Một số bạn qua email có đặt một số câu hỏi về huyền linh học, luân xa, tham thiền… Chúng tôi sẽ trích lại các câu hỏi đó và các câu trả lời của chúng tôi trên trang web này để các bạn cùng tham khảo. Điểm quan trọng đầu tiên mà chúng tôi xin nhắc là phần trả lời của chúng tôi hoàn toàn dựa vào giáo lý của Chân sư DK, xem đó là tiên đề để trả lời các câu hỏi của các bạn. Những câu trả lời căn cứ hoàn toàn vào sự hiểu biết của chúng tôi về giáo lý của Ngài, và sự hiểu biết này có thể đúng hay sai, đầy đủ hay thiếu sót. Do đó, những câu trả lời này không nhằm phản bác, chỉ trích bất kỳ ai, hay bất kỳ giáo lý nào, và mỗi người có quyền chọn cho mình con đường thích hợp với tư chất của mình, theo lý trí và trực giác của mình.
Trong bài đầu tiên này, chúng tôi xin trả lời một câu hỏi về luân xa như sau:
Hỏi: Tôi theo học tham thiền ở một trường, ở đó người ta mở luân xa cho tôi để tham thiền, và theo như những gì họ nói nếu ở cấp độ thấp không thiền một ngày luân xa sẽ tự đóng lại, không thể thiền được nữa. Điều này như thế nào?
Trả lời: Theo giáo lý của Chân sư DK, mức độ khai mở (awakening) của một luân xa là kết quả của một quá trình rất lâu dài, của cả ngàn kiếp sống đã qua, và có thể lên đến hằng triệu năm. Do đó, khi nói ai đó có thể tác động lên một luân xa và khai mở nó dường như không hợp lý lắm.
Bác sĩ Shafica Karagulla trong quyển “CHAKRAS, and the Human Energy Fields” viết chung với bà Dora van Gelder Kunz (người mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên web) viết về việc đóng và mở luân xa như sau:
So far, no one has even begun to discover how to treat the etheric chakras, although there are some who make ridiculous claims that they are able to “open” or “close” a chakra—claims which are quite unsubstantiated.Most healers do not make the attempt, and fortunately it is not easy to affect the centers, although many can increase the vitality of the patient, remove blockages and relieve pain, thus enhancing the healing process.
cho đến nay, chưa có ai bắt đầu tìm hiểu làm cách nào để tác động lên các luân xa dĩ thái, mắc dù có nhiều người tuyên bố rất buồn cười rằng họ có thể “mở” và “đóng” lại một luân xa—một tuyên bố rất không thể chứng thực được. Hầu hết các nhà chữa trị huyền môn không cố làm điều đó, và cũng may mắn thay là không dễ gì mà tác động lên các luân xa, tuy rằng nhiều người có thể gia tăng sinh lực của bệnh nhân, loại bỏ các cản trở của sinh lực, làm giảm đau đớn,và như thế thúc đẩy quá trình chữa trị.
Khi bước vào đường đạo, người đệ tử có thể được chỉ dẫn những phương pháp giúp khai mở luân xa nhanh hơn, nhưng luôn luôn được truyền thụ dưới sự giám sát nghiêm nhặt, vì nó rất nguy hiểm. Đức DK không khuyến khích những người học đạo bình thường tìm cách mở luân xa bằng những phương pháp như thế. Chúng tôi xin trích dịch bài viết quan trọng sau đây từ quyển A Treatise on White Magic, nói về việc khai mở luân xa để các bạn cùng tham khảo. Trong bài trích, chúng ta sẽ học biết về các lưới dĩ thái bảo vệ, ngăn cách giữa các luân xa dọc theo xương sống và trong đầu; điều kiện để có thể thực hiện việc khai mở các luân xa. Về các lưới dĩ thái, các bạn xem lại bài Luân xa Phần 3, trong đó chúng tôi có giải thích hình vẽ các lưới dĩ thái trong đầu mà Chân sư có nêu ra trong bài viết. Đức DK cũng nói rằng trong 1000 người may ra mới có một người có thể thực hiện tu tập mở luân xa, và Ngài nói con số đó còn lạc quan. Việc khai mở luân xa cũng cần nơi chốn yên tỉnh, cô lập, không bị quấy rầy trong thời gian dài, một điều kiện mà trong thời đại văn minh hiện nay khó thực hiện được. Cho nên Ngài nói, phương pháp chậm là phương pháp an toàn và là phương pháp nhanh nhất.
Chót hết, nếu có một ai đó có thể giúp tác động lên luân xa, kích thích độ rung động của nó, khơi hoạt nó, thì đó chỉ có thể là Đấng Điểm Đạo (the Initiator), Ngài tác động thông qua Thần Trượng Điểm Đạo lên luân xa của người Điểm đạo đồ. (Xem Điểm đạo trong nhân loại và Thái dương hệ). Do đó, câu chuyện mở luân xa nhờ ai đó có vẻ là truyền thuyết nhiều hơn là sự thực.
****
VIỆC THỨC ĐỘNG CÁC LUÂN XA – The Awakening of the Centers
Nói một cách kỹ thuật hơn, và do đó giải thích việc sử dụng thuật ngữ Huấn Thị (Instructions) của bộ luận này đối với những người tầm đạo và các đệ-tử, chúng ta cần phải ghi nhớ cẩn thận rằng nhiệm vụ chính của người tầm đạo là vận dụng năng lượng, ngay bên trong bản thân y cũng như trong thế giới của các hiện tượng vật chất và của sự thể hiện ngoại tại. Tất nhiên, điều này bao hàm một sự hiểu biết về các luân xa và việc khơi hoạt chúng. Nhưng sự hiểu biết phải đến trước, và việc khơi hoạt sẽ xảy ra vào một thời điểm rất lâu về sau trong trình tự của thời gian. Việc khơi hoạt này sẽ bao gồm hai giai đoạn:
Speaking more technically and therefore warranting the use of the word Instructions in connection with this treatise for aspirants and disciples, it must be carefully borne in mind that the main task of the aspirant is the handling of energies, both in himself and in the world of physical phenomena and externalization. This consequently involves an understanding of the centers and of their awakening. But understanding must come first, and the awakening at a much later date in the sequence of time. This awakening will fall into two stages:
Thứ nhất là giai đoạn mà trong đó, bằng việc thực hành một đời sống có kỷ luật, và bằng sự thanh lọc đời sống tư tưởng, bảy luân xa sẽ tự động đi vào tình trạng hoạt động nhịp nhàng, có sinh lực và rung động đúng đắn. Giai đoạn này không hàm chứa một sự nguy hiểm nào, và người tầm đạo không được phép dùng tư tưởng điều khiển các luân xa . Trong phát biểu này, tôi muốn nói rằng, người tầm đạo không được phép tập trung tư tưởng của y vào bất kỳ một luân xa nào, y cũng không được phép tìm cách đánh thức hoặc tiếp sinh lực cho các luân xa đó. Y vẫn phải tập trung vào việc thanh lọc các thể chứa đựng các luân xa trong đó, chủ yếu là thể cảm dục, thể dĩ thái và thể xác, và luôn luôn nhớ rằng hệ thống nội tiết và đặc biệt là bảy tuyến chính (major glands) là những phần ngoại hiện hữu hiệu (effectual externalisations) của bảy luân xa chính. Trong giai đoạn này, người tầm đạo đang hoàn toàn làm việc xung quanh các luân xa , với vật chất chung quanh chúng, và với chất liệu sinh động vốn hoàn toàn bao quanh chúng. Đây là tất cả những gì mà hầu hết mọi người có thể thực hiện một cách an toàn, và chính với giai đoạn này mà phần lớn các người tầm đạo trên thế gian ngày nay đang bận rộn, và họ vẫn còn phải bận rộn với nó trong một thời gian dài sắp tới.
First, there is the stage wherein, by the practice of a disciplined life and by the purification of the thought life, the seven centers are automatically brought into a right condition of rhythm, vitality and vibratory activity. This stage involves no danger and there is no directed thought—in connection with the centers—permitted to the aspirant. By that I mean he is not allowed to concentrate his mind upon any one center, nor may he seek to awaken or energize them. He must remain engrossed with the [588] problem of purifying the bodies in which the centers are found, which are primarily the astral, etheric and physical bodies, remembering ever that the endocrine system and the seven major glands, in particular, are the effectual externalizations of the seven major centers. In this stage, the aspirant is working all around the centers and is dealing with their environing matter and with the living substance which completely surrounds them. This is all that can be safely undertaken by the majority, and it is with this stage that the bulk of the aspirants in the world today are engaged and with which they must remain engaged for a long time to come.
Thứ hai là giai đoạn mà các luân xa do hiệu quả của công việc của giai đoạn trước đã trở thành cái được gọi một cách bí truyền là “được giải phóng bên trong nhà tù”. Bây giờ, chúng có thể được khơi hoạt và tích nạp năng lượng theo các phương pháp xác định dưới sự hướng dẫn thích hợp của một huấn sư – các phương pháp này khác nhau tùy theo cung phàm ngã và cung chân ngã của người tìm đạo. Do đó, đây là công việc khó khăn và không thể đưa ra các qui luật chung và phổ biến.
Secondly, there is the stage wherein the centers, through the effective work of the earlier stage, become what is esoterically called “released within the prison house”; they can now become the subject (under proper direction by a teacher) of definite methods of awakening and of charging,—the methods differing according to the ray, personality and egoic, of the aspirant. Hence the difficulty of the subject and the impossibility of giving general and blanket rules.
Ở đây, cũng lý thú mà lưu ý rằng phương pháp này (trước tiên là một thời gian dài thanh lọc, sau đó là tiếp sinh lực một cách khoa học) cũng là phương pháp được Thánh Đoàn sử dụng đằng sau các sự việc thế gian, mặc dù nó không có liên quan đến vấn đề huấn luyện cá nhân. Các Ngài đã đang hoạt động một cách kiên trì với nhiệm vụ gạn lọc vật chất thế gian, và mang đến sự thanh lọc thế giới trên một quy mô lớn. Đây là giai đoạn đầu tiên của công cuộc và chỉ trở nên khả dĩ một cách phổ biến khi con người đã trở thành một thực thể có suy nghĩ thực sự trong vài thế kỷ qua, trên một qui mô rộng lớn. Việc thanh lọc này hiện đang tiếp diễn trong mọi bộ môn sinh hoạt của con người, vì nhân loại hiện nay, hay đúng hơn là ba phần năm nhân loại, đang đứng trên con đường dự bị. Qua các phong trào phúc lợi và cải thiện nâng cao, và sự lan rộng của hệ thống vệ sinh, công cuộc này đang tiến triển trên cõi trần; qua những xáo trộn chính trị tiết lộ những sự thiếu công bằng; qua sự bất mãn về kinh tế mà cuối cùng là một nỗ lực để thay đổi những gì không được mong muốn, để cung cấp cho từng con người các điều kiện sống vốn sẽ dẫn đến việc tư duy, và từ việc tư duy đến sự kiểm soát của linh-hồn; qua sự truyền bá tôn giáo và những nỗ lực của nhiều tổ chức và các nhóm trên khắp thế giới, vốn đang duy trì trước thể trí con người những gì mà tôi có thể gọi một cách biểu tượng là “niềm hy vọng của Thiên Đàng” (từ “Thiên Đàng” được sử dụng như một biểu tượng của sự hoàn hảo và của sự thanh khiết), công việc của giai đoạn này đang đều đặn tiến tới. Nó đã thành công đến nỗi mà hiện nay người ta biết đến và nhận ra rác rưởi và các tạp chất vốn bao quanh linh hồn thế giới và ngăn nhân loại khỏi sự biểu lộ thật sự của nó, và vì vậy mà có một sự thúc đẩy ổn định hướng tới sự cải thiện. Tất cả đã được đưa lên bề mặt, và kết quả có vẻ kinh khủng và không thể kiểm soát được đối với những người chỉ nhìn thấy bề mặt. Nhưng bên dưới, dòng sông sâu của sự thanh khiết và chân lý đang chảy mạnh mẽ.
It is interesting here to note, even though it has no bearing on the matter of personal training, that this method, first of a long period of purification and later of energizing scientifically, is the one employed by the guiding hierarchy which stands behind world affairs. Steadily They have been working at the task of clarifying world matter, and bringing about world purification on a large scale. This is the first stage of the work and only became generally possible when man became a more truly thinking entity, during the past few centuries, on a wide level. This purification is going on now in all departments of human existence, for humanity now stands, or rather three-fifths of it stands, on the path of probation. Through welfare and uplift movements and the wide spread of sanitation, the work goes forward [589] on the physical plane; through political upheavals which reveal abuses; through economic discontent which is after all a striving to change that which is undesirable so as to give the human unit conditions of living which will lead to thought and from thought to soul control; through religious propaganda and the efforts of the many organizations and groups throughout the world which hold before the minds of men what I might symbolically call “the hope of Heaven” (using the word “Heaven” as a symbol of perfection and of purity), the work of this stage is going steadily forward. So successful has it been that now the filth and impurities which surround the world soul and which keep humanity from its true expression are known and recognized and there is consequently a steady drive towards betterment. All has been brought to the surface, and the result seems appalling and uncontrollable to those who only see the surface. But underneath, the deep river of purity and truth is flowing strong.
Một bằng chứng về sự thành công của phong trào thế giới hướng tới lối sống thuần khiết và sự hủy diệt những gì gây trở ngại, đó là công việc của giai đoạn thứ hai bây giờ đang trong tiến trình bắt đầu. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Thánh Đoàn hiện giờ có thể làm việc trực tiếp với các luân xa trong cơ thể của nhân loại. Nhờ thế, hiện giờ chúng ta có việc hình thành Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian, mà toàn thể họ trên khắp thế giới tạo thành luân xa tim và “luân xa giữa hai chân mày” của thể dĩ thái của gia đình nhân loại. Qua luân xa tim, sự sống tinh thần có thể bắt đầu chảy vào và truyền sinh lực cho tất cả các luân xa , và qua luân xa giữa hai chân mày, viễn ảnh có thể được nhìn thấy và các cõi giới bên trong có thể được cảm nhận và hiểu biết.
One evidence of the success of the world movement towards pure living and the destruction of that which hinders is that the work of the second stage is now in process of initiation. The hierarchy, for the first time in world history, can now work directly with the centers in the body of humanity. Thus we have now the formation of the new Group of World Workers, who, in their totality throughout the world, constitute the heart center and the “center between the eyebrows” of the etheric body of the human family. Through the one, spiritual life can begin to flow in and vitalize all the centers, and through the other, the vision can be seen and the inner worlds sensed and known.
Ở đây, tôi muốn nêu ra hai vấn đề khác, và qua đó làm rõ toàn bộ tình trạng. Có nhiều sự lộn xộn rối rắm trong chủ đề các luân xa, nhiều giảng dạy sai lầm, dẫn đến nhiều sự lầm đường lạc lối và gây ra rất nhiều sự hiểu lầm.
I would here like to point out two other matters, and so clarify the entire situation. There is much confusion on the subject of the centers and much erroneous teaching, [590] leading many astray and causing a great deal of misapprehension.
Thứ nhất, tôi muốn nói rằng người tầm đạo không nên thực hiện bất cứ nỗ lực nào nhằm kích hoạt các luân xa khi mà y biết rõ rằng đời sống của y vẫn còn những sự không trong sạch, hay thể xác của y bị bệnh hoặc trong tình trạng xấu. Cũng không nên thực hiện việc đó khi áp lực của các hoàn cảnh bên ngoài khiến cho y không có nơi chốn hoặc cơ hội để làm điều đó một cách yên tĩnh và không bị gián đoạn. Điều cần yếu cho công việc trước mắt tập trung vào các luân xa là phải có những giờ phút riêng tư và không bị gián đoạn. tôi không thể quá nhấn mạnh vào điều này, và tôi làm như thế nhằm giải thích cho người đạo sinh đầy háo hức rằng, ở thời kỳ này trong lịch sử của chúng ta, có một số ít người mà đời sống của họ cho phép có sự ẩn dật như thế. Tuy nhiên, đây lại là một hoàn cảnh hữu ích nhất, và không nên phàn nàn điều đó. Trong một ngàn người tầm đạo chỉ có một người là có thể bắt đầu làm việc với năng lượng của luân xa của mình, và thậm chí có lẽ đây còn là ước tính quá lạc quan. Tốt hơn hết là người tầm đạo hãy phụng-sự, thương yêu, làm việc và tự giữ giới luật, để cho các luân xa của y phát triển và khai mở một cách chậm rãi hơn, và nhờ thế mà an toàn hơn. Chắc chắn chúng sẽ khai mở, và phương pháp khai mở chậm rãi và an toàn hơn lại là phương pháp nhanh chóng hơn trong phần lớn các trường hợp. Việc khai mở quá sớm bao hàm việc mất nhiều thời gian, và thường mang theo nó các mầm mống của sự rắc rối kéo dài về sau.
First, I would state that no work such as an effort to awaken the centers should ever be undertaken whilst the aspirant is aware of definite impurities in his life, or when the physical body is in poor condition or is diseased. Neither should it be undertaken when the pressure of external circumstances is such that there is no place or opportunity for quiet and uninterrupted work. It is essential that for the immediate and focused work on the centers there should be the possibility of hours of seclusion and of freedom from interruption. This I cannot too strongly emphasize, and I do so in order to demonstrate to the eager student that at this period of our history there are few whose lives permit of this seclusion. This is however a most beneficent circumstance and not one to be deplored. Only one in a thousand aspirants is at the stage where he should begin to work with the energy in his centers and perhaps even this estimate is too optimistic. Better far that the aspirant serves and loves and works and disciplines himself, leaving his centers to develop and unfold more slowly and therefore more safely. Unfold they inevitably will and the slower and safer method is (in the vast majority of cases) the more rapid. Premature unfoldment involves much loss of time, and carries with it often the seeds of prolonged trouble.
Việc kích thích thái quá các tế bào não là một trong những kết quả của việc hợp nhất các lửa đang lưu chuyển bên trong cơ thể con người dưới tác động của ý chí. Sự kích thích như thế có thể tạo ra sự điển loạn và phá vỡ cấu trúc tế bào của não bộ, và do sự hoạt động quá mức của đời sống tế bào nó cũng có thể gây ra sự ma sát nội tại giữa chúng, và điều này sẽ dẫn tới các khối u não và các ung nhọt (abscesses) bên trong não bộ. Không cần phải lặp đi lặp lại điều này một cách quá mạnh mẽ như thế.
Over-stimulation of the brain cells is necessarily one of the results of the merging, by an act of will, of the fires which circulate in the human body. Such stimulation can produce insanity and the breaking down of the cellular structure of the brain, and through the over-activity of the cell life can also induce that internal friction between them which will eventuate in brain tumors and abscesses. This cannot be too strongly reiterated.
Mục tiêu cơ bản trong mọi công việc của Laya yoga (hoặc công việc với các luân xa) đặt căn bản trên sự kiện rằng năng lượng của các tế bào vốn cấu tạo nên cơ thể hoặc trạng thái vật chất (mà bộ sách Giáo Lý Bí Nhiệm, và Luận Về Lửa Càn Khôn gọi là “lửa do ma sát”), phải được hoà lẫn với ngọn lửa của tâm thức. Lửa tâm thức là năng lượng hiện diện trong vật chất nhưng lại khác với lửa của chính vật chất. Nó nằm bên dưới toàn bộ hệ thống thần kinh, và bởi vì nó nằm bên dưới như thế nên nó tạo ra sự nhạy cảm và sự hiểu biết. Nó là nguyên nhân của sự đáp ứng đối với sự tiếp xúc và mang lại khả năng ghi nhận và lưu giữ ấn tượng, như bạn biết rõ. Gọi một cách kỹ thuật, đó “lửa thái dương” (“solar fire”), và khi nó hoà lẫn với lửa vật chất và với “lửa điện” của trạng thái thiêng liêng cao nhất, bấy giờ bản thể của con người biểu hiện hoàn mãn nhất, và công việc vĩ đại được hoàn tất. Nhưng đó là một công việc nguy hiểm nhất, nếu được tiến hành trước khi bộ máy đã sẵn sàng để đáp ứng điều đó.
The underlying objective in all laya yoga work (or [591] work with the centers) is based upon the fact that the energy of the cells which compose the body or the matter aspect (called in The Secret Doctrine, and in A Treatise on Cosmic Fire, “fire by friction”) must be blended with the fire of consciousness. This latter is the energy, present in matter yet different from the fire of matter itself, which underlies the entire nervous system and because it so underlies it produces sensitivity and awareness. It is the cause of response to contact and confers the ability to register and record impression, as you well know. This fire is technically called “solar fire”, and when it blends with the fire of matter and with the “electric fire” of the highest divine aspect, then man’s being comes into its fullest manifestation and the great work is completed. But it is a most dangerous undertaking, when induced before the mechanism is ready to deal with it.
Việc hoà lẫn ba thứ lửa này chỉ có thể được thực hiện an toàn bởi những ai có cấu tạo cao và phát triển đầy đủ, và bởi những ai đã đạt được năng lực tập trung sự chú ý của mình vào trong đầu, và từ điểm cao đó chỉ huy toàn bộ tiến trình phối hợp. Điều này bao hàm khả năng rút tâm thức (hiểu theo nghĩa đen của từ đó) vào thể dĩ thái, nhưng đồng thời vẫn còn duy trì – với đầy đủ ý thức – một điểm tiếp xúc trong đầu, và từ điểm đó, kiểm soát thể xác. Nếu thành công, nó bao hàm một số tình trạng dĩ thái bên trong thể xác. Một trong các tình trạng này là tiến trình đốt cháy hết hay phá hủy (một phần hoặc toàn bộ) bất kỳ các chướng ngại nào dọc theo cột sống, vốn có thể ngăn chận sự đi lên thông suốt của lửa ở đáy cột sống, thường được gọi là luồng hỏa kundalini, lửa này nằm yên, âm ỉ, và tiềm tàng trong luân xa thấp nhất. Đây là “con rắn đang ngủ, nó phải duỗi mình thẳng ra và đi lên”.
This triple blending can only be safely undertaken by the highly organized and rounded-out person, and by one who has achieved the capacity to focus his attention in the head and from that high point direct the entire process of fusion. It involves the ability to withdraw the consciousness literally into the etheric body and yet at the same time to preserve—in full awareness—a point of contact in the head, and from that point direct the automaton, the physical body. It presupposes, if successful, certain etheric conditions in the body. One of these is the process of burning through or destruction (partial or complete) of any obstructions found along the spinal cord which could prevent the free rising of the fire at the base of the spine, commonly called the kundalini fire, which lies quiescent, latent and potential in the lowest center. This is “the sleeping serpent which must arise and uncoil”.
Mỗi luân xa trong cột sống được chia cách với luân xa bên trên và luân xa bên dưới nó bằng một lưới bảo vệ bao gồm một sự trộn lẫn kỳ lạ của chất dĩ thái và chất hơi. Lưới này phải bị đốt cháy và tiêu tan đi trước khi có thể có sự tác động tự do của các lửa của thể xác. Một mạng lưới hoàn chỉnh gồm các nadis và các luân xa nằm bên dưới và là đối phần tinh anh của hệ thần kinh và hệ nội tiết. Do đó, chỉ cần suy nghĩ rõ ràng một chút ta sẽ thấy sự cần thiết phải có sự thật cẩn trọng, vì việc này rõ ràng sẽ có tác động trực tiếp lên bộ máy bên ngoài, và bộ máy này đến lượt nó chắc chắn sẽ tác động đến những gì mà các nhà tâm lý học gọi là “các hành vi ứng xử”. Có bốn lưới trong số các “lưới” hình tròn này đan xen giữa năm luân xa trên cột sống, như hình sau: 0|0|0|0|0, và ba lưới được tìm thấy trong đầu. Ba lưới này chia đôi đầu và tạo thành một chuỗi các thập giá, như sau:
Each center in the spine is separated from the one above it and the one below it by an interlaced protective [592] web which is composed of a curious blend of etheric and gaseous substance. This has to be burnt away and dissipated before there can be the free play of the fires of the body. A complete network of nadis and centers underlies and is the subtle counterpart of the nervous and endocrine systems. A little clear thinking therefore will demonstrate the need for excessive care, for there will obviously be a direct effect upon the external apparatus and this in its turn will definitely affect what the psychologists call “behavior”. There are four of these interlaced circular “webs”, lying between the five centers found on the rod of the spinal column, such as follows: 0/0/0/0/0, and three are to be found in the head. These three bisect the head, and form a series of crosses, as follows:
Hình này rất giống với hình thập giá trên Union Jack vốn luôn luôn có một ý nghĩa nội môn với đạo sinh, và biểu thị một mức độ trong sự tiến hóa chủng tộc. Hình chữ thập trong đầu này ngăn cách luân xa ajna (luân xa giữa hai chân mày) với luân xa đầu, vì nó nằm trong trán ở phía sau luân xa đó, và đồng thời tạo thành một lá chắn bảo vệ giữa luân xa ajna và luân xa cổ họng.
This is much like the cross upon the Union Jack, which has always had an esoteric significance for the student, and indicates a point in racial evolution. This cross in the head separates the ajna center (the center between the eyebrows) from the head center, for it lies behind that center in the forehead, and at the same time forms a protective shield between the ajna and throat centers.
Thật ra thì các lưới dĩ thái này là các đĩa, quay hoặc xoay vòng ở các tốc độ khác nhau tuỳ thuộc các luân xa khác nhau, và cũng tùy theo mức độ tiến hóa của hệ thống các luân xa liên quan. Chỉ khi nào các lưới này bị đốt cháy bởi các ngọn lửa đi lên và xuống, thì ta mới có thể nhìn thực sự thấy các luân xa. Nhiều người có nhãn thông nhầm lẫn các luân xa với các lưới dĩ thái bảo vệ chúng, vì các lưới này có sự phát xạ và ánh sáng riêng của chúng.
These etheric webs are in reality disks, rotating or revolving at specific rates, which differ for the different centers, and according to the point in evolution of the system of centers concerned. Only when these webs are burnt away by the ascending and descending fires can the true centers really be seen. Many clairvoyants confuse the centers and their protective counterparts, for the latter have a radiance and light of their own.
Khi đời sống đạt đến một mức rung động cao ngày càng tăng nhờ sự tinh luyện và giới luật, ngọn lửa của linh hồn, thật ra là lửa trí tuệ, khiến các luân xa gia tăng rung động, và hoạt động gia tăng này tạo ra một sự tiếp xúc với “các lưới” bảo vệ, hay các đĩa năng lượng prana nằm ở hai bên của chúng. Do đó, do sự tương tác này mà chúng bị mòn dần đi, và theo thời gian chúng bị “thủng” (perforated), nếu tôi có thể dùng một thuật ngữ không thích hợp như thế. Nhiều người tầm đạo cảm thấy chắc chắn rằng họ đã khơi hoạt luồng hỏa kundalini ở đáy của cột sống đi lên, và do đó đang thực hiện sự tiến bộ nhanh chóng, trong khi thật ra thì tất cả những gì mà họ đã thực hiện là việc đốt cháy hoặc “cọ xát” lưới dĩ thái ở điểm này hoặc điểm khác trên cột sống. Một cảm giác nóng rát hoặc đau ở bất kỳ phần nào của cột sống, khi không phải do các nguyên nhân sinh lý, thì đa phần là do việc chọc thủng lưới dĩ thái này hoặc lưới dĩ thái khác, do hoạt động của các luân xa liên kết với chúng. Trong trường hợp của phụ nữ, điều này thường xảy ra với luân xa tùng thái dương, và với nam giới thì xảy ra với luân xa xương cùng. Cả hai luân xa này – do quá trình phát triển tiến hóa – cực kỳ linh hoạt và có tổ chức cao, vì chúng là sự biểu hiện của tính chất sáng tạo thuộc về thể chất và của thể tình cảm. Do đó, một cảm giác nóng rát và đau đớn ở phía lưng biểu thị sự hoạt động thường là thái quá ở một luân xa, vốn tạo ra các kết quả phá huỷ bộ máy bảo vệ, và đó không phải là dấu hiệu thực sự nào của việc khai mở tâm linh hay sự cao cả về tinh thần. Nó có thể biểu thị cho trường hợp sau, nhưng chúng ta nên nhớ rằng, nơi nào có sự phát triển tâm linh thật sự, thì sự đau đớn và nguy hiểm về việc này thực tế bị loại bỏ.
As the life achieves an increasingly high vibration through purification and discipline, the fire of the soul, which is literally the fire of mind, causes the centers also to increase their vibration, and this increased activity sets up a contact with the protective “webs”, or disks of pranic energy found on either side of them. Thus, [593] through the interplay, they are gradually worn away, so that in the course of time they become perforated, if I might use such an inadequate term. Many aspirants feel convinced that they have raised the kundalini fire at the base of the spine and are consequently making rapid progress, whereas all that they have accomplished is to burn or “rub through” the web at some point or other up the spine. A sensation of burning or of pain in any part of the spine, when not due to physiological causes, is, in the majority of cases, due to the piercing of one or other of the webs, through the activity of the centers allied to them. This happens very frequently in the case of women in connection with the solar plexus center, and with men in connection with the sacral center. Both these centers—as a result of evolutionary development—are exceedingly active and highly organized, for they are the expression of the physical creative nature and of the emotional body. A sense therefore of burning and of pain in the back indicates usually undue activity in a center, which produces destructive results upon the protective apparatus, and is no true indication of spiritual unfoldment and superiority. It may indicate the latter, but it should be remembered that, where there is true spiritual growth, pain and danger are in this connection practically eliminated.
Đã có rất nhiều điều thiếu chính xác nói về việc khơi hoạt luồng hỏa kundalini, và có nhiều ngộ nhận trong vấn đề này. tôi có thể quả quyết với bạn rằng việc khơi dậy luồng hoả là điều khó khăn nhất, và chỉ có thể được thực hiện bằng một tác động rõ rệt của ý chí, thông qua sự tập trung trí tuệ mãnh liệt và sự chú tâm chú ý của con người ngồi trên ngai của tâm thức ở trong đầu. Truyền thống của hội Tam Điểm (Masonic tradition) duy trì giáo huấn này một cách rõ rệt trong nghi thức đẹp đẽ của nó về sự xuất hiện của Vị Great Master Mason. Chỉ khi nào có sự nỗ lực hợp nhất của năm loại, và chỉ sau nhiều thất bại lặp đi lặp lại, thì diễn trình sự sống sinh động mới lưu chuyển khắp cơ thể và mang sự sống đến con người đích thực.
There has been much loose talk about the raising of the kundalini fire and much misapprehension in the matter. Let me assure you that it is most difficult to raise, and can only be done by a definite act of the will and through the intense mental focusing and concentrated attention of the man, seated on the throne of consciousness in the head. The Masonic tradition has the teaching clearly held in its beautiful ritual of the raising of the great Master-Mason. Only when there is united effort of a fivefold kind, and only after repeated failure, does the [594] vivifying life course through the entire body and bring to life the true man.
Điểm thứ hai mà tôi muốn đề cập tới, đó là mọi công việc huyền bí sâu xa này chỉ phải được tiến hành dưới sự chỉ đạo của vị thầy có kinh nghiệm (skilled teacher). Người tầm đạo được bảo một cách hời hợt rằng “khi đệ tử sẵn sàng, thì Chân Sư sẽ xuất hiện”. Khi đó y yên tâm thoải mái và chờ đợi, hoặc tập trung sự chú tâm của y vào nỗ lực để thu hút sự chú ý của một Chân Sư nào đó, có vẻ như y đã yên trí rằng y đã sẵn sàng hay đã đủ tốt rồi. Tất nhiên là y cũng thỉnh thoảng nỗ lực, và đôi khi cũng chú ý vào công việc giữ gìn giới luật và tinh luyện. Nhưng sự nỗ lực bền bĩ và kéo dài của người tầm đạo thì thực sự là hiếm hoi.
The second point I would touch upon is that all this deeply esoteric work must only proceed under the direction of the skilled teacher. Platitudinously[3], the aspirant is told that “when the pupil is ready, the Master will appear”. He then settles comfortably back and waits, or focuses his attention upon an attempt to attract the attention of some Master, having apparently settled in his mind that he is ready, or good enough. He naturally gives himself a spiritual prod at intervals, and attends spasmodically to the work of discipline and of purification. But steady and prolonged undeviating effort on the part of aspirants is rare indeed.
Quả thật Chân Sư sẽ xuất hiện vào đúng lúc, nhưng thời điểm đúng đó lại phụ thuộc vào một vài điều kiện mà người tầm đạo phải tự mình tạo ra. Khi tiến trình tinh luyện đã trở thành một thói quen suốt đời, khi người tầm đạo có thể tập trung tùy ý tâm thức của mình vào trong đầu, khi ánh sáng trong đầu tỏa sáng ra và các luân xa trở nên linh hoạt, lúc bấy giờ Chân Sư sẽ cầm tay hướng dẫn người đó. Trong thời gian chờ đợi, y có thể có một linh ảnh về Chân Sư, hoặc y có thể thấy một hình-tư-tưởng của Chân Sư, và có thể nhận được nhiều điều tốt lành thực sự và cảm hứng do sự tiếp xúc với phản ảnh của thực tại đó, nhưng đó không phải là Chân Sư và không biểu thị cho giai đoạn của địa vị đệ-tử chính thức. Nhờ ánh sáng của linh hồn mà linh hồn có thể được biết đến. Do đó, hãy tìm kiếm ánh sáng linh hồn của riêng bạn, và hãy biết rằng linh hồn đó là người hướng đạo cho bạn. Khi thiết lập được sự tiếp xúc với linh hồn, linh hồn của bạn sẽ, nếu tôi có thể diễn tả điều đó như sau, giới thiệu bạn với Chân Sư của bạn. Với tất cả sự tôn kính thích đáng, một lần nữa tôi có thể nói thêm rằng, Chân Sư không háo hức chờ đợi để biết đến bạn. Trong cõi giới của linh hồn, linh hồn của bạn và linh hồn của Ngài được liên kết và biết được sự đồng nhất căn bản. Nhưng trong thế giới của các sự việc con người, và trong diễn trình của công cuộc vĩ đại, nên nhớ rằng khi một Chân Sư thu nhận một người tầm đạo vào nhóm các đệ-tử của Ngài, thì trong một thời gian dài, người tầm đạo đó lại là một trách nhiệm phải gánh vác (liability), và thường là một trở ngại. Các đạo sinh rất thường đánh giá quá cao về mình, ngay cả khi họ không thừa nhận điều đó; về mặt chủ quan, họ có một sự ưa thích thực sự chính họ, và họ thường không hiểu tại sao Các Đấng Cao Cả không ban cho họ một dấu hiệu nào, cũng như không thể hiện sự chú ý trông nom của các Ngài. Các Ngài sẽ không làm và không cần phải làm điều đó cho đến khi nào mà người tầm đạo đã sử dụng đầy đủ kiến thức mà y đã có được từ các huấn sư cấp thấp hơn, và từ các sách vở và các ấn phẩm kinh điển của thế giới. Các đạo sinh phải thực hiện các nhiệm vụ trước mắt và chuẩn bị bộ máy của họ cho việc phụng-sự trên thế gian, và nên ngừng lãng phí thời gian đi tìm kiếm một Chân Sư; họ nên đạt đến sự thành thạo ở những điểm mà hiện giờ họ gặp khó khăn, và bấy giờ trong đời sống phụng-sự và đấu tranh, họ có thể đạt đến sự quên mình hoàn toan khiến Chân Sư không còn nhận thấy trở ngại nào nữa cho việc tiếp cận của Ngài đối với họ.
It is indeed true that at the right moment the Master will appear, but the right moment is contingent upon certain self-induced conditions. When the process of purification has become a lifelong habit, when the aspirant can at will concentrate his consciousness in the head, when the light in the head shines forth and the centers are active, then the Master will take the man in hand. In the meantime he may have a vision of the Master, or he may see a thought-form of the Master, and may get much real good and inspiration from contact with the reflected reality, but it is not the Master and does not indicate the stage of accepted discipleship. Through the medium of the light of the soul, the soul can be known. Therefore seek the light of your own soul, and know that soul as your director. When soul contact is established, your own soul will, if I may so express it, introduce you to your Master. With all due reverence again may I add, that the Master waits not with eagerness to make your acquaintance. In the world of souls, your soul and His soul are allied, and know essential unity. But in the world of human affairs and in the process of the great work it should be remembered that when a Master [595] takes an aspirant into His group of disciples, that aspirant is, for a long time, a liability and oft a hindrance. Students over-estimate themselves quite often, even when repudiating such an idea; subjectively they have a real liking for themselves and are frequently puzzled as to why the Great Ones give them no sign, nor indicate Their watching care. They will not and They need not until such time as the aspirant has used to the full the knowledge which he has gained from lesser teachers, and from books and printed scriptures of the world. Students must attend to the immediate duty and prepare their mechanisms for service in the world, and should desist from wasting time and looking for a Master; they should achieve mastery where now they are defeated and in the life of service and of struggle they may then reach the point of such complete self-forgetfulness that the Master may find no hindrance in His approach to them.
Do đó, do những điều ở trên, hiển nhiên là tôi không thể đưa ra các hướng dẫn cụ thể về việc khơi hoạt các luân xa và đốt cháy lưới dĩ thái, điều mà sẽ dẫn đến việc giải phóng năng lượng. Thông tin đó quá nguy hiểm và kích thích trí tò mò để được đặt vào tay của công chúng, những người sẽ bị lôi cuốn bởi sự ham muốn đối với một việc mới lạ nào đó, họ thiếu sự thăng bằng thích đáng và sự phát triển trí tuệ cần thiết. Tuy nhiên, đã đến lúc mà sự kiện về việc có một thể năng lượng nằm dưới hệ thần kinh phải được thế giới nói chung nhận biết, bản chất của bảy luân xa , cấu trúc và vị trí của chúng phải được hiểu rõ về mặt chuyên môn, và các định luật về việc khai mở của chúng phải được hiểu biết một cách rộng rãi. Nhưng còn nhiều điều khác nữa chưa thể được đưa ra một cách an toàn. Tính chất phức tạp của khoa học về các luân xa quá lớn lao để có thể phổ biến rộng rãi. Giáo huấn được đưa ra trong bất kỳ trường hợp đặc biệt nào, và các phương pháp để được áp dụng đều phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố, khiến không thể đưa ra một quy tắc và hướng dẫn chung. Người ta phải xem xét các yếu tố về Cung và loại, giới tính và trình độ tiến hóa, cũng như sự cân bằng (balance) của các luân xa. Ở đây, tôi muốn nói đến việc xem xét sự phát triển thái quá của một luân xa nào đó, và sự kém phát triển trong một luân xa khác, và về việc liệu có một ưu thế của mãnh lực ở bên dưới hoặc trên cơ hoành, hoặc là năng lượng chính có được tập trung ở nơi thu thập và phân phối (clearing house) trung ương, tức là luân xa tùng thái dương hay không. Cũng phải xem xét tính chất và sự chói sáng của ánh sáng trong đầu, vì nó biểu thị mức độ kiểm soát của linh hồn và sự tinh khiết tương đối của các hiện thể, và cũng phải xem xét các “lưới” dĩ thái khác nhau một cách cẩn thận, mức rung động của các lưới và luân xa cũng phải được xem xét như vậy. Một sự đồng bộ phải được thiết lập, và điều này khó thực hiện nhất. Đây chỉ là một số trong những điểm mà vị huấn sư phải lưu ý, và do đó rõ ràng là chỉ một vị huấn sư đã có được nhãn quang tổng hợp và có thể nhìn thấy một con người “một cách toàn bộ”, như y thực sự là, thì vị huấn sư mới có thể đưa ra những hướng dẫn sẽ đảo ngược các tiết điệu cũ của các luân xa, phá hủy các vỏ bọc (sheaths) bảo vệ mà không gây đau đớn và nguy hiểm, và khiến luồng hỏa kundalini đi lên từ đáy cột sống đến lối ra ở đầu.
It will be apparent therefore from the above that I cannot give specific instructions as to the awakening of the centers and the burning of the etheric web which will result in the release of energy. Such information is too dangerous and too intriguing to be put in the hands of the general public, who are driven by desire for some new thing, and lack right poise and the needed mental development. The time has come however when the fact that there is an energy body underlying the nervous system must be recognized by the world at large, and when the nature of the seven centers, their structure and location should be grasped technically, and when the laws of their unfoldment should be widely known. But more than this cannot yet be safely given. The intricate nature of this science of the centers is too great for general usefulness. The teaching to be given in any particular case and the methods to be applied are dependent upon too many factors for a general rule and instruction to be given. The ray and type, the sex and point in [596] evolution must be considered and also the balance of the centers. By this I mean the consideration as to their over-development in one case and under development in another and as to whether there is a preponderance of the force below or above the diaphragm, or whether the main energy is concentrated in that central clearing house, the solar plexus. The quality and the brilliance of the light in the head has to be studied, for it indicates the measure of soul control and the relative purity of the vehicles, and the various etheric “webs” have to be carefully dealt with, and also the rate of vibration of the web and the center. A synchronization has to be set up and this is most difficult to bring about. These are only a few of the points that the teacher has to note, and it is apparent therefore that only a teacher who has achieved synthetic vision and can see a man “whole,” or as he really is, can give those instructions which will reverse the ancient rhythm of the centers, destroy without pain and danger the protective sheaths, and raise the kundalini fire from the base of the spine to the exit in the head.
Người đệ tử tìm thấy các huấn sư như thế khi y đã tiến hành công việc của kiếp sống của mình dưới sự hướng dẫn của linh hồn, khi y đã nắm được lý thuyết của khoa học về các luân xa, đã làm chủ và kiểm soát bản chất cảm dục và luân xa tương ứng của nó, tức luân xa tùng thái dương. Thiên Chúa giáo đã nhấn mạnh đến tính thống trị của nguyên khí Christ đã đặt một nền tảng vững chắc cho công việc cần phải làm. Sự thật này được chứng minh một cách kỳ lạ trong một nghiên cứu về con số “tám” có liên quan đến các luân xa , mà chúng ta được dạy, vốn là con số của Christ. Có tám luân xa nếu tính luôn luân xa lá lách, tất cả chúng là các bội số của tám với sự ngoại trừ của luân xa ở đáy của cột sống vốn có bốn cánh hoa, là một nửa của tám. Vào thời của chúng ta và trong cách viết của người Anglo Saxon, số tám là biểu tượng cơ bản của tất cả các luân xa , vì các cánh hoa thực sự có hình dạng giống như các số tám chồng lên nhau. Từ ngữ cánh hoa hoàn toàn là tượng hình, còn một luân xa được hình thành dựa trên mô hình này. Đầu tiên, là một vòng tròn, O; sau đó là hai vòng tròn, chạm vào nhau và do đó tạo thành một số 8. Kế đó, khi các cánh hoa tăng số lượng, nó chỉ đơn giản là một sự tăng trưởng của các vòng tròn đôi này, được chồng lên ở các góc độ khác nhau, cái này trên cái kia, cho đến khi chúng ta đạt đến hoa sen ngàn cánh ở đầu.
Suy cho cùng, các luân xa này có lưỡng phân. Chúng thể hiện khía cạnh kiến tạo hình hài của thiêng liêng, và qua hoạt động của chúng khiến hình hài ngoại tại biểu lộ; để rồi vào cuối chu kỳ tiến hóa – cả trong đại thiên địa và tiểu thiên địa – chúng khiến cho mãnh lực và sự sống của linh hồn hiển lộ, và tạo ra sự lâm phàm của một đứa con của Thượng Đế được khải thị đầy đủ, với mọi quyền năng và tri thức mà thiêng liêng hàm chứa.
Such teachers are found by the pupil when he has carried forward his life work under the direction of his soul, when he has grasped the theory of the science of the centers, and has mastered and controlled the astral nature and its corresponding center, the solar plexus. The emphasis laid upon the dominance of the Christ principle by Christianity has laid a sure foundation for the work to be done. This truth is curiously substantiated in a study of the number “eight” in connection with the centers which, we are told, is the number of the Christ. There are eight centers if the spleen is counted, all of them are multiples of eight with the exception of the center at the base of the spine which has four petals, one half of eight. In our day and in the Anglo Saxon mode of writing, the number eight is the basic symbol [597] of all the centers, for the petals are really in form like a number of superimposed eights. The word petal is purely pictorial and a center is formed on this pattern. First, a circle, 0; then two circles, touching each other and making therefore an 8. Then, as the petals increase in number, it is simply a growth of these double circles, superimposed at differing angles one upon another until we arrive at the thousand-petalled lotus in the head.
These centers are, in the last analysis, twofold in function. They demonstrate the form building aspect of divinity and through their activity bring the outer form into manifestation; then towards the end of the evolutionary cycle—both in the macrocosm and the microcosm—they bring into expression the soul force and life and produce the incarnation of a fully revealed son of God, with all the powers and knowledge which divinity contains. [601]
jupiter nguyen
jupiter nguyen
jupiter nguyen