Ảo Cảm —P13 (Ảo cảm 7, Ảo cảm và cõi cảm dục)

Ảo Cảm và Cõi Cảm dục (Trung Giới)

Ảo cảm là vấn đề thuộc bản chất tình cảm hay cảm dục của chúng ta, do đó liên quan đến cõi cảm dục (còn được gọi là cõi trung giới). Hội Thông Thiên Học dùng từ astral plane để chỉ cõi cảm dục, và từ astral xuất phát từ tiếng La tinh astralis, có nghĩa “chói sáng như sao” hoặc chỉ những gì có liên hệ với tinh tú. Do đó, astral plane là “cõi giới chói sáng như vì sao”. Nguyên thuỷ, bà Blavatsky dùng từ astral plane với nghĩa khác hẳn, chỉ những phân cảnh giới dĩ thái của cõi hồng trần, nhưng sau này, bà Annie Besant và ông CW Leadbeater mới dùng từ astral plane để chỉ cõi cảm dục. Nhưng trong quyển White Magic, đức DK nói việc dùng từ astral plane để chỉ cõi trung giới là một lầm lẫn, bởi vì cảm giác đầu tiên khi một người tiếp xúc với cõi trung giới là một sự “mờ ảo, rối ren với những hình thể chuyển động thay đổi nhanh chóng như trong kính vạn hoa”, chẳng có tính chất chói sáng nào cả như tên gọi astral plane của nó:

Thuật ngữ “astral” thường được sử dụng thực ra là một cách gọi sai lầm. Bà H. P. B. về cơ bản đã đúng khi bà sử dụng thuật ngữ này liên quan đến cõi dĩ thái hay cõi sinh lực của cõi trần. Khi tiếp xúc với thế giới dĩ thái, ấn tượng đầu tiên được tạo ra luôn là ánh sáng đầy sao, rực rỡ, lấp lánh. Tuy nhiên, dần dần, từ này được đồng nhất với Kama hay ham muốn, và do đó được sử dụng cho cõi của phản ứng cảm xúc. WM 221

The term “astral” so often used is in reality a misnomer. H. P. B. was basically right when she used the term in connection with the etheric or vital planes of the physical plane. When contact is made with the etheric world, the first impression given is always of a starry light, of brilliance, of scintillation. Gradually, however, the word became identified with Kama or desire, and so was used for the plane of emotional reaction.

White Magic (WM) 221

Ngài cũng nói thêm sai lầm này là tác dụng của cõi cảm dục lên bộ não của con người, thấy mọi vật đều ngược lại gống như nhìn một hình ảnh trong gương:

Thật thú vị khi lưu ý điều này vì bản thân nó là một ví dụ về tác động của cõi cảm dục lên bộ não con người, bộ não trong tình trạng không hiểu biết của nó đảo ngược thực tế, và nhìn mọi thứ ở trạng thái lộn ngược. Khi lần đầu tiên người tìm đạo nhìn thấy rõ ràng bằng “con mắt đã mở”, sự xuất hiện của cõi trung giới là một cõi giới của màn sương mù dày đặc, hỗn loạn, của các hình dạng thay đổi, các màu sắc xen kẽ và thâm nhập vào nhau, và có vẻ ngoài như kính vạn hoa đến mức dường như sự vô vọng của công việc dường như tràn ngập. Nó không phải sáng sủa, đầy sao hay rõ ràng. WM221

It is interesting to note this for it is in itself an instance of the effect of the astral plane upon the human brain, which in its uninformed condition reverses the reality and sees things in an upside down state. The appearance of the astral plane when first definitely seen by the “opened eye” of the aspirant is one of dense fog, confusion, changing forms, interpenetrating and intermingling colours, and is of such a kaleidoscopic appearance that the hopelessness of the enterprise seems overwhelming. It is not light, or starry or clear.

WM 221

Và Ngài nói, trong thế giới của các mãnh lực hỗn loạn đó, thể cảm dục của con người dường như hoà tan vào trong đó, không phân biệt được, và nhiệm vụ đầu tiên của người học đạo là tập tách thể cảm dục của mình ra khỏi môi trường xung quanh:

Nó rõ ràng là một sự hỗn loạn không thể xuyên thủng, vì nó là nơi gặp gỡ của các mãnh lực. Bởi vì các mãnh lực trong cơ thể [Trang 222] của chính người tìm đạo cũng hỗn loạn như thế, y hòa lẫn vào sự hỗn loạn xung quanh đến mức thoạt tiên hầu như linh hồn đang quan sát không thể tách rời bộ máy cảm dục của chính nó khỏi mộ máy cảm dục của nhân loại nói chung, và khỏi bộ máy cảm dục của thế giới. nhi đó, một trong những điều đầu tiên mà người tìm đạo phải học là tách hào quang của chính mình, theo nghĩa cảm xúc, với hào quang của môi trường xung quanh, và phải mất nhiều thời gian để học cách làm điều này. Chính vì lý do này mà một trong những phẩm chất đầu tiên của người đệ tử là khả năng phân biệt, bởi vì chính nhờ việc sử dụng thể trí, với tư cách là người phân tích và phân biệt, mà thể cảm dục được kiểm soát. WM 222

It is apparently impenetrable disorder, for it is the meeting ground of forces. Because the forces in the aspirant’s [Page 222] own body are equally in disorder, he blends in with the surrounding chaos to such an extent that it is at first almost impossible for the onlooking soul to dissociate its own astral mechanism from the astral mechanism of humanity as a whole, and from the astral mechanism of the world. One of the first things then that the aspirant has to learn is to dissociate his own aura in the emotional sense from that of his surroundings and much time is expended in learning to do this. It is for this reason that one of the first qualifications of discipleship is discrimination, for it is through the use of the mind, as analyzer and separator, that the astral body is brought under control.

WM 222

Trong các phát biểu của Ngài về cõi cảm dục, có nhiều câu khiến chúng ta bối rối, như Ngài nói cõi trung giới không có thực, là sản phẩm của trí tưởng tượng sáng tạo:

Bí mật của Vị Chân sư là khám phá ra rằng không có cõi trung giới; Ngài thấy rằng cõi trung giới là một sản phẩm của trí tưởng tượng và đã được tạo ra thông qua việc sử dụng trí tưởng tượng sáng tạo một cách thiếu kiểm soát và lạm dụng quyền năng huyền thuật. Công việc của Thánh đoàn chủ yếu là chấm dứt bóng tối và xua tan hơi ẩm; mục đích của các Chân sư là soi sáng linh hồn và chứng tỏ rằng tinh thần và vật chất là hai thực tại cấu thành các đơn vị và nó chỉ tồn tại trong thời gian và không gian và thông qua việc lạm dụng theo chu kỳ của các quyền năng huyền thuật và tâm linh, rằng cõi trung giới của ảo tưởng vĩ đại đã ra đời, và giờ đây là một điều gì thực đến mức—theo một nghĩa nào đó—nó thực hơn (đối với con người) so với vương quốc ánh sáng và vương quốc của hình tướng. WM615

The secret of the Master is the discovery that there is no astral plane; he finds that the astral plane is a figment of the imagination and has been created through the uncontrolled use of the creative imagination and the misuse of the magical powers. The work of the hierarchy is primarily to bring to an end the shadows and to dispel the moisture; the aim of the Masters is to let in the light of the soul and to show that spirit and matter are the two realities which constitute the units and that it is only in time and in space and through the cyclic misuse of the magical and psychic powers that the astral plane of the great illusion has come into being and is now so real a thing that it is—in a certain sense—more real (to man) than the kingdom of light and the kingdom of form. In one most interesting sense it is true that because the human being is a soul and because the light of the soul is found within him and is gradually growing into fuller radiance this itself produces the illusion. Because of this illusion, the magical work has been carried forward along wrong lines and has been based on wrong motives and fitted into a scheme which is stronger than the average worker, for the whole force of the world illusion is against all the efforts of the beginner in white magic.

WM 615

Chúng ta thường gặp những phát biểu “khó” như thế trong các sách của Ngài, nhưng việc suy ngẫm để hiểu đúng giúp chúng ta phát triển trí trừu tượng.

Chúng ta biết, cõi cảm dục, giống như tất cả các cõi khác của thái dương hệ, được chia thành 7 cõi phụ, và 18 cõi phụ tính từ cõi hạ trí trở xuống tạo thành trường sinh hoạt của thể xác (dense physical body) của một Hành Tinh Thượng đế, và 21 cõi phụ (bao gồm tất cả cõi phụ của 3 cõi thấp nhất) tạo thành thể xác đậm đặc của Thái dương Thượng đế.

Trên cõi hồng trần, chúng ta có các nguyên tố (elements) là chất liệu để cấu tạo nên tất cả hình hài trên cõi trần. Tương tự như thế, trên cõi trí và cõi cảm dục, có các chất liệu được gọi là elemental essence (tinh hoa hành khí) được sử dụng để tạo nên các hình thể trên cõi trí và cõi cảm dục, chỉ có một điều khác biệt là chất liệu trên cõi phụ thứ nhất (atomic subplane), được gọi là monadic essence (tinh hoa chân thần).

Giáng hạ tiến hoá và Thăng thượng tiến hoá
Các Giới Hành Khí (Elemental Essence)

Tinh Hoa Chân thần (Monadic Essence),

là vật chất của phân cảnh nguyên tử (hoặc cao nhất) của mỗi cảnh giới. Tinh Hoa Hành Khí (Elemental Essence) là vật chất của sáu cõi phụ không phải là nguyên tử. Nó là vật chất phân tử. CF 75

Monadic Essence, the matter of the atomic (or highest) subplane of each plane. Elemental Essence, the matter of the six subplanes which are non atomic. It is molecular matter.

CF, Footnote trang 75

Các Tinh Hoa Hành Khí (Elemental Essence)

trên cõi Thượng trí tạo thành Giới Tinh Linh I (Elemental Kingdom I), trên cõi hạ trí tạo thành Giới Tinh Linh II, và trên cõi cảm dục tạo thành Giới Tinh Linh III. Các Giới Tinh Linh nằm trên Con đường Giáng Hạ Tiến Hoá (Involution), sự tiến hoá của chúng là ngày càng đi sâu vào vật chất, sự rung động và biểu hiện ngày càng thô kệch hơn. Ba Giới Tinh linh này cộng với bốn Giới Kim Thạch, Thảo Mộc, Cầm Thú, Nhân loại tạo thành bảy giới của Tự Nhiên, Kim Thạch là giới bản lề, Sự Sống hay Chân thần bắt đầu đi lên theo con đường Thăng Thượng Tiến Hoá (Evolution)

Sau đây là giải thích của Ông Leadbeater về Monadic Essence (Tinh Hoa Chân thần) và Elemental Essence (Tinh Hoa Hành Khí):

Chúng ta thường hay nói đến một tinh linh (an elemental) có liên quan đến nhóm mà chúng ta đang xem xét hiện nay, cách nói này có phần gây hiểu lầm, vì nói một cách chính xác, không có chuyện đó. Những gì chúng ta thấy là một kho chứa lớn tinh hoa hành khí, cực kỳ nhạy cảm với suy nghĩ thoáng qua nhất của con người, phản ứng một cách tinh vi không thể tưởng tượng được trong một phần vô cùng nhỏ của một giây, đối với một rung động được thiết lập trong đó, thậm chí bởi một hoạt động hoàn toàn vô thức của ý chí hoặc mong muốn của con người. AP94

Nhưng vào thời điểm chịu ảnh hưởng của một ý nghĩ hoặc sự vận dụng ý chí như vậy, nó được đúc thành một lực sống—thành cái có thể được mô tả chính xác là một tinh linh —thì ngay lập tức nó không còn thuộc về phạm trù mà chúng ta đang thảo luận, và trở thành một thành viên của nhóm nhân tạo. Ngay cả khi đó, sự tồn tại riêng biệt của nó thường có đặc tính phù du nhất, và ngay sau khi xung lực tạo ra nó mất đi, nó trở lại trong khối chưa phân hóa của loại tinh hoa chất đặc biệt mà từ đó nó xuất ra. AP95

Do đó, đặc tính của của vật chất cõi cảm dục là là có thể dễ dàng “nắn” vào bất kỳ hình thể nào bởi tư tưởng con người, do đó trên cõi cảm dục có tất cả những gì mà con người mong muốn, từ quá khứ hàng triệu năm trước đây. Chúng ta có thể thấy trên cõi cảm dục hình tư tưởng của các Chân sư, những hình tư tưởng có một “trí thông minh” nào đó, Phật, Chúa, cả Ma Quỷ. Theo lời ông Leadbeater:

Tất cả chúng ta đều trải qua gần một phần tư đời sống trên cõi cảm dục, nhưng rất ít khi chúng ta nhớ lại hoặc hoàn toàn ý thức trong lúc hiện diện trên đó. Điều này là do chúng ta chưa đạt được sự liên tục của tâm thức (continuity of consciousness):

Phần đông chúng ta đều thức tỉnh ở cõi trung giới trong lúc thể xác đang ngủ, tuy nhiên ta chỉ cảm nhận mơ hồ những gì xảy ra chung quanh. Vì trong lúc ngủ, ta vẫn bị bao phủ bởi những tư tưởng lúc thức, những tính toán về công việc ở cõi trần, chẳng còn thì giờ để chú ý đến môi trường sống động ở trung giới. Để có thể hoạt động hữu hiệu ở cõi trung giới, trước tiên ta phải loại bỏ thói quen bận rộn của tư tưởng, và học cách quan sát thế giới mới lạ, đẹp đẽ ấy. Dù đã tự chủ hoàn toàn ở cõi trung giới, không nhất thiết là khi thức dậy ta có thể nhớ lại được những sinh hoạt ở cõi đó. Sự kiện nhớ lại được những gì xảy ra ở cõi trung giới trong lúc ngủ, là một vấn đề hoàn toàn khác, và cũng không ảnh hưởng gì đối với khả năng hoạt động ở cõi đó. AP11

Trong quyển Astral Plane và Hành Trình Một Linh hồn, mô tả khá chi tiết các cảnh phụ (hay cõi phụ) của cõi trung giới, sự sinh hoạt, đời sống trong các cảnh giới đó:

Trước hết ta cần biết cõi trung giới được chia thành bảy cõi phụ, mỗi cõi phụ được cấu tạo bằng chất liệu có độ đậm đặc và trạng thái riêng. Vì không đủ từ ngữ, chúng ta phải gọi cõi phụ này “cao” hay “thấp” hơn cõi phụ kia, nhưng không phải những cõi phụ này tách rời nhau, chiếm vị trí riêng biệt trong không gian, chồng chất lên nhau như một kệ sách, hoặc bao bọc nhau như những lớp vỏ của một củ hành, mà chất liệu của mỗi cõi hay mỗi cảnh đều xuyên thấm vào những cõi hay cảnh thấp hơn nó. Như thế, tất cả mọi cõi và cảnh đều hiện tồn trên mặt đất chúng ta đang sống, dù chất liệu của cõi cao hơn thì vươn ra xa hơn khỏi mặt đất so với cõi thấp hơn.

Khi nói một người tiến lên từ một cõi hay cảnh này đến một cõi hay cảnh khác, ta biết rằng không phải người ấy di chuyển trong không gian, mà người ấy chỉ chuyển di tâm thức từ mức độ này đến mức độ khác. Dần dần người ấy không còn đáp ứng những rung động của một loại vật chất thấp, và bắt đầu đáp ứng những rung động của loại vật chất cao hơn và thanh nhẹ hơn. Như thế, quang cảnh và cư dân của một thế giới dần dần phai mờ trước thị giác của họ, thay vào đó một thế giới khác thanh cao hơn hiện ra. AP 15

Trừ cõi phụ thứ 7, ta có thể nói nhóm cõi phụ 4,5,6 của cõi trung giới có bối cảnh liên hệ đến cõi trần mà chúng ta đang sống với đầy đủ mọi vật thể quen thuộc. Đời sống ở cõi phụ thứ sáu không khác gì với đời sống bình thường ở cõi trần, ngoại trừ không có xác thân và những nhu cầu. Khi lên đến cõi phụ thứ năm và thứ tư thì mức độ vật chất càng lúc càng ít đi, và con người càng tách rời khỏi thế giới thấp và ảnh hưởng của nó. AP 18

Thế nhưng, Chân sư DK nói thế nào về điều này?

Khi bạn nói về việc chân ngã nắm quyền kiểm soát ít nhiều đối với một người, bạn thực sự có ý nói rằng y đã đưa vào cơ thể mình vật chất của các cảnh giới phụ cao hơn. Chơn ngã chỉ quan tâm kiểm soát khi con người hầu như đã loại bỏ hoàn toàn vật chất của các cảnh phụ thứ bảy, thứ sáu và thứ năm khỏi các hiện thể của mình. Khi y đã xây dựng được một tỷ lệ nhất định vật chất của cảnh phụ thứ tư, chân ngã mở rộng sự kiểm soát của nó; khi có một tỷ lệ nhất định của cảnh phụ thứ ba, bấy giờ con người ở trên Thánh đạo; khi vật chất của cảnh thứ hai chiếm ưu thế thì y sẽ được điểm đạo, và khi vật chất của y chỉ là chất nguyên tử thì y trở thành Chân sư. Vì vậy, cảnh phụ mà con người đang ở là quan trọng, và việc nhận ra sự phân cực của anh ta làm sáng tỏ sự sống. WM113

When you speak of the ego taking more or less control of a man you really mean that he has built into his bodies matter of the higher sub-planes.

The ego takes control with interest only when the man has almost entirely eliminated matter of the seventh, sixth, and fifth sub-planes from his vehicles. When he has built in a certain proportion of matter of the fourth sub-plane the ego extends his control; when there is a certain proportion of the third sub-plane, then the man is on the Path; when second sub-plane matter predominates then he takes initiation, and when he has matter only of atomic substance, he becomes a Master.

WM 113

Như tôi đã giải thích cho bạn trước đây, mỗi cảnh giới phụ có những tương quan của nó trên các cảnh giới chính. Do đó, khi bạn đã xây dựng vào các cơ thể của mình—vật chất, cảm xúc và trí tuệ—vật chất thuộc cõi phụ thứ ba của mỗi cảnh giới đó, thì Chân Ngã bắt đầu hoạt động một cách có ý thức và liên tục hơn bao giờ hết thông qua Phàm ngã đang chỉnh hợp. Có lẽ chúng ta có thể đảo ngược ý tưởng và phát biểu rằng chỉ khi vật chất thuộc cõi phụ thứ ba chiếm một tỷ lệ phần trăm nhất định (tỷ lệ phần trăm này là một trong những bí mật của Điểm đạo) được chứa trong các hiện thể thì Phàm ngã với tư cách là một tổng thể có ý thức mới nhận ra và tuân theo Chân ngã đó. Sau khi đạt được tỷ lệ phần trăm như vậy, lúc đó cần phải xây dựng trong vật chất của hai cảnh phụ cao hơn trên cõi trần và cõi tình cảm; do đó, người tầm đạo phải đấu tranh để thanh lọc và kỷ luật cơ thể vật lý và chế ngự cảm xúc. Thanh lọc và chế ngự mô tả công việc được thực hiện trên hai cõi giới. Điều này liên quan đến việc sử dụng hạ trí, và do đó ba hạ thể trở nên chỉnh hợp. LOM 3

As I have explained to you before, each subplane has its correlations on the major planes. When, therefore, you have built into your bodies,—physical, emotional and mental,—matter of the third subplane of each of those planes, then the Higher self commences consciously and ever more continuously to function through the aligning Personality. Perhaps we might reverse the idea and state that it is only when third subplane matter of a certain percentage (which percentage is one of the secrets of Initiation) is contained in the vehicles, that the Personality as a conscious whole recognises and obeys that Higher self. After such a percentage is attained, it is then necessary to build in matter of the two higher subplanes on the physical and emotional planes; hence the struggle for the aspirant to purify and discipline the physical body and to subdue the emotional. Purification and subjugation describe the work to be done on the two planes. This involves the use of lower mind, and the three lower vehicles thus become aligned.

LOM 3

Và Ngài cụ thể hơn trong đoạn sau:

Lại nữa, bốn cuộc điểm đạo trước cuộc điểm đạo của vị chân sư, lần lượt đánh dấu việc đạt được những tỷ lệ nhất định của vật chất nguyên tử trong các thể—chẳng hạn, ở cuộc điểm đạo đầu tiên là một phần tư vật chất nguyên tử, ở cuộc điểm đạo thứ hai là một nửa vật chất nguyên tử, ở cuộc điểm đạo thứ ba, ba phần tư vật chất nguyên tử, và cứ thế cho đến khi hoàn thành. IHS 16

Again, the four initiations, prior to that of the adept, mark respectively the attainment of certain proportions of atomic matter in the bodies—for instance, at the first initiation one-fourth atomic matter, at the second one-half atomic matter, at the third three-quarters atomic matter, and so on to the completion. Since buddhi is the unifying principle (or the welder of all), at the fifth initiation the [Page 17] adept lets the lower vehicles go, and stands in his buddhic sheath. He creates thence his body of manifestation.

IHS 16

Đó là các yếu tố thuần tuý kỹ thuật. Thực tế, khi mô tả cõi cảm dục và các ảo cảm của con người, Ngài nói như sau:

Lại nữa, bốn cuộc điểm đạo trước cuộc điểm đạo của vị chân sư, lần lượt đánh dấu việc đạt được những tỷ lệ nhất định của vật chất nguyên tử trong các thể—chẳng hạn, ở cuộc điểm đạo đầu tiên là một phần tư vật chất nguyên tử, ở cuộc điểm đạo thứ hai là một nửa vật chất nguyên tử, ở cuộc điểm đạo thứ ba, ba phần tư vật chất nguyên tử, và cứ thế cho đến khi hoàn thành. IHS 16

Again, the four initiations, prior to that of the adept, mark respectively the attainment of certain proportions of atomic matter in the bodies—for instance, at the first initiation one-fourth atomic matter, at the second one-half atomic matter, at the third three-quarters atomic matter, and so on to the completion. Since buddhi is the unifying principle (or the welder of all), at the fifth initiation the [Page 17] adept lets the lower vehicles go, and stands in his buddhic sheath. He creates thence his body of manifestation.

IHS 16

Nói một cách tượng trưng, tôi muốn nói rằng thể cảm dục của hành tinh (khi nhìn nó từ các cấp độ linh hồn) bị mất hút trong độ sâu của sương mù xung quanh. Ban đêm, bạn nhìn ra bầu trời quang đãng nào đó, bạn sẽ thấy các vì sao, mặt trời và các hành tinh tỏa sáng với ánh sáng rực rỡ lạnh giá trong trẻo, và ánh sáng rực rỡ lấp lánh xuyên qua hàng triệu dặm (hay năm ánh sáng như chúng được gọi) cho đến khi mắt người ghi nhận chúng và ghi chép sự tồn tại của các ngôi sao tỏa chiếu này. Tuy nhiên, khi nhìn vào thể cảm dục của hành tinh, nếu các bạn có thể làm thế, bạn sẽ không thấy được sự chiếu sáng trong trẻo như thế mà chỉ thấy một quả cầu u ám có vẻ của hơi nước và sương mù. Sương mù này có một độ đậm đặc và độ dày sẽ cho thấy chẳng những không thể xuyên qua mà còn cho thấy các điều kiện không thuận lợi cho sự sống. Tuy nhiên vốn là các Chân Sư nội môn, chúng tôi vượt qua, đến và đi, và trong đám sương mù đó—nhìn thấy mọi thứ đều bị biến dạng và lệch lạc —các con của nhân loại hoạt động cực nhọc. Một số người quá quen thuộc với sương mù và sự đậm đặc này đến đổi họ vẫn không biết sự tồn tại của nó, mà xem nó là đúng và tốt, là vị trí không thể thay đổi trong cuộc sống hằng ngày của họ. Những người khác đã bắt được những cái nhìn thoáng qua yếu ớt của một thế giới sáng sủa hơn, trong đó các hình dạng hoàn hảo hơn có thể được nhìn thấy và nơi đó sương mù không che giấu một thực tại được cảm nhận một cách lờ mờ. Vẫn còn những người khác, chẳng hạn như chính bạn, nhìn thấy trước mặt bạn một con đường rộng mở dẫn đến ánh sáng ban ngày. GAW 70

Speaking symbolically, I would say that the planetary astral body (viewing it from soul levels) is lost in the [Page 70] depths of a surrounding fog. When at night you look out at some clear sky, you see the stars and suns and planets shining with a clear cold brilliancy and with a twinkling blazing light which penetrates for many millions of miles (or light years as they are called) until the human eye registers them and records the existence of these shining stars. Looking, however, at the astral body of the planet, could you but do so, you would see no such clear shining but simply a murky ball of seeming steam and mist and fog. This fog is of a density and thickness which would indicate not only impenetrability but also those conditions which are unfavourable to life. Yet we pass and come and go, we the Teachers on the inner side; and in that fog—seeing all things misshapen and distorted—labour the sons of men. Some are so habituated to the fog and the density that they remain oblivious of its existence, regarding it as right and good and the unchangeable place of their daily life. Others have caught faint glimpses of a clearer world wherein more perfect forms and shapes can be seen and where the fog hides not a dimly sensed reality—though what that reality may be they know not. Still others, such as yourselves, see before you an open path leading to the clear light of day. You know not yet, however, that as you tread the path you must, on the Path itself, work actively and intelligently with the surrounding glamour, following a trail blazed by those who have liberated themselves from the environing mists and passed on into a world of clear horizons. So much of the time spent by disciples on the Path is a process of almost cyclic immersion in glamour and fog, alternating with hours of clarity and vision.

GAW 70

Tuy nhiên, các bạn chưa biết rằng khi các bạn bước lên con đường mà bạn phải đi, trên chính Đường Đạo, các bạn phải làm việc một cách tích cực và sáng suốt với ảo cảm đang bao quanh, đi theo một đường mòn được chiếu sáng rực bởi những người đã tự giải thoát khỏi sương mù vây bọc và tiếp tục chuyển vào một thế giới có các chân trời trong sáng. Rất nhiều thời gian mà các đệ tử trải qua trên Đường Đạo là một tiến trình của sự chìm đắm hầu như theo chu kỳ trong ảo cảm và sương mù, xen kẻ với những giờ phút sáng sủa và nhìn xa trông rộng. GAW 70

You know not yet, however, that as you tread the path you must, on the Path itself, work actively and intelligently with the surrounding glamour, following a trail blazed by those who have liberated themselves from the environing mists and passed on into a world of clear horizons. So much of the time spent by disciples on the Path is a process of almost cyclic immersion in glamour and fog, alternating with hours of clarity and vision.

GAW 70

Có bốn điều mà các bạn tìm cách làm việc với ảo cảm cần nắm rõ; bốn nhận thức căn bản mà khi được hiểu rõ, sẽ giúp làm sáng tỏ và soi sáng, và do đó làm thông suốt con đường của bạn:

1.− Mỗi người đang đứng trong một thế giới bị ảo cảm bao quanh, vốn là kết quả của:

a. Quá khứ của riêng y, với suy nghĩ sai lầm, các ham muốn ích kỷ, và sự diễn giải sai các mục đích của sự sống. Không có, hoặc đã không có, sự hiểu biết về mục đích sống được dự định như linh hồn hình dung, và điều này không thể có cho đến khi có một tổ chức rõ ràng nào đó của thể trí.

b. “Đời sống ham muốn vọng” của gia đình y, cả quá khứ lẫn hiện tại. Đời sống này ngày càng trở nên mạnh khi sự tiến hóa tiếp diễn, và cuộc sống mong muốn của đơn vị gia đình trở nên nổi bật và được nhấn mạnh, tạo thành các khuynh hướng và đặc điểm tâm lý được kế thừa và thể hiện.

c. Ảo cảm quốc gia, vốn là toàn thể đời sống ham muốn, cộng với các ảo tưởng, của bất cứ quốc gia nào. Chúng ta gọi các điều này là các đặc trưng của quốc gia, và chúng rất bền bĩ và rõ rệt đến nỗi chúng thường được nhận thức như là những đặc điểm tâm lý tiêu biểu của quốc gia. Dĩ nhiên các điều này dựa vào các khuynh hướng của cung, lịch sử đã qua, và các mối tương quan trên thế giới, nhưng tạo ra trong chính chúng một tình trạng ảo cảm mà từ đó mỗi quốc gia phải hành động khi quốc gia đó tiếp tục tiến tới sự nhận thức (và đồng nhất hóa) với thực tại.

d. Mở rộng ý tưởng trên thành những gì mà chúng ta gọi là ảo cảm nhân loại (racial glamour), dùng từ racial để chỉ nhân loại. Điều này tạo ra một ảo cảm rất cũ xưa, hay gần như một loạt các ảo cảm, với các ham muốn cực đoan, các khao khát mãnh liệt thuộc một số loại, và các hình thể nhân tạo rõ rệt vốn – có tính linh động, bao bọc và đập nhịp với sự sống năng động – tìm cách [72] nắm giữ tâm thức nhân loại trên cõi cảm dục. Một quan niệm ảo cảm như thế là quan niệm về tiền bạc và giá trị vật chất của nó. Ham muốn ảo cảm này giống như sương mù dày đặc phân tán khắp nơi, cắt đứt linh thị về chân lý, và làm biến dạng một số rất lớn các giá trị của con người.

Each human being stands in an environing world of glamour which is the result of:

a. His own past, with its wrong thinking, selfish desires, and misinterpretation of the purposes of life. There is, or has been, no comprehension of the intended life purpose as visioned by the soul and there cannot be until there is some definite organisation of the mental body.

b. His family “desire life,” both past and present. This becomes increasingly potent as evolution proceeds and the desire life of the family unit becomes comes marked and emphasised, constituting then inherited and demonstrated psychological tendencies and characteristics.

c. National glamour, which is the sum total of the desire life, plus the illusions, of any nation. These we term national characteristics and they are so persistent and marked that they are usually recognised as embodying national psychological traits. These are, of course, based on ray tendencies, past history, and world inter-relations but constitute in themselves a glamorous condition out of which every nation must work as it marches on towards the realisation of (and identification with) reality.

d. An extension of the above idea into what we call racial glamour, using the word race to mean the human race. This constitutes a very ancient glamour or almost a series of glamours, of entrenched desires, potent aspirations of some kind and definitely human-made forms which—fluidic, enveloping and pulsating with dynamic life—seek to [Page 72] hold the consciousness of humanity upon the astral plane. Such a glamorous concept is that of money and its materialistic value. This glamorous desire is like a dense widely distributed fog, cutting off the vision of truth, and distorting a very large number of human values.

GAW 71-72

2. Đám sương mù này, ảo cảm này hiện nay đang bao phủ nhân loại, phải được nhận thức như là điều có thực rõ rệt và phải được xem như thế. Vị đệ tử hay người chí nguyện đang tìm cách xua tan ảo cảm trong cuộc sống riêng của y hoặc như một việc phụng sự thế giới, phải nhận thức rằng y đang làm việc với vật chất, với việc phá vỡ các hình thức mà vật chất đã khoác vào, và với việc làm tiêu tan một chất liệu vật chất đang bao quanh—vật chất theo cùng ý nghĩa như các hình tư tưởng là các sự vật có thực chất, nhưng (và đây là điểm quan trọng) có một bản chất ít thực chất hơn so với các hình thức ảo cảm trên cõi cảm dục. Chúng ta rất sẵn sàng nhớ rằng “các tư tưởng là các sự vật”, và rằng tư tưởng có một sự sống sắc tướng và một mục tiêu riêng của chúng. Nhưng chúng [các hình tư tưởng] có một sự tồn tại độc đáo và riêng biệt hơn, và có các đường nét được xác định rõ ràng hơn và rõ rệt hơn. Các hình thể ảo cảm trên cõi cảm dục thậm chí còn thực chất hơn, nhưng lại ít xác định rõ ràng hơn. Các hình tư tưởng thì năng động, xuyên thấu, sắc sảo và có đường nét bên ngoài. Các ảo cảm thì lại âm ỉ, mơ hồ và bao trùm. Trong ảo cảm, một người bị đắm chìm như trong đại dương hay trong một “biển sương mù”. Với các hình tư tưởng, y bị đương đầu hay bị đối mặt, nhưng không bị đắm chìm. Hầu như có thể nói rằng thể cảm dục của một người xuất hiện như một phần của ảo cảm chung của thế giới; y khó phân biệt giữa thể cảm dục riêng của y với các ảo cảm đang ảnh hưởng, chế ngự và nhận chìm y. Vấn đề của y trên cõi trí được xác định rõ ràng hơn, dù là nó cũng khó khăn như nhau. GAW 72

This fog, this glamour which envelops humanity at this time must be realised as a definite substantial thing, and must be dealt with as such. The disciple or aspirant who is seeking to dispel glamour, either in his own life or as a service rendered to the world, must recognise that he is working with substance, with the breaking up of the forms which it has assumed, and with the dissipation of a material all-enveloping substance—material in the same sense as thoughtforms are substantial things but (and here is a point of importance) of a less substantial nature than the forms of glamour found upon the astral plane. We are quite willing to remember that “thoughts are things” and that they have a form life and a purpose of their own. But they have a more unique and separative existence, and more clearly defined and more definite outlines. The forms of glamour on the astral plane are even more substantial but are less clearly defined. Thoughtforms are dynamic, penetrating, clear cut and outlined. Glamours are smothering, vague, and enveloping. In them, a person is immersed as in the ocean or in a “sea of fog.” With thoughtforms, he is confronted or faced, but not immersed. It might almost be said that the astral body of a person comes into being as a part of the general world glamour; it is difficult for him to differentiate between his own astral body and the glamours which affect and sway and submerge him. His problem upon the mental plane is more clearly defined, even if it is equally difficult.

GAW 72

Đến đây, có lẽ chúng ta đã hiểu câu nói của Chân sư DK:

Bí mật của Vị Chân sư là khám phá ra rằng không có cõi trung giới; Ngài thấy rằng cõi trung giới là một sản phẩm của trí tưởng tượng và đã được tạo ra thông qua việc sử dụng trí tưởng tượng sáng tạo một cách thiếu kiểm soát và lạm dụng quyền năng huyền thuật. Công việc của Thánh đoàn chủ yếu là chấm dứt bóng tối và xua tan hơi ẩm; mục đích của các Chân sư là soi sáng linh hồn và chứng tỏ rằng tinh thần và vật chất là hai thực tại cấu thành các đơn vị và nó chỉ tồn tại trong thời gian và không gian và thông qua việc lạm dụng theo chu kỳ của các quyền năng huyền thuật và tâm linh, rằng cõi trung giới của ảo tưởng vĩ đại đã ra đời, và giờ đây là một điều gì thực đến mức—theo một nghĩa nào đó—nó thực hơn (đối với con người) so với vương quốc ánh sáng và vương quốc của hình tướng. WM615

Cõi Trung giới là có thực, nó là một thực tế, nhưng các hình tướng trên đó không phản ảnh thực tại, trừ phân cảnh cao nhất, và trừ khi vật chất của thể cảm dục chúng ta được cấu thành từ vật chất của cõi phụ thứ nhất, chúng ta vẫn trong vòng kềm toả của ảo cảm—đậm đặc hay tinh vi.

Do đó, liên quan đến ảo cảm trên cõi cảm dục, ánh sáng trong con người—tự cảm ứng và tự tạo ra — không bao giờ thâm nhập hoặc làm tiêu tan bóng tối và các điều kiện sương mù độc hại. Ánh sáng duy nhất có thể xua tan những làn sương mù của ảo cảm, và loại bỏ những ảnh hưởng xấu của nó ra khỏi cuộc sống là ánh sáng của linh hồn, mà, giống như một chùm ánh sáng xua tan thuần túy —sở hữu phẩm chất lạ lùng và độc đáo của sự tiết lộ, của sự làm tiêu tan tức thời, và của sự khai ngộ.

Sự tiết lộ được ban cho này khác với sự mặc khải của trực giác vì nó là sự tiết lộ cái mà ảo cảm che đậy và che giấu, là sự tiết lộ duy nhất đối với cõi cảm dục và bị chi phối bởi các định luật của nó. Việc sử dụng ánh sáng linh hồn đặc biệt này có hình thức tập trung ánh sáng (xuất phát từ linh hồn, qua thể trí) lên trạng thái ảo cảm—riêng biệt hay cụ thể, hoặc tổng quát và toàn thế giới—do đó bản chất của ảo cảm được tiết lộ, tính chất và nền tảng của nó được khám phá, sức mạnh của nó bị chấm dứt bởi một giai đoạn tập trung ổn định, kéo dài được dành cho việc xua tan tình trạng đó. GAW 139

So it is on the astral plane in relation to glamour; the light which is in man, self-induced and self-generated, fails ever to penetrate into or to dissipate the gloom and the foggy miasmic conditions. The only light which can dissipate the fogs of glamour and rid the life of its ill effects is that of the soul, which—like a pure dispelling beam—possesses the curious and unique quality of revelation, of immediate dissipation, and of illumination. The revelation vouchsafed is different to that of the intuition for it is the revelation of that which the glamour veils and hides, which is a revelation unique to the astral plane and conditioned by its laws. This particular utilisation of soul light takes the form of a focussed concentration of the light (emanating from the soul, via the mind) upon the state of glamour—particular or specific, or general and world-wide—so that the nature of the glamour is revealed, its quality and basis is discovered, and its power is brought to an end by a steady, prolonged period of concentration which is given to the dispelling of the condition.

GAW 139

Download file pdf ở đây

Tài Liệu đọc thêm:

Cõi Trung Giới (The Astral Plane) — C. W. Leadbeater

Hành Trình Một Linh hồn (A Soul’s Journey —Peter Richelieu )

Loạt bài Cấu Tạo Con người trên minhtrietmoi.org,

Các bài về Cõi Trung Giới trên minhtrietmoi.org

A Treatise on White Magic

Leave Comment