi-intelligent forces of the kingdoms. It survives as an active intelligence, a creature of the mind’s begetting for a longer or shorter period proportionate with the original intensity of the cerebral action which generated it. Thus a good thought is perpetuated as an active, beneficent power, an evil one as a maleficent demon. And so man is continually peopling his current in space with a world of his own, crowded with the offspring of his fancies, desires, impulses and passions; a current which re-acts upon any sensitive or nervous organization which comes in contact with it, in proportion to its dynamic intensity. The Buddhist calls it his “Skandha”; the Hindu gives it the name of “Karma”. The Adept evolves these shapes consciously; other men throw them off unconsciously.”[14] |
“MỌI tư tưởng của con người khi được tạo ra sẽ đi vào thế giới bên trong, trở thành một thực thể hoạt động bằng cách tự liên kết với một elemental, nghĩa là, với một trong những mãnh lực bán thông minh của tự nhiên. Nó tồn tại như một trí thông minh linh động, một sinh vật do trí óc sinh ra trong một khoảng thời gian dài hoặc ngắn tuỳ thuộc vào cường độ ban đầu của hoạt động não bộ đã tạo ra nó. Vì vậy, một tư tưởng tốt tồn tại như một sức mạnh tích cực, tốt lành, và một tư tưởng xấu như là một ác quỷ độc ác. Và con người tiếp tục sinh sôi trong dòng lưu chuyển của y trong không gian với một thế giới của riêng y, đông đảo những con cháu của những tưởng tượng, ham muốn, thôi thúc và đam mê của y; một dòng lưu chuyển tác động trở lại lên bất kỳ tổ chức nhạy cảm hoặc thần kinh nào tiếp xúc với nó, tương ứng với cường độ động lực của nó. Người Phật tử gọi nó là “Ngũ uẩn”; người Hindu đặt tên cho nó là “Karma”. Những Vị Đại sư tạo ra những hình thể này một cách có ý thức; những người phóng chúng ra một cách vô thức. “ |
The Master was mentioning the thoughtform as an active entity associating itself with a semi-intelligent force which he called an elemental. This thoughtform has the duration of its life depending on the strength of its originator. It is the Skandha in Buddhist teaching and a source of Karma. This thoughtform is constructed of the mental and astral matter, which are called by later Theosophists as the elemental essence. |
Chân sư KH đang đề cập đến hình tư tưởng như một thực thể tích cực, tự liên kết với một mãnh lực bán thông minh mà Ngài gọi là một tinh linh. Hình tư tưởng này tồn tại tùy thuộc vào sức mạnh của người khởi tạo nó. Nó chính là Uẩn trong giáo lý Phật giáo và là nguồn gốc của Nghiệp Quả. Hình tư tưởng này được cấu tạo từ vật chất cảm dục và trí tuệ, được các nhà Thông thiên học sau này gọi là tinh chất hành khí (elemental essence). |
Definition of Elemental Essence |
Định Nghĩa của Tinh chất hành khí |
If we want to dig deeply into the teaching on the Elemental Essence, nowhere can we find except in the books of Annie Besant and C.W. Leadbeater. In the blue books, the word Elemental Essence is mentioned ten times, and only once it is defined as follows: |
Nếu chúng ta muốn đi sâu vào đề tài Tinh chất hành khí, chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong các sách của bà Annie Besant và ông CW Leadbeater. Trong tất cả các sách của Chân sư DK, thuật ngữ Elemental Essence được nhắc đến mười lần, và chỉ một lần nó được định nghĩa như sau: |
32 Monadic Essence, the matter of the atomic (or highest) subplane of each plane. Elemental Essence, the matter of the six subplanes which are non atomic. It is molecular matter.[15] |
Tinh chất Chân thần (Monadic Essence), là vật chất của cõi phụ nguyên tử (hay cõi phụ cao nhất) của mỗi cõi chính. Tinh chất hành khí (Elemental Essence), tức vật chất của sáu cõi phụ phi nguyên tử. Đó là vật chất phân tử. |
64 Elemental Essence is seen to consist of aggregations of matter, on one of the six non-atomic subplanes of the mental and the desire planes—aggregations which do not themselves serve as forms for any entity to inhabit, but as the material out of which such forms may be built.[16] |
Tinh chất hành khí được xem như bao gồm các tập hợp vật chất, ở một trong sáu cõi phụ phi nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục—các tập hợp mà bản thân chúng không được dùng làm các hình hài dành cho bất cứ thực thể nào trú ngụ, mà là vật liệu nhờ đó các hình hài này có thể được tạo dựng. |
This definition is clearly a quotation from Study in Consciousness by Annie Besant (p. 70). It should also be remembered that three important Charts[17] in the Cosmic Fire are taken from the article “Study on the relation of Man to God” by A. Schwarz (the Theosophist magazine, issues December 1899 and January 1900), and this article quotes extensively from the books of Annie Besant and C.W. Leadbeater. So we can understand Master D.K.’s appreciation, and also somewhat the reliability of their teachings. The Chart II on page 93 of The Cosmic Fire [18] shows us the overview of the three lower involutionary kingdoms preceding the mineral one, the three outpourings, and the Three Logoi. Nowhere is clearer than the following explanations of Mrs. Annie Besant: |
Định nghĩa này rõ ràng là một trích dẫn từ quyển Nghiên cứu về Tâm thức của Annie Besant (trang 70). Cũng nên nhớ rằng ba Biểu đồ quan trọng trong Lửa Vũ Trụ được trích từ bài báo “Nghiên cứu về mối quan hệ giữa Con người và Thượng đế” của A. Schwarz (tạp chí Theosophist, số phát hành Tháng 12 năm 1899 và tháng 1 năm 1900), và bài báo này đã trích dẫn rất nhiều từ các sách của Bà Annie Besant và Ông CW Leadbeater. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu sự đánh giá cao của Chân sư DK, và cũng phần nào độ tin cậy trong những lời dạy của các vị này. Biểu đồ II trên trang 93 của Lửa Vũ Trụ cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về ba giới tiến hóa thấp hơn trước giới khoáng vật, ba Luồng Sóng Sinh Hoạt và ba Vị Thiên Đế. Không nơi nào rõ ràng hơn những lời giải thích sau đây của bà Annie Besant: |
We may define Monadic Essence then as atomic matter ensouled by the life of the [69] Second Logos. It is His clothing for the vivifying and holding together of forms; He is clad in atomic matter. His own life as Logos, separate from the life of Atma-Buddhi-Manas in the man, separate from any lives on the plane—though He supports, permeates, and includes them all—is clothed only in atomic matter, and it is this which is connoted by the term of Monadic Essence. The matter of that plane, already by the nature of its atoms capable of responding by vibrations to active thought-changes, is thrown by the second life-wave into combinations fit to express thoughts—abstract thoughts in the subtler matter, concrete thoughts in the coarser. The combinations of the second and third higher sub-planes constitute the First Elemental Kingdom; the combinations on the four lower sub-planes constitute the Second Elemental Kingdom. Matter held in such combinations is called Elemental Essence, and is susceptible of being shaped into thought-forms. The student must not confuse this with Monadic Essence; one [70] is atomic, the other molecular, in constitution. |
Chúng ta có thể định nghĩa Tinh chất Chân thần là vật chất nguyên tử được tạo thành bởi sự sống của [69] Thượng đế thứ hai. Đó là y phục của Ngài nhằm linh hoạt hoá và kết hợp các hình tướng lại với nhau; Ngài được bao phủ bởi vật chất nguyên tử. Với cương vị Thượng Đế, Sự Sống của chính Ngài tách biệt với sự sống của Atma-Buddhi-Manas trong con người, tách biệt với bất cứ sự sống nào trên cõi giới đó—mặc dầu Ngài truyền sức mạnh, thấm nhuần, và bao gồm tất cả các sự sống kia—chỉ được bao bọc trong vật chất nguyên tử, và chính điều này là ý nghĩa của thuật ngữ Tinh chất Chân thần. Vật chất của cõi đó, do bản chất của các nguyên tử của cõi đó, có khả năng đáp ứng bằng các rung động với các thay đổi linh hoạt của tư tưởng, được Làn Sóng Sinh Hoạt Thứ Hai đưa vào các kết hợp vật chất thích hợp để biểu lộ các tư tưởng—các tư tưởng trừu tượng ở trong vật chất tinh anh hơn, còn tư tưởng cụ thể ở trong vật chất thô thiển hơn. Các kết hợp vật chất của cõi phụ cao thứ hai và thứ ba tạo ra Giới Hành Khí Thứ Nhất. Các kết hợp vật chất trên bốn cõi phụ thấp tạo ra Giới Hành Khí Thứ Hai. Vật chất được giữ lại trong các phức hợp vật chất như thế được gọi là Tinh chất hành khí và dễ nhạy cảm để được tạo hình thành càc hình tư tưởng. Đạo sinh đừng nên nhầm lẫn Tinh chất hành khí với Tinh chất Chân thần (Monadic Essence); một bên [70] có cấu tạo nguyên tử, bên kia có cấu tạo phân tử. |
The second life-wave then rolls on into the sixth plane, the plane of Water, or individualised sensation, of desire. The before-mentioned Devas link the Jivatma—attached, or permanent, units of the fifth plane to a corresponding number of atoms on the sixth plane, and the Second Logos floods these and the remaining atoms with His own life—these atoms thus becoming Monadic Essence as explained above. The life-wave passes onwards, forming on each sub-plane the combinations fit to express sensations. These combinations constitute the Third Elemental Kingdom, and the matter held in such combination is called Elemental Essence, as before, and on this sixth plane is susceptible of being shaped into desire-forms. |
Làn Sóng Sinh Hoạt Thứ Hai lúc đó mới tuôn đổ vào cõi thứ sáu, cõi của Nước, hoặc cõi của cảm giác được cá nhân hóa, cõi của dục vọng. Các Thiên Thần được nói ở trên, liên kết Jivatma—các nguyên tử được gắn kết hay các nguyên tử thường tồn của cõi thứ năm, với một số các nguyên tử tương ứng trên cõi thứ sáu, và Thượng Đế Ngôi Hai làm tràn ngập các nguyên tử này và các nguyên tử còn lại bằng Sự Sống của chính Ngài—nhờ thế các nguyên tử này trở thành Tinh chất Chân thần như đã giải thích ở trên. Làn sóng sinh hoạt tiếp tục hướng tới, tạo ra trên mỗi cõi phụ các kết hợp vật chất thích hợp để biểu lộ các cảm giác. Các kết hợp vật chất này tạo thành Giới Hành Khí Thứ Ba, và vật chất được giữ trong phức hợp như thế được gọi là Tinh chất hành khí, như trên, và trên cõi thứ sáu này, dễ nhạy cảm để được nắn tạo thành các hình-dục vọng. |
Chart II – Logos of a Solar System
Elemental Essence is thus seen to consist of aggregations of matter on each of the six non-atomic sub-planes of the mental and desire planes, aggregations which do not themselves serve as forms for any entity to inhabit, but as the [71] materials out of which such forms may be built. The life-wave then rolls on into the seventh plane, the plane of Earth, of individualised activities, of actions. As before the Jivatma—attached, or permanent, atoms of the sixth plane are linked to a corresponding number on the seventh plane, and the Second Logos floods these and the remaining atoms with His own life—all these atoms thus becoming Monadic Essence. The life-wave again passes onwards, forming on each sub-plane combinations fitted to constitute physical bodies, the future chemical elements, as they are called on the three lower sub-planes. [19] |
Như thế ta thấy Tinh chất hành khí gồm có các tập hợp vật chất ở trên mỗi một trong số sáu cõi phụ phi-nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục, các tập hợp này chính chúng không dùng như các hình hài cho bất cứ thực thể nào trú ngụ, mà như [71] các vật chất mà từ đó, các hình hài như thế có thể được kiến tạo. Kế đó, làn sóng sinh hoạt đi vào cõi thứ bảy, tức cõi trần, cõi của các hoạt động được cá thể hóa, cõi của hành động. Giống như trước, các nguyên tử gắn với Jivatma hay nguyên tử thường tồn của cõi thứ sáu, được liên kết với một số nguyên tử tương ứng trên cõi thứ bảy, và Thượng Đế Ngôi Hai tràn ngập các nguyên tử này và các nguyên tử còn lại với sự sống của chính Ngài—như thế tất cả các nguyên tử này trở thành Tinh Chất Chân Thần. Làn sóng sinh hoạt lại tiến tới, tạo ra trên mỗi cõi phụ các kết hợp vật chất thích hợp để tạo thành thể xác, các nguyên tố hóa học trong tương lai, như chúng được gọi thế trên ba cõi phụ thấp. |
||
it is clear from the above citation, Monadic Essence is the atomic matter of the mental and astral planes ensouled with the Life of the Second Logos, whereas the aggregations of matter on the other subplanes besides the atomic subplane are called the elemental essence, out of which other forms are built for manifestation of some entities. On the Chart II we see three elemental kingdoms existing on the higher mental, lower mental, and astral planes. One question arises: do the Monadic and Elemental Essence exist on the physical plane? Professor Michael D. Robbins suggested that if the elemental essence exists on the mental and astral plane, “I do not see why we could not include the etheric plane as well.”[20] The last paragraph of the above also suggests that the Monadic Essence exists on the atomic physical plane, and the elemental essence on the three lowest subplanes of the physical plane constituting what are called the chemical elements. |
Vì vậy, rõ ràng từ trích dẫn trên, Tinh chất Chân thần là vật chất nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục được linh hoạt bởi Sự sống của Thượng đế Thứ Hai, trong khi các tập hợp vật chất trên các cõi phụ khác ngoài cõi phụ nguyên tử được gọi là Tinh chất hành khí, và từ vật chất đó các hình tướng khác được xây dựng để biểu hiện của một số thực thể nào đó. Trên Biểu đồ II, chúng ta thấy ba giới hành khí tồn tại trên các cõi thượng trí, hạ trí, và cảm dục. Một câu hỏi được đặt ra: Liệu các Tinh chất Chân thần và Tinh chất hành khí có tồn tại trên cõi vật lí không? Giáo sư Michael D. Robbins gợi ý rằng nếu Tinh chất hành khí tồn tại trên cõi trí và cõi cảm dục, “Tôi không hiểu tại sao chúng ta không thể bao gồm cả cõi dĩ thái.” Đoạn cuối của phần trên cũng gợi ý rằng Tinh chất Chân thần tồn tại trên cõi phụ vật lý nguyên tử, và tinh chất hành khí trên ba cõi phụ thấp nhất của cõi vật lý cấu thành cái được gọi là nguyên tố hóa học. |
||
Annie Besant gave a correspondence to help us understand the nature of these elemental essence. The first life-wave from the Third Logos prepares the atoms with the Life of the Third Logos, while the second life-wave combines these atoms into aggregates of atoms fitted to be built into forms for inhabiting entities: |
Bà Annie Besant đã đưa ra một giải thích để giúp chúng ta hiểu bản chất của những Tinh chất hành khí này. Làn Sóng Sinh Hoạt đầu tiên từ Thượng đế Thứ Ba chuẩn bị các nguyên tử với Sự sống của Thượng đế Ngôi Ba, trong khi Làn Sóng Sinh Hoạt thứ hai kết hợp các nguyên tử này thành tập hợp các nguyên tử để được kiến tạo thành các hình tướng cho các thực thể sinh sống: |
||
Looking at this work of the second life wave as a whole, we see that its downward sweep is concerned with what may fairly be called the making of primary tissues, out of which hereafter subtle and dense bodies are to be formed. Well has it been called in some ancient scriptures a “weaving”, for such it literally is. The materials prepared by the Third Logos are woven by the Second Logos into threads [72] and into cloths of which future garments the subtle and dense bodies—will be made. As a man may take separate threads of flax, cotton, silk—themselves combinations of a simpler kind—and weave these into linens, into cotton or silk cloth, these cloths in turn to be shaped into garments by cutting and stitching, so does the second Logos weave the matter-threads, weave these again into tissues, and then shape them into forms. He is the Eternal Weaver, while we might think of the Third Logos as the Eternal Chemist. The latter works in nature as in a laboratory, the former as in a manufactory. These similes, materialistic as they are, are not to be despised, for they are crutches to aid our limping attempts to understand. |
Nhìn vào công việc này của Làn Sóng Sinh Hoạt thứ hai nói chung, chúng ta thấy rằng việc đi xuống của làn sóng này có liên quan đến những gì có thể được gọi một cách gần đúng là việc tạo ra các mô (tissues) đầu tiên, từ đó các thể tinh anh và các thể trọng trược sẽ được tạo thành tiếp theo đó. Trong một số cổ thư, việc đó đã được gọi rất đúng là việc ‘đan dệt’, vì nó thực như vậy theo nghĩa đen. Thượng Đế Ngôi Ba chuẩn bị vật liệu cho Thượng Đế Ngôi Hai dệt thành sợi và thành vải để sẽ làm ra bộ y phục sau này—tức các thể tinh anh và trọng trược. Cũng như một người có thể tách riêng những sợi lanh, bông vải, tơ lụa—chính các kết hợp thuộc một loại đơn giản hơn—và dệt những sợi này thành vải lanh, thành vải bông hoặc tơ lụa, các vải vóc này lần lượt được cắt may thành trang phục, cũng thế, Thượng Đế Ngôi Hai dệt các sợi vật liệu này, dệt chúng lần nữa thành vải, và kế đó tạo hình cho chúng thành hình tướng. Ngài là Thợ Dệt Vĩnh Cửu, trong khi đó, chúng ta có thể nghĩ đến Thượng Đế Ngôi Ba như là nhà Hóa Học Vĩnh Cửu. Trong thiên nhiên, Thượng Đế Ngôi Ba làm công việc như trong một phòng thí nghiệm, còn Thượng Đế Ngôi Trong thiên nhiên, Thượng Đế Ngôi Ba làm công việc như trong một phòng thí nghiệm, còn Thượng Đế Ngôi Hai làm việc như trong một nhà máy. Những sự ví von này tuy có tính vật chất, nhưng không được coi thường, vì chúng là những cái nạng để giúp chúng ta cố gắng đi khập khiểng trên con đường hiểu biết. |
||
This “weaving” gives to matter its characteristics, as the characteristics of the thread differ from those of the raw material, as the characteristics of the cloth differ from those of the threads. The Logos weaves the two kinds of cloth of manasic matter, of mind-stuff, and out of these will be made later the causal and the mental [73] bodies. He weaves the cloth of astral matter, of desire-stuff, and out of this will be made later the desire body. That is to say, that the combinations of matter formed and held together by the second life-wave have the characteristics which will act on the Monad when he comes into touch with others, and will enable him to act on them. So will he be able to receive all kinds of vibrations, mental, sensory, etc. The characteristics depend on the nature of the aggregations. There are seven great types, fixed by the nature of the atom, and within these innumerable sub-types. All this goes to the making of the materials of the mechanism of consciousness, which will be conditioned by all these textures, colourings, densities.[21] |
Việc “đan dệt” này cung cấp cho vật chất các đặc điểm của nó, cũng như các đặc điểm của sợi vải khác với các đặc điểm của nguyên liệu thô, cũng như các đặc điểm của vải khác với các đặc điểm của sợi vải. Thượng Đế dệt hai loại vải bằng chất thượng trí, và bằng chất trí, để rồi từ hai loại này về sau sẽ được làm ra thể nguyên nhân và thể hạ trí. [73] Ngài dệt vải bằng chất cảm dục, tức chất dục vọng (desire-stuff), và sau này thể dục vọng sẽ được tạo ra từ đó. Nghĩa là, các kết hợp vật chất, được tạo ra và được giữ lại với nhau bởi Làn Sóng Sinh Hoạt Thứ Hai, có các tính chất vốn sẽ tác động lên Chân Thần khi Chân Thần tiếp xúc với các kết hợp vật chất khác và sẽ cho phép Chân Thần tác động lên chúng. Thế nên Chân Thần có thể tiếp nhận mọi loại rung động thuộc trí tuệ, thuộc cảm giác v.v |
||
Các loại Tinh chất hành khí |
|||
C.W. Leadbeater says that there are 2401 differentiations of elemental essence on the astral plane[22], but they are essentially one kingdom, “a vast store of elemental essence, wonderfully sensitive to the most fleeting human thought, responding with inconceivable delicacy in an infinitesimal fraction of a second to a vibration set up in it even by an entirely unconscious exercise of human will or desire”.[23] That is to say, they are always in a critical state, ready to be precipitated into a form under the impulse of passing thought or desire, or a combination of both. It is difficult to realise the situation when any portion of this store of Elemental Essence is unaffected by any external influences (a situation which hardly ever happens). When under such condition, it is absolutely “without any definite form of its own, though its motion is still rapid and ceaseless”.[24] But when affected by a passing thought-current, it “flashes into a bewildering confusion of restless, ever-changing shapes, which form, rush about, and disappear with the rapidity of the bubbles on the surface of boiling water.” Since then, it is separated from the vast store of the elemental essence and becomes an isolated entity which is commonly called an elemental. Mr. C.W. Leadbeater carefully added the adjective artificial before the noun elemental to emphasize the difference between such an entity and a nature-spirit which is sometimes also called an elemental. |
Ông CW Leadbeater cho rằng có 2401 loại tinh chất hành khí khác nhau trên cõi trung giới, nhưng về cơ bản chúng là một “giới” (kingdom—vương quốc), “một kho chứa khổng lồ các tinh chất hành khí, nhạy cảm tuyệt vời với những suy nghĩ thoáng qua nhất của con người, chúng đáp ứng một cách rất tinh vi, nhanh chóng từng sát-na, đối với một rung động phát ra từ ý muốn hoặc dục vọng của con người, dù ý muốn hay dục vọng này chỉ xảy ra trong vô thức. Điều này có nghĩa rằng chúng luôn ở trong trạng thái “căng thẳng”, sẵn sàng kết tụ lại thành một hình thể dưới sự thúc đẩy của một suy nghĩ hoặc một mong muốn thoáng qua, hoặc sự kết hợp của cả hai. Rất khó để nhận ra tình huống khi bất kỳ thành phần nào trong kho tinh chất hành khí này không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tác động bên ngoài nào (một tình huống hiếm khi xảy ra). Khi ở trong điều kiện như vậy, nó hoàn toàn “không có bất kỳ hình thức xác định nào của riêng nó, mặc dù chuyển động của nó vẫn nhanh chóng và không ngừng nghỉ”. Nhưng khi bị ảnh hưởng bởi một dòng suy nghĩ đi qua, nó “tức khắc bị xáo trộn, thay đổi hình thể, khi ẩn khi hiện nhanh chóng như những bọt trên mặt nước đang sôi.” Kể từ đó, nó bị tách ra khỏi kho chứa nguyên tố khổng lồ và trở thành một thực thể biệt lập được gọi là một tinh linh. Ông CW Leadbeater đã cẩn thận thêm tính từ nhân tạo vào trước danh từ tinh linh để nhấn mạnh sự khác biệt giữa một thực thể như vậy và một nature spirit mà đôi khi cũng được gọi là một elemental. |
||
To speak, as we so often do, of an elemental in connection with the group we are now considering is somewhat misleading, for strictly speaking there is no such thing. What we find is a vast store of elemental essence, wonderfully sensitive to the most fleeting human thought, responding with inconceivable delicacy in an infinitesimal fraction of a second to a vibration set up in it even by an entirely unconscious exercise of human will or desire. |
Khi nói, như chúng ta thường làm, về một tinh linh liên quan đến nhóm mà chúng ta đang xem xét, điều này có phần gây hiểu lầm, vì nói một cách chính xác, không tồn tại thứ gọi là tinh linh như vậy. Điều chúng ta thấy là một khối lượng lớn tinh chất hành khí, cực kỳ nhạy cảm với những tư tưởng thoáng qua nhất của con người, phản ứng với độ tinh tế không thể tưởng tượng được chỉ trong một phần rất nhỏ của giây trước rung động được tạo ra trong nó, ngay cả bởi một hành động vô thức của ý chí hay dục vọng con người. |
||
But the moment that by the influence of such thought or exercise of will it is moulded into a living force—into something that may correctly be described as an elemental—it at once ceases to belong to the category we are discussing, and becomes a member of the artificial class. Even then [95] its separate existence is usually of the most evanescent character, and as soon as its impulse has worked itself out it sinks back into the undifferentiated mass of that particular subdivision of elemental essence from which it came.[25] |
Nhưng ngay khoảnh khắc mà dưới ảnh hưởng của tư tưởng hoặc hành động ý chí đó, nó được định hình thành một mãnh lực sống—thành thứ gì đó có thể được mô tả chính xác là một tinh linh—nó ngay lập tức không còn thuộc về danh mục mà chúng ta đang thảo luận nữa, mà trở thành một thành viên của nhóm nhân tạo. Ngay cả khi đó, sự tồn tại riêng biệt của nó thường mang tính chất thoáng qua nhất, và khi xung lực của nó đã hoàn toàn tan biến, nó trở lại khối chưa phân hóa của phân nhóm tinh chất hành khí cụ thể mà nó đã xuất phát. |
||
Characteristics of the Elemental Essence— |
Tính chất của tinh chất hành khí |
||
H.P. Blavatsky did not use the term Elemental Essence in her terminology, but she seemed to adopt the word Elemental to refer to the same class of entities. Let listen to her talking about the Elementals: |
HP Blavatsky không sử dụng thuật ngữ Elemental Essence trong các thuật ngữ của mình, nhưng Bà dường như sử dụng từ Elemental để chỉ cùng một lớp thực thể. Chúng ta hãy nghe Bà nói về các Elementals: |
||
They are centres of force or energy which are acted on by us while thinking and in other bodily motions. We also act on them and give them form by a species of thought which we have no register of. As, [105] one person might shape an elemental so as to seem like an insect, and not be able to tell whether he had thought of such a thing or not. For there is a vast unknown country in each human being which he does not himself understand until he has tried, and then only after many initiations. |
Chúng là những trung tâm của mãnh lực hoặc năng lượng được chúng ta tác động lên khi suy nghĩ và trong các chuyển động cơ thể khác. Chúng ta cũng tác động lên chúng, ban cho chúng một hình thể bởi kiểu suy nghĩ mà chúng ta không nhận ra được. Giống như một người có thể tạo hình một elemental trông giống như một con côn trùng, và không thể biết được liệu anh ta đã nghĩ ra điều đó hay chưa. Vì có một đất nước rộng lớn chưa được biết đến trong mỗi con người mà bản thân anh ta không hiểu được cho đến khi anh ta đã cố gắng, và chỉ sau nhiều lần điểm đạo. |
||
… |
… |
||
As it (the elemental world) is automatic and like a photographic plate, all atoms continually arriving at and departing from the “human system” are constantly assuming the impression conveyed by the acts and thoughts of that person, and therefore, if he sets up a strong current of thought, he attracts elementals in greater numbers, and they all take on one prevailing tendency or colour, so that all new arrivals find a homogeneous colour or image which they instantly assume. |
Vì nó (thế giới tinh linh) là tự động và giống như một tấm phim âm bản, tất cả các nguyên tử liên tục đến và đi từ “hệ thống của con người” liên tục nắm bắt ấn tượng được truyền đạt bởi các hành động và suy nghĩ của người đó, và do đó, nếu anh ta thiết lập một luồng tư tưởng mạnh mẽ, anh ta thu hút các tinh linh với số lượng lớn hơn, và tất cả chúng đều mang một khuynh hướng hoặc màu sắc nổi bật, sao cho tất cả những tinh linh mới đến đều tìm thấy một màu sắc hoặc hình ảnh đồng nhất mà chúng ngay lập tức khoác lấy. |
||
… |
… |
||
The elemental world has become a strong factor in the Karma of the human race. Being unconscious, automatic, and photographic, it assumes the complexion of the human family itself. In the earlier ages, when we may postulate that man had not yet begun to make bad Karma, the elemental world was more friendly to man because it had not received unfriendly impressions. But so soon as man began to become ignorant, unfriendly to himself and the rest of creation, [111] the elemental world began to take on exactly the same complexion and return to humanity the exact pay, so to speak, due for the actions of humanity. Or, like a donkey, which, when he is pushed against, will push against you. Or, as a human being, when anger or insult is offered, feels inclined to return the same. So the elemental world, being unconscious force, returns or reacts upon humanity exactly as humanity acted towards it, whether the actions of men were done with the knowledge of these laws or not. So in these times it has come to be that the elemental world has the complexion and action which is the exact result of all the actions and thoughts and desires of men from the earliest times. And, being unconscious and only acting according to the natural laws of its being, the elemental world is a powerful factor in the workings of Karma. And so long as mankind does not cultivate brotherly feeling and charity towards the whole of creation, just so long will the elementals be without the impulse to act for our benefit. But so soon and wherever man or men begin to cultivate brotherly feeling and love for the whole of creation, there and then the elementals begin to take on the new condition.[26] |
Thế giới tinh linh đã trở thành một nhân tố mạnh mẽ trong Nghiệp Quả của con người. Là vô thức, tự động và hoàn toàn ‘chụp ảnh’, nó khoác lấy màu sắc của chính gia đình nhân loại. Trong những thời đại trước đó, khi chúng ta có thể giả định rằng con người chưa bắt đầu tạo ra Nghiệp quả xấu, thế giới elemental thân thiện hơn với con người vì nó không nhận được những ấn tượng không thân thiện. Nhưng ngay sau khi con người bắt đầu trở nên ngu dốt, không thân thiện với bản thân và với phần còn lại của tạo vật, [111] thế giới elemental bắt đầu có cùng một màu sắc và đáp trả lại con người sự trả giá chính xác, có thể nói như thế, do những hành động của nhân loại. Hoặc, giống như một con lừa, khi bạn xô đẩy nó, nó sẽ đẩy ngược lại bạn. Hoặc, như một con người, khi bị tức giận hoặc xúc phạm, cảm thấy có xu hướng đáp trả điều tương tự. Vì vậy, thế giới elemental, là lực lượng vô thức, quay trở lại hoặc phản ứng với nhân loại chính xác như cách con người đã hành động với nó, mặc dù hành động của con người có được thực hiện với sự hiểu biết về các định luật này hay không. Vì vậy, trong thời đại này, thế giới elemental có màu sắc và hành động là kết quả chính xác của tất cả các hành động và suy nghĩ và mong muốn của con người từ thưở sơ khai. Và, vốn vô thức và chỉ hành động theo định luật tự nhiên của bản chất nó, thế giới elemental là một nhân tố mạnh mẽ trong hoạt động của Nghiệp Quả. Và chừng nào con người không nuôi dưỡng tình cảm huynh đệ và lòng bác ái đối với toàn thể tạo vật, thì chừng đó các tinh linh sẽ không có động lực để hành động vì lợi ích của chúng ta. Nhưng ngay khi con người bắt đầu nuôi dưỡng tình huynh đệ và tình yêu thương đối với toàn thể tạo vật, ở đó và khi đó các elental bắt đầu có tình trạng mới. |
||
This definition of H.P. Blavatsky on Elemental refers exactly to the Elemental Essence of C.W. Leadbeater and A. Besant. |
Định nghĩa này của bà HP Blavatsky về Tinh Linh đề cập chính xác đến các tinh chất hành khí của ông CW Leadbeater và bà A. Besant. |
||
According to C.W. Leadbeater, any attempt to catalogue this elemental kingdom is “tedious” and “unintelligible,” except the students “can call them up before him and compare them.”[27] But he further try to explain the subdivisions of this kingdom: |
Theo ông CW Leadbeater, bất kỳ nỗ lực nào để liệt kê phân loại giới tinh chất hành khí này đều “tẻ nhạt” và “khó hiểu”, ngoại trừ các sinh viên “có thể gọi chúng ra trước anh và so sánh chúng.” Nhưng ông cố gắng giải thích thêm về các phân loại của giới hành khí này: |
||
First comes the broad division which has given the elementals their name—the classification according to the kind of matter which they inhabit. Here, as usual, the septenary character of our evolution shows itself, for there are seven such chief groups, related respectively to the seven states of physical matter—to “earth, water, air, and fire,” or to translate from mediæval symbolism to modern accuracy of expression, to the solid, the liquid, the gaseous, and the four etheric conditions. |
Trước hết là cách phân loại tổng quát tùy theo loại chất liệu mà loài tinh hoa chất cư ngụ. Theo đặc tính “thất phân” của sự tiến hóa, chúng được chia thành bảy nhóm chính, liên hệ đến bảy trạng thái của vật chất: đất, nước, không khí, và lửa; chuyển dịch từ biểu tượng thời trung cổ sang từ ngữ hiện đại là: chất đặc, chất lỏng, chất hơi, và 4 trạng thái của chất dĩ thái. |
||
… What we have to try to realize, then, is that in every particle of solid matter, so long as it remains in that condition, there resides, to use the picturesque phraseology of mediæval students, an earth elemental—that is, a certain amount of the living elemental essence appropriate to it, while equally in every particle of matter in the liquid, gaseous, or etheric states, the water, air, and fire “elementals” respectively inhere. It will be observed that this first broad division of the third of the elemental kingdoms is, so to speak, horizontal—that is to say, its respective classes stand in the relation of steps, each somewhat less material than that below it, which ascends into it by almost imperceptible degrees; and it is easy to understand how each of these classes may again he divided horizontally [98] into seven, since there are obviously many degrees of density among solids, liquids, and gases.[28] |
Những gì mà chúng ta cố gắng nhận ra là, theo cách nói của những học giả thời trung cổ, trong mỗi phân tử chất đặc đều có chứa một số lượng tinh chất hành khí sống động của đất tương ứng, cũng thế, mỗi phân tử của vật chất ở trạng thái lỏng, hơi, và dĩ thái đều chứa tinh hoa chất của nước, không khí, và lửa. Như thế, loài tinh hoa chất thứ ba được phân chia thành nhiều phân loại, và sự phân chia này được xếp theo hàng ngang, mỗi phân loại lại chia thành bảy tiểu phân loại, tất cả khác biệt về độ đậm đặc, tuy mỗi bậc có sự chênh lệch rất nhỏ, như chúng ta cũng thấy rõ là có nhiều độ đậm đặc khác nhau trong các chất đặc, lỏng và hơi. |
||
From the above explanation, we can see that there are seven main elemental essence corresponding to the seven states of matter of the plane—earth, water, air, and fire (four etheric conditions). This is known as the horizontal division. Each division can be again divided into seven sub-divisions, making in toto 7×7=49 horizontal subdivisions, because “there are many degrees of density among solids, liquids, and gases etc.” Another division which he calls “vertical division,” and of this it is “more difficult to comprehend.” In his words: |
Từ sự giải thích trên, chúng ta có thể thấy rằng có bảy tinh chất hành khí chính tương ứng với bảy trạng thái của vật chất—đất, nước, khí và lửa (bốn tình trạng dĩ thái). Điều này được gọi là sự phân chia theo chiều ngang. Mỗi phần có thể được chia lại thành bảy phần nhỏ, tạo thành 7×7 = 49 phần theo chiều ngang, bởi vì “có nhiều độ độ đậm đặc của các chất rắn, chất lỏng và khí, v.v.” Một sự phân chia khác mà ông gọi là “sự phân chia theo chiều dọc,” và điều này là ” khó hiểu hơn”. Theo lời của ông: |
||
There is, however, what may be described as a perpendicular division also, and this is somewhat more difficult to comprehend, especially as great reserve is always maintained by occultists as to some of the facts which would be involved in a fuller explanation of it. Perhaps the clearest way to put what is known on the subject will be to state that in each of the horizontal classes and subclasses will be found seven perfectly distinct types of elemental, the difference between them being no longer a question of degree of materiality, but rather of character and affinities. |
Ngoài ra, còn sự phân hạng theo chiều dọc, khó hiểu hơn, chỉ có những huyền bí gia mới nắm vững mà thôi, đặc biệt các nhà huyền bí học giữ lại một số sự kiện không tiết lộ giúp giải thích nó rõ hơn. Tuy nhiên, nói một cách tổng quát là ở mỗi phân loại thuộc hàng ngang, ta có thể tìm gặp bảy loài elemental hoàn toàn khác nhau, sự khác biệt giữa chúng không còn là vấn đề độ đậm đặc của vật chất, mà là giữa tính chất và hấp dẫn lực của chúng. |
||
Each of these types so reacts upon the others that, though it is impossible for them ever to interchange their essence, in each of them seven sub-types will be found to exist, distinguished by the colouring given to their original peculiarity by the influence which sways them most readily. It will be seen that this perpendicular division and subdivision differs entirely in its character from the horizontal, in that it is far more permanent and fundamental; for while it is the evolution of the elemental kingdom to pass with almost infinite slowness through [99] its various horizontal classes and sub-classes in succession, and thus to belong to them all in turn, this is not so with regard to the types and sub-types, which remain unchangeable all the way through.[29] |
Mỗi chủng loại phản ứng trên các chủng loại khác, nhưng các tinh chất không trộn lẫn. Mỗi chủng loại chia làm bảy phân loại, khác nhau bởi màu sắc đặc biệt do ảnh hưởng từ nguồn gốc của nó. Cách phân chia theo chiều thẳng đứng hoàn toàn khác với cách chia theo chiều ngang, vì nó ổn định và căn bản hơn. Sự tiến hóa của loài tinh hoa chất rất chậm chạp, lần lượt qua những loại và “phân loại” khác nhau theo chiều ngang. |
||
So, we have: |
Do đó, chúng ta có: |
||
7 horizontal divisions x 7 sub-division x 7 vertical divisions x 7 sub-vertical-divisions = 2401 differentiations of the elemental essence. |
7 phân chia theo chiều ngang x 7 phân chia phụ x 7 phân chia dọc x 7 phân chia phụ theo chiều dọc = 2401 loại tinh chất hành khí. |
||
But we also note that the elemental kingdoms are on the involutionary arc, so its progress is to descend into the matter. This means the first elemental kingdom is less evolved than the second, and the second is less evolved than the third. |
Nhưng chúng ta cũng nên lưu ý rằng các giới tinh chất hành khí đang trong vòng tiến hóa giáng hạ, do đó tiến trình của nó là đi vào vật chất. Điều này có nghĩa là giới tinh chất hành khí đầu tiên ít tiến hóa hơn giới tinh chất hành khí thứ hai, và giới tinh chất hành khí thứ hai ít tiến hóa hơn giới tinh chất hành khí thứ ba. |
||
Turn into the teaching of Master D.K., He seems to use the word Elementals, in one sense, to refer to any involutionary lives which are built from such Elemental Essences: |
Chuyển sang giáo lí của Chân sư DK, Ngài dường như sử dụng từ Tinh Linh Elementals, theo một nghĩa nào đó, để chỉ bất kỳ sự sống giáng hạ tiến hoá bất kì được xây dựng từ các tinh chất hành khí như vậy: |
||
The elementals are, in their essential essence, subhuman. The fact that they can he contacted on the emotional plane is no guarantee that they are on the evolutionary [174] path. On the contrary, they are on the path of involution, on the downward arc. They are to be found on all planes, and the etheric elemental forms—such as the brownies, gnomes and pixies—are well known. They can be roughly divided into four groups:— |
Các tinh linh (elementals), trong bản chất chủ yếu, là nhóm dưới nhân loại. Sự kiện chúng có thể được tiếp xúc trên cõi cảm dục không bảo đảm rằng chúng đang ở trên con đường tiến hóa thăng thượng. Trái lại, chúng đang ở trên con đường tiến hóa giáng hạ, trên đường cong đi xuống. Có thể tìm gặp chúng trên tất cả các cõi, và những hình thể tinh linh dĩ thái—chẳng hạn như các tiểu thần (brownies), các thần lùn (gnomes) và các tiên đồng (pixies)—rất nổi tiếng. Chúng có thể được tạm chia làm 4 nhóm: |
||
1. The elementals of earth. |
1.- Tinh linh đất. |
||
2. The elementals of water. |
2.- Tinh linh nước. |
||
3. The elementals of air. |
3.- Tinh linh không khí. |
||
4. The elementals of fire. |
4.- Tinh linh lửa. |
||
They are the essence of things, if you could but realise it. They are the elemental things of the solar system in their four grades as we know them in this fourth cycle on the fourth or earth planet.[30] |
Chúng là tinh hoa của mọi vật, nếu bạn có thể nhận ra điều đó. Chúng là những loài tinh hoa của Thái dương hệ, trong 4 cấp bậc, như chúng ta biết về chúng, trong chu kỳ thứ tư này trên hành tinh thứ tư tức trái đất. |
||
All in the above passage are comprehensible, except the bold and underline paragraph. And this is seemingly contradictory to other statements of Master D.K. in many places, as well as to what usually understood. If by “the etheric elemental forms—such as the brownies, gnomes and pixie” He means the nature-spirits as described by such clairvoyants as Geoffrey Hodson, C.W. Leadbeater etc., as well as in the folklores, this is truly incomprehensible. These brownies, gnomes, and pixies, as usually understood, are on the path of evolution, though they are still subhuman. They are at the stage of evolution equivalent to that of the animal kingdom in the Human Evolution. We find that in other places Master D.K. clearly stated that: |
Tất cả trong đoạn văn trên đều có thể hiểu được, ngoại trừ đoạn in đậm và gạch chân. Và điều này dường như mâu thuẫn với những lời dạy khác của Chân sư DK ở nhiều chỗ, cũng như những gì thường được hiểu. Nếu với cụm từ “các hình thể hành khí dĩ thái — chẳng hạn như brownies, gnomes và pixie” Ngài muốn nói đến các thực thể tự nhiên như được mô tả bởi các nhà thấu thị như Geoffrey Hodson, CW Leadbeater, v.v., cũng như trong các truyền thuyết dân gian, thì điều này thực sự không thể hiểu nổi. Như chúng ta thường hiểu, những brownies, gnomes và pixie này, đang trên đường thăng thượng tiến hoá, mặc dù chúng vẫn thấp hơn nhân loại. Chúng đang ở giai đoạn tiến hóa tương đương với giới cầm thú trong Dòng Tiến hóa của loài người. Chúng ta thấy rằng ở những chỗ khác, Chân sư DK đã nói rõ rằng: |
||
Second. Many devas pass out of the group of passive lives in the effort to become manipulating lives via the bird kingdom, and before becoming fairies, elves, gnomes, or other sprites, pass a certain number of cycles in the bird realm. [31] |
Thứ hai. Nhiều devas chuyển ra khỏi nhóm các sự sống thụ động với cố gắng trở thành các sự sống điều hành xuyên qua giới chim muông, và trước khi trở thành tiên nữ, thảo tinh linh, thổ tinh linh hoặc các tinh linh thiên nhiên khác, chúng trải qua một số chu kỳ trong loài chim. |
||
From the above passage, fairies, gnomes, elves, and other sprites are on evolutionary arc because their stage of evolution is higher than that of birds. |
Từ đoạn văn trên, các tiên nữ, thần lùn, elves và các tinh linh khác đang ở trên cung thăng thượng tiến hoá vì giai đoạn tiến hóa của chúng cao hơn của loài chim. |
||
Another passage form the Cosmic Fire suggests that some water elementals such as undines, mermaids etc. are really evolutionary devas: |
Một đoạn văn khác trong quyển Lửa Vũ Trụ cũng gợi ý rằng một số elemental như undines, tiên cá, v.v. thực sự là những devas trên đường thăng thượng tiến hoá: |
||
The many groups of the water devas of the manipulatory class have been roughly grouped by mythological writers, under the terms undines, mermaids, and other [897] expressions, but their diversity is great, and this will be necessarily apparent when it is remembered that the sumtotal of water upon the earth (oceans, seas, rivers, lakes and streams), far exceeds the dry portion, or land, and every drop of moisture is in itself a tiny life, fulfiling its function and running its cycle. The mythic forms above referred to are but those myriad lives built into a form through which an evolutionary deva is seeking expression. [32] |
Nhiều nhóm thủy thần thuộc nhóm điều hành đã được phân nhóm một cách đại khái bởi các văn sĩ viết chuyện thần tiên, dưới tên tiên cá (undines), nhân ngư (mermaids) và [897] các mô tả khác, nhưng sự đa dạng của chúng rất lớn, và điều này tất nhiên sẽ rõ ràng khi người ta nhớ rằng toàn bộ nước trên địa cầu (đại dương, biển, sông, hồ, suối), đều vượt quá xa chỗ khô hay đất liền, và mỗi giọt nước đọng lại chính nó là một sự sống bé nhỏ, đang hoàn thành chức năng của nó và thực hiện chu kỳ của nó. Các sinh vật thần thoại được nói ở trên, chỉ là vô vàn các sự sống được kiến tạo thành một hình thể mà qua đó một deva tiến hóa đang tìm cách biểu lộ. |
||
Or this passage also conveys many hints to us: |
|||
There is another group of devas about which much may not as yet be communicated. They have come in from another planetary scheme, and are specialists in their particular line. They have attained, or passed through, the human kingdom, and are of equal rank with certain members of the Hierarchy, having chosen to stay and work in connection with the physical plane evolution. They are not many in number, being only twelve. Four work in the violet group, five in the green group, and two in the white, with a presiding officer of rank equal to a Chohan. The number of the deva evolution is six, as that of man is now five, and as ten stands for perfected man, so twelve stands for perfection in the deva kingdom. This group presides over the three earlier enumerated. Certain subsidiary groups are found. |
Có một nhóm devas khác mà cho đến nay có nhiều điều không thể được truyền đạt về nhóm này. Họ đã đi vào từ một hành tinh hệ khác, và là các chuyên viên theo đường lối riêng biệt của họ. Họ đã đạt đến hay đã trải qua giới nhân loại, và có cấp đẳng ngang bằng một số thành viên của Thánh Đoàn, đã chọn để ở lại và làm việc có liên quan đến sự tiến hóa cõi trần. Các thần này không có nhiều, chỉ có mười hai vị. Bốn vị làm việc trong nhóm thiên thần màu tím, năm vị hoạt động trong nhóm xanh lục, còn hai vị trong nhóm màu trắng, với một thần chủ quản có cấp bậc ngang với một Chohan. Con số của dòng tiến hóa thiên thần là sáu, cũng như con số dòng tiến hóa nhân loại hiện giờ là năm, và vì số mười tượng trưng cho con người hoàn thiện, thế nên số mười hai tượng trưng cho sự hoàn thiện trong giới thiên thần. Nhóm này cai quản ba nhóm thiên thần có màu đã nói ở trên. Một số nhóm phụ thuộc được tìm thấy. |
||
Under group 1 are found all the elementals working with the etheric doubles of men, all the elementals forming the etheric bodies wherein is life, and all the elementals working with the etheric counterparts of so-called inanimate objects. These are named in the order and the importance of their development. The violet devas are on the evolutionary path; the elementals are on the involutionary path, the goal for them being to pass into the deva kingdom of violet hue.[33] |
Dưới quyền nhóm một là các tinh linh làm việc với các thể dĩ thái của con người, tất cả các tinh linh này tạo ra các thể dĩ thái mà trong đó là sự sống, và tất cả các tinh linh đều đang làm việc với các đối phần (counterparts) dĩ thái của cái được gọi là các vật thể vô tri giác (inanimate objects). Các đối tượng này được đặt tên theo cấp đẳng và tầm quan trọng của sự phát triển của họ. Các devas màu tím đang ở trên con đường tiến hóa thăng thượng; các tinh linh thì đang ở trên con đường tiến hóa giáng hạ, mục tiêu cho các tinh linh này là chuyển vào giới thiên thần có màu tím. |
||
As Professor Michael D. Robbins comments, “the terms ‘elemental’ and ‘deva’ are not kept quite distinct in the work of Master D.K. If we look at the words ‘work with’, it does not seem that these lives are passive lives being built into forms. Lower devas and more advanced elementals are, it seems, sometimes not distinguished.” (M. Robbins) |
Như Giáo sư Michael D. Robbins nhận xét, “các thuật ngữ ‘tinh linh’ và ‘deva’ không được giữ tách bạch rõ ràng trong các sách của Chân sư DK. Nếu chúng ta nhìn vào thuật ngữ ‘làm việc với’, có vẻ như những sự sống này không phải là sự sống thụ động, được xây dựng thành các hình tướng. Có vẻ như đôi khi không phân biệt rõ giữa các devas bậc thấp và các tinh linh bậc cao hơn.” (M. Robbins) |
||
Under group 2 work the fairies of plant life, the elves who build and paint the flowers, the radiant little beings who inhabit the woods and the fields, the elementals who work with the fruits, vegetables, and with all that leads to the covering of the earth’s surface with verdure. Associated with them are the [Page 915] lesser devas of magnetisation, those attached to sacred spots, to talismans and to stones, and also a special group to be found around the habitations of the Masters wherever situated. |
Dưới quyền nhóm hai là các tiên nữ (fairies) của sự sống cây cỏ, các elves đang xây dựng và tô điểm loài hoa, các sinh vật bé nhỏ rạng rỡ sống trong các khu rừng và các cánh đồng, các tinh linh làm việc với các loại quả trái, rau cỏ, và với tất cả những gì đưa đến việc bao phủ mặt đất với cây xanh. Kết hợp với chúng là [915] các devas cấp thấp có chức năng từ tính hoá, các tiểu thần này gắn liền với các địa điểm linh thiêng, với các linh phù và các linh thạch, và cũng là một nhóm đặc biệt được tìm thấy chung quanh chỗ ở của các Chân Sư bất cứ nơi nào các Ngài cư ngụ. |
||
We continue with the comments of Professor Michael D. Robbins: “Here there is no question that some kind of manipulation is going on. The fairies and elves, though not self-conscious, act upon or within forms made of elemental essence. Again, the words “work with” make these so called elementals seem to be devic in their nature. What is the status of these lesser devas of magnetisation? Are they lower than what we might call the ‘manipulating elementals’, equivalent? When one is “associated”, the ranking of status is often comparable. Associates are usually of the same rank. So here we would have beings called elementals and beings called lesser devas being of approximately the same rank—hence the confusion.”[34] |
Chúng tôi tiếp tục với nhận xét của Giáo sư Michael D. Robbins: “Ở đây, không nghi ngờ gì nữa rằng một số việc vận dụng đang diễn ra. Các tiên nữ và elves, mặc dù chưa có ngã thức, tác động lên các hình thể được cấu tạo từ tinh chất hành khí. Một lần nữa, cụm từ “làm việc với” làm cho những tinh linh này dường như có bản chất của một deva. Trạng thái của những vị tiểu thần từ tính hoá này là gì? Chúng có thấp hơn cái mà chúng ta có thể gọi là tinh linh ‘vận dụng’, hay tương đương? Khi được “liên kết”, thứ hạng của trạng thái thường có thể so sánh được. Các cộng sự thường có cùng cấp bậc. Vì vậy, ở đây chúng ta sẽ có những sinh vật được gọi là tinh linh và những sinh vật được gọi là những vị tiểu thần gần có cùng cấp bậc—do đó dễ có sự nhầm lẫn.” |
||
Under group 3 work the elementals of the air and the sea, the sylphs, the water fairies, and the devas who guard each human being. |
Dưới quyền nhóm ba là các tinh linh của không khí và biển, các sylphs, các thủy tiên (water fairies) và các devas bảo vệ mỗi con người. |
||
Here only general hints are given. This list is not complete and does not include the grosser elementals, the brownies, and those that inhabit the dark spaces of the earth, the cities and the subterranean spots of the earth’s crust.” [35] |
Ở đây chỉ có các gợi ý chung được đưa ra. Danh sách này không đầy đủ và không bao gồm các tinh linh thô kệch hơn (grosser), các brownies và các tinh linh sống trong các không gian tối tăm của địa cầu, các đô thị và các địa điểm dưới mặt đất của vỏ địa cầu. |
||
These beings “work”, which means that they are not those passive lives which are worked upon as the true elementals are. |
Những sinh vật này “làm việc với”, có nghĩa là chúng không phải là những sinh vật thụ động, bị tác động vào như những tinh chất hành khí thực sự. |
||
Perhaps, we should reserve the word “elementals” for the “true elementals,” that tiny units of substance which are built into form by various kinds of builders. There is a huge gap between involutionary and evolutionary lives, so it is better not to include both types under the same name. C.W. Leadbeater and other later Theosophists follow this way in their presentation of teaching on the Deva Evolution. Strangely enough, in the book A Learning Experience by Mary Bailey we read the following passage anent the elementals: |
Có lẽ, chúng ta nên dành từ “tinh linh” cho “tinh linh thực sự”, những đơn vị chất liệu nhỏ bé được các nhà kiến tạo khác nhau sử dụng để tạo thành các hình tướng khác nhau. Có một khoảng cách rất lớn giữa sự sống thăng thượng tiến hoá và giáng hạ tiến hoá, vì vậy tốt hơn hết là không nên gộp cả hai loại dưới cùng một tên gọi. Ông CW Leadbeater và những nhà Thông thiên học khác sau này làm theo cách này trong bài thuyết trình giảng dạy về Dòng Tiến hóa Deva. Thật kỳ lạ, trong quyển sách A Learning Experience của Mary Bailey, chúng ta đọc đoạn văn sau đây về các tinh linh: |
||
Forget not that beneath the devas on the etheric planes, controlling and dominating the three dense physical levels, are other groups of entities, wrongly entitled devas, who work in obedience to the law also on the evolutionary path. You have the denser forms of gaseous life as seen in the servants of the Lord Agni, termed by you salamanders, the elementals of the fire working under them. Found are they in all that burns and in the subterranean places of the earth, in the seething bowels of the fires that in the interior of the earth live and move and work, finding vent in the volcanoes when disruptive—as often nature is — and in the warmth that holds all life in formation on the earth. Forget not, under the law of correspondences this third plane [AIR], counting upwards, manifestation of life (subtle) has its analogy on the mental plane, just as in a way little known or realised by you the first ether corresponds to the buddhic, the second to the monadic, while the atomic corresponds to the plane from whence all emanated.[36] |
Đừng quên rằng bên dưới các devas trên các cõi dĩ thái, kiểm soát và thống trị ba cấp độ vật chất dày đặc, là các nhóm thực thể khác, được gọi một cách sai lầm là các devas, những thực thể làm việc tuân theo định luật, và cũng trên con đường thăng thượng tiến hoá. Bạn có các hình thể dạng khí dày đặc hơn như các vị phục vụ Đấng Agni, được các bạn gọi bằng Salamanders, các tinh linh của lửa hoạt động dưới chúng. Chúng được tìm thấy trong tất cả những gì đang cháy và ở những nơi dưới lòng đất, trong ruột sôi sục của những ngọn lửa mà bên trong trái đất sống và di chuyển và hoạt động, tìm lỗ thông hơi trong núi lửa khi bị gián đoạn—như bản chất thường thấy—và trong sự ấm áp chứa đựng tất cả sự sống đang hình thành trên trái đất. Đừng quên, theo luật tương ứng bao gồm bình diện thứ ba [AIR] này, tính từ trên lên, biểu hiện của sự sống (vi tế) có sự tương đồng với bình diện tinh thần, giống như một cách mà bạn ít biết hoặc nhận ra, ete đầu tiên tương ứng với phật thủ, thứ hai đối với đơn nguyên, trong khi nguyên tử tương ứng với mặt phẳng mà từ đó tất cả đều phát ra. |
||
This passage, as said by the author, is from the unpublished instruction of Master D.K. to Alice A. Bailey. It shows clearly that the salamanders, wrongly entitled devas, are also on the evolutionary path. |
Đoạn văn này, như tác giả đã nói, là từ các huấn thị chưa được công bố của Chân sư DK gởi cho bà Alice A. Bailey. Nó cho thấy rõ ràng rằng các Salamanders, được gọi sai là các devas, cũng đang trên đường thăng thượng tiến hoá. |
||
In short, the words of Professor Michael D. Robbins may be used as a conclusion on this matter: |
Tóm lại, những lời của Giáo sư Michael D. Robbins có thể được sử dụng như một kết luận về vấn đề này: |
||
Yes, this is the problem—an apparent contradiction in the writings of Master DK, Himself… It seems clear that there are certain elementary lives (fairies, gnomes, elves, sylphs, etc.) which should definitely be classed as manipulating devas. To me, these lives are force centers of force which entail within their ring-pass-not the tiny truly elemental lives which are substance/energy itself. To me the only true “elemental” is the tiny unit of substance which must be built into form by various kinds of builders and manipulators … |
Đúng, đây là vấn đề — một sự mâu thuẫn rõ ràng trong các tác phẩm của Chân sư DK, chính Ngài… Có vẻ như rõ ràng là có một số sự sống sơ khai nhất định (các tiên nữ, thần lùn, elves, thuỷ tinh v.v.) chắc chắn nên được xếp vào nhóm các manipulating devas (các deva điều hành… Đối với tôi, những sinh mệnh này là những trung tâm lực chứa đựng bên trong vòng giới hạn của chúng những sự sống hành khí thực sự nhỏ bé, vốn chính là chất liệu / năng lượng. Đối với tôi, “elemental” thực sự duy nhất là đơn vị nhỏ của chất liệu, phải được kiến tạo thành các hình thể bởi những nhà kiến tạo và vận dụng khác nhau… |
||
… the fairies, gnomes, sylphs, elves are not seeking further densification as are the lives which are the elemental essence and monadic essence. Rather, they are paralleling (whilst in the deva kingdom) the rise of the three lower kingdoms. If there are devas which parallel the human kingdom in intelligence, why should there not be devas which parallel the three lower kingdoms and are, like the members of those three lower kingdoms, subhuman though somewhat unconsciously intelligent. |
… các tiên nữ, gnomes, sylph, elves… không tìm kiếm sự đậm đặc hoá hơn nữa như những sự sống tinh chất hành khí và tinh chất Chân thần. Đúng hơn, chúng đang song hành (trong khi ổ giới thiên thần) ba giới đi lên dưới nhân loại. Nếu có những thiên thần (devas) song song với vương quốc loài người về trí thông minh, thì tại sao lại không có những vị thần (devas) song song với ba vương quốc (giới) thấp hơn, và giống như các thành viên của ba vương quốc thấp hơn đó, dưới trình độ nhân loại mặc dù phần nào thông minh một cách vô thức. |
||
Sometimes when many tiny elemental lives are aggregated into a particular form by a superior ‘shaping energy’, the aggregation, itself, is called an elemental or an elemental form. These forms, though called in some parlance “elemental”, are formed of myriads of true elemental lives on the involutionary arc.[37] |
Đôi khi khi nhiều sự sống hành khí bé nhỏ được tập hợp lại thành một dạng cụ thể bởi một ‘năng lượng định hình’ vượt trội, tập hợp đó, chính nó, cũng được gọi là một elemental hoặc một hình thể tinh linh. Những hình thể này, mặc dù được gọi theo một số cách nói là “tinh linh”, được hình thành từ vô số các sự sống hành khí thực sự trên cung giáng hạ tiến hoá. |
Three Elementals related to the Personality
Each of our bodies of the lower self is a mean by which the Soul manifests on the three lower planes, but it also has a life and consciousness of its own, distinct from the life and consciousness of the Personality of which it is a component. So we have the mental elemental of the mind body, the desire elemental of the astral body, and the physical elemental of the physical body. These bodies of the Personality are made of the Elemental Essences of the mental and astral planes, and of the elements on the physical plane. These aggregates of Elemental Essences in their total make up an elemental on the corresponding plane, with its own life and consciousness. They are on the involutionary path and follow their ways of evolution. They are our parasites, and often their desires are not ours; what they want the Egos do not, so many times the battles between them happen. It is only when the energy of the Solar Angel can subdue the forces of these elementals that man can attain liberation. In words of Master D.K.: |
Mỗi thể của phàm ngã là một phương tiện để Linh hồn biểu hiện trên ba cõi thấp, nhưng đồng thời chúng cũng có một sự sống và tâm thức riêng biệt, khác với sự sống và tâm thức của phàm ngã mà chúng là thành phần. Vì vậy, chúng ta có tinh linh trí tuệ của thể trí, tinh linh dục vọng của thể cảm xúc, và tinh linh hồng trần của thể xác. Các thể của phàm ngã này được tạo thành từ các Tinh chất Hành khí của cõi trí và cõi cảm dục, cùng các nguyên tố của cõi trần. Những tập hợp Tinh chất Hành khí này trong tổng thể tạo nên một tinh linh trên cõi tương ứng, với sự sống và tâm thức riêng. Chúng thuộc con đường giáng hạ và theo lộ trình tiến hóa của chúng. Chúng là những ký sinh của chúng ta, và thường thì dục vọng của chúng không phải là của chúng ta; điều chúng muốn không phải điều mà Chân thần muốn, dẫn đến những xung đột giữa chúng ta và chúng. Chỉ khi năng lượng của Thái Dương Thiên Thần có thể chế ngự được các mãnh lực của những tinh linh này thì con người mới có thể đạt được sự giải thoát. Theo lời của Chân sư DK: |
In theosophical literature, there is much talk anent the various elementals or lunar lords which compose, constitute and control the lower nature. These, in their triple totality, form the personality. They are of man’s own creation, and form the basis of the problem which he, as a soul, has always to face until the final liberation is achieved. The mental elemental, the astral elemental and the physical elemental have a definite life of their own which is coloured by the rays upon which these various bodies or elementals have their being, until the man has reached a relatively high point in evolution.[38] |
Trong các tài liệu Thông Thiên Học, có rất nhiều bàn luận về các loại tinh linh hay các nguyệt tinh quân khác nhau tạo thành, cấu thành và kiểm soát bản chất thấp. Những tinh linh này, trong tổng thể tam phân, tạo thành phàm ngã. Chúng là kết quả của sự sáng tạo của con người, và là cơ sở của vấn đề mà y, với tư cách là linh hồn, luôn phải đối mặt cho đến khi đạt được sự giải thoát cuối cùng. Tinh linh trí tuệ, tinh linh cảm dục và tinh linh hồng trần có một sự sống riêng biệt được tô màu bởi cung mà các thể này hoặc các tinh linh này tồn tại, cho đến khi con người đạt đến một mức tiến hóa tương đối cao. |
… these elemental beings themselves are progressing, and that each human organism they seek to occupy is of appropriate build. This is the obsession that is part of the logoic scheme, but which is ever involutionary. In the coming in of the third system these evolving elementary beings will form an integral part of the three-fold evolution of that system.[39] |
… Những thực thể tinh linh này cũng đang tiến hóa, và mỗi cơ thể con người mà chúng tìm cách chiếm lĩnh đều có cấu trúc phù hợp. Đây là sự ràng buộc vốn là một phần trong kế hoạch của Logos, nhưng luôn mang tính giáng hạ. Trong sự xuất hiện của hệ thống thứ ba, những thực thể tinh linh đang tiến hóa này sẽ trở thành một phần không thể thiếu trong tiến trình tiến hóa tam phân của hệ thống đó. |
Perhaps the most comprehensive on this is found in the work of the Theosophical authors like Jinarasadasa and C.W. Leadbeater: |
Có lẽ cách diễn đạt toàn diện nhất về vấn đề này được tìm thấy trong các tác phẩm của các tác giả Thông Thiên Học như Jinarasadasa và C.W. Leadbeater: |
The physical body has a consciousness which, however limited, is sufficient for the purposes of its life and functions. This consciousness knows how to attract the attention of the occupier when there is need for it; when the body is tired it urges the individual to rest; when it needs food and drink, it creates in him the desire to eat and drink. When such physical functions work, it is not the Ego who wants to eat and drink; but merely the physical elemental. It is clever enough, through long ancestral habits of heredity, to protect itself; when attacked by disease germs, it marshals its army of phagocytes to kill them; when wounded, it organizes the cells to heal when the body is asleep (that is, when the owner departs in his astral body, and the physical body is tenantless), it pulls up the bedclothes to cover itself against the cold, or turns over to sleep in a new position. In any event which it thinks threatens its life, it will instantly do what it can, however limited, to protect itself; if a shot is fired or a door is slammed, it jumps back; its consciousness is not sufficient to distinguish between the danger revealed by the sound of a shot and the absence of danger from the slamming of a door.[40] |
Thể xác có một tâm thức, dù bị giới hạn, nhưng đủ để phục vụ mục đích sống và chức năng của nó. Tâm thức này biết cách thu hút sự chú ý của chủ thể khi có nhu cầu; khi cơ thể mệt mỏi, nó thúc giục cá nhân nghỉ ngơi; khi cần thức ăn và nước uống, nó tạo ra khao khát ăn uống. Khi những chức năng vật lý như vậy hoạt động, không phải Chân thần muốn ăn uống, mà chỉ đơn thuần là tinh linh hồng trần. Nó đủ thông minh, nhờ vào thói quen di truyền lâu đời, để tự bảo vệ; khi bị tấn công bởi các mầm bệnh, nó tập hợp đội quân thực bào để tiêu diệt chúng; khi bị thương, nó tổ chức các tế bào để chữa lành. Khi cơ thể ngủ (tức là khi chủ thể rời khỏi trong thể cảm xúc và cơ thể vật lý không có người ở), nó kéo chăn đắp lên để chống lại cái lạnh hoặc trở mình để ngủ ở tư thế mới. Trong bất kỳ tình huống nào mà nó cho là đe dọa đến sự sống, nó sẽ ngay lập tức làm tất cả những gì có thể, dù bị giới hạn, để tự bảo vệ; nếu có tiếng súng hoặc cửa đóng sầm, nó sẽ nhảy lùi lại; tâm thức của nó không đủ để phân biệt giữa mối nguy hiểm từ tiếng súng và sự vô hại từ tiếng đóng cửa. |
The desire elemental likes the astral body to be roused, to have in fact “a rousing time”; variety, novelty, excitement are what it wants on its downward arc of life. The mental elemental does not like the mind to be held to one thought; it is ever restless, and craves as many varied thought vibrations as it can induce its owner to give; hence our difficulty in concentration because of this “fickleness of the mind”. |
Tinh linh dục vọng thích thể cảm dục được khuấy động, thực tế là “khuấy động mạnh mẽ”; sự đa dạng, mới lạ, và kích thích là điều nó muốn trên cung giáng hạ của đời sống. Tinh linh trí tuệ không thích tâm trí bị giữ vào một ý nghĩ duy nhất; nó luôn bồn chồn và khao khát những rung động tư tưởng đa dạng nhất mà nó có thể khiến chủ nhân của mình tạo ra; do đó chúng ta gặp khó khăn trong việc tập trung vì sự “hay thay đổi của tâm trí” này. |
But the owner of the astral and mental bodies, the Ego, is on the upward arc of life; billions of years ago he lived as the mineral, the plant and the animal; such experiences as the mental and desire elementals now prefer, on their downward arc, are not necessarily what he, the Ego who is on the upward arc, finds useful for his work in life. Hence that continual warfare for mastery between the Ego and his vehicles, graphically described by St. Paul; “the good that I would, I do not; but the evil which I would not, that I do.” [41] |
Nhưng chủ thể của các thể cảm xúc và trí tuệ, Chân thần, đang trên cung thăng thượng của đời sống; hàng tỷ năm trước, Ngài đã sống dưới dạng khoáng chất, thực vật và động vật; những trải nghiệm mà tinh linh trí tuệ và tinh linh dục vọng ưa thích trên cung giáng hạ hiện tại không nhất thiết là những điều Chân thần, người đang trên cung thăng thượng, thấy hữu ích cho công việc của mình trong cuộc đời. Vì vậy, luôn có sự chiến đấu liên tục để giành quyền kiểm soát giữa Chân thần và các thể của mình, điều mà Thánh Phaolô đã miêu tả một cách sinh động: “Điều tốt mà tôi muốn làm, tôi lại không làm; nhưng điều xấu mà tôi không muốn, thì tôi lại làm.” |
3. The Nature Spirits—Tinh Linh Tự Nhiên
The term “Nature Spirits” are used only twice in the blue books to refer to evolutionary, sub-human devas. Nevertheless, this term is more frequently used in Theosophical literature by later authors like C.W. Leadbeater, Annie Besant. It is also used in books of modern authors like Dorothy Maclean, R. Ogilvie Crombie … In the Theosophical teachings Nature Spirits are devic beings on the evolutionary arc, but sub-human; this means that their relation to the devas as that of the animals to human beings. Like animals in the human evolution they are not individualized. They are named after the element in which they habit: nature spirits of Earth, Water, Air, Fire or Ether. |
Thuật ngữ “Các Tinh linh của Tự Nhiên” chỉ được sử dụng hai lần trong sách xanh để chỉ các vị thần thăng thượng tiến hoá, dưới loài người. Tuy nhiên, thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên hơn trong văn học Thông Thiên Học bởi các tác giả sau này như C.W. Leadbeater, Annie Besant. Nó cũng được sử dụng trong sách của các tác giả hiện đại như Dorothy Maclean, R. Ogilvie Crombie… Trong các giáo lý Thông Thiên Học, Tinh linh của Tự Nhiên là những sinh vật thuộc dòng tiến hóa thiên thần trên cung thăng thượng tiến hóa, nhưng dưới mức nhân loại; điều này có nghĩa là mối quan hệ của họ với các thiên thần cũng như mối quan hệ của thú vật với con người, giống như động vật trong quá trình tiến hóa của con người, chúng chưa được biệt ngã hóa. Chúng được đặt tên theo nguyên tố mà chúng sinh sống: các Tinh linh của Tự Nhiên của Đất, Nước, Không khí, Lửa hoặc Ether. |
These beings have bodies formed out of the elemental essence of the kingdom to which they belong, flashing many-hued bodies, changing form at the will of the indwelling entity. They form a vast host, ever actively at work, labouring at the elemental essence to improve its quality, taking it to form their own bodies, throwing it off and taking other portions of it, to render it more responsive; they are also constantly busied in the shaping of forms, in aiding human Egos on the way to re-incarnation in building their new bodies, bringing materials of the needed kind and helping in its arrangements.[42] |
Những sinh vật này có cơ thể được hình thành từ tinh chất hành khí của giới mà chúng thuộc về, có cơ thể nhiều màu sắc, thay đổi hình dạng theo ý muốn của thực thể bên trong. Họ tạo thành một đoàn quân khổng lồ, luôn tích cực hoạt động, lao động với tinh chất hành khí để cải thiện phẩm chất của nó, lấy nó để tạo thành cơ thể của chính họ, vứt bỏ nó và lấy đi những phần khác của nó, để khiến nó phản ứng nhanh hơn; họ cũng thường xuyên bận rộn trong việc tạo hình các hình tướng, trợ giúp chân ngã con người trên con đường tái sinh trong việc xây dựng các thể mới của họ, mang theo những loại vật liệu cần thiết và giúp đỡ trong việc sắp xếp nó. |
Many writers have included these spirits among the elementals, and indeed they are the elementals (or perhaps, to speak more accurately, the animals) of a higher evolution. Though much more highly developed than our elemental essence, they have yet certain characteristics in common with it; for example, they also are divided into seven great classes, inhabiting respectively the same seven states of matter already mentioned as permeated by the corresponding varieties of the essence. Thus, to take those which are most readily comprehensible to us, there are spirits of the earth, water, air, and fire (or ether)—definite intelligent astral entities residing and functioning in each of those media.[43] |
Nhiều tác giả đã xếp những sinh vật này vào trong số các elemental, và thực sự chúng là những tinh linh (hay có lẽ nói chính xác hơn là động vật) của một dòng tiến hóa cao hơn. Mặc dù phát triển cao hơn nhiều so với tinh chất hành khí của chúng ta, nhưng chúng vẫn có những đặc điểm chung nhất định; chẳng hạn, chúng cũng được chia thành bảy loại lớn, lần lượt cư trú trong bảy trạng thái vật chất giống nhau đã được đề cập, như được thấm nhuần bởi các loại bản chất tương ứng. Vì vậy, hãy xét những điều mà chúng ta dễ hiểu nhất, có các tinh thần của đất, nước, không khí và lửa (hoặc ether)—những thực thể trung giới thông minh nhất định cư trú và hoạt động trong mỗi môi trường đó. |
In mediæval literature, these earth-spirits are often called gnomes, while the water-spirits are spoken of as undines, the air-spirits as sylphs, and the ether-spirits as salamanders. In popular language they are known by many names—fairies, pixies, elves, brownies, peris, djinns, trolls, satyrs, fauns, kobolds, imps, goblins, good people, etc.—some of these titles being applied only to one variety, and others indiscriminately to all.[44] |
Trong văn học thời trung cổ, những vị thần đất này thường được gọi là thần lùn (gnomes), trong khi các vị thần nước được gọi là thủy thần (undines), các vị thần không khí là thiên tinh, và các vị thần ether là salamanders. Trong ngôn ngữ phổ biến, họ được biết đến với nhiều tên— fairies, pixies, elves, brownies, peris, djinns, trolls, satyrs, fauns, kobolds, imps, goblins, good people v.v.—một số danh hiệu này chỉ được áp dụng cho một loại, và những tên khác một cách chung cho tất cả. |
C.W. Leadbeater describes many characteristics of these nature spirits at length in some of his books.[45] Their forms are usually of a human, diminutive shape and can be change into any appearance at will. But to keep this form permanent it needs such a considerable strain that they can maintain these forms only in some minutes. C.W. Leadbeater gave out a diagram on the evolution of life in The Hidden Side of Things[46]. How true is it? In the words of the author: |
C.W. Leadbeater mô tả chi tiết nhiều đặc điểm của những Tinh linh của Tự Nhiên này trong một số cuốn sách của ông. Hình dạng của chúng thường có hình dạng con người, nhỏ bé và có thể thay đổi thành bất kỳ hình dạng nào theo ý muốn. Nhưng để giữ được hình thức này lâu dài, nó cần phải chịu một sức ép đáng kể đến mức chúng chỉ có thể duy trì những hình thức này trong vài phút. C.W. Leadbeater đã đưa ra sơ đồ về quá trình tiến hóa của sự sống trong cuốn The Hidden Side of Things. Nó đúng đến mức nào? Theo lời của tác giả: |
The accompanying diagram shows some of these lines of development in a convenient tabular form, but it must not be considered as in any way exhaustive, as there are no doubt other lines which have not yet been observed, and there are certainly all kinds of variations and possibilities of crossing at different levels from one line to another; so that all we can do is to give a broad outline of the scheme. [47] |
Biểu đồ kèm theo cho thấy một số đường phát triển này ở dạng bảng thuận tiện, nhưng nó không được coi là đầy đủ theo bất kỳ cách nào, vì chắc chắn có những đường khác chưa được quan sát thấy và chắc chắn có đủ loại biến thể, và khả năng chuyển hướng ở các cấp độ khác nhau từ tuyến này sang tuyến khác; vì vậy tất cả những gì chúng tôi có thể làm là đưa ra một phác thảo khái quát về kế hoạch. |
From the above citation it is clear that this diagram is drawn basing on author’s observations, and its credibility is still a question. But it may be a valuable reference for us students of the deva evolution. From the diagram we observe that there are two lines of evolution (line 1 and 3), instead of passing into the vegetable kingdom, evolve directly into the etheric forms. One line (3) passes through the gnomes living within the solid rock. At the lower stage, these gnomes live deeply in the solid crust of the earth and they are called the Undetachable Gnomes, which means that these creatures live detachedly to the rock or crust of earth which is their habitat. The more developed ones live close to the surface of the earth instead of in its depths, and are able occasionally to detach themselves from it for a short time. These gnomes are called Detachable Gnomes. Another line (No. 1) passes through the waters of the ocean. Like the gnomes, these lives pass firstly in the low etheric forms which have their dwelling in the depths of the sea. Next they evolve into a more definite, though still etheric, forms inhabiting the middle depths, and “very rarely showing themselves at the surface.” The third stage for them (corresponding to that of the fairies for the rock-spirits) is to “join the enormous host of water-spirits which cover the vast plains of the ocean with their joyous life.” |
Từ trích dẫn trên, rõ ràng sơ đồ này được vẽ dựa trên quan sát của tác giả và độ tin cậy của nó vẫn còn là một dấu hỏi. Nhưng nó có thể là một tài liệu tham khảo có giá trị cho chúng ta, những người nghiên cứu về sự tiến hóa của thiên thần. Từ sơ đồ, chúng ta quan sát thấy có hai dòng tiến hóa (dòng 1 và 3), thay vì chuyển sang giới thực vật, lại tiến hóa trực tiếp thành dạng dĩ thái. Một đường (3) đi qua các thần lùn sống bên trong tảng đá rắn. Ở giai đoạn thấp hơn, những chú lùn này sống sâu trong lớp vỏ cứng của trái đất và chúng được gọi là những chú lùn không thể tách rời (Undetachable Gnomes), nghĩa là những sinh vật này sống tách biệt với đá hoặc vỏ trái đất vốn là môi trường sống của chúng. Những vị phát triển hơn sống gần bề mặt trái đất thay vì ở độ sâu của nó, và đôi khi có thể tách mình ra khỏi nó trong một thời gian ngắn. Những chú lùn này được gọi là những chú lùn có thể tháo rời. Một tuyến khác (số 1) đi qua vùng nước của các đại dương. Giống như các thần lùn, những sinh mệnh này trước hết trải qua trong các dạng dĩ thái thấp cư trú ở đáy biển sâu. Tiếp theo, chúng tiến hóa thành một dạng rõ ràng hơn, mặc dù vẫn thuộc dạng dĩ thái, cư trú ở độ sâu trung bình và “rất hiếm khi lộ diện trên bề mặt”. Giai đoạn thứ ba đối với họ (tương ứng với giai đoạn của các nàng tiên dành cho các tinh linh đá) là “gia nhập vào đạo quân khổng lồ các tinh linh nước bao phủ vùng đồng bằng rộng lớn của đại dương với cuộc sống vui vẻ của chúng”. |
C.W. Leadbeater told that nature spirits in different parts of the world having different characteristics of their own: |
C.W. Leadbeater nói rằng các tinh linh của tự nhiên ở những nơi khác nhau trên thế giới có những đặc điểm khác nhau: |
The predominant types of the different parts of the world are usually clearly distinguishable and in a sense characteristic; or is it perhaps that their influence in the slow course of ages has moulded the men and animals and plants who lived near them, so that it is the nature-spirit who has set the fashion and the other kingdoms which have unconsciously followed it? For example, no contrast could well be more marked than that between the vivacious, rollicking, orange-and-purple or scarlet-and-gold mannikins who dance among the vineyards of Sicily and the almost wistful grey-and-green creatures who move so much more sedately amidst the oaks and the furze-covered heaths in Brittany, or the golden-brown “good people” who haunt the hill-sides of Scotland. |
Các loại chiếm ưu thế ở các khu vực khác nhau trên thế giới thường có thể phân biệt rõ ràng, và theo một nghĩa nào đó là đặc trưng; hoặc có lẽ ảnh hưởng của chúng trong thời gian qua các thời đại dần dần đã nhào nặn con người, động vật và thực vật sống gần chúng, đến mức chính tinh linh tự nhiên đã thiết lập nên kiểu mẫu và các giới khác đã vô thức làm theo chúng? Chẳng hạn, khó có thể tìm thấy sự đối lập nào rõ rệt hơn giữa những chú mannikin màu cam-tím hoặc đỏ thắm-vàng kim hoạt bát, vui vẻ, nhảy múa giữa những vườn nho ở Sicily với những sinh vật màu xám-xanh lá cây gần như u sầu, di chuyển chậm rãi hơn nhiều giữa những cây sồi và những vùng đất thạch nam ở Brittany, hay những “người tốt” màu nâu vàng ám ảnh những sườn đồi của Scotland. |
In England the emerald-green variety is probably the commonest, and I have seen it also in the woods of France and Belgium, in far-away Massachusetts and on the banks of the Niagara River. The vast plains of the Dakotas are inhabited by a black-and-white kind which I have not seen elsewhere, and California rejoices in a lovely white-and-gold species which also appears to be unique. |
Ở Anh, loại màu xanh ngọc lục bảo có lẽ là phổ biến nhất, tôi cũng từng thấy chúng trong những khu rừng của Pháp và Bỉ, ở Massachusetts xa xôi và trên bờ sông Niagara. Những vùng đồng bằng rộng lớn của Dakotas là nơi sinh sống của một loài đen trắng mà tôi chưa từng thấy ở nơi nào khác, và California tự hào về một loài màu trắng vàng xinh đẹp dường như cũng là độc nhất. |
In Australia the most frequent type is a very distinctive creature of a wonderful luminous skyblue colour; but there is a wide diversity between the etheric inhabitants of New South Wales or Victoria and those of tropical Northern Queensland. These latter approximate closely to those of the Dutch Indies. Java seems specially prolific in these graceful creatures, and the kinds most common there are two distinct types, both monochromatic—one indigo blue with faint metallic gleamings, and the other a study in all known shades of yellow—quaint, but wonderfully effective and attractive. |
Ở Úc, kiểu phổ biến nhất là một sinh vật rất đặc biệt có màu xanh lam sáng tuyệt đẹp; nhưng có sự đa dạng rộng rãi giữa những cư dân tinh túy của New South Wales hoặc Victoria và những cư dân ở vùng nhiệt đới Bắc Queensland. Những cư dân sau này gần giống với những cư dân ở vùng Đông Ấn Hà Lan. Java dường như đặc biệt phong phú về những sinh vật duyên dáng này, và các loài phổ biến nhất ở đó là hai loài riêng biệt, đều đơn sắc—một loài có màu xanh đậm với ánh kim loại mờ nhạt, và loài còn lại mang tất cả các sắc thái vàng đã biết—kỳ lạ, nhưng hiệu quả và hấp dẫn tuyệt vời. |
A striking local variety is gaudily ringed with alternate bars of green and yellow, like a football jersey. This ringed type is possibly a race peculiar to that part of the world, for I saw red and yellow similarly arranged in the Malay Peninsula, and green and white on the other side of the Straits in Sumatra. That huge island also rejoices in the possession of a lovely pale heliotrope tribe which I have seen before only in the hills of Ceylon. Down in New Zealand their specialty is a deep blue shot with silver, while in the South Sea Islands one meets with a silvery-white variety which coruscates with all the colours of the rainbow, like a figure of mother-of-pearl. |
Một kiểu dáng địa phương nổi bật được bao quanh cầu kỳ với các thanh màu xanh lá cây và màu vàng xen kẽ, giống như áo thi đấu bóng đá. Loại có vòng này có thể là một phân loài đặc biệt của khu vực đó, vì tôi đã thấy màu đỏ và vàng được sắp xếp tương tự ở Bán đảo Mã Lai, và màu xanh lá cây và trắng ở phía bên kia eo biển Sumatra. Hòn đảo rộng lớn đó cũng tự hào về việc sở hữu một bộ tộc heliotrope màu tím nhạt đáng yêu mà tôi chỉ từng thấy trước đây trên những ngọn đồi của Ceylon. Ở New Zealand, chuyên ngành của họ là màu xanh đậm pha bạc, trong khi ở các đảo Nam Thái Bình Dương, người ta gặp một loại màu trắng bạc tỏa sáng với tất cả các màu sắc của cầu vồng, giống như một bức tượng xà cừ. |
In India we find all sorts, from the delicate rose-and-pale-green, or pale-blue-and-primrose of the hill country to the rich medley of gorgeously gleaming colours, almost barbaric in their intensity and profusion, which is characteristic of the plains. In some parts of that marvellous country I have seen the black-and-gold type which is more usually associated with the African desert, and also a species which resembles a statuette made out of a gleaming crimson metal, such as was the orichalcum of the Atlanteans. |
Ở Ấn Độ, chúng ta có thể tìm thấy tất cả các loại, từ màu hồng nhạt và xanh lá cây nhạt, hoặc xanh nhạt và màu hoa anh thảo của vùng đồi núi đến sự pha trộn phong phú của các màu sắc rực rỡ lấp lánh, gần như man rợ về cường độ và sự phong phú, đặc trưng của vùng đồng bằng. Ở một số vùng của đất nước kỳ diệu đó, tôi đã nhìn thấy loài đen vàng thường được gắn liền với sa mạc châu Phi, và cả một loài trông giống như một bức tượng nhỏ được làm bằng kim loại màu đỏ thẫm sáng chói, giống như orichalcum của người Atlantis. |
Somewhat akin to this last is a curious variety which looks as though cast out of bronze and burnished; it appears to make its home in the immediate neighbourhood of volcanic disturbances, since the only places in which it has been seen so far are the slopes of Vesuvius and Etna, the interior of Java, the Sandwich Islands, the Yellowstone Park in North America, and a certain part of the North Island of New Zealand. Several indications seem to point to the conclusion that this is a survival of a primitive type, and represents a sort of intermediate stage between the gnome and the fairy. |
Hơi giống với loại cuối cùng này là một giống kỳ lạ trông như thể được đúc bằng đồng và đánh bóng; nó dường như sinh sống ở khu vực lân cận có sự xáo trộn núi lửa, vì những nơi duy nhất mà nó được nhìn thấy cho đến nay là sườn núi Vesuvius và Etna, vùng nội địa của Java, Quần đảo Sandwich, Công viên Yellowstone ở Bắc Mỹ, và một phần nhất định của Đảo Bắc của New Zealand. Một số dấu hiệu dường như chỉ ra kết luận rằng đây là sự sống sót của kiểu nguyên thủy và đại diện cho một loại giai đoạn trung gian giữa thần lùn (gnome) và tiên (fairy). |
In some cases, districts close together are found to be inhabited by quite different classes of nature-spirits; for example, as has already been mentioned, the emerald-green elves are common in Belgium, yet a hundred miles away in Holland hardly one of them is to be seen, and their place is taken by a sober-looking dark-purple species.[48] |
Trong một số trường hợp, các khu vực gần nhau được phát hiện là nơi sinh sống của các loại tinh linh thiên nhiên khá khác nhau; ví dụ, như đã được đề cập, những tinh linh tinh màu xanh ngọc lục bảo rất phổ biến ở Bỉ, nhưng cách đó một trăm dặm ở Hà Lan thì khó có thể nhìn thấy một trong số chúng, và vị trí của chúng được thay thế bởi một loài màu tím sẫm trông tỉnh táo. |
These lines of evolution converge in the Sylphs, the spirits of the air. These entities are said to have an intelligence which is much higher than that of the etheric creatures, and nearly equal to that of the average man; but they have not yet attained “a permanent reincarnating individuality”. The normal method for them to individualize is “by association with and love for members of the next stage above them—the astral angels.” In the writings of C.W. Leadbeater, devas or angels are used for devic beings who have individualized and nature spirits for those who have not. |
Những dòng tiến hóa này hội tụ ở Sylph, những tinh thần của không khí. Người ta cho rằng những thực thể này có trí thông minh cao hơn nhiều so với các sinh vật dĩ thái và gần bằng trí thông minh của người bình thường; nhưng họ vẫn chưa đạt được “một cá thể tái sinh vĩnh viễn”. Phương pháp thông thường để họ cá nhân hóa là “bằng cách kết giao và yêu thương các thành viên của giai đoạn tiếp theo phía trên họ—các thiên thần trung giới”. Trong các bài viết của C.W. Leadbeater, deva hoặc thiên thần (angel) được dùng để chỉ những sinh vật thuộc giới thiên thần đã được biệt ngã hóa, và các Tinh linh của Tự Nhiên dành cho những sinh mệnh chưa biệt ngã hóa. |
Indeed the kingdom of nature spirits covers a very large range of devic beings on the arc of evolution, including stages corresponding to the whole of the vegetable and animal kingdoms, and to humanity up to almost the present level of our own race. Some of the lower types of the nature spirits are not pleasing to see, they are like some lower kinds of reptiles and insects in the animal kingdoms: |
Quả thực, giới Tinh linh của Tự Nhiên bao gồm rất nhiều thực thể thiên thần trên cung thăng thượng tiến hoá, bao gồm các giai đoạn tương ứng với toàn bộ giới thực vật và động vật, cũng như với nhân loại cho đến gần như trình độ hiện tại của nhân loại chúng ta. Một số loại Tinh linh của Tự Nhiên cấp thấp không dễ nhìn chút nào, chúng giống như một số loại bò sát và côn trùng cấp thấp hơn trong thế giới động vật: |
There are undeveloped tribes whose tastes are coarse, and naturally their appearance corresponds to the stage of their evolution. The shapeless masses with huge red gaping mouths, which live upon the loathsome etheric emanations of blood and decaying flesh, are horrible both to the sight and to the feeling of any pure-minded person; so also are the rapacious red-brown crustacean creatures which hover over houses of ill-fame, and the savage octopus-like monsters which gloat over the orgies of the drunkard and revel in the fumes of alcohol. But even these harpies are not evil in themselves, though repulsive to man; and man would never come into contact with them unless he degraded himself to their level by becoming the slave of his lower passions. [49] |
Có những bộ lạc kém phát triển, sở thích thô thiển, và đương nhiên bề ngoài của họ tương ứng với giai đoạn tiến hóa của họ. Những khối người không có hình dạng với những cái miệng há hốc màu đỏ khổng lồ, sống nhờ sự phát xạ dĩ thái ghê tởm của máu và thịt đang phân hủy, thật kinh khủng đối với cả thị giác lẫn cảm giác của bất kỳ người có đầu óc thuần khiết nào; cũng như những sinh vật giáp xác màu nâu đỏ hung hãn bay lượn trên những ngôi nhà xấu xa, và những con quái vật giống bạch tuộc man rợ hả hê trước cơn cực khoái của những kẻ say rượu và say sưa trong hơi rượu. Nhưng ngay cả những sinh vật đáng ghê tởm này tự bản chất không hề xấu xa, mặc dù chúng có khiến con người cảm thấy khó chịu. Con người sẽ không bao giờ tiếp xúc với chúng trừ khi tự hạ mình xuống trình độ của chúng, bằng cách trở thành nô lệ cho những ham muốn thấp kém của bản thân. |
It is only nature-spirits of this kind which voluntarily approach the average man. Others often dislike and avoid mankind, and we cannot wonder at it: |
“Chỉ những tinh linh thiên nhiên thuộc loại này mới chủ động tiếp cận với con người bình thường. Những loài khác thường không thích và tránh xa loài người, điều này cũng dễ hiểu:” |
To them man appears a ravaging demon, destroying and spoiling wherever he goes. He wantonly kills, often with awful tortures, all the beautiful creatures that they love to watch; he cuts down the trees, he tramples the grass, he plucks the flowers and casts them carelessly aside to die; he replaces all the lovely wild life of nature with his hideous bricks and mortar, and the fragrance of the flowers with the mephitic vapours of his chemicals and the all-polluting smoke of his factories. Can we think it strange that the fairies should regard us with horror, and shrink away from us as we shrink from a poisonous reptile?[50] |
Đối với họ, con người xuất hiện như một con quỷ tàn phá, phá hoại và làm hư hỏng bất cứ nơi nào y đi qua. Y giết hại một cách bừa bãi, thường bằng những màn tra tấn khủng khiếp, tất cả những sinh vật xinh đẹp mà họ thích ngắm nhìn; y chặt cây, giẫm cỏ, ngắt hoa rồi vứt bừa bãi cho chết; y thay thế tất cả cuộc sống hoang dã đáng yêu của thiên nhiên bằng những viên gạch và vữa gớm ghiếc của mình, và hương thơm của những bông hoa bằng hơi mephitic của hóa chất và làn khói ô nhiễm hoàn toàn từ các nhà máy của y. Chúng ta có thấy lạ lùng không khi các nàng tiên nhìn chúng ta với vẻ kinh hãi và tránh xa chúng ta như chúng ta né tránh một loài bò sát độc? |
If we turn to Master D.K.’s teaching, we find some alteration to this development of these nature spirits. According to Master D.K. the devas of the earth (“gnomes”) in the course of time will become devas of the waters (“undines”), and eventually pass into the devas of the astral plane—devas of the cosmic liquid. The devas of the physical liquid in time will evolve into devas of the air (sylphs), and finally “find their ways” into “the cosmic gaseous, becoming the devas of the mental plane”. The gaseous devas become eventually the devas of the fourth ether, and from thence in long aeons, find their way to the cosmic fourth ether, the buddhic plane.[51] We see in this evolution a two phase process: first, the evolving into the immediate next subplane, and from thence to the corresponding cosmic subplane. But we can wonder if the second phase is a direct process or a gradual one. For example, when a gnome evolves into an undine, becomes a member of the devas of water, why does it not evolve into a deva of the air, and a devas of fourth ether, before transferring into a deva of the astral plane? Yes, this and many other questions still await another revelation. |
Nếu chúng ta quay lại lời giảng dạy của Chân sư D.K., chúng ta sẽ thấy một số thay đổi đối với sự phát triển này của các Tinh linh của Tự Nhiên này. Theo Chân sư D.K. các vị thần của đất (các “gnomes”) theo thời gian sẽ trở thành các vị thần của nước (“undines”), và cuối cùng chuyển thành các vị thần của cõi trung giới—các vị thần của chất lỏng vũ trụ. Các vị thần của chất lỏng vật lý theo thời gian sẽ tiến hóa thành các vị thần của không khí (sylphs), và cuối cùng “tìm đường” thành “chất khí vũ trụ, trở thành các vị thần của cõi trí”. Các thiên thần thể khí cuối cùng trở thành các thiên thần của cõi dĩ thái thứ tư, và từ đó trong nhiều thiên niên kỷ dài, họ tìm đường tới cõi dĩ thái thứ tư của vũ trụ, cõi bồ đề. Chúng ta thấy trong quá trình tiến hóa này có một quá trình gồm hai giai đoạn: thứ nhất là tiến hóa thành cảnh giới phụ tiếp theo và từ đó đến cảnh giới phụ vũ trụ tương ứng. Nhưng chúng ta có thể thắc mắc liệu giai đoạn thứ hai là một quá trình trực tiếp hay diễn ra từ từ. Ví dụ, khi một thần lùn tiến hóa thành một undine, trở thành thành viên của các thiên thần nước, tại sao nó không tiến hóa thành một thiên thần của không khí và một thiên thần của ether thứ tư, trước khi chuyển thành một thiên thần của cõi trung giới? Vâng, câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác vẫn đang chờ đợi một sự mặc khải khác. |
The evolution of Life.
Source: The Hidden Side of Things, by C.W. Leadbeater
4. The Planetary entity—THỰC THỂ HÀNH TINH
This is a mysterious entity on the arc of involution. It is the sum total of all the physical, astral, and lower mental elementals on the planet. Every planet in our system has its own spirit of the planet, or as Master D.K. recommends, it should be called “planetary entity” to distinguish it with the Planetary Spirits who are the “Seven Spirits before the Throne,” the seven Heavenly Men. This entity holds a position to the Heavenly Man similar to that held by the three elementals of the Personality to the Soul. Like all manifesting beings it is threefold, but all involutionary. Much mysterious information are revealed in the blue books in regard to this entity: |
Đây là một thực thể bí ẩn trên vòng cung giáng hạ tiến hoá. Nó là tổng thể của tất cả các ‘tinh linh’ vật chất, cảm dục và hạ trí trên hành tinh. Mỗi hành tinh trong hệ thống của chúng ta đều có một “spirit of planet” riêng, hay như Chân sư D.K. khuyến nghị, nó nên được gọi là “thực thể hành tinh” (planetary entity) để phân biệt với các Tinh Thần Hành tinh (Planetary Spirits) là “Bảy Đấng Tinh thần trước Thánh Ngai”, bảy Thiên nhân. Thực thể này giữ một vị trí đối với Thiên nhân tương tự như vị trí của ba elemental của phàm ngã đối với Linh hồn. Giống như tất cả các sinh mệnh biểu hiện, nó tam phân, nhưng tất cả đều giáng hạ tiến hoá. Nhiều thông tin bí ẩn được tiết lộ trong sách xanh liên quan đến thực thể này: |
This entity has the same analogous relation to the deva evolution as the mysterious “bridges” which baffle scientists, and which are found between the vegetable and the animal kingdom, and the mineral and the vegetable; they are neither the one nor the other. On a large scale, this “life” or the informing entity of the lower life of the physical plane of the solar system is neither a full exponent of the subconscious life of the earlier system, nor of the elemental life of this; only in the next system will be seen the manifestation of a form of consciousness of a type at present inconceivable to man. Esoterically he is stated to have “neither sight nor hearing”; he is neither deva nor human in essence. He is occultly “blind,” utterly unaware; he is capable only of movement, and resembles the foetus in the womb; [52] |
Thực thể này có cùng mối quan hệ tương tự với sự tiến hóa của thiên thần như những “cầu nối” bí ẩn làm bối rối các nhà khoa học, được tìm thấy giữa giới thực vật và giới động vật, giữa giới khoáng vật và thực vật; họ không phải cái này cũng không phải cái kia. Ở quy mô lớn, “sự sống” hay thực thể phú linh của sự sống thấp hơn trên cõi trần của hệ mặt trời không phải là sự thể hiện đầy đủ về đời sống tiềm thức của hệ thống trước đó, cũng không phải sự sống hànhy khí của hệ thống này; chỉ trong hệ thống tiếp theo người ta mới thấy sự biểu hiện của một dạng tâm thức thuộc loại mà hiện nay con người không thể tưởng tượng được. Về mặt bí truyền, người ta cho rằng y “không có thị giác cũng như không có thính giác”; về bản chất anh ta không phải là thiên thần cũng không phải là con người. Về mặt huyền bí, anh ta “mù”, hoàn toàn không nhận thức được; anh ta chỉ có khả năng cử động và giống như bào thai trong bụng mẹ; |
This entity also has its solar correspondence which may be called the solar entity. Master D.K says that it is still very far from perfection, very far indeed, and this perfection will be attained when it steps onto the Path of evolution in the next solar system. It is this imperfection which is the source of all diseases of all forms in all kingdoms of the nature. Man comes into incarnation under the will of his soul, and this will-to-be or will-to-live creates during the incarnation life a form composed of the substances of this entity. For the time being, it is isolated from the source it was created from. This form is tinged with the characteristics of the substances of the entity which is still imperfect. So diseases are inherent in the form itself. Although separated from the source from which it is created, this temporarily isolated form is always under the hold of this entity, a magnetic pull on the form. It is the conflict between two forces which is the source of diseases. If the will-to-be of the soul is strong enough the personality elemental is kept in coherence, the man lives. But when the soul force becomes weaker, or when it withdraws its will-to-live, then the magnetic pull of the planetary entity becomes a dominant factor, the hour for reabsorption has come. Then what of Caesar are then returned to Caesar. In the words of the Commentary: |
Thực thể này cũng có sự tương ứng Thái dương của nó và có thể được gọi là thực thể Thái dương (solar entity). Chân sư D.K nói rằng nó vẫn còn rất xa so với sự hoàn hảo, thực sự là rất xa, và sự hoàn hảo này sẽ đạt được khi nó bước lên Con đường tiến hóa trong thái dương hệ tiếp theo. Chính sự không hoàn hảo này là nguồn gốc của mọi bệnh tật thuộc mọi hình thức trong mọi giới của thiên nhiên. Con người nhập thể theo ý muốn của linh hồn mình, và ý chí tồn tại hoặc ý chí sống này tạo ra trong cuộc sống nhập thể một hình tướng bao gồm các chất liệu của thực thể này. Khi đó, nó được cách ly khỏi nguồn mà nó được tạo ra. Hình tướng này nhuốm màu đặc tính của các chất của thực thể vẫn còn chưa hoàn hảo. Cho nên bệnh tật có sẵn trong hình tướng. Mặc dù bị tách khỏi nguồn mà nó được tạo ra, hình tướng tạm thời bị cô lập này vẫn luôn nằm dưới sự kiểm soát của thực thể này, một lực hút nam châm lên hình tướng. Chính sự xung đột giữa hai mãnh lực là nguồn gốc của bệnh tật. Nếu ý chí tồn tại của linh hồn đủ mạnh thì tinh linh phàm ngã được giữ chặt chẽ thì con người sẽ sống. Nhưng khi mãnh lực linh hồn trở nên yếu hơn hoặc khi nó rút lại ý chí sống, thì lực hút từ tính của thực thể hành tinh trở thành yếu tố chi phối, giờ ‘tái hấp thu’ đã đến. Sau đó, những gì của Caesar sẽ được trả lại cho Caesar. Theo lời của Cổ Luận: |
Disease and death are the result of two active forces. One is the will of the soul which says to its instrument: I draw the essence back. The other is the magnetic power of the planetary Life which says to the life within the atomic structure: The hour of reabsorption has arrived. Return to me. Thus, under cyclic law, do all forms act.[53] |
Bệnh tật và cái chết là kết quả của hai mãnh lực tích cực. Một là ý chí của linh hồn nói với công cụ của nó: Tôi rút lại bản chất. Cái còn lại là sức mạnh từ tính của Sự sống hành tinh nói với sự sống bên trong cấu trúc nguyên tử: Giờ tái hấp thu đã đến. Hãy quay lại với ta. Vì vậy, mọi hình tướng đều hoạt động theo quy luật tuần hoàn. |
Force in evolution and force in involution are two different things. That is a preliminary statement. [175] In the one you have destruction, violence, blind elementary powers at work. In involution it is the elementals who do most of the work, working blindly along as controlled by the Builders. The work is constructive, cohesive, a gradual growing together, harmony out of discord, beauty out of chaos. The lower kingdoms of the devas work, guided by the great Building Devas, and all move upward in ordered beauty from plane to plane, from system to system, universe to universe. Therefore in studying occult lore you need to remember two things:— |
Lực tiến hóa và lực giáng hạ tiến hóa là hai thứ khác nhau. Đó là phát biểu sơ bộ. [175] Trong một cái, bạn có sự hủy diệt, bạo lực, mãnh lực cơ bản mù quáng đang hoạt động. Trong quá trình giáng hạ tiến hóa, các tinh linh làm hầu hết công việc, làm việc một cách mù quáng dưới sự điều khiển của Kẻ Kiến Tạo. Tác phẩm mang tính xây dựng, gắn kết, cùng nhau phát triển dần dần, hài hòa từ bất hòa, đẹp từ hỗn loạn. Các giới thấp hơn của các thiên thần hoạt động, được hướng dẫn bởi các Thiên thần Xây dựng vĩ đại, và tất cả đều di chuyển lên trên theo vẻ đẹp có trật tự từ cõi này sang cõi khác, từ hệ thống này sang hệ thống khác, từ vũ trụ này sang vũ trụ khác. Vì vậy, khi nghiên cứu huyền linh học bạn cần nhớ hai điều: — |
a. You control elemental forces. |
a. Bạn kiểm soát các mãnh lực hành khí. |
b. You co-operate with the devas. |
b. Bạn hợp tác với devas hay thiên thần. |
(A. Bailey, Letters on Occult meditation p. 175) |
|
The electron itself will eventually be found to be an elemental, tiny life. (A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire) |
Bản thân electron cuối cùng sẽ được coi là một sự sống hành khí nhỏ bé. (A. A. Bailey, Luận về Lửa vũ trụ). [Trang 562] |
The objective life (spiritual life where cosmic thought-forms are concerned; manasic life when solar thought-forms are constructed; and elemental life where human thought-forms are built) withdraws and the form dissipates. |
Đời sống khách quan (đời sống tinh thần nơi các hình tư tưởng vũ trụ có liên quan; đời sống trí tuệ khi các hình tư tưởng thái dương được cấu tạo; và đời sống hành khí nơi các hình tư tưởng của con người được tạo ra) rút lui và hình tướng tiêu tan. |
5. The lunar Pitris and the lunar lords—các thái âm tổ phụ và nguyệt tinh quân
Pitris in Sanskrit means “ancestors”, or “progenitors.” Much confusion often arise in the minds of the students of Occultism when they come to investigate these devic entities, much the same as in the case of the Elementals. These terms lunar Pitris and Lunar Ancestors are first used by H.P. Blavatsky in Secret Doctrine to denote a class of devas related to the Physical Evolution, one of the three evolutionary schemes on our planet. In words of H.P. Blavatsky: |
Pitris trong tiếng Phạn có nghĩa là “tổ tiên”. Nhiều sự nhầm lẫn thường nảy sinh trong tâm trí của các sinh viên Huyền bí học khi họ nghiên cứu về các thực thể thiên thần này, giống như trường hợp của các Elemental. Những thuật ngữ này, lunar Pitris (thái âm tổ phụ), lần đầu tiên được sử dụng bởi H.P. Blavatsky trong Giáo Lý Bí Truyền để biểu thị một loại thiên thần có liên quan đến Sự Tiến Hóa Thể Chất, một trong ba cơ chế tiến hóa trên hành tinh của chúng ta. Theo lời của H.P. Blavatsky: |
It now becomes plain that there exists in Nature a triple evolutionary scheme, for the formation of the three periodical Upadhis; or rather three separate schemes of evolution, which in our system are inextricably interwoven and interblended at every point. These are the Monadic (or spiritual), the intellectual, and the physical evolutions. These three are the finite aspects or the reflections on the field of Cosmic Illusion of ATMA, the seventh, the ONE REALITY. |
Bây giờ, điều trở nên rõ ràng là trong Thiên nhiên tồn tại một sơ đồ tiến hóa ba giai đoạn nhằm hình thành ba vận cụ (upadhis) định kỳ; hay đúng hơn là ba sơ đồ tiến hóa riêng biệt, mà trong hệ thống của chúng ta đan xen và hòa trộn chặt chẽ với nhau ở mọi điểm. Đó là các sự tiến hóa Chân thần (hay tinh thần), trí tuệ và thể chất. Ba khía cạnh này là những khía cạnh hữu hạn hoặc những phản ánh trên lĩnh vực Ảo ảnh vũ trụ của ATMA, khía cạnh thứ bảy, THỰC TẠI DUY NHẤT. |
1. The Monadic is, as the name implies, concerned with the growth and development into still higher phases of activity of the Monad in conjunction with: |
1. Sự Tiến Hóa Chân thần, như tên gọi ám chỉ, liên quan đến sự tăng trưởng và phát triển thành các giai đoạn hoạt động cao hơn nữa của Chân thần, kết hợp với: |
2. The Intellectual, represented by the Manasa-Dhyanis (the Solar Devas, or the Agnishwatta Pitris) the “givers of intelligence and consciousness” * to man and: |
2. Sự tiến hóa Trí tuệ, được đại diện bởi Manasa-Dhyanis (Thái dương Thiên Thần, hay Agnishwatta Pitris), “người ban phát trí thông minh và ý thức” * cho con người và: |
3. The Physical, represented by the Chhayas of the lunar Pitris, round which Nature has concreted the present physical body. This body serves as the vehicle for the “growth” (to use a misleading word) and the transformations through Manas and— owing to the accumulation of experiences— of the finite into the INFINITE, of the transient into the Eternal and Absolute.[54] |
3. Sự tiến hóa Thể chất, được đại diện bởi Chhayas (hình bóng) của thái âm tổ phụ, xung quanh đó Thiên nhiên đã cụ thể hóa thành cơ thể vật chất hiện tại. Cơ thể này đóng vai trò là phương tiện cho sự “tăng trưởng” (dùng một từ gây hiểu lầm) và các biến đổi thông qua Manas và—do sự tích lũy kinh nghiệm—của hữu hạn thành VÔ HẠN, của nhất thời thành Vĩnh cửu và Tuyệt đối. |
In fact, many Theosophical authors at the time of H.P. Blavatsky like Annie Besant, Two Students [55] etc. also interpreted differently to what were implied in that book. In The Secret Doctrine of H.P. Blavatsky we also find many seemingly contradictory statements regarding this teaching. In the teaching of Master D.K., these terms are expanded to encompass a wider class of Devas, not only those on our Scheme, but also the entire Solar System: |
Trên thực tế, nhiều tác giả Thông Thiên Học vào thời bà H.P. Blavatsky như Annie Besant, Two Students, v.v. cũng diễn giải khác với những gì được ngụ ý trong cuốn sách đó. Trong Giáo Lý Bí Truyền của H.P. Blavatsky, chúng ta cũng tìm thấy nhiều phát biểu có vẻ mâu thuẫn liên quan đến lời dạy này. Trong giảng dạy của Master D.K., những thuật ngữ này được mở rộng để bao gồm một lớp Thiên thần rộng hơn, không chỉ những người trong hệ địa cầu của chúng ta, mà còn cả toàn bộ Hệ Mặt trời: |
Groups of these Pitris are found wherever man is in incarnation in all the schemes, but in other schemes they differ somewhat from ours, as the “Mystery of the Moon” is connected with a peculiar esoteric condition which concerns our own planetary Logos. [56] |
Các nhóm Pitris này được tìm thấy ở bất cứ nơi nào con người nhập thể trong mọi hệ thống, nhưng trong các hệ thống khác, chúng hơi khác với hệ thống của chúng ta, vì “Bí ẩn của Mặt trăng” có liên quan đến một tình trạng bí truyền đặc biệt liên quan đến Hành tinh Thượng Đế tinh của chúng ta. |
So, what is the Lunar Pitris? The first fact about them is that in the broadest meaning they include both evolutionary devas as well as involutionary devic lives: |
Vậy, Lunar Pitris là gì? Sự thật đầu tiên về chúng là, theo nghĩa rộng nhất, họ bao gồm cả các thiên thần tiến hóa cũng như các sự sống thiên thần giáng hạ tiến hóa: |
These lunar pitris embody the substance of man’s lower bodies, just as the solar Pitris sacrifice themselves to give him his egoic body, and his consciousness.55, 56,57 They are substance in its dual aspect, and the Lunar pitris in their higher grades are the positive energy of atomic substance, and in their lower are the negative [780] aspect of the same substance. They might be considered, in connection with man, as triple in their ranks: |
Các thái âm tổ phụ này hiện thân cho bản chất của các thể thấp của con người, cũng giống như các Thái dương tổ phụ (Solar pitris) hy sinh bản thân để mang lại cho con người thể chân ngã và tâm thức của con người. Chúng là chất liệu ở khía cạnh kép của nó, và các thái âm tổ phụ ở các cấp độ cao hơn là năng lượng dương của chất liệu nguyên tử, và ở cấp độ thấp của chúng là mặt âm [780] của cùng một chất liệu. Liên quan đến con người, chúng có thể được coi là tam phân trong hàng ngũ của chúng: |
a. The highest group of all receives the energy from the higher levels, and ensouls the spirillae of the three permanent atoms. |
a. Nhóm cao nhất nhận năng lượng từ các cấp độ cao hơn, và phú linh (ensoul) cho các loa tuyến của ba nguyên tử thường tồn. |
b. The second group, being the positive energy that attracts, builds and forms the body of man on the three planes. |
b. Nhóm thứ hai, là năng lượng dương thu hút, xây dựng và hình thành các thể con người trên ba cõi. |
c. The lowest group are the negative aspect of energised substance and the matter of the three sheaths. |
c. Nhóm thấp nhất là khía cạnh âm của chất liệu mang năng lượng và vật chất của ba lớp vỏ. |
This is the cause of confusion: both totally different classes of entities, in regard to their stages of evolution, are included under the same name. In their lowest class they are the elemental essences which go into the composition of the threefold lower man. In reality, they should cannot be considered as “Pitris of Man” at all. They are only the passive substance in the hands of those evolutionary Devas who build them into vehicles for man. The second group are the evolutionary devas who build and form the three sheaths of man on the three lower planes. While the highest group are those who ensouls the spirillae of the three permanent atoms. The phrase “ensouls the spirillae” means “to merge with them, stimulate them and direct their development. These highest of the lunar pitris are the directing consciousness within the spirillae.” (M. D. Robbins). In the words of Master D.K., it is this highest group of lunar Pitris which is really the true “Lunar Pitris,” the ancestor of mankind. In spite of being evolutionary devas, they are nevertheless sub-human, and their goals are to pass into human kingdom in the future: |
Đây là nguyên nhân gây nhầm lẫn: cả hai lớp thực thể hoàn toàn khác nhau, xét theo các giai đoạn tiến hóa của chúng, đều được gộp chung dưới một tên. Ở cấp độ thấp nhất, chúng là những tinh hoa hành khí cấu thành nên con người tam phân. Trên thực tế, chúng hoàn toàn không nên được xem là “Tổ Phụ của Con người”. Chúng chỉ là thực thể thụ động trong tay các Thiên thần tiến hóa, những người chế tạo chúng thành các phương tiện (vận cụ, thể) cho con người. Nhóm thứ hai là các thiên thần tiến hóa xây dựng và tạo thành ba lớp vỏ của con người trên ba cõi thấp hơn. Trong khi nhóm cao nhất là những người ban linh hồn (phú linh) cho ba nguyên tử trường tồn. Cụm từ “phú linh hồn các loa tuyến” có nghĩa là “hợp nhất với chúng, kích thích chúng và định hướng sự phát triển của chúng. Những thái âm tổ phụ này là tâm thức chỉ đạo bên trong các loa tuyến.” (MD Robbins). Theo lời của Chân sư D.K., chính nhóm thái âm tổ phụ cao nhất này mới thực sự là “Thái âm tổ phụ” thực sự, “tổ tiên” của nhân loại. Mặc dù là các vị thần trên cung thăng thượng tiến hóa, nhưng họ vẫn ở dưới mức nhân loại, và mục tiêu của họ là chuyển sang giới nhân loại trong tương lai: |
The Lunar Pitris … To become men. They will in their higher grades pass directly into the animal evolution of the next cycle and so eventually individualize. Their three higher grades will become animal-men, and the lower four will contribute to the quaternic forms of the men of the next creation.[57] |
Các lunar Pitris… Trở thành con người. Ở cấp độ cao hơn, chúng sẽ trực tiếp bước vào quá trình tiến hóa động vật của chu kỳ tiếp theo, và do đó cuối cùng sẽ biệt ngã hóa. Ba cấp độ cao hơn của họ sẽ trở thành người-thú, và bốn cấp độ thấp hơn sẽ đóng góp vào hình thức tứ phân của con người trong cuộc sáng tạo tiếp theo. |
In fact, the term “Lunar Pitris” as used in the books of Master D.K. is a more general term than that used by H.P. Blavatsky in Secret Doctrine. It refers to many classes of evolutionary devas, not only related to those devas who hold a man’s three periodical vehicles in coherence. But as some of them are related to the building of the three bodies of a man, this branch must exist on three planes of the cosmic physical subplanes: |
Trên thực tế, thuật ngữ “Thái âm tổ phụ” (Lunar Pitris) được sử dụng trong các sách của Chân sư D.K. là một thuật ngữ tổng quát hơn thuật ngữ được H.P. Blavatsky trong Giáo Lý Bí Truyền. Nó đề cập đến nhiều loại thiên thần tiến hóa, không chỉ liên quan đến những thiên thần giữ cho ba hiện thể định kỳ của con người cố kết thống nhất. Nhưng vì một số trong số chúng có liên quan đến việc xây dựng ba thể của con người, nên nhánh này phải tồn tại trên ba cảnh giới của các phân cảnh giới vật lý vũ trụ: |
In continuing our consideration of these deva orders, it should be pointed out that these three lower deva orders—the lower fifth, the sixth and the seventh—have a close connection with the moon. They are the building agents which (working on the involutionary matter of the three worlds) construct the lower three bodies of incarnating man. They are a branch of the lunar Pitris, but the fact should be remembered that this particular branch of pitris are those functioning in our particular scheme, and are closely allied to our planetary Logos. Groups of these Pitris are found wherever man is in incarnation in all the schemes, but in other schemes they differ somewhat from ours, as the “Mystery of the Moon” is connected with a peculiar esoteric condition which concerns our own planetary Logos. [58] |
Khi tiếp tục xem xét các cấp độ thiên thần này, cần chỉ ra rằng ba cấp độ thiên thần thấp hơn – cấp độ thứ năm thấp hơn, cấp độ thứ sáu và thứ bảy – có mối liên hệ chặt chẽ với mặt trăng. Họ là những tác nhân xây dựng (làm việc trên vật chất giáng hạ tiến hoá của ba cõi) cấu tạo nên ba hạ thể của con người đang lâm phàm. Chúng là một nhánh của thái âm tổ phụ, nhưng nên nhớ sự thật rằng nhánh pitris đặc biệt này là những nhánh hoạt động trong hệ thống đặc biệt của chúng ta và có liên kết chặt chẽ với Hành tinh Thượng Đế của chúng ta. Các nhóm Pitris này được tìm thấy ở bất cứ nơi nào con người nhập thể trong mọi hệ thống, nhưng trong các hệ thống khác, chúng hơi khác với hệ thống của chúng ta, vì “Bí ẩn của Mặt trăng” có liên quan đến một tình trạng bí truyền đặc biệt liên quan đến Thượng Đế hành tinh của chúng ta. |
In the above citation, the lower fifth, the sixth, and the seventh order of devas are devas on the three lower systemic planes—the lower mental, the astral, and the physical planes. This branch of lunar Pitris who are related to the building and holding three bodies of man in coherence is also called the “lunar Lords.” We will return to this branch of lunar Pitris later. |
Trong đoạn trích dẫn trên, cấp độ thứ năm, thứ sáu và thứ bảy của các thiên thần là các vị thần (devas) trên ba cõi hệ thống thấp hơn—cõi hạ trí, cõi cảm dục và cõi vật chất. Nhánh thái âm tổ phụ này có liên quan đến việc xây dựng và giữ ba thể con người trong sự gắn kết cũng được gọi là “lunar lords” (nguyệt tinh quân). Chúng ta sẽ quay lại nhánh thái âm tổ phụ này sau. |
The word lunar accompanying the term “Lunar Pitris” is in reality “an anachronism and inaccurate.” (A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 835). Perhaps, this word was first used by H.P. Blavatsky to denote those devas from the Moon Chain come to participate in the evolution our Earth Chain: |
Từ lunar trong thuật ngữ “Lunar Pitris” trên thực tế là “lỗi thời và không chính xác”. (A. A. Bailey, Chuyên luận về Lửa vũ trụ trang 835). Có lẽ, từ này đã được Bà H.P. Blavatsky dùng để biểu thị các thiên thần từ Chuỗi Mặt Trăng đến tham gia vào quá trình tiến hóa của Chuỗi Trái Đất của chúng ta: |
There are also in connection with our peculiar Earth scheme, those lunar pitris who reached their present stage of activity in the moon chain. They are deva groups but (unlike the Agnishvattas) they have not passed through the human stage; for them it has yet to be achieved, and their present experience in connection with the human Hierarchy has that end in view.[59] |
Ngoài ra, trong mối liên hệ với Hệ Địa Cầu đặc biệt của chúng ta, có những thái âm tổ phụ đã đạt đến giai đoạn hoạt động hiện nay trên chuỗi mặt trăng. Họ là các nhóm devas, nhưng (không giống như các Agnishvattas) họ chưa trải qua giai đoạn con người; đối với họ điều đó vẫn chưa đạt được, và kinh nghiệm hiện tại của họ liên quan đến Huyền Giai nhân loại có mục đích đó. |
In the footnotes on page 612-3 of Cosmic Fire, we find some references in the Secret Doctrine explaining these “lunar Pitris”. It is useful to quote these references: |
Trong phần chú thích ở trang 612-3 của Lửa Càn Khôn, chúng ta tìm thấy một số tài liệu tham khảo trong Giáo Lý Bí Truyền giải thích về những “thái âm tổ phụ” này. Thật hữu ích khi trích dẫn những tài liệu tham khảo đó: |
91 The lunar Pitris. |
Các Thái âm tổ phụ |
“The great Chohans called the Lords of the Moon, of the airy bodies: “Bring forth Men,” they were told, “men of your nature. Give them their forms within. She (Mother Earth) will build coverings without (for external bodies). Males-females will they be. Lords of the Flame also….They went each on his allotted lands: Seven of them each on his lot. The Lords of the Flame remained behind. They would not go. They would not create.” |
“Các Đại Chohans được gọi là Lords of the Moon, có các thể bằng chất khí: “Hãy sinh ra Con Người”, họ được bảo thế, “con người có bản chất của ngươi. Hãy ban cho họ các hình hài bên trong của họ. Mẹ Đất sẽ tạo ra các lớp phủ bên ngoài (cho các thể bên ngoài). Họ sẽ trở thành Nam-Nữ. Các Hỏa Thần Quân cũng thế … Mỗi vị đi trên các vùng đất được giao của mình: Bảy Nhóm trong họ, mỗi nhóm trên phần đất của mình. Các Hỏa Thần Quân vẫn ở lại phía sau. Các Ngài không đi. Các Ngài sẽ không sáng tạo”. |
—Stanza III, 12, 13, S. D., II, 79, 81 |
Stanza III, 12, 13. GLBN II, 79, 81. |
92 The Lunar Pitris created the physical man. —S. D., I, 114, 197. |
92 Các Lunar Pitris tạo ra con người vật chất. GLBN I, 114, 197. |
They exist in three great classes. |
Các Ngài có 3 loại chính. |
1. The most developed. They form, in Round one, the sumtotal of the three kingdoms, and achieve a human form.—S. D., I, 203. |
1. Loại phát triển nhất. Trong Vòng Tuần Hoàn I, các Ngài tạo thành toàn thể 3 giới, và đạt đến một hình thể con người. GLBN I, 203. |
In Rounds two and three they are the sumtotal of that which will eventually be human. |
Trong Vòng Tuần Hoàn 2 và 3, các Ngài là toàn thể những gì mà sau rốt sẽ trở thành con người. |
In Round four at the beginning they form the etheric bodies of our Earth humanity. |
Trong Vòng Tuần Hoàn 4, vào lúc đầu, các Ngài hợp thành thể dĩ thái của nhân loại trên Địa Cầu chúng ta. |
2. Those whose bodies are taken by the Solar Angels.—S. D., I, 203. |
2. Các vị mà cơ thể được chọn bởi các Thái Dương Thiên Thần. GLBN I, 203 |
3. The sum total of the three kingdoms at present known. |
3. Toàn thể 3 giới hiện nay được biết. |
93 The Earth gives man his body; the Gods give him his five inner principles… Spirit is one. —S. D., I, 248. |
93 Đất ban cho con người thân xác; các vị thần ban cho anh ta năm nguyên khí bên trong… Tinh thần là một. —S. D., tôi, 248. |
1. The Earth gives the dense physical. [“Like alone produces like. The Earth gives Man his body, the gods (Dhyanis) his five inner principles, the psychic Shadow, of which those gods are often the animating principle. SPIRIT (Atman) is one — and indiscrete. It is not in the Tiaou.”] |
1. Trái đất mang lại vật chất đậm đặc. [“Cái giống nhau mới tạo ra cái giống nhau. Trái đất mang lại cho Con người thể xác của y, các vị thần (Dhyanis) mang cho y năm nguyên khí bên trong của y, Hình bóng tâm linh, mà các vị thần thường là nguyên khí làm linh hoạt. TINH THẦN (Atman) là một – và không phân tán. Nó không có ở Tiaou.”] |
2. The Lunar Gods give him three lower principles: |
2. Các thần Mặt Trăng ban cho anh ta ba nguyên khí thấp hơn: |
Etheric body |
Thể Dĩ thái |
Prana |
Prana |
Kama-manas |
Kama-manas |
3. The Solar Gods give him two principles: |
3. Các Thái dương Thiên Thần cho anh ta hai nguyên khí: |
Lower mind |
Hạ trí |
Higher mind |
Thượng trí |
4. The Monad is the unified two highest principles: |
4. Chơn thần là hai nguyên lý cao nhất hợp nhất: |
Buddhi |
Bồ đề |
Atma |
Atma |
– S. D., I, 248. |
– S. D., I, 248. |
95 Pitris—The ancestors or creators of mankind. They are of seven classes, three of which are incorporeal and four corporeal. These are usually called the lunar Pitris or Ancestors and must not be confounded with the Solar Pitris or Angels, who give mind to man, and create the relatively permanent body of the ego, or Higher Self [60] |
95 Pitris—Tổ tiên hoặc những người sáng tạo ra loài người. Ho5 có bảy loại, trong đó có ba loại vô hình và bốn loại hữu hình. Những vị này thường được gọi là thái âm tổ phụ hoặc Tổ tiên và không được nhầm lẫn với các Thái dương Tổ Phụ (Solar Pitris) Thái dương Thiên Thần, những người ban tâm trí cho con người và tạo ra thể tương đối trường tồn là nhân thể. |
These four references in The Secret Doctrine give us much information about the devas called “Lunar Pitris,” but the perusal of the book reveals some confusion. Footnotes 91, 93, and 95 are somewhat easy to understand. The lunar Pitris are the “Lords of the Moon, of the airy bodies”, and also called Barhishad[61] in Hinduism. (Barborka p. 119) They provide man with his three lower bodies. These devas are of a lower class than that of the solar Pitris. They could only give to man what are theirs, which is the “instinctual consciousness of his vehicles.” But the confusion lies in the footnote 92. Here we find that they exist in three great classes, whereas in footnote 95, they are said of seven classes, three incorporeal and four corporeal. The most developed class (of three great classes) “form, in Round one, the sumtotal of the three kingdoms, and achieve a human form… In Round four at the beginning they form the etheric bodies of our Earth humanity.” This is truly enigmatic, because how the devas can achieve a human form in Round one, and form the etheric bodies of our Earth humanity at the beginning of Round four? In fact, this ambiguity lies in the adoption of the word “lunar Pitris” to refer to many different things. The “Lunar Pitris” in footnote 92 are in reality the “ex-Lunar Monads,” the Monads “who, having ended their life-cycle on the lunar chain, which is inferior to the terrestrial chain, have incarnated on this one.”[62] These Monads are divided into three great classes according to their stages of evolution. In the words of H.P. Blavatsky: |
Bốn tham khảo này trong Giáo Lý Bí Truyền cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về các thiên thần được gọi là “Lunar Pitris”, nhưng việc đọc kỹ cuốn sách cho thấy một số nhầm lẫn. Chú thích 91, 93 và 95 có phần dễ hiểu. Các thái âm tổ phụ là “các Chúa tể của Mặt trăng, của các thể không khí”, và còn được gọi là Barhishad trong Ấn Độ giáo. (Barborka p. 119) Chúng cung cấp cho con người ba thể thấp. Những vị thần này thuộc đẳng cấp thấp hơn các Thái dương tổ phụ (Solar Pitris). Họ chỉ có thể trao cho con người những gì thuộc về họ, đó là “tâm thức bản năng của các hiện thể của y”. Nhưng sự nhầm lẫn nằm ở chú thích số 92. Ở đây chúng ta thấy rằng chúng tồn tại trong ba nhóm lớn, trong khi ở chú thích 95, chúng được cho là có bảy loại, ba loại vô hình và bốn loại vật chất. Nhóm phát triển nhất (trong ba nhóm lớn) “ở cuộc tuần hoàn thứ nhất, tạo thành tổng thể của ba giới và đạt được hình dạng con người… Ở Cuộc Tuần Hoàn thứ tư, vào lúc đầu, các Ngài hợp thành thể dĩ thái của nhân loại trên Địa Cầu chúng ta.”. Điều này thực sự bí ẩn, bởi vì làm thế nào các vị thần có thể đạt được hình dạng con người ở cuộc tuần hoàn thứ nhất và tạo thành thể dĩ thái của nhân loại trên Trái đất của chúng ta vào đầu cuộc tuần hoàn thứ tư? Trên thực tế, sự mơ hồ này nằm ở việc sử dụng từ “lunar Pitris” để chỉ nhiều thứ khác nhau. “Các thái âm tổ phụ” trong chú thích 92 trên thực tế là các “Cựu Chơn thần Mặt Trăng”, các Chơn thần “đã kết thúc vòng đời của mình trên dãy Mặt Trăng, vốn thấp hơn dãy Trái đất, đã tái sinh trên dãy này”. Các Chơn thần này được chia thành ba lớp lớn tùy theo các giai đoạn tiến hóa của chúng. Theo lời của H.P. Blavatsky: |
I. |
I. |
Yet without treading upon the forbidden ground of the “eighth sphere,” it may be useful to state some additional facts with regard to ex-monads of the lunar chain — the “lunar ancestors” — as they play a leading part in the coming Anthropogenesis. (Blavatsky, The Secret Doctrine Vol I p. 156) |
Tuy nhiên, không cần bước vào vùng đất cấm của “tinh cầu thứ tám”, có thể hữu ích nếu nêu thêm một số sự kiện liên quan đến các cựu chân thần của dãy mặt trăng – các “lunar ancestor” (tổ phụ Mặt trăng) – vì chúng đóng vai trò chủ đạo trong Quá trình Nhân chủng Sinh Hóa Học sắp tới. (Blavatsky, Giáo Lý Bí Truyền Tập I trang 156) |
II. |
II. |
It is, then, the Moon that plays the largest and most important part, as well in the formation of the Earth itself, as in the peopling thereof with human beings. The “Lunar Monads” or Pitris, the ancestors of man, become in reality man himself. They are the “Monads” who enter on the cycle of evolution on Globe A, and who, passing round the chain of planets, evolve the human form as has just been shown. At the beginning of the human stage of the Fourth Round on this Globe, they “ooze out” their astral doubles from the “ape-like” forms which they had evolved in Round III. And it is this subtle, finer form, which serves as the model round which Nature builds physical man. These “Monads” or “divine sparks” are thus the “Lunar” ancestors, the Pitris themselves. For these “Lunar Spirits” have to become “Men” in order that their “Monads” may reach a higher plane of activity and self-consciousness, i.e., the plane of the Manasa-Putras, those who endow the “senseless” shells, created and informed by the Pitris, with “mind” in the latter part of the Third Root-Race. [63] |
Chính là, khi đó, Mặt trăng đóng vai trò lớn nhất và quan trọng nhất, cũng như trong sự hình thành của Trái đất cũng như trong sự cư trú của con người trên đó. Các “Chơn thần Mặt trăng” hay các Pitris (Tổ phụ), tổ tiên của con người, trên thực tế đã trở thành chính con người. Họ là các “Chơn thần” bước vào chu kỳ tiến hóa trên Bầu A và đi vòng quanh dãy hành tinh để tiến hóa thành hình hài con người như vừa được trình bày. Vào lúc bắt đầu giai đoạn làm người của Cuộc tuần hoàn thứ tư trên Địa cầu này, họ “tiết ra” thể astral [bà Blavatsky dùng astral body để chỉ thể dĩ thái] của mình từ những hình thể “giống như vượn” mà họ đã tiến hóa trong Cuộc tuần hoàn III. Và chính hình thức tinh tế, tinh vi hơn này đóng vai trò là hình mẫu mà Tự nhiên tạo nên con người vật chất. Do đó, các “Chân thần” hay “tia lửa thiêng” này chính là tổ tiên “Mặt trăng”, là chính là các Pitris. Vì những “Tinh thần Mặt trăng” này phải trở thành “Con người” để các “chân thần” của họ có thể đạt tới cõi giới hoạt động và tự ý thức cao hơn, tức là cõi của Manasa-Putras, những người ban cho những lớp vỏ “vô tri giác”, được các Pitris tạo ra và thấm nhập với “trí tuệ” ở giai đoạn sau của Căn chủng thứ ba. |
III. |
III. |
The Monadic Host may be roughly divided into three great classes: — |
Nhóm Chân thần có thể được chia đại khái thành ba loại lớn: — |
1. The most developed Monads (the Lunar Gods or “Spirits,” called, in India, the Pitris), whose function it is to pass in the first Round through the whole triple cycle of the mineral, vegetable, and animal kingdoms in their most ethereal, filmy, and rudimentary forms, in order to clothe themselves in, and assimilate, the nature of the newly formed chain. They are those who first reach the human form (if there can be any form in the realm of the almost subjective) on Globe A in the first Round. It is they, therefore, who lead and represent the human element during the second and third Rounds, and finally evolve their shadows at the beginning of the Fourth Round for the second class, or those who come behind them. |
1. Các Chơn thần phát triển nhất (các Thần hay “Tinh thần” Mặt Trăng, ở Ấn Độ gọi là Pitris), có chức năng là vượt qua Cuộc tuần hoàn thứ nhất thông qua toàn bộ ba chu kỳ của các giới khoáng vật, thực vật và động vật trong cuộc tuần hoàn đầu tiên của họ trong hầu hết các dạng thanh tao, mờ ảo và thô sơ nhất, để khoác lên mình và đồng hóa bản chất của chuỗi mới hình thành. Họ là những người lần đầu tiên đạt đến hình hài con người (nếu có thể có bất kỳ hình tướng nào thuộc lãnh vực chủ quan nhất) trên Bầu A trong Cuộc tuần hoàn đầu tiên. Do đó, chính họ là những người lãnh đạo và đại diện cho yếu tố con người trong các Cuộc tuần hoàn thứ hai và thứ ba, và cuối cùng tiến hóa cái bóng của họ vào đầu Cuộc tuần hoàn thứ tư cho nhóm thứ hai, hoặc những người đến sau họ. |
2. Those Monads that are the first to reach the human stage during the three and a half Rounds, and to become men. |
2. Những Chơn thần là những thực thể đầu tiên đạt đến giai đoạn làm người trong ba Cuộc tuần hoàn rưỡi và trở thành con người. |
3. The laggards; the Monads which are retarded, and which will not reach, by reason of Karmic impediments, the human stage at all during this cycle or Round, save one exception which will be spoken of elsewhere as already promised. [64] |
3. Những chân thần tụt hậu; những Chơn thần chậm phát triển và sẽ không thể đạt tới giai đoạn con người do những trở ngại của Nghiệp quả trong chu kỳ hay Cuộc tuần hoàn này, ngoại trừ một ngoại lệ sẽ được nói đến ở nơi khác như đã hứa. |
So the lunar Pitris in footnote 92 in reality do not belong to the “Deva Evolution,” they are the Monads belonging to the Fourth Hierarchy, and should not be called the “Pitris” at all to avoid confusion with the true “Lunar Pitris.” Annie Besant also noted about this confusion of the terminology in The Secret Doctrine: |
Vì vậy, các Lunar Pitris trong chú thích 92 trên thực tế không thuộc về “Dòng tiến hóa Thiên thần”, chúng là các Chơn thần thuộc về Huyền giai thứ tư và hoàn toàn không nên gọi là “Pitris” để tránh nhầm lẫn với “Các lunar Pitris” thực sự. Bà Annie Besant cũng lưu ý về sự nhầm lẫn thuật ngữ này trong Giáo Lý Bí Truyền: |
1. First, come the true Pitris, sometimes called the Lunar, but better the Barhishad, Pitris, who are the most progressed entities from the lunar Chain … |
1. Đầu tiên, có các Pitris thực sự, đôi khi được gọi là thái âm tổ phụ, nhưng tốt hơn là Barhishad, Pitris, là những thực thể tiến bộ nhất từ Dãy Mặt Trăng … |
2. Four classes, sufficiently evolved to reach the human stage during the first three and a half Rounds of the terrene Chain. These are also often spoken of as ‘Inner Pitris,’ and the name is not wholly inapplicable, since they come from the lunar Chain; still they are not ‘ancestors’ of men, but are evolving into men, and should not therefore be called Pitris. This name was, however, given to them by H.P.B., and has become incorporated into theosophical terminology. It does not much matter, if they are not confused with the true Lunar Pitris of Group 1, the Lords of the Moon. |
2. Bốn nhóm đã tiến hóa đủ để đạt tới giai đoạn con người trong ba Cuộc tuần hoàn rưỡi đầu tiên của Dãy Trái Đất. Họ cũng thường được gọi là ‘Các Pitris Nội tại’, và cái tên này không phải hoàn toàn không thể áp dụng được vì họ đến từ Dãy Mặt Trăng; họ vẫn không phải là ‘tổ tiên’ của con người, mà đang tiến hóa đến con người, và do đó không nên gọi là Pitris (Tổ phụ). Tuy nhiên, cái tên này do H.P.B. đặt cho họ và đã được đưa vào thuật ngữ Thông Thiên Học. Sẽ không có vấn đề gì nếu họ không bị nhầm lẫn với các Lunar Pitris thực sự của Nhóm 1, các Chúa tể Mặt trăng. |
3. Three classes, who dropped out of the lunar evolution by falling too far behind the general advance. These will only touch humanity at the close of the seventh Round of the terrene Chain, and will form the humanity of the fifth planetary Chain, the one that will succeed our own. They are at present climbing their slow way upwards in the mineral, vegetable and animal kingdoms. |
3. Ba nhóm đã bị bỏ ra cuộc tiến hóa mặt trăng do tụt quá xa so với bước tiến chung. Những nhóm này sẽ chỉ chạm tới nhân loại khi kết thúc Cuộc tuần hoàn thứ bảy của Dãy hành tinh Trái đất và sẽ tạo thành nhân loại của Dãy hành tinh thứ năm, Chuỗi hành tinh sẽ kế tục Chuỗi hành tinh của chúng ta. Hiện tại, họ đang leo lên con đường chậm chạp của mình trong các giới khoáng sản, thực vật và động vật. |
These seven classes, forming Groups 2 and 3, are the seven classes of ‘lunar Pitris’ often mentioned by H.P.B. In order to avoid confusion, I shall speak of them merely as ‘monads of the lunar Chain’—a term also used by her—or ex-lunar monads, and shall restrict the use of the term ‘Lunar Pitris’ to the ‘Lords of the Moon of the airy bodies.’ These Monads of the lunar Chain are said to be classed according to ‘evolution consciousness and merit,’ and this fixed their entry in succession in time. [65] |
Bảy lớp này, tạo thành Nhóm 2 và 3, là bảy lớp ‘các lunar Pitris’ thường được H.P.B nhắc đến. Để tránh nhầm lẫn, tôi sẽ chỉ gọi chúng là “các chân thần của Dãy Mặt Trăng” – một thuật ngữ cũng được Bà sử dụng – hoặc các cựu chân thần Mặt Trăng, và sẽ hạn chế việc sử dụng thuật ngữ “các lunar Pitris” cho các “Chúa Tể Mặt trăng có cơ thể bằng chất khí”. Người ta nói rằng các Chơn thần này của Dãy Mặt Trăng được phân loại theo “tâm thức tiến hóa và công trạng”, và điều này đã ấn định sự xâm nhập của chúng một cách liên tiếp theo thời gian. |
The transference of the Monads of the Lunar Chain to the Earth Chain is explained at length in Secret Doctrine. Readers who need further explanations can refer to the Secret Doctrine [1888 edition] page 171-191. |
Sự chuyển dịch của các Chơn thần trong Chuỗi Mặt Trăng sang Chuỗi Trái Đất được giải thích chi tiết trong Giáo Lý Bí Truyền. Độc giả cần giải thích thêm có thể tham khảo Giáo Lý Bí Truyền [ấn bản 1888] trang 171-191. |
Returning to the subject of “lunar Lords,” many passages in Cosmic Fire tell us that they are a branch of the lunar Pitris dealing with the formation of three lower bodies of man: |
Trở lại chủ đề “lunar lords”, nhiều đoạn trong Lửa vũ trụ cho chúng ta biết rằng họ là một nhánh của thái âm tổ phụ liên quan đến việc hình thành ba thể thấp hơn của con người: |
Sagittarius rules or conditions (for that is what the word means) the activity of the lunar lords who build the body of man out of their own substance.[66] |
Nhân Mã cai quản hoặc hạn định (vì đó chính là ý nghĩa của từ này) hoạt động của các lunar lords, những người xây dựng thể con người từ chất liệu của chính họ. |
The results of all previous lives and of all activities carried on during those lives have been registered by the Lords of Karma; karmic law works in close cooperation with the lunar Lords, who build and construct the bodies which constitute the personality; later, the law works in an even closer cooperation with the soul purpose.[67] |
Kết quả của mọi kiếp sống trước và của mọi hoạt động diễn ra trong những kiếp sống đó đã được các Đấng Nhgiệp Quả ghi lại; luật nghiệp quả hoạt động với sự hợp tác chặt chẽ với các nguyệt Tinh Quân, những người xây dựng và kiến tạo các thể cấu thành phàm ngã; sau này, định luật hoạt động trong sự hợp tác thậm chí còn chặt chẽ hơn với mục đích của linh hồn. |
Note in two above citations the inconsistency of the capitalization of the words “lunar Lords”. In most places in the blue books the words “lunar Lords” are used, but there are also some passages in Esoteric Healing and Esoteric Astrology where the words “lunar lords” are used. Only once or twice both words are capitalized as “Lunar Lords”. It seems that there are no definite implications in these various capitalizations. |
Lưu ý trong hai trích dẫn trên có sự mâu thuẫn trong cách viết hoa của từ “lunar Lords”. Ở hầu hết các nơi trong sách xanh đều sử dụng từ “lunar Lords” (chỉ Lord được viết hoa), nhưng cũng có một số đoạn trong Chữa bệnh bí truyền và Chiêm tinh bí truyền trong đó từ “lunar lords” được sử dụng. Chỉ một hoặc hai lần cả hai từ đều được viết hoa là “Lunar Lords”. Có vẻ như không có ý nghĩa rõ ràng nào trong các cách viết hoa khác nhau này. |
However, one passage in The Rays and the Initiations tells differently, identifies these lunar Lords with the aggregates of elemental essences that compose the three lower bodies—the physical, astral, and mental elementals: |
Tuy nhiên, một đoạn trong Các Cung và Các Cuộc điểm đạo kể lại một cách khác, đồng nhất các lunar lords này với tập hợp các tinh chất hành khí tạo nên ba thể thấp—các elemental vật lý, cảm dục và trí tuệ: |
1. Many people are not only under the control of some one or other of their forms but are the captives of all the three. In studying the lower threefold man and the energies or lives that seek to control him it should be remembered that they fall into three categories: |
1. Nhiều người không chỉ chịu sự kiểm soát của một số hình thể này hay hình thể khác của họ, mà còn là tù nhân của cả ba thể đó. Khi nghiên cứu con người tam phân thấp hơn và các năng lượng hay sự sống tìm cách kiểm soát y, nên nhớ rằng chúng chia thành ba loại: |
a. The individual tiny lives which we call the atoms or cells of the body. These exist in three groups and compose respectively the four types of bodies: dense physical, etheric, astral and mental. |
a. Những sinh vật sống nhỏ bé mà chúng ta gọi là nguyên tử hay tế bào của cơ thể. Chúng tồn tại trong ba nhóm và tạo thành bốn loại thể tương ứng: thể chất đậm đặc, thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí. |
b. The aggregate of these lives which constitute in themselves four types of elementals or separate coherent, though not self-conscious, existences. These four lunar lords constitute what the Ageless Wisdom teaching calls “the four sides of the square.” They are the “lower quaternary,” “the imprisoning cubes,” or the cross upon which the inner spiritual Man is to be crucified. These four elementals have an intelligence all their own, are upon the involutionary arc, are following the law of their own being when they tend to become powerful, and thereby fully express that which is in them. |
b. Tập hợp của những sự sống này tạo thành bốn loại elemental hoặc những sinh mệnh có sự hiện tồn cố kết, riêng biệt, mặc dù không có ngã thức. Bốn vị lunar lords này tạo thành cái mà giáo lý Minh Triết Ngàn Đời gọi là “bốn cạnh của hình vuông”. Chúng là “tứ nguyên hạ”, “hình lập phương giam cầm” hay thánh giá mà Con người tinh thần bên trong sẽ bị đóng đinh trên đó. Bốn elemental này đều có trí thông minh riêng, đang ở trong vòng cung giáng hạ tiến hoá, tuân theo quy luật tồn tại của chính chúng khi chúng có xu hướng trở nên mạnh mẽ và do đó thể hiện đầy đủ những gì có trong chúng. |
c. A dominant controlling lunar lord who is that which we understand by the term the ‘lower personality’; he (if the personal pronoun can be used) is the sumtotal of the physical, astral and mental elementals, and it [10] is this power which at present forces the ‘fiery energies’ of the body to feed the lower three centres. The etheric body has a unique and curious position, being simply the vehicle for prana or life and the centre which it uses exists in a category by itself. |
c. Một lunar Lord thống trị, người mà chúng ta hiểu bằng thuật ngữ ‘phàm ngã thấp kém’; anh ta (nếu có thể sử dụng đại từ nhân xưng) là tổng thể của các elemental thể xác, cảm dục và trí tuệ, và chính [10] quyền năng này hiện nay buộc ‘năng lượng lửa’ của cơ thể phải nuôi dưỡng ba trung tâm lực thấp hơn. Thể dĩ thái có một vị trí độc đáo và kỳ lạ, đơn giản là phương tiện cho prana hay sự sống và trung tâm mà nó sử dụng tự nó tồn tại trong một phạm trù chính nó. |
In the above citation, the lunar lords are identified with the four elementals of the lower quaternary, which are on the involutionary arc. Compare this with another passage in Esoteric Healing: |
Trong trích dẫn trên, các lunar lords được đồng nhất với bốn elemental của tứ nguyên hạ, nằm trên cung giáng hạ tiến hoá. Hãy so sánh điều này với một đoạn khác trong Chữa bệnh bí truyền: |
The results of all previous lives and of all activities carried on during those lives have been registered by the Lords of Karma; karmic law works in close cooperation with the lunar lords, who build and construct the bodies which constitute the personality; later, the law works in an even closer cooperation with the soul purpose. [68] |
Kết quả của mọi kiếp sống trước và của mọi hoạt động diễn ra trong những kiếp sống đó đã được các Đấng Nghiệp Quả ghi lại; luật nghiệp quả hoạt động với sự hợp tác chặt chẽ với các lunar lords, những người xây dựng và kiến tạo các thể cấu thành nên phàm ngã; sau này, định luật hoạt động trong sự hợp tác thậm chí còn chặt chẽ hơn với mục đích của linh hồn. |
Those who can build and construct cannot be involutionary! There are many other passages which confirm that they are evolutionary devas: |
Người có thể xây dựng và kiến tạo thì không thể giáng hạ tiến hoá được! Có nhiều đoạn văn khác xác nhận rằng họ là các thiên thần thăng thượng tiến hoá: |
The material effect, or the result of this stimulation [monadic stimulation] upon the forms and upon the atoms in the forms, is to render them radioactive, or to set loose the energy of substance. This is the liberating of the energy imprisoned within the form, and concerns the Brahma aspect, and the evolution of matter itself. It affects the lunar bodies, and therefore relates to the lunar Lords or Pitris, causing a weakening of their hold upon the lesser builders, bringing them more under the force streams from the solar Angels, and leading to a situation which will eventually result in a return of the lunar Pitris of all degrees to the central point for force substance. [69] |
Hiệu ứng vật chất, hay kết quả của sự kích thích này [kích thích chân thần] lên các hình tướng và lên các nguyên tử trong các hình tướng, là làm cho chúng trở nên phóng xạ hoặc phóng thích năng lượng của vật chất. Đây là sự giải phóng năng lượng bị giam giữ bên trong hình tướng và liên quan đến khía cạnh Brahma cũng như sự tiến hóa của chính vật chất. Nó ảnh hưởng đến các thể mặt trăng, và do đó liên quan đến các thái âm tổ phụ (lunar Lords) hoặc Pitris, làm suy yếu quyền kiểm soát của họ đối với những kẻ kiến tạo thấp hơn, khiến họ phải chịu nhiều hơn các dòng lực từ các Thái dương Thiên Thần, và dẫn đến một tình huống mà cuối cùng sẽ dẫn đến một sự quay trở lại của lunar Pitris ở mọi mức độ về điểm trung tâm của chất liệu mãnh lực. |
The lesser builders in the above citation are the elemental essence, which are definitely involutionary. The lunar Lords, identified as lunar Pitris in the above passage, keep the lesser builders under their hold and prevent the elemental essence from responding to the force of the Solar Angel. |
Những kẻ kiến tạo thấp hơn trong đoạn trích dẫn trên là tinh chất hành khí, chắc chắn là giáng hạ tiến hoá. Các lunar lords, được đồng hóa cới các thái âm tổ phụ trong đoạn văn trên, giữ những kẻ kiến tạo thấp hơn dưới sự kiểm soát của họ, và ngăn cản tinh chất hành khí đáp ứng với sức mạnh của Thái dương Thiên Thần. |
Again |
Lại nữa |
Sagittarius rules or conditions (for that is what the word means) the activity of the lunar lords who build the body of man out of their own substance. It will, therefore, be obvious to you why, when a man begins the one-pointed activity of Sagittarius and becomes the earnest disciple, it [278] is possible. [70]. |
Nhân Mã chi phối hoặc điều kiện hóa (vì đó là ý nghĩa của từ này) hoạt động của các nguyệt tinh quân, những thực thể xây dựng cơ thể con người từ chính chất liệu của chúng. Do đó, sẽ rõ ràng với bạn lý do tại sao, khi một người bắt đầu hoạt động nhất tâm của Nhân Mã và trở thành một đệ tử chân thành, điều đó [278] trở nên khả thi. |
And: |
Và |
The lunar record. This deals with all the lower vehicles and forms, employed by the human Monads and concerns itself with: |
Hồ sơ nguyệt thể. Điều này liên quan đến tất cả các thể và hình tướng thấp, được các Chân thần Nhân loại sử dụng, và bao gồm: |
a. Their rate of vibration, |
a. Tần số rung động của chúng, |
b. Their type, |
b. Loại hình của chúng, |
c. Their key number, |
c. Con số chủ đạo, |
d. The particular group of lunar lords who are concerned with those bodies, |
d. Nhóm nguyệt tinh quân cụ thể chịu trách nhiệm cho các thể đó, |
e. The detailed history of the elemental lives who construct the bodies. |
e. Lịch sử chi tiết của các sự sống tinh linh tạo dựng nên các thể. |
This information is employed by the karmic official responsible for the production of a new set of vehicles at each incarnation, in order to assist the working out of karma. The history of the lunar bodies is stored up in the permanent atoms. [71] |
Thông tin này được các viên chức nghiệp quả sử dụng, những người chịu trách nhiệm tạo ra một tập hợp các thể mới trong mỗi lần nhập thể, nhằm hỗ trợ cho sự vận hành của nghiệp quả. Lịch sử của các thể nguyệt được lưu giữ trong các nguyên tử trường tồn. |
The lunar lords and the bodies that they concern and influence are different from each other. Note that in the above citation it is a group of lunar lords which associate with the human being throughout the incarnations, and they are recalled again into service at every new incarnation of the Soul. The involutionary elemental lives who construct these bodies also remain associated with the man life after life. |
Các nguyệt tinh quân (lunar lord) và các thể mà họ liên quan và ảnh hưởng đều khác nhau. Lưu ý rằng trong đoạn trích dẫn trên, đó là một nhóm các lunar lord liên kết với con người trong suốt các lần tái sinh và họ được triệu hồi trở lại phục vụ ở mỗi lần tái sinh mới của Linh hồn. Các sự sống hành khí giáng hạ tạo nên những thể này cũng vẫn gắn liền với con người từ kiếp này sang kiếp khác. |
So, there are many confusions on this subject, but basing on the implication of most of the citations we can conclude that: |
Vì vậy, có nhiều nhầm lẫn về chủ đề này, nhưng dựa trên hàm ý của hầu hết các trích dẫn, chúng ta có thể kết luận rằng: |
It is very important to note when DK is speaking of evolutionary devas (even if they are not self-consciousness) and where he is speaking of involutionary lives, whether of tiny elemental lives or of aggregates of those elemental lives we sometimes call our “lunar elementals”. It may be, however, that the “lunar Lords” are more than aggregates of elemental essence. Thus let us hold in mind the possible distinction between– |
Điều rất quan trọng cần lưu ý là khi nào Chân sư DK nói về các thiên thần thăng thượng tiến hoá (ngay cả khi họ không có ngã thức) và nơi mà Ngài nói đến các sự sống giáng hạ tiến hoá, dù đó là các sự sống hành khí vô cùng bé nhỏ hay các tập hợp của các sự sống hành khí bé nhỏ đó (mà đôi khi chúng ta gọi là “lunar elemental”. Tuy nhiên, có thể các “lunar lords” (nguyệt tinh quân) không chỉ là tập hợp của các tinh chất hành khí. Vì vậy, chúng ta hãy ghi nhớ sự khác biệt có thể có giữa– |
a. Elemental essence, definitely involutionary. |
a. Tinh chất hành khí, chắc chắn là giáng hạ tiến hoá. |
b. Aggregated and formed elemental essence, still involutionary and sometimes called “lunar elementals”. |
b. Tinh chất hành khí được tập hợp và thành hình thể, vẫn còn trong quá trình giáng hạ tiến hoá và đôi khi được gọi là “nguyệt tinh linh”. |
c. Lunar Lords who are associated with elemental essence and bring about the aggregation of that elemental essence into lunar bodies, but who, themselves, are evolutionary even though unconscious. |
c. Các nguyệt tinh quân (lunar lords) gắn liền với tinh chất hành khí và mang lại sự tập hợp cac tinh chất hành khí thành các thể mặt trăng, nhưng bản thân họ vẫn thăng thượng tiến hoá, mặc dù là vô thức. |
d. When attempting to remain clear about the terminology usually used in discussing these matters, it may be of the utmost importance to distinguish Lunar Lords who are Lunar Pitris from “lunar elementals” which are aggregations of elemental essence. This should be pondered. |
d. Khi cố gắng làm rõ thuật ngữ thường được sử dụng khi thảo luận về những vấn đề này, điều quan trọng nhất là phải phân biệt các Lunar Lords (nguyệt tinh quân) là các thái âm tổ phụ với các “tinh linh mặt trăng” (lunar elemental) vốn là tập hợp của tinh chất hành khí. Điều này nên được suy ngẫm. |
6. The relations of the lunar lords and solar lords. The Path of Evolution.
“O Lord, our God, other lords beside thee have had dominion over us, but by thee only will we make mention of thy name.” |
Lạy Chúa, Đấng Thượng Đế chúng con, các thần khác Ngài đã thống trị chúng con, nhưng chỉ bởi Ngài mà chúng con kêu cầu đến Thánh danh Ngài. |
Initiation: Human and Solar |
Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ, 196 |
Let the disciple tend the evolution of the fire; nourish the lesser lives, and thus keep the wheel revolving. |
Người đệ tử hãy trông nom cho ngọn lửa thiêng phát triển, hãy nuôi dưỡng các sinh linh hạ đẳng, để giữ cho bánh xe quay mãi. |
Rule 4 – Initiation: Human and Solar |
Qui Luật 4—Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ |
Let the applicant see to it that the solar angel dims the light of the lunar angels, remaining the sole luminary in the microcosmic sky. |
Ứng viên hãy để cho Thái dương Thiên Thần làm lu mờ ánh sáng của nguyệt thần, chỉ còn lại nguồn sáng duy nhất trên bầu trời tiểu vũ trụ. |
Rule 5 – Initiation: Human and Solar |
Qui Luật 5—Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ |
Man at the early stages of his evolution is under the control of one or many of the lunar Lords. The forces of the lunar Lords are dominant in his life, and the voice of the Solar Angel is lost in the noise of the lunar Lords. In the Lemurian time, man acted mainly under the urges of his basic instincts like self-preservation and self-perpetuation. This period can be considered as the tamasic stage of his evolution. Next comes what is called the Atlantean consciousness in which his desires are less physical and crude, the “more subtle pleasures begin to make their appeal; the emerging desire for beauty begins to appear, and a dim sense of aesthetic values… a dim desire for peace and the urge to find that nebulous thing called ‘happiness’ begin to play their part.” (A. Bailey, Esoteric Psychology II p. 25). Finally, the energies of the Solar Angel becomes the predominant factor in the life of the person, the lunar Lords “begin to die” and their power begins to wane, until such a time when “the lunar pitris have fulfilled their work, the solar Pitris [820] have developed the selfconscious unit, man, and the monad (having utilised both) discards both, and withdraws into itself, this time plus the gain of material existence, and plus developed love-wisdom.” (A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 820). In the words of the Commentary: |
Con người ở những giai đoạn đầu của quá trình tiến hóa nằm dưới sự kiểm soát của một hoặc nhiều nguyệt tinh quân. Sức mạnh của các nguyệt tinh quân chiếm ưu thế trong cuộc đời y, và tiếng nói của Thái dương Thiên Thần bị mất đi trong tiếng ồn ào của các nguyệt tinh quân. Vào thời Lemurian, con người chủ yếu hành động theo sự thúc đẩy của các bản năng cơ bản như tự bảo tồn và tự duy trì. Thời kỳ này có thể được coi là giai đoạn tamasic trong quá trình tiến hóa của y. Tiếp theo là cái được gọi là tâm thức Atlantis, trong đó những ham muốn của y ít thể chất và thô thiển hơn, “những thú vui tinh tế hơn bắt đầu tạo nên sức hấp dẫn; khao khát cái đẹp mới nổi bắt đầu xuất hiện, và ý thức mờ nhạt về các giá trị thẩm mỹ… khao khát mờ nhạt của sự bình an và thôi thúc tìm kiếm thứ mơ hồ gọi là ‘hạnh phúc’ bắt đầu đóng vai trò của chúng.” (A. Bailey, Tâm lý học bí truyền II trang 25). Cuối cùng, năng lượng của Thái dương Thiên Thần trở thành yếu tố chủ yếu trong cuộc sống của con người, các nguyệt tinh quân “bắt đầu chết” và sức mạnh của họ bắt đầu suy yếu, cho đến khi “các thái âm tổ phụ đã hoàn thành công việc của mình, các Thái Dương Tổ Phụ [820] đã phát triển đơn vị tự ý thức, là con người, và chân thần (đã sử dụng cả hai) loại bỏ cả hai và rút vào chính nó, lần này cộng với việc đạt được sự tồn tại vật chất, cộng thêm Minh Triết – Bác Ái đã phát triển.” (A. A. Bailey, Chuyên luận về Lửa vũ trụ trang 820). Theo lời của Cổ Luận: |
“The Lord of Life Himself sits at the heart and watches. The Lords of solar fire pursue their task and sacrifice themselves to the lunar lords of all the lower planes. They die, but resurrect. They pass without, and come again. Yet the Lord of Life sits still. |
“Chính Vị Chúa Sự Sống ngự ở tâm và quán sát. Các vị Chúa của lửa thái dương theo đuổi nhiệm vụ của họ và tự hy sinh cho các nguyệt tinh quân của mọi cõi thấp. Họ chết đi, nhưng sống lại. Họ chuyển ra ngoài, và trở lại. Tuy nhiên, vị Chúa Tể Sự Sống vẫn còn ngự lại. |
The lunar lords begin to die; their power begins to wane with each successive cycle. The solar Lords shine forth in triumph and consign the fourfold ones to fire,—the fire which burns and dissipates the form. Many times the work repeats itself; the cycles wax and wane, until the day triumphant when the solar Lord acclaims himself and knows himself the ruler…”[72] |
Các nguyệt tinh quân bắt đầu chết; năng lực các vị này bắt đầu giảm dần theo mỗi chu kỳ nối tiếp. Các Thái Dương Thiên Thần tỏa chiếu trong chiến thắng, và chuyển giao các thực thể tứ phân cho lửa, − ngọn lửa thiêu đốt và làm tiêu tan hình hài. |
We should remember that though the lunar Lords and lunar Pitris are evolutionary devas, they are sub-human, and the immediate goal for them is individualization. For the involutionary elemental lives that go into composition of our three lower bodies, their goal is to form the etheric and physical bodies of the planetary entity in the next system. Master D.K. summarizes for us the goals of the lunar Pitris and lesser builders in the following table: |
Chúng ta nên nhớ rằng mặc dù các nguyệt tinh quân và các thái âm tổ phụ đều là các thiên thần thăng thượng tiến hoá, nhưng họ ở dưới nhân loại, và mục tiêu trước mắt của họ là biệt ngã hóa. Đối với các sinh mệnh hành khí giáng hạ tiến hoá cấu thành ba cơ thể thấp hơn của chúng ta, mục tiêu của chúng là hình thành thể dĩ thái và thể xác của thực thể hành tinh trong hệ thống tiếp theo. Chân sư D. K. tóm tắt cho chúng ta mục tiêu của các thái âm tổ phụ và các nhà kiến tạo nhỏ hơn trong bảng sau: |
7 |
The lunar Pitris |
To become men. They will in their higher grades pass directly into the animal evolution of the next cycle and so eventually individualize. Their three higher grades will become animal-men, and the lower four will contribute to the quaternic forms of the men of the next creation. |
11 |
The four higher grades of lesser Builders on all planes. |
They will form the manifested double or form of that mysterious third evolution of the next system; that is, the etheric body of the planetary entity. This mysterious life is as yet an unfathomable mystery and one which will not be revealed till the final one of the triplicity of solar systems of our solar Logos. |
12 |
The three lower grades of the lesser Builders |
The physical body in its densest form of the planetary entity. [73] |
7 |
Thái âm tổ phụ |
Trở thành con người. Nhưng vị trong các đẳng cấp cao của họ sẽ chuyển trực tiếp vào dòng tiến hóa động vật của chu kỳ tới, và như thế sau rốt được biệt ngã hóa. Ba cấp cao của họ sẽ trở thành người-thú, còn 4 cấp thấp sẽ đóng góp vào tứ hạ thể của con người của kỳ sáng tạo tới. |
11 |
Bốn đẳng cấp cao của các Vị Kiến Tạo thứ yếu trên mọi cõi. |
Họ sẽ tạo thành hình bóng (double) hay sắc tướng biểu lộ của cơ tiến hóa thứ ba huyền bí của thái dương hệ tới; nghĩa là thể dĩ thái của thực thể hành tinh. Sự sống huyền bí này cho đến nay vẫn là một bí nhiệm không thể hiểu được và là bí nhiệm sẽ không được tiết lộ cho đến thái dương hệ cuối cùng của bộ ba thái dương hệ của Thái Dương Thượng Đế chúng ta |
12 |
Ba cấp thấp của các Vị Kiến Tạo thứ yếu |
Thể xác dưới hình thức trọng trược nhất của thực thể hành tinh. |
So, our duty is to salvage and to elevate these lunar devas, not yield to their desires. We do this by invoking our Solar Angels, by imposing the rhythm of the Solar Lord upon these lunar lords, for “all the varying aspects of the life of God are interdependent and not one proceeds onward into fuller realisation without benefitting the entire group.” In the beautiful expression of Master D.K. we have much inspiration for the Path of Purification: |
Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta là cứu vớt và nâng đỡ những nguyệt tinh quân này, chứ không phải khuất phục trước những ham muốn của chúng. Chúng ta thực hiện điều này bằng cách kêu gọi các Thái dương Thiên Thần của mình, bằng cách áp đặt nhịp điệu của thái dương tổ phụ lên các thái âm tổ phụ này, vì “tất cả các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của Thượng đế đều phụ thuộc lẫn nhau và không một khía cạnh nào tiến tới nhận thức đầy đủ hơn mà không mang lại lợi ích cho toàn bộ nhóm.” Trong diễn tả xinh đẹp của Chân sư D.K. chúng ta có nhiều cảm hứng cho Con Đường Tinh Luyện: |
The adept can enter the world of form, can contact it, work in it and remain unaffected by it because there is nothing in him to respond to it. He sees through the illusion to the reality behind and, knowing where he stands himself, there is naught in the appeal and the demand of these lunar lords to attract him. He stands midway between the pairs of opposites. In the realisation of the nature of this world of form, in a comprehension of the lives which compose it, and in an ability to hear the voice of the “formless One” above the strife of all the lower voices, comes the opportunity for the aspirant to escape from the dominance of matter. |
Vị Chân sư có thể bước vào thế giới hình tướng, có thể tiếp xúc với nó, làm việc trong nó mà không bị nó ảnh hưởng bởi vì trong Ngài không có gì để đáp lại nó. Ngài nhìn xuyên qua ảo tưởng để thấy thực tế đằng sau và biết mình đang đứng ở đâu, không có lời kêu gọi và yêu cầu nào của những nguyệt tinh quân này để thu hút anh ta. Ngài đứng ở giữa các cặp đối lập. Khi nhận ra bản chất của thế giới hình tướng này, trong sự hiểu biết về các sự sống tạo nên nó, và trong khả năng nghe được giọng nói của “Đấng vô hình tướng” vượt lên trên sự xung đột của tất cả các giọng nói thấp hơn, sẽ có cơ hội cho muốn thoát khỏi sự thống trị của vật chất. |
This is the true magical work, my brothers, the understanding of the sounds of all beings, and the ability to speak the language of the soul is the clue to the work. These faculties rightly used impose upon these lesser lives that control which will lead to the final liberation, and which will in due time, lead these lives themselves into the realm of self-consciousness. This aspect of the matter is as yet but little comprehended by the sons of men. If they but realised that by a disposition to fall under lunar control they drive the tiny lives in their little system deeper into the darkness of ignorance, they might more rapidly assume their just responsibilities; if they realised that by the constant attempt to impose the rhythm of the solar Lord upon the aggregate of the lunar lords, they were driving these lives onward to self-conscious unfoldment, they might proceed more earnestly and more intelligently. This is the message that must [11] go forth, for all the varying aspects of the life of God are interdependent and not one proceeds onward into fuller realisation without benefitting the entire group. [74] |
Đây là công việc huyền thuật thực sự, hỡi các huynh đệ, sự hiểu biết về âm thanh của vạn vật và khả năng nói được ngôn ngữ của linh hồn chính là manh mối của công việc. Những khả năng được sử dụng đúng đắn này áp đặt lên những sinh mệnh thấp kém khả năng kiểm soát sẽ dẫn đến sự giải thoát cuối cùng, và đến thời điểm thích hợp sẽ đưa chính những sinh mệnh này vào lãnh vực tự ý thức. Khía cạnh này của vấn đề vẫn chưa được con người hiểu rõ. Nếu họ nhận ra rằng do có khuynh hướng chịu sự kiểm soát của mặt trăng, họ đã đẩy những sinh vật nhỏ bé trong hệ thống nhỏ bé của mình vào sâu hơn trong bóng tối của sự thiếu hiểu biết, thì họ có thể nhanh chóng đảm nhận trách nhiệm chính đáng của mình hơn; nếu họ nhận ra rằng bằng nỗ lực liên tục để áp đặt nhịp điệu của Đấng Chúa tể Thái dương lên tập thể các nguyệt tinh quân, thì họ đang thúc đẩy những sinh mệnh này hướng tới sự phát triển tự ý thức, thì họ có thể tiến hành một cách nghiêm túc hơn và thông minh hơn. Đây là thông điệp phải [11] được đưa ra, vì tất cả các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của Thượng Đế đều phụ thuộc lẫn nhau và không một khía cạnh nào tiến tới nhận thức đầy đủ hơn mà không mang lại lợi ích cho toàn bộ nhóm. |
One of the Rules for the Applicants for Initiation (Rule 3) tells us that: “Let the disciple tend the evocation of the fire; nourish the lesser lives, and thus keep the wheel revolving.” But to “tend the evocation of the fire and nourish the lesser lives” needs an understanding of the constitution of the man and a knowledge of his divine origin. All beings are inter-dependent and our duties to these lesser lives are: |
Một trong những Quy tắc dành cho Ứng viên điểm đạo (Quy tắc 3) nói với chúng ta rằng: “Hãy để đệ tử hướng tới việc khơi dậy ngọn lửa; nuôi dưỡng những sinh mệnh thấp kém hơn, và do đó giữ cho bánh xe quay.” Nhưng để “chăm sóc ngọn lửa và nuôi dưỡng những sinh linh thấp kém” cần có sự hiểu biết về cấu tạo của con người và sự hiểu biết về nguồn gốc thiêng liêng của con người. Tất cả chúng sinh đều phụ thuộc lẫn nhau và nhiệm vụ của chúng ta đối với những sinh mệnh thấp kém này là: |
Thus, seven lives are developing through our seven planes. They are there to help us; we are there to help them. The harmony between their lives and the human soul brings happiness, joy, and bliss.[75] |
Như vậy, bảy sinh mệnh đang phát triển thông qua bảy cõi của chúng ta. Họ ở đó để giúp chúng ta; chúng ta ở đó để giúp đỡ họ. Sự hòa hợp giữa cuộc sống của họ và linh hồn con người mang lại hạnh phúc, niềm vui, chí phúc. |
We nourish these lesser lives by right thoughts, right speech, right deeds, and, foremost, the practice of harmlessness in three realms of the personality. If we have a full understanding the effects of our thoughts and speeches to other beings, we cannot but guard ourselves from any thoughts tinged with hatred, selfishness, ruthlessness, and cruelty. And the best way is to call in the streams of energies of our Inner Lord. When constantly imposed to the energies of the solar Angels, their forces are subdued, their lives are subjugated, and their vibrations are elevated. Thus we can help them on the way to self-consciousness. |
Chúng ta nuôi dưỡng những sinh linh thấp kém này bằng chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, và trên hết là thực hành vô hại trong ba cõi của phàm ngã. Nếu chúng ta có sự hiểu biết đầy đủ về tác động của suy nghĩ và lời nói của mình đối với người khác, chúng ta không thể không bảo vệ mình khỏi bất kỳ suy nghĩ nhuốm màu hận thù, ích kỷ, tàn nhẫn và độc ác. Và cách tốt nhất là triệu tập những dòng năng lượng của Đấng Thượng đế nội tâm của chúng ta. Khi liên tục được tác động của năng lượng của các Thái dương Thiên Thần, sức mạnh của họ sẽ bị khuất phục, cuộc sống của họ bị khuất phục và rung động của họ được nâng cao. Vì vậy, chúng ta có thể giúp đỡ họ trên con đường tự nhận thức. |
Another interesting point should be noted that when the lunar lords are in the control, and the forces of the Solar Lord are dimmed, then we have ill health. Law VI of the Esoteric Healing tells that “When the building energies of the soul are active in the body, then there is health, clean interplay and right activity.” The energy of the Solar Lord (the solar life or the solar fire) are the integrating factor of the body, and when this energy is withdrawn then diseases or death pursue: |
Một điểm thú vị khác cần lưu ý là khi các nguyệt tinh quân nắm quyền kiểm soát và các thế lực của Thái dương Thiên Thần bị suy giảm thì chúng ta có sức khỏe kém. Qui Luật VI về Chữa bệnh Bí truyền nói rằng “Khi năng lượng kiến tạo của linh hồn hoạt động trong cơ thể thì sẽ có sức khỏe, sự tương tác trong sạch và hoạt động đúng đắn”. Năng lượng của Chủa tể Thái Dương (sự sống Thái dương hay hay lửa Thái dương) là yếu tố tích hợp của cơ thể, và khi năng lượng này bị rút đi thì bệnh tật hoặc cái chết sẽ theo sau: |
Speaking symbolically, therefore, there are times in which the life of these lunar lords are so dominant that the life of the soul is overpowered in some particular area, and the consequent withdrawal of the solar life produces disease; or – putting it another way – the friction which ensues when the lunar lords are not compliant produces disease. Yet death is not indicative of a full victory of the lunar lords, but rather that under the plan of the soul, and because the life cycle is complete, the energy of the soul is entirely withdrawn, leaving the lunar lords alone. At times (because it is also in the planning of the soul) the lunar lords temporarily are the victors, though death does not follow; convalescence is significant of the gradual re-entry of soul energy and its subsequent control [642] of the lunar lords. This aspect of soul energy is not that of those energies which represent and lead to the expression of soul quality. It is life energy, coming from the Monad which passes through the soul as a channel and medium of contact; its direct channel is, needless to say, the sutratma. It is not the antahkarana, or the creative thread or the thread of consciousness. These are frequently rendered inactive when acute disease is present, and the life aspect is weakening or rapidly or slowly withdrawing itself. [76] |
Do đó, nói một cách tượng trưng, có những lúc trong đó sự sống của các nguyệt tinh quân này chiếm ưu thế đến mức sự sống của linh hồn bị chế ngự trong một số lĩnh vực cụ thể, và hậu quả là sự sống Thái dương rút lui sẽ tạo ra bệnh tật; hoặc nói cách khác, sự ma sát xảy ra khi các nguyệt tinh quân không tuân thủ sẽ tạo ra bệnh tật. Tuy nhiên, cái chết không phải là dấu hiệu cho sự chiến thắng hoàn toàn của các nguyệt tinh quân, mà là theo kế hoạch của linh hồn, và vì vòng đời đã hoàn tất nên năng lượng của linh hồn bị rút hoàn toàn, chỉ để lại các nguyệt tinh quân. Đôi khi (do cũng nằm trong kế hoạch của linh hồn) các nguyệt tinh quân tạm thời là người chiến thắng, dù cái chết không tiếp theo sau; thời kỳ dưỡng bệnh có ý nghĩa quan trọng đối với sự tái nhập dần dần của năng lượng linh hồn và sự kiểm soát tiếp theo của nó [642] đối với các nguyệt tinh quân. Trạng thái năng lượng linh hồn này không phải là trạng thái của các năng lượng vốn tiêu biểu và dẫn đến sự biểu lộ tính chất của linh hồn. Nó là năng lượng sự sống đến từ Chân Thần, đi qua linh hồn như là một vận hà và trung gian giao tiếp. Không cần phải nói, vận hà trực tiếp của nó là sutratma. Đó không phải là antahkarana, hay sáng tạo tuyến hay tuyến tâm thức. Các tuyến này thường bị làm cho không hoạt động khi xảy ra bệnh nặng, và trạng thái sự sống đang yếu đi, hoặc đang tự triệt thoái, nhanh hoặc chậm. |
7. Conclusion—KẾT LUẬN
The Deva Evolution is perhaps more extensive and complex than our own, and a complete inspection and study of these devic beings seems impossible. What we can do is to gathered facts scattered here and there, put them in order, and deduct some insights about their evolution. But their existence is a reality. They coexist with us on this scheme, as everywhere in the system. There is a myriad of devic beings in every one of us: the Solar Angel, the Solar Lords, the Guardian Angel, the lunar Lords, and the elemental lives. Knowing their modes of operation and evolution help us on the Path of development. “They are here to help us, and we are here to help them.” Master D.K foresaw that along with the coming of Christ, many Devas of a high order will come to help us in a lot of ways: |
Dòng tiến hóa của Thiên thần có lẽ rộng lớn và phức tạp hơn dòng tiến hóa của chúng ta, và việc khảo sát và nghiên cứu đầy đủ về những thực thể thiên thần này dường như là không thể. Những gì chúng ta có thể làm là thu thập các dữ kiện rải rác đây đó, sắp xếp chúng theo thứ tự và rút ra một số hiểu biết sâu sắc về sự tiến hóa của chúng. Nhưng sự tồn tại của họ là sự thật. Họ cùng tồn tại với chúng ta trong hệ hành tinh này, cũng như ở mọi nơi trong thái dương hệ. Có vô số thực thể thiên thần trong mỗi người chúng ta: Thái dương Thiên Thần, các Đấng Thái dương, Thiên thần Hộ mệnh, các nguyệt tinh quân và các sự sống hành khí. Biết được các phương thức hoạt động và tiến hóa của họ sẽ giúp chúng ta trên Con đường phát triển. “Họ ở đây để giúp chúng tai và chúng ta ở đây để giúp họ.” Chân sư D.K đã thấy trước rằng cùng với sự xuất hiện của Đức Christ, nhiều vị Thiên thần cấp cao sẽ đến giúp đỡ chúng ta bằng nhiều cách: |
It might be of interest here to point out that when He comes Whom angels and men await, and Whose work it is to inaugurate the new age and so complete the work He began in Palestine two thousand years ago, He will bring with Him some of the great Angels, as well as certain of the Masters. The angels have ever been active in Biblical history, and will again enter into the lives of human beings with more power than has lately been the case. The call has gone out for them again to approach humanity, and with their heightened vibration and superior knowledge unite their forces with those of the Christ and His disciples for the helping of the race. They have, for instance, much to communicate anent color and sound, and the effect of these two forces on the etheric bodies of men and animals and flowers. When what they have to impart is apprehended by the race, physical ills and sickness will be offset. The group of violet angels or devas who work on the four etheric levels will be especially active and they will work in the four main groups of men who are in incarnation at any given time. Four rays dominate at any period, with one of the four more potent than the other three. You have this idea symbolized in the four castes in India and you will find also that these four castes are found universally throughout the planet. |
Ở đây, có thể quan trọng để chỉ ra rằng khi Ngài đến, Đấng mà thiên thần và con người đang chờ đợi, và công việc của Ngài là để khánh thành Kỷ Nguyên Mới và như thế hoàn thành công việc mà Ngài đã bắt đầu ở Palestine hai ngàn năm trước, Ngài sẽ mang theo cùng với Ngài một số các đại Thiên thần, cũng như một số các Chân Sư. Các thiên thần đã luôn luôn hoạt động trong lịch sử Kinh Thánh, và một lần nữa sẽ đi vào cuộc sống của con người với nhiều quyền lực hơn so với trường hợp gần đây. Lời kêu gọi đã được đưa ra cho họ một lần nữa để tiếp cận loài người, và với sự rung động tăng lên và kiến thức cao hơn của họ, kết hợp các mãnh lực của họ với mãnh lực của Đức Christ và các đệ tử của Ngài để giúp đỡ nhân loại. Chẳng hạn, họ có nhiều thứ để truyền đạt về màu sắc và âm thanh, và tác động của hai lực này lên thể dĩ thái của người và động vật, và hoa. Khi những gì họ phải truyền đạt được nhân loại hiểu rõ, các bệnh thể xác và sự đau yếu sẽ được hóa giải. Nhóm các thiên thần hoặc các thần màu tím làm việc ở bốn phân cảnh dĩ thái sẽ đặc biệt linh động, và họ sẽ làm việc trong bốn nhóm chính của con người luân hồi ở bất kỳ thời điểm cụ thể nào. Bốn cung thống trị ở bất kỳ thời kỳ nào, với một trong bốn cung mạnh hơn ba cung kia. Bạn có ý tưởng này được tượng trưng trong bốn giai cấp ở Ấn Độ, và bạn cũng sẽ thấy rằng bốn giai cấp này được tìm thấy trên khắp hành tinh. |
These four groups of angels are a band of servers, pledged to the service of the Christ, and their work is to contact men and to teach them along certain lines. |
Bốn nhóm thiên thần này là một nhóm phụng sự viên, đã cam kết phục vụ Đức Christ, và công việc của họ là tiếp xúc với con người và dạy con người theo những đường lối nhất định. |
1. They will teach humanity to see etherically, and this they will do by heightening human vibration by interaction with their own. |
a. Họ sẽ dạy nhân loại nhìn thấy về mặt dĩ thái, và họ sẽ làm điều này bằng cách nâng cao rung động của con người bằng sự tương tác với rung động của chính họ. |
2. They will give instruction in the effect of color in the healing of disease, and particularly the efficiency of violet light in lessening human ills and in curing those physical plane sicknesses which originate in the etheric body. [509] |
b. Họ sẽ đưa ra chỉ dẫn về tác dụng của màu sắc trong việc chữa bệnh, và đặc biệt là hiệu quả của ánh sáng tím trong việc làm giảm bớt bệnh tật của con người, và trong việc chữa lành những bệnh thể xác bắt nguồn từ thể dĩ thái. [509] |
3. They will also demonstrate to the materialistic thinkers of the world the fact that the superconscious world exists, and that angels and men who are out of incarnation and possess no physical bodies can be contacted and known. |
c. Họ cũng sẽ chứng minh cho các nhà tư tưởng duy vật trên thế giới sự thật rằng thế giới siêu ý thức tồn tại, và các thiên thần và con người không đang luân hồi và không có thể xác có thể được tiếp xúc và được biết. |
4. They will train human beings in the knowledge of superhuman physics so that weight shall be for them transmuted. Motion will become more rapid, speed will be accompanied by noiselessness and smoothness, and hence fatigue will be eliminated. In the human control of etheric levels lies the overcoming of fatigue and the power to transcend time. Until this prophecy is a fact and recognized as such, the meaning of the above words will remain obscure. |
d. Họ sẽ huấn luyện con người kiến thức về vật lý siêu nhân loại (superhuman physics) để trọng lượng đối với họ sẽ được chuyển hóa. Chuyển động sẽ trở nên nhanh hơn, tốc độ sẽ được đi kèm với sự yên lặng và sự trơn tru, và do đó sự mệt mỏi sẽ được loại bỏ. Trong sự kiểm soát của con người đối với các phân cảnh dĩ thái có sự vượt qua sự mệt mỏi và năng lực siêu việt thời gian. Cho đến khi lời tiên tri này là một thực tế và được nhận thức như vậy, ý nghĩa của các lời trên sẽ vẫn còn mơ hồ. |
5. They will teach humanity how rightly to nourish the body and to draw from the surrounding ethers the requisite food. Man will concentrate his attention upon the etheric body and the work and health of the physical body will become increasingly automatic. |
e. Họ sẽ dạy cho nhân loại cách nuôi dưỡng cơ thể một cách đúng đắn và rút ra từ các chất dĩ thái xung quanh thực phẩm cần thiết. Con người sẽ tập trung sự chú ý vào thể dĩ thái, và công việc và sức khỏe của thể xác sẽ trở nên ngày càng tự động. |
6. They will also teach human beings as individuals and as a race to expand their consciousness to include the super-physical. In the accomplishment of this, the separating web (the veil of the temple) which divides the physical plane from the unseen world will be recognized as a fact in nature by the scientist. Its purpose will be acknowledged. Eventually it will be destroyed, by man discovering how to penetrate it. The date is imminent. |
f. Họ cũng sẽ dạy con người với tư cách cá nhân và như một nhân loại mở rộng tâm thức của họ để bao gồm cả cõi siêu vật lý. Để thực hiện điều này, mạng lưới ngăn cách (bức màn che của ngôi đền) phân chia cõi trần với thế giới vô hình sẽ được nhà khoa học công nhận là một thực tế trong thiên nhiên. Mục đích của nó sẽ được thừa nhận. Cuối cùng, nó sẽ bị phá hủy, bởi con người khám phá ra cách xâm nhập nó. Ngày đó sắp xảy ra. |
So, the decision of the Master D.K. (or perhaps of the Hierarchy) to extend the scope of the teaching about this evolution[77]. Much information are conveyed in His books, but much are also refrained from the readers. Perhaps our duty is perhaps to assimilate as much as possible what have been given, at the same time learn to sharpen our reasoning and intuition. Yes, by that way, we can be ready for the next promised revelation in the years to come. |
Vì vậy, quyết định của Chân sư D.K. (hoặc có lẽ là của Thánh Đoàn) để mở rộng phạm vi giảng dạy về dòng tiến hóa này. Nhiều thông tin được chuyển tải trong các sách của Ngài, nhưng cũng có nhiều thông tin bị hạn chế đối với người đọc. Có lẽ nhiệm vụ của chúng ta có lẽ là tiếp thu càng nhiều càng tốt những gì đã được đưa ra, đồng thời học cách mài giũa lý luận và trực giác của mình. Bằng cách đó, chúng ta có thể sẵn sàng cho điều mặc khải tiếp theo được hứa hẹn trong những năm tới. |
Bibliography—thư mục tham khảo
Bailey, Alice A. A Treatise on Cosmic Fire. n.d.
—. Esoteric Astrology. n.d.
—. Esoteric Healing. n.d.
—. Esoteric Psychology II. n.d.
—. Letters on Occult meditation. n.d.
—. The Externalisation of the Hierarchy. n.d.
—. The Rays and the Initiations. n.d.
—. The Unfinished Autobiography. n.d.
Bailey, Mary. A learning Experience. Lucis Trust, n.d.
Barborka, Geoffrey A. The Divine Plan. The Theosophical Publishing House, 2002.
Besant, Annie. Study in Consciousness. n.d.
—. The Pedigree of Man. n.d.
Blavatsky, H.P. “Conversations on Occultism: Elementals and Elementaries.” Collected Writings Vol. IX (n.d.).
—. “Elementals.” Collected Writings (n.d.).
—. The Secret Doctrine Vol I. 1888.
—. The Secret Doctrine Vol II. 1888.
Jinarasadasa. First Principles of Theosophy. n.d.
Leadbeater, C.W. The Astral Plane. n.d.
—. The Devachanic Plane. n.d.
—. The Hidden Side in Freemasonry. n.d.
—. The Hidden Side of Things. Theosophical Publishing House, n.d.
—. The Inner Life I. n.d.
—. The Inner Life II. n.d.
Robbins, Michael D. “Commentary on Cosmic Fire.” n.d. www.makara.us.
—. Letter to the writer. n.d.
Saraydarian, Torkom. New Dimensions in Healing. TSG Publishing Foudation, 1992.
—. The Psyche and Psychism Vol. I. TSG Publishing Foudation, n.d.
Schwarz, A. “Study on the relation of Man to God.” The Theosophist (1900).
Sinnett, A.P. The Occult World. 1988.
Students, Two. Theosophy Gleanings. The Theosophical Publishing House, n.d.
Tuija, Robbins. “Tuija’s letter responsing to Jocelyne and Lam_May 2013.” 2013.
-
Saraydarian, Torkom. New Dimensions in Healing. TSG Publishing Foudation, 1992. This also refers to this passage in The Esoteric Doctrine I, p. 248:
“Who forms Manu (the Man) and who forms his body? The Life and the Lives. Sin† and the Moon.” Here Manu stands for the spiritual, heavenly man, the real and non-dying Ego in us, which is the direct emanation of the “One Life” or the Absolute Deity. As to our outward physical bodies, the house of the tabernacle of the Soul, the Doctrine teaches a strange lesson; so strange that unless thoroughly explained and as rightly comprehended, it is only the exact Science of the future that is destined to vindicate the theory fully. ↑
-
“In the present system, the second, there are two dominant evolutions, the human and the deva; there are—as earlier stated—sixty thousand million human monads. Add to this the feminine evolution of the devas, consisting of 140 thousand million, and you have the necessary two hundred thousand million.” (A. A. Bailey, Esoteric Healing) ↑
-
(Blavatsky, Elementals p. 189) ↑
-
(Sinnett) ↑
-
(Tuija) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 667) ↑
-
by Mary Bailey ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 490) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 910) ↑
-
(Leadbeater, The Astral Plane) ↑
-
(A. Bailey, The Unfinished Autobiography) ↑
-
(A. Bailey, Esoteric Psychology II p. 303) ↑
-
The Occultist Henry T. Laurency highly appreciated C.W. Leadbeater for his contributions to the Esoterics:
“It is high time it were made clear: C. W. Leadbeater is the only theosophical writer having a scientific way of looking at things, objective and studded with facts, a typical representative of the fifth (the mental) department. He is the model of a teacher of esoterics, the one whom Laurency placed foremost of them all in that respect. The fact that he sometimes made mistakes does not detract from his importance as an esoteric pedagogue.” Knowledge of Life, Vol III, 5.5.4 ↑
-
(Sinnett p. 89-90) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p.77) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p.144) ↑
-
Chart I Evolution of Matter
Chart II the Logos of a Solar System
Chart XII Parabrahm ↑
-
Quoting a chart from the article “Study on the Relation of Man to God”, in the Theosophist January, 1900 ↑
-
(Besant, Study in Consciousness p.70-71) ↑
-
(M. Robbins) ↑
-
(Besant, Study in Consciousness p. 72-73) ↑
-
He does not show the number on the mental plane, but we can reason the same number of the differentiations on the mental plane. ↑
-
(Leadbeater, The Astral Plane p. 94) ↑
-
(Leadbeater, The Astral Plane) ↑
-
(Leadbeater, The Astral Plane p. 94-95) ↑
-
(Blavatsky, Conversations on Occultism: Elementals and Elementaries) ↑
-
(Leadbeater, The Astral Plane) ↑
-
(Leadbeater, The Astral Plane p.97-98) ↑
-
(Leadbeater, The Astral Plane p. 98-99) ↑
-
. (A. Bailey, Letters on Occult meditation p. 174) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 895) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 897) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 914) ↑
-
(M. Robbins) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 914-915) ↑
-
(M. Bailey) ↑
-
(M. Robbins) ↑
-
(A. Bailey, Esoteric Psychology II p. 290-291) ↑
-
(M. Bailey) ↑
-
(Jinarasadasa p. 154) ↑
-
(Jinarasadasa p. 154-155) ↑
-
(Besant, Study in Consciousness p. 81) ↑
-
(Leadbeater, The Astral Plane p. 109) ↑
-
(Leadbeater, The Astral Plane p. 110) ↑
-
The Hidden side of Things – chapter VI
The Astral Plane – p. 109-123
The Devachanic Plane – p.88-100
The Inner Life Vol II – Fifth section ↑
-
This diagram was copied in the book First Principles of Theosophy by C. Jinarasadasa, and is cited in course 260 of our school’s curriculum. ↑
-
(Leadbeater, The Hidden Side of Things) ↑
-
(Leadbeater, The Hidden Side of Things) ↑
-
Ibid. ↑
-
Ibid. ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 904) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 846) ↑
-
(A. A. Bailey, Esoteric Healing p. 248) ↑
-
(Blavatsky, The Secret Doctrine Vol I p. 181) ↑
-
(Students) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 670) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 845-846) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 670) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 780) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 612-615) ↑
-
“Barhishad: a compound Sanskrit word, composed of bar his, which may be rendered either “sacred grass” or “fire,” and sad, to sit; hence “those who sit by the fire.” The literal significance hardly conveys the esoteric meaning, which in this case is somewhat obscure. The suggestion is offered that the Lunar Pitris are represented as “sitting by the Sacred Fire” (signifying the Fire of Manas, or the Mind-Principle), because they had not reached the grade or potency of being able to awaken the “fire of mind” within nascent humanity. Their function was to supply the rupas or vehicles—which will be described presently. (Barborka p. 119) ↑
-
(Blavatsky, The Secret Doctrine Vol I p. 179) ↑
-
(Blavatsky, The Secret Doctrine Vol I p. 180-181) ↑
-
(Blavatsky, The Secret Doctrine Vol I p. 174-175) ↑
-
(Besant, The Pedigree of Man p. 16-17) ↑
-
(A. A. Bailey, Esoteric Astrology p. 277) ↑
-
(A. A. Bailey, Esoteric Healing p. 624) ↑
-
(A. A. Bailey, Esoteric Healing p. 624) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 885-886) ↑
-
(A. A. Bailey, Esoteric Astrology p. 278) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 856) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 820) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 844) ↑
-
(A. Bailey, The Rays and the Initiations p.10-11) ↑
-
(Saraydarian, New Dimensions in Healing) ↑
-
(A. A. Bailey, Esoteric Healing p. 641-642) ↑
-
(A. A. Bailey, A Treatise on Cosmic Fire p. 909) ↑