Thiên khải tinh thần

Câu chuyện về tâm thức con người là câu chuyện về chủ đề ánh sáng. Thông thường, chúng ta hay nghĩ về ánh sáng trong biểu đạt vật lý rõ ràng của nó. Tuy nhiên, khi được xem xét rộng hơn, và với con mắt nội môn, chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra rằng ánh sáng là một chủ đề rộng lớn hơn nhiều. Khi được nhìn từ một góc độ tinh thần, có nhiều dạng ánh sáng phải được xem xét. Có ánh sáng của tình thương, ánh sáng của tri thức và ánh sáng của vẻ đẹp, đấy là mới chỉ một số trong nhiều biểu đạt của ánh sáng. Mỗi ánh sáng có sức mạnh làm hiển lộ để hỗ trợ sự tiến hóa của tâm thức con người.

“Ánh sáng được biết đến bởi những gì mà nó làm hiển lộ” (Light is known by what it reveals). Trong câu nói đơn giản này ta thấy có một sự thật với tầm quan trọng sâu sắc. Chúng ta thường nói rằng chúng ta tìm cách để “soi sáng” về một vấn đề với ý nghĩa của sự xuất hiện tri kiến hay hiểu biết mới. Mọi biểu đạt của ánh sáng, khi được nhận thức trong nội tại, đều mở tâm thức con người ra với những tầm nhìn mới mẻ của sự thấu hiểu và minh triết. Khi được thành tựu hoàn toàn, sự khai sáng – giác ngộ chắc chắn là một phần thưởng. Ánh sáng soi chiếu những lĩnh vực chưa được biết tới của bản thể, do đó làm hiển lộ ngày càng nhiều hơn thiên tính của chính chúng ta. Như vậy, ánh sáng và sự thiên khải là không thể tách rời. Ánh sáng là nguyên nhân, trong khi sự thiên khải là kết quả của nó.

Ánh sáng siêu nhiên củng cố và là nền tảng cho mọi thứ hiện hữu. Từ đó, tất cả mọi hình tướng khởi sinh bên trong Sự Sáng Tạo. Thực tế, mỗi người đệ tử là một tác nhân của ánh sáng. Vai trò của người đệ tử là mang ánh sáng vào những nơi tăm tối, và đưa mầm mống của những ý tưởng mới mẻ vào trường tư tưởng tập thể của nhân loại. Công việc huyền thuật của người đệ tử là mang khái niệm phôi thai vào hiện hữu bên ngoài, đánh thức chánh tư duy, và bằng cách này vun bồi và nuôi dưỡng ý thức của đại chúng. Dưới đây là danh sách một vài trong số nhiều dạng ánh sáng mà người đệ tử được kêu gọi mang tới cho thế giới.

Thiên khải và tiến hóa gắn bó chặt chẽ với nhau. Thiên khải đơn giản là một cách mô tả những tác động liên tục của ánh sáng lên tâm trí con người. Theo nghĩa rộng nhất, sự tiến hóa của tâm thức nhân loại không gì khác ngoài một sự thiên khải liên tục khai mở diễn ra qua thời gian dài rộng. Thiên khải và tiến hóa song hành cùng nhau bởi chúng là hai mặt của cùng một đồng xu.

Từ đó, ta có thể thấy rằng thiên khải và con đường đệ tử là những chủ đề đồng hành cùng nhau. Thực tế, thiên khải là đặc quyền chính yếu của người đệ tử tinh tấn nỗ lực. Qua sức mạnh thiên khải của trí tuệ, nhiệm vụ của tất cả những người đệ tử là đóng vai trò như những tác nhân sáng tạo để hỗ trợ sự tiến hóa của nhân loại hướng tới một phương cách hiện hữu minh triết hơn.

Tại sao như vậy? Câu trả lời đến khi chúng ta mở rộng quan điểm của mình để bao gồm mối quan hệ của nhân loại với Hành Tinh Thượng Đế, sinh mệnh phú linh cho Trái Đất và toàn bộ chúng sinh trên đó. Khi Hành Tinh Thượng Đế tiến hóa thì chúng ta cũng tiến hóa. Thực sự, tâm thức tập thể của giới nhân loại đại diện cho luân xa cổ họng của Hành Tinh Thượng Đế.

Luân xa cổ họng có vai trò như lối ra sáng tạo mà qua đó linh hồn tìm cách biểu đạt. Cho dù nói đến điều này trong mối quan hệ với một cá nhân con người hay Hành Tinh Thượng Đế thì qua chính luân xa cổ họng mà các nguyên mẫu thiêng liêng được ghi nhận và định hình vào biểu đạt sáng tạo. Luân xa cổ họng do đó là luân xa chính yếu được sử dụng trong công việc sáng tạo của cả người đệ tử và Thượng Đế. 

Nếu toàn thể nhân loại là luân xa cổ họng đối với Hành Tinh Thượng Đế thì điều này có ý nghĩa gì về định mệnh và mục đích của giới nhân loại? Điều đó có nghĩa là về mặt tập thể, chúng ta là những tác nhân truyền tải hỗ trợ cho những ý tưởng sáng tạo được thúc đẩy bởi Hành Tinh Thượng Đế. Những rung động cao cả này được ghi nhận bên trong tâm trí người đệ tử như là ánh sáng của những ý tưởng mới mẻ và cấp tiến. Theo nghĩa chân thực nhất, đây chính là sự thiên khải. Đó là hành động (một cách cá nhân và tập thể) như một cơ quan biểu đạt cho Sự Sống Vĩ Đại hơn, Hành Tinh Thượng Đế.

HAI DẠNG THIÊN KHẢI

Có hai phạm trù thiên khải rộng. Đôi khi được gọi là các thiên khải sơ cấp và thứ cấp, cả hai đều truyền tải những tri kiến có tác dụng nâng đỡ tinh thần và chuyển hóa. Về cơ bản, cả hai đều làm hiển lộ Ánh Sáng Siêu Nhiên, hoặc trực tiếp (các thiên khải sơ cấp) hoặc gián tiếp (các thiên khải thứ cấp). Đối với những người chí nguyện và đệ tử, chính các thiên khải thứ cấp là cái có khả năng liên quan nhiều đến cái trí nhất. Các thiên khải này mang tính cá nhân hơn, thường liên quan đến sự phát triển tinh thần hay công việc phụng sự của người đệ tử trong thế giới. Các thiên khải thứ cấp thường có thể rút giảm thành lời, và cũng có thể có những ngụ ý hướng dẫn trong công việc nhóm. Các thiên khải thứ cấp thường được khởi phát từ cõi bồ đề, nhưng được lọc qua minh triết của phàm ngã được chứa trong thể nguyên nhân của một người. Đó là lý do tại sao những thiên khải như vậy dường như có một cảm giác mang tính cá nhân đối với họ.

Mặt khác, các thiên khải sơ cấp hoàn toàn vô tư (impersonal, vô ngã), không mang tính cá nhân. Những tri kiến được cảm nhận qua ánh sáng như thế thường về những chu kỳ thời gian rộng lớn và áp dụng cho toàn thể nhân loại. Bởi vì chúng có xung lực từ cõi bồ đề vô sắc và vượt ngoài đó, chúng được cảm nhận trong nội tâm như những hiểu biết vô sắc tướng, chúng không bị lọc qua nội dung của thể nguyên nhân. Những thiên khải sơ cấp hiếm khi được trải nghiệm, và chỉ có thể xảy ra với những người ít nhất đã thành tựu cấp bậc Điểm Đạo Đồ trên Đường Đạo.

Những thiên khải sơ cấp tất nhiên liên quan đến các công việc của Đạo Viện nội giới, và Thiên Cơ trong sự khai mở toàn cầu về dài hạn. Ngược lại, những thiên khải thứ cấp liên quan đến biểu hiện của những yếu tố khác nhau của Thiên Cơ hơn khi được đưa vào thế giới bên ngoài bởi những cá nhân đệ tử và các nhóm làm việc. Thiên khải sơ cấp do đó tiết lộ bản thiết kế gốc của cái sẽ là, trong khi thiên khải thứ cấp cung cấp tri kiến cụ thể cho việc thực thi nó.

Lưu ý rằng thiên khải chỉ có thể tiết lộ cái luôn hiện diện. “Không có điều gì mới mẻ dưới ánh mặt trời”. (There is nothing new under the sun). Cho dù ta đang xét tới thiên khải sơ cấp hay thứ cấp, nguồn cội của chúng luôn là lĩnh vực của Tam Nguyên Tinh Thần, nhất là cõi bồ đề. Như nhà hiền triết Ấn Độ Patanjali gọi đó là “đám mây mưa của những điều khả tri” (the raincloud of knowable things), cõi bồ đề chứa đựng những nguyên mẫu của cái đã và sẽ luôn hiện hữu. Việc chúng ta không thể ghi nhận bằng trực giác những nguyên mẫu này đơn giản biểu thị cho khả năng hạn chế của chúng ta để cảm nhận điều đã luôn tồn tại.

MA TRẬN NỀN TẢNG CỦA THIÊN KHẢI
Thiên khải khai mở trong tâm thức người đệ tử như thế nào? Theo nghĩa rộng nhất, có ba yếu tố cơ bản của quá trình thiên khải. Ba yếu tố này có thể gọi đơn giản là – thâm nhập, phân cực hóa và kết tụ. Chúng tạo thành ma trận nền tảng cho quá trình thiên khải.
 
Thâm nhập (Penetration)

Yếu tố đầu tiên trong ma trận thiên khải được gọi là thâm nhập. Người đệ tử phải bắt đầu bằng việc tham thiền phóng chiếu một khía cạnh của chính y vào những chiều sâu nội tâm vượt ngoài vùng nhận thức thông thường của y. Đó là một quá trình dịch chuyển vào một chiều kích vô sắc tướng và vi tế sâu thẳm bên trong, đôi khi được gọi là một sự tiến nhập vào khoảng trống. Để thực hiện điều này một cách đúng đắn, hành giả cần tạo ra một vòng giới hạn (a ring-pass-not) trong khi tham thiền. Một vòng giới hạn ngụ ý việc giữ tâm trí sao cho ngăn chặn sự xao lãng trong khi tham thiền. Đó là tạo ra trong nội tâm một vòng bao quanh (bên trong tâm trí) không cho phép sự can thiệp tiến nhập để giúp duy trì một cảm thức tập trung vào tiêu điểm.

Để tạo được vòng giới hạn này thành công, hành giả cần vận dụng ý chí, vì ý chí là năng lượng xác định mục đích và thiết lập âm điệu cho tiêu điểm nhất tâm. Một khi đã được thiết lập, hành giả sau đó chủ động phóng chiếu một đường ánh sáng và sức mạnh vào những vùng nhận thức vi tế nhất mà y có thể tiến nhập vào trong nội tâm, và đó chính là sự xâm nhập, xuyên thấu.

Lưu ý rằng độ sâu của sự thâm nhập đạt được (mà không sử dụng trí tưởng tượng) sẽ thay đổi tùy theo vị trí của người đó trên Đường Đạo. Đối với người đệ tử, mục tiêu thâm nhập là thể nguyên nhân, trong khi đối với điểm đạo đồ, mục tiêu thâm nhập là cõi bồ đề và Đạo Viện bên trong đó.

Phân cực hóa (Polarization)

Yếu tố thứ hai trong ma trận thiên khải là sự phân cực hóa. Khi giai đoạn đầu (thâm nhập) đã đạt được thành công, tâm thức thiền giả giờ đây được phân cực hóa. Có nghĩa là có hai khía cạnh tâm thức khác biệt có thể được nhận ra trong nội tâm – điểm tập trung của nhận thức bên trong tâm trí, và vùng nhận thức được nâng cao được chạm tới và được giữ vững như là kết quả của quá trình phóng chiếu.
Lưu ý rằng trong thuật ngữ nội môn, “phân cực hóa” có nghĩa là có một mối quan hệ không bị cản trở giữa hai chiều tâm thức được trải nghiệm bởi thiền giả. Xét về mặt tinh thần, người đệ tử có trải nghiệm về việc hiện hữu ở hai nơi cùng một lúc. Đó là cả cao và thấp cùng một lúc; nhận thức đại đồng phổ quát đồng thời cảm nhận bản thân được neo bên trong những đặc thù của cái trí. Đó là trải nghiệm bản thể như Toàn Thể, đồng thời nghịch lý thay, biết bằng bản thể chỉ là một phần trong Toàn Thể.

Kết tụ (Precipitation)

Khi sự phân cực hóa có thể được giữ trong một thời gian, yếu tố thứ ba trong ma trận thiên khải trở nên hoạt động. Đó là sự kết tụ. Điểm cao của tâm thức đã phân cực hóa của người đệ tử bắt đầu kết tụ minh triết của linh hồn (hay các trực giác từ Đạo Viện) vào thể trí tiếp nhận.

Cõi bồ đề (cõi trực giác) liên quan đến nguyên tố khí nên không ngạc nhiên khi nó được gọi là đám mây mưa của những điều khả tri. Đám mây mưa trên cõi nội giới bắt đầu kết tụ những tri kiến của nó vào thể trí đang chờ đợi của người đệ tử giữ tâm trí ổn định. Giống như nhà nông học có thể gieo mầm những đám mây vào bầu trời để hỗ trợ việc làm mưa, tương tự, người đệ tử gieo mầm đám mây mưa bên trong những chiều sâu tâm thức. Nhờ thế mà thiên khải xuất hiện, và những ý tưởng mới mẻ và cấp tiến bắt đầu tuôn mưa xuống thể trí tiếp nhận của người đệ tử.

CÁC GIAI ĐOẠN THIÊN KHẢI

Có những giai đoạn đặc trưng cho những thiên khải soi sáng tâm trí con người.

Giai đoạn 1 – Nhận biết (Recognition)

Dấu ấn của giai đoạn thiên khải đầu tiên là sự thức tỉnh của cái trí và trái tim trước sự hiện diện của nó. Điều này thường được trải nghiệm như là một khoảnh khắc “aha”, và được đặc trưng bởi tính mở rộng trong những hiệu ứng của nó. Bởi vì những thiên khải tinh thần thực sự liên quan đến trí tuệ và trái tim, cảm thức mở rộng sự thấu hiểu này thường đi kèm với một cảm thức hân hoan, thậm chí ngất ngây.

Giai đoạn 2 – Bóng tối (Darkness)

Theo sau nhận thức về thiên khải là một giai đoạn bóng tối. Linh thị mờ dần khỏi cái trí của người đệ tử, dường như mất đi và không thể phục hồi lại được. Tất cả những gì còn lại chỉ là một phác thảo rộng (nét chính đại cương) của những gì đã được tiết lộ. Trải nghiệm thoáng qua này đôi khi có thể khiến người đệ tử rơi vào một trạng thái tuyệt vọng và không chắc chắn, tự hỏi liệu những gì đã được hình dung có phải chỉ là tưởng tượng. Mặc dù tâm thức thông thường giờ đây đã tái xuất hiện trọn vẹn, một hạt giống trực giác dù vậy đã được gieo vào sâu kín bên trong tâm trí người đệ tử. Về cơ bản, đây là giai đoạn nảy mầm cũng như là thời gian thử thách. Nó đòi hỏi người đệ tử phải tiến tới mà không cần kích thích thiên khải. Tại thời điểm này, sẽ khôn ngoan khi người đệ tử nhận ra điều này, tin tưởng rằng cuối cùng mọi thứ sẽ rõ ràng hơn.

Giai đoạn 3 – Thể hiện (Embodiment)

Giai đoạn cuối cùng là giai đoạn người đệ tử áp dụng linh thị thiên khải. Nó trở thành một khía cạnh được tích hợp vào cách y hiện hữu và sống trong thế giới. Linh thị trở thành một kiểu mẫu nhận thức đã phát triển trọn vẹn trong tâm thức người đệ tử. Nó hoạt động như một lăng kính nhìn vào thế giới, và nó sẽ tự hiển lộ trong công việc phụng sự được kết xuất từ đó. Ánh sáng thiên khải không chỉ còn là một ý tưởng được nhận ra và nảy mầm trong tâm trí, vì giờ đây nó đã được tổng hợp vào bản sắc linh hồn. Cần nhớ rằng cách hiệu quả nhất để mang ánh sáng vào thế giới là trở thành hiện thân tỏa rạng của nó.

THIÊN KHẢI VÀ ĐIỂM NHẤT TÂM

Thiết lập điểm nhất tâm là điều kiện tiên quyết cơ bản cho thiên khải xuất hiện một cách đúng đắn. Khi đó, tâm thức người đệ tử được đặt vào một trạng thái tiếp nhận tích cực sẵn sàng cho ánh sáng thiên khải từ linh hồn và đạo viện nội giới tiến vào.

Qua việc sử dụng điểm nhất tâm, người đệ tử trong tham thiền được đưa vào một sự chỉnh hợp theo chiều dọc với cái nhìn thiên khải của linh hồn. Bằng cách này, thiên khải có thể xảy ra. Điều này gợi ý rằng cần phải giữ vững một cảm thức nội tâm về ý chí tinh thần và phóng chiếu ý chí đó vào những chiều sâu của tâm thức. Sau đó người đệ tử xướng linh từ OM tại điểm nội tâm cao nhất mà y có thể đạt đến trong khi giữ tâm trí ổn định, không lay chuyển. Đó là sử dụng ý chí để giữ cho cái trí cố định và yên tĩnh, nhờ đó cho phép trực giác vô sắc tướng bắt đầu làm cho những ý tưởng thiên khải tiến vào tâm thức tiếp nhận của người đệ tử.

Việc nuôi dưỡng và sử dụng điểm nhất tâm để hỗ trợ thiên khải không dễ dàng. Đó là công việc được phát triển từ từ, đầu tiên một cách vô thức và sau đó với ý thức trọn vẹn. Sự phát triển như vậy chỉ có thể được khi phàm ngã được định hướng theo 3 cách.

(1) Nó phải hoàn toàn cam kết chỉnh hợp với linh hồn. Linh hồn cần một phàm ngã tích hợp và dâng hiến mong mỏi hướng thượng để tiếp nhận ánh sáng thiên khải của nó. Điều này đòi hỏi sự đầu tư trọn vẹn của phàm ngã trong bản chất tam phân của nó. Hạ trí cụ thể phải ở trong một trạng thái tĩnh lặng tiếp nhận, cảm xúc phải yên tĩnh ấm áp, và thể xác sẵn sàng hành động khi linh hồn đưa ra xung động để thực thi thiên khải vào thế giới bên ngoài.

(2) Nó phải dâng hiến cho việc phụng sự nhân loại. Chắc chắn phải có một khoảng thời gian (thường là vài kiếp sống) mà trong đó Định Luật Phụng Sự (định luật thứ ba của linh hồn) đã tắm phàm ngã với cảm thức trách nhiệm vì phúc lợi của nhân loại và sự nâng đỡ nhân loại. Sau đó, việc nhìn thấy đời sống qua lăng kính phụng sự tinh thần là một cam kết được xây dựng vào trong tâm thức của phàm ngã.

(3) Nó phải biết vai trò của mình như là kẻ thực thi ánh sáng thiên khải. Khi xem xét cấu tạo con người tam phân (chân thần, linh hồn và phàm ngã), phàm ngã đại diện cho khía cạnh thứ ba. Đây là khí cạnh thiêng liêng liên quan đến hoạt động thông tuệ bên ngoài. Như vậy, phàm ngã phải biểu hiện ánh sáng thiên khải này với một thái độ chủ động.

Điều quan trọng là nhận ra rằng thực sự có hai điểm nhất tâm, một cái liên quan đến đời sống nội tâm của người đệ tử và cái kia liên quan đến công việc phụng sự bên ngoài của y. Cái đầu tiên là điểm nhất tâm theo chiều dọc, trong khi cái thứ hai là điểm nhất tâm theo chiều ngang. Không giống như điểm nhất tâm chiều dọc liên quan đến sự chỉnh hợp của phàm ngã với linh hồn, dạng thứ hai liên quan đến những hoàn cảnh trong đời sống bên ngoài mà người đệ tử được kêu gọi đến để phụng sự. Y phải học cách giữ một cảm thức về ý định mục đích trong nội tâm tương phản với những hoàn cảnh trong thế giới bên ngoài đang cần nâng đỡ.

Việc thiết lập điểm nhất tâm, trong cả hai dạng, đều quan trọng đối với việc mang ánh sáng thiên khải vào thế giới một cách hiệu quả. Thực sự, biểu tượng chiều dọc và chiều ngang ở đây khá hữu ích về phương diện này. Vì người đệ tử phải học cách sống đời sống theo chiều dọc, trong khi chiều ngang thể hiện minh triết tràn đầy ánh sáng của y cho thế giới đang cần tới. Đây là một cách hiểu khác về biểu tượng Cơ Đốc về Thập Giá. Thực sự, đó là một thập giá nội tâm liên quan nhiều nhất đến con đường đệ tử thời hiện đại.

ANTAHKARANA VÀ ĐIỂM NHẤT TÂM

Antahkarana là đường dẫn mà qua đó linh hồn tìm cách ảnh hưởng những tư tưởng và hành động của phàm ngã. Chính qua sợi dây tâm thức của cầu antahkarana mà minh triết của linh hồn đi vào đời sống của chúng ta. Mức độ cầu antahkarana được xây dựng sẽ xác định tính rõ ràng và sự diễn giải đúng đắn linh thị thiên khải của linh hồn. Và bởi vì antahkarana là một cấu trúc chiều dọc (về mặt biểu tượng) giữa phàm ngã, linh hồn và chân thần, nó tương ứng với điểm nhất tâm được xác định theo chiều dọc mà chúng ta đang nói tới.

Khi tham thiền, người đệ tử phải học cách sử dụng ý chí để phóng chiếu bản thân vào các cõi giới vô sắc tướng sâu thẳm bên trong. Bằng cách làm như thế, điểm nhất tâm chiều dọc được thiết lập (dù ban đầu còn mong manh). Con đường của sự phóng chiếu này chính là bản thân cầu antahkarana. Thực sự, cầu antahkarana được kiến tạo một phần như là hệ quả của quá trình phóng chiếu tham thiền. Có một mối quan hệ mật thiết và tương thuộc lẫn nhau giữa cầu antahkarana và điểm nhất tâm chiều dọc.

Đó là lý do tại sao điều quan trọng là thiết lập một điểm nhất tâm trong thực hành tham thiền. Làm như thế cuối cùng đưa người đệ tử vào mối quan hệ với linh hồn và Đạo Viện. Nhưng nó cũng hỗ trợ quá trình kiến tạo tiếp tục cầu antahkarana. Quỹ đạo của của sự phóng chiếu chiều dọc (được thực hiện qua tham thiền) cung cấp đường đi cho cầu antahkarana được kiến tạo và duy trì. Mỗi nỗ lực thành công trong việc đẩy bản thân vào những chiều sâu mang cùng với nó một sợi dây của chất liệu thông tuệ, nhờ đó thêm vào việc kiến tạo cây cầu nội tâm này.

Giữ tâm trí ổn định trong ánh sáng

Khi trên đường Đạo, một trong những kỷ luật quan trọng cần được vun bồi là giữ tâm trí ổn định trong ánh sáng. Cái trí cần được yên tĩnh và đặt vào một trạng thái sẵn sàng để ghi nhận đúng đắn những thì thầm vô sắc tướng từ linh hồn, hoặc thậm chí từ Đạo Viện. Kỹ năng như vậy được vun bồi và cuối cùng thành thạo thông qua tham thiền huyền linh. Chúng ta phải học cách làm tĩnh lặng cái trí để vượt lên trên sự bận rộn và những chuyển động không kiểm soát của nó. Chắc chắn điều đó không hề dễ dàng vì thể trí có thể đôi khi dường như nó có một tâm trí của riêng chính nó vậy.

Thực sự, thiên khải không bị sai lạc chỉ có thể xuất hiện khi người đệ tử có thể giữ tâm trí ổn định trong ánh sáng. Điều này đòi hỏi vòng giới hạn được thiết lập để từ chối tất cả những tiếp xúc đến từ phàm ngã và những phiền nhiễu của thế giới bên ngoài. Khi như vậy, và điểm nhất tâm đã được thiết lập, tâm thức người đệ tử thoát khỏi sự giam cầm của phàm ngã và bắt đầu đồng nhất bản thân nó với linh hồn, hoặc với những người đang tiến gần đến giác ngộ, với chân thần.

Một khi đạt đến sự chỉnh hợp và định hướng này, người đệ tử bắt đầu cảm nhận rằng y đang được hấp thụ vào và hợp nhất với Sự Sống Vĩ Đại hơn (Thượng Đế). Y được đưa vào cõi trời thứ ba (như Thánh Paul đã mô tả, Kinh Thánh 2 Corinthians 12:2-4) nơi linh thị phúc lạc của Thực Tại được chiêm nghiệm sâu sắc. Sự phân chia chủ thể/khách thể được siêu việt, và Chân Lý vô sắc tướng được trực cảm vượt ngoài chức năng lý luận của cái trí. Trong khi điều này đang diễn ra bên trong những tầng nhận thức cao hơn, cái trí tiếp tục được giữ ổn định trong ánh sáng.

Rõ ràng rằng để giữ tâm trí ổn định cần:
  • Tạo ra một vòng giới hạn như là một phương tiện đẩy lùi những rung động gây nhiễu.
  • Thiết lập một điểm nhất tâm tại nơi sâu nhất (vi tế nhất) mà một người có thể chạm tới.
  • Một giai đoạn tiếp nhận tĩnh lặng hỗ trợ sự kết tụ.
Kiểu mẫu đời sống song đôi

Mặc dù chúng ta đã đang thảo luận về những thành phần cần thiết để kiến tạo cầu antahkarana qua tham thiền, điều đó cuối cùng sẽ có những hiệu ứng tàn dư trong suốt những giai đoạn không tham thiền trong ngày. Trên thực tế, sự phát triển của một điểm nhất tâm cuối cùng sẽ mang lại điều gì đó tương tự vào tâm thức hàng ngày của một người. Đây là ý nghĩa của từ kiểu mẫu đời sống song đôi. Nó gợi ý rằng công việc tham thiền của người đệ tử đã đạt tới một điểm phát triển nơi y trở nên ý thức về tâm thức cao hơn của mình trong khi hoàn toàn tham gia vào những hoạt động của đời sống bên ngoài.
Việc nuôi dưỡng điểm nhất tâm có một tác động giá trị khác nữa. Nó có thể làm cho người đệ tử dễ dàng có được những tri kiến hay hiểu được những ý tưởng khác nhau (những chủng tử tư tưởng, tư tưởng gốc/hạt giống) cần suy ngẫm thêm, thậm chí khi không tham thiền chính thức. Việc hiểu biết đúng đắn một ý tưởng hay tư tưởng gốc có thể đạt được khi ta có thể giữ nó “đằng sau của cái trí”. Được nhét vào nơi sâu thẳm của tâm trí, ý tưởng được giữ nhẹ nhàng, trong khi cái trí hữu thức vẫn tiếp tục cách thông thường của nó.

Sau đó, những gì đã được lưu trữ ở đằng sau cái trí được đưa lên hàng đầu trong suy nghĩ, chỉ để khám phá ra rằng một hiểu biết sâu sắc hơn về nó giờ đây được nhận ra. Trong khi được giữ ở đằng sau cái trí, tư tưởng hạt giống tiếp tục nảy mầm, thậm chí mặc dù cái trí cụ thể tương đối không chú ý đến nó. Vì người đệ tử đã liên tục kiến tạo một mối quan hệ theo chiều dọc với linh hồn, sử dụng điểm nhất tâm, khả năng này được nâng cao rất nhiều. Những nhận thức phát sinh từ đó khá sâu sắc, và có một tác động định hình lên đời sống bên ngoài và tính hữu dụng của một người đối với Đạo Viện. Đây là một ứng dụng khác của kiểu mẫu đời sống song đôi.

NHỮNG DẠNG ÁNH SÁNG THIÊN KHẢI

Dưới đây là danh sách một vài trong số nhiều dạng ánh sáng mà người đệ tử được kêu gọi mang tới cho thế giới.

Ánh sáng của Sự Thật
Ánh sáng của Cái Đẹp
Ánh sáng của Sự Sống
Ánh sáng của Tình Yêu
Ánh sáng của Linh Hồn
Ánh sáng của Trải Nghiệm
Ánh sáng của Trí Tuệ
Ánh sáng của những Giá Trị Cao Cả
Ánh sáng của Ý Chí Tinh Thần
Ánh sáng của Đạo Tâm (Aspiration)
Ánh sáng của Chân Thần
Ánh sáng của Thông Tuệ
Ánh sáng của Bảy Cung
Ánh sáng của Thiên Cơ
Ánh sáng của Tầm Nhìn
Ánh sáng của Hiểu Biết
Ánh sáng của Minh Triết
Ánh sáng của Tự Do
Ánh sáng của Tri Thức
Ánh sáng của Trực Giác
Ánh sáng của Ân Sủng
Ánh sáng của Sự Hiện Diện
Ánh sáng của Phàm Ngã
Ánh sáng của Đạo Viện
Ánh sáng của Hợp Nhất
Ánh sáng của Lý Tưởng
Ánh sáng của Mục Đích
Ánh sáng của Thấu Hiểu
Ánh sáng của Hy Sinh
Ánh sáng của Toàn Thể

Mặc dù danh sách này mới chỉ là một phần, nó cung cấp một hiểu biết về những dạng ánh sáng khác nhau định hình và ảnh hưởng đến trái tim và tâm trí của những người đệ tử ngày nay. Những dạng ánh sáng này là những đấu trường nhận thức mà từ đó người đệ tử phụng sự. Các dạng ánh sáng được nhận thức và biểu đạt bởi bất kỳ người đệ tử nào đều sẽ dựa trên một loạt những yếu tố khác nhau duy nhất đối với người đệ tử đó. Những thứ như là Cung Linh Hồn, các mãnh lực hoàng đạo trong lá số sinh và lá số tiến trình, và giai đoạn tiến hóa của người đệ tử, tất cả đều ảnh hưởng đến dạng ánh sáng nhiều khả năng sẽ được biểu đạt nhất.

Như được khắc ở Đền Apollo tại Delphi, câu cách ngôn “Hãy Tự Biết Mình” đại diện cho điểm khởi đầu đối với người đệ tử trên Con Đường Hướng Thượng. Thánh đạo bắt nguồn từ cuộc tìm kiếm nội tâm để cảm nhận được Ánh Sáng của Linh Hồn, và hơn thế nữa, là Ánh Sáng của Chân Thần. Cùng với Ánh Sáng của Phàm Ngã, chúng chuyên chở những dạng ánh sáng khác nhau, và mỗi ánh sáng lại có một tác động khác biệt lên tâm thức của người đệ tử. Con đường giác ngộ là một hành trình từ phàm ngã đến ánh sáng tỏa rạng của linh hồn, theo sau đó là nhận thức về ánh sáng vĩ đại nhất (dù vi tế nhất) bên trong cấu tạo mỗi người – ánh sáng chân thần.

ÁNH SÁNG CỦA PHÀM NGÃ

Đây là ánh sáng xuất hiện qua tâm thức gắn chặt với hình tướng, vốn là cái mà phàm ngã đại diện. Các vận cụ thể xác, thể cảm dục và thể trí mỗi cái đều góp ánh sáng vào nhận thức của phàm ngã. Chẳng hạn như, những tư tưởng cụ thể hàng ngày không gì khác mà chính là nhận thức về ánh sáng thiên khải nội tại bên trong chất liệu của thể trí; cảm nhận là trải nghiệm ánh sáng tỏa chiếu bên trong vận cụ cảm xúc, thường biểu đạt như là ánh sáng của ham muốn; trong khi năm giác quan được thiết kế để làm hiển lộ ánh sáng nội tại bên trong thể xác và thế giới hình tướng bên ngoài. Hãy nhớ rằng, ánh sáng được biết đến bởi những gì mà nó làm hiển lộ. Chúng ta biết đến ánh sáng của phàm ngã bởi những nhận thức xuất hiện qua tư duy cụ thể, những thèm muốn cảm xúc, và những giác quan hồng trần mà chúng ta trải nghiệm.

Ngoài ánh sáng của dục vọng và ánh sáng của hình tướng, còn có những ánh sáng phụ khác liên hệ với phàm ngã. Một trong những ánh sáng quan trọng nhất đó là ánh sáng của tri thức. Được xem như một trong những biểu đạt vĩ đại đầu tiên của sự phát triển tiến hóa, nó đã trợ giúp nhân loại trong sự phát triển trí tuệ, nhất là trí cụ thể. Bản tóm tắt tri thức nhân loại là sản phẩm của ánh sáng này, và là nền tảng của những hệ thống giáo dục trong xã hội hiện đại. Thú vị thay, khi một người bắt đầu thức tỉnh với linh hồn, ánh sáng của tri thức được cảm nhận trên một vòng xoáy cao hơn của xoắn ốc. Đó là bởi vì thể trí đang từ từ trở thành kênh tiếp nhận cho một dạng thông tuệ mang tính chất tinh thần nhiều hơn – trí tuệ của linh hồn.

ÁNH SÁNG CỦA LINH HỒN

Từ ánh sáng tâm linh này, linh hồn hữu thức được nhận ra trong trái tim và tâm trí của người đệ tử. Qua đó, minh triết của các thời đại xuất hiện bên trong tâm thức. Hỗ trợ cho việc này là ánh sáng của tình thương, vốn có bản chất và biểu đạt như tính chất của tâm thức Christ. Ở đây chúng ta đang không nói đến dạng tình yêu của phàm ngã. Tình thương của linh hồn mang tính vô ngã hơn nhiều. Đó là một dạng bác ái cao cả và được nhận ra khi chúng ta trải nghiệm tình thương dành cho toàn thể lớn hơn, như là tình thương với Mẹ Thiên Nhiên, hay tình thương dành cho toàn thể nhân loại.

Ánh sáng của linh hồn luôn mang theo cùng nó một nhấn mạnh vào bức tranh rộng lớn hơn. Nó làm cho tư duy rộng mở. Những chi tiết của đời sống vẫn quan trọng, nhưng qua ánh sáng này, chúng được hiểu trong một trường ý nghĩa rộng lớn hơn. Ánh sáng của linh hồn khiến cho một người có thể nhận ra rằng bối cảnh mang lại ý nghĩa cho nội dung. Trong khi phàm ngã bận rộn với nội dung và những chi tiết cụ thể, linh hồn soi sáng cái trí với minh triết dựa trên những thấu hiểu về bối cảnh.

Nhận thức như thế có được qua việc sử dụng con mắt thứ ba. Đôi khi được gọi là Con Mắt của Linh Thị (the Eye of Vision), đó là khí cụ nhận thức cần thiết để ghi nhận những tri kiến soi sáng của linh hồn. Điều này có thể biểu hiện theo nhiều cách. Chẳng hạn, nó có thể mang tới khả năng cảm nhận một sự hợp nhất sâu sắc ẩn kín, nhìn thấy đó như một sự thật được nhận ra vốn là nền tảng cho những hình tướng bên ngoài. Cái nhìn như thế làm thức tỉnh trong người đệ tử hiểu biết rằng những hình tướng mà chúng ta trải nghiệm (về mặt trí tuệ, cảm xúc và thể chất) che giấu một sự nhất thể thiêng liêng đằng sau chúng. Con mắt thứ ba cũng giúp một người cảm nhận được linh hồn ngự bên trong mọi thứ, cũng như tạo ra tính nhạy cảm cao với vẻ đẹp siêu việt.

Bên cạnh đó, ánh sáng của linh hồn còn sinh ra một cảm thức về trách nhiệm để tạo ra một sự đóng góp nâng cao tinh thần cho cái gì đó vượt ngoài bản thân, như là phụng sự vô kỷ. Cam kết mang ánh sáng vào thế giới trở thành phương châm và động lực cho đời sống. Khi ánh sáng linh hồn bắt đầu được nhận thức, điều đó biểu thị rằng ánh sáng kém hơn của phàm ngã bắt đầu mờ dần. Thực sự, đó chính là bản chất của chính cuộc tiến hóa. Ánh sáng kém hơn cuối cùng phải nhường chỗ cho ánh sáng lớn lao hơn – tia sáng phải nhường chỗ cho ngọn lửa.

Ánh sáng của hợp nhất và ánh sáng của phụng sự là những phát tỏa phụ để hỗ trợ linh hồn. Thêm vào đó, ánh sáng của minh triết trở nên hoạt động ngày càng tăng ở cấp độ phát triển này. Thực sự, thể nguyên nhân là kho chứa minh triết mà một người thu thập qua vô số kiếp sống. Minh triết do đó có thể được định nghĩa như là sự dung hợp của tri thức và bác ái, cộng với ánh sáng của trải nghiệm rút ra từ những kiếp sống quá khứ. Bản thân tri thức là đặc quyền của phàm ngã tích hợp, trong khi linh hồn là vị bảo trợ cho ánh sáng của minh triết. Dù vậy, minh triết không nên được xem như cái gì đó hoàn toàn xa rời với tri thức, bởi trên thực tế, minh triết đứng trên vai của tri thức.

Qua nhiều kiếp sống, ánh sáng của linh hồn ngày càng gia tăng sức ảnh hưởng dẫn dắt. Đồng thời, một cảm thức về hy sinh bắt đầu xuất hiện trong nội tâm. Ban đầu yếu ớt nhưng từ từ lớn dần lên khi linh hồn ngày càng nắm được quyền thống trị phàm ngã, ánh sáng hy sinh trở thành một hình mẫu dẫn dắt trong những nhận thức và quyết định của người đệ tử. Nó dần dần tỏa sáng giải phóng người đệ tử khỏi những khuynh hướng của phàm ngã muốn chiếm hữu. Nó đại diện cho sự hy sinh của cái thấp kém hơn nhân danh lời kêu gọi cao cả hơn của linh hồn. Nó là sự thu rút lại những ham muốn của phàm ngã vì những nhu cầu vô kỷ cao cả hơn của toàn thể. Về bản chất, ánh sáng linh hồn này thúc đẩy sự hy sinh cái tạm thời, vô thường cho cái vĩnh cửu, trường tồn.

Có lẽ điều quan trọng nhất đó là qua ánh sáng linh hồn mà Thiên Cơ dành cho nhân loại dần dần được cảm nhận. Linh hồn là tác nhân chuyên chở một mục đích sâu sắc hơn (mục đích cuộc đời của một người), và mục đích đó là một phần trong Cơ tiến hóa rộng lớn hơn. Ở một mức độ nào đó thì việc cảm nhận ánh sáng của linh hồn là để cảm nhận ánh sáng của Thiên Cơ như được chuyển tải bởi các Huyền Viện trên cõi nội giới.

ÁNH SÁNG CỦA CHÂN THẦN

Ánh sáng này xuất hiện qua trực giác tinh thần (buddhi, bồ đề hay spiritual intuition) và sử dụng thể nguyên nhân (vận cụ của linh hồn) như là cửa ngõ ghi nhận của nó. Thật khó để có thể nói rõ ràng bản chất của ánh sáng chân thần và ảnh hưởng soi sáng của nó. Đó là một dạng phát tỏa khởi sinh từ những cõi vô sắc tướng (formless) vượt ngoài linh hồn, và do đó cực kỳ vi tế để có thể phát hiện. Hơn nữa, khi nói đến ánh sáng siêu việt linh hồn, càng khó hơn để tìm ngôn ngữ diễn tả được nó.

Ánh sáng chân thần tiết lộ những nguyên mẫu của chân lý và kiểu mẫu của mọi thứ hiện hữu. Cấp độ ánh sáng này được nhận ra như là sự hiểu biết vô sắc tướng và mục đích thiêng liêng. Đó là nhìn thấy tất cả mọi thứ như thể bên trong chính mình, mà không có cảm giác về bản ngã (I-ness) trong nhận thức đó. Như thế, người nhận thức và cái đang được nhận thức được thấy như là một và giống nhau. Sự phân biệt giữa Bản Thể – Cái Ngã và cái phi ngã trở nên ít rõ ràng hơn nhiều. Nói cách khác, sự phân chia chủ thể/khách thể mờ dần khi tâm thức tiến vào trường phổ quát đại đồng. Trong khi ánh sáng của linh hồn mang đến cho người đệ tử một cảm giác về Nhất Thể nền tảng, ánh sáng của chân thần thức tỉnh con người với nhận thức rằng y chính là Nhất Thể đó. Trong ngôn ngữ nội môn, điều này được liên hệ đến như là Giai Đoạn Đồng Nhất (Stage of Identification). Đó là giai đoạn tiến hóa liên quan đến sự hiện hữu được khai sáng dẫn tới khả năng đồng nhất với Sự Sống Duy Nhất (the One), cũng như với tất cả những biểu đạt của đời sống được chứa đựng bên trong Nhất Thể đó.

Cần nhắc ở đây rằng trải nghiệm về dạng ánh sáng nội tâm này thuần khiết đến nỗi nhận thức mà nó tạo ra hoàn toàn vô ngã, đồng thời mang tính bao gồm sâu sắc. Về cơ bản, đó là một dạng Ánh Sáng Siêu Nhiên, và nó chuyển tải Ý Chí của Thượng Đế trên đôi cánh của mình. Nó tiết lộ Cõi giới của Bản Thể (the Realm of Being), vốn vượt ngoài quá trình tiến hóa của sự trở thành. Ánh sáng của chân thần cung cấp một cấp độ nhận thức ngang với nhận thức của một Chân Sư Minh Triết. Sống trọn vẹn bên trong ánh sáng này là một biểu thị của sự giác ngộ và Bản thể chân thực (Hiện hữu chân thực, true Beingness).
Khi người đệ tử ngày càng tăng sự hợp nhất tâm thức linh hồn với tâm thức của phàm ngã thì y có thể nhận được một chớp lóe thoáng qua của ánh sáng chân thần tuyệt vời này. Nếu khoảnh khắc hiển linh này thực sự xảy ra, nó báo trước sự hiện hữu tương lai của người đó bên trong Cõi giới của Bản Thể.

CON MẮT THỨ BA – TÁC NHÂN THIÊN KHẢI CỦA LINH HỒN

Con mắt thứ ba là cơ quan thiên khải cho linh hồn. Khi mở ra (ít nhất một phần nào) người đệ tử bắt đầu nhận thức một thực tại sâu sắc hơn vượt ngoài những gì năm giác quan có thể cung cấp. Đó là một dạng nhìn thấy vượt ngoài nhận thức về hình tướng. Thay vào đó, nó cung cấp một cái nhìn vào năng lượng, sự thật hay kiểu mẫu bên dưới hình tướng. Con mắt thứ ba chuyển tải cái nhìn nội tâm vào những cõi giới vi tế của đời sống. Không giống cái nhìn thông thường của chúng ta, nó nhìn thấy bản chất sâu sắc hơn của mọi sự.

Khi con mắt thứ ba thức tỉnh, người chí nguyện bắt đầu định hướng tâm thức mình theo hai hướng – trong nội tâm tập trung hướng đến linh hồn, và bên ngoài chú tâm hướng đến những năng lượng đang hiển lộ ra qua hình tướng. Khi hướng vào bên trong, con mắt thứ ba được đặt trong một trạng thái tiếp nhận với linh hồn và đạo viện. Bằng cách làm như thế, những thôi thúc trực giác từ linh hồn có thể được ghi nhận bên trong tâm trí, đặc biệt khi thiền giả có thể giữ tâm trí ổn định trong ánh sáng. Đây là một trong nhiều lợi ích của tham thiền huyền linh. Thông qua thực hành nó, định hướng vào bên trong của con mắt thứ ba được vun bồi, vì thế người đệ tử sẵn sàng tiếp nhận ánh nhìn hướng xuống của linh hồn.
Để hiểu định hướng ra ngoài của con mắt thứ ba, chúng ta phải nhớ rằng các hình tướng chỉ đơn thuần là những biểu hiện của những phẩm tính năng lượng khác nhau. Các năng lượng như bác ái, thông tuệ, vẻ đẹp và dâng hiến chỉ là một vài trong số nhiều phẩm tính tinh thần bên dưới hình tướng. Những phẩm tính này đại diện cho linh hồn ẩn sâu bên trong hình tướng, và chính Con Mắt của Linh Thị (the Eye of Vision) hay con mắt thứ ba có thể cảm nhận sự hiện diện của chúng. Mỗi một vật thể, con người, nơi chốn hay sự kiện đều là một biểu đạt của hình tướng và đều có những phẩm tính vi tế bên dưới chúng. Cùng một phẩm tính nhưng hình tướng nó biểu hiện có thể khác biệt nhiều. Trong khi con mắt trần nhìn thấy hình tướng, thì con mắt thứ ba cảm nhận được phẩm tính tìm cách biểu đạt qua hình tướng.

Những thiên khải được chuyên chở bởi con mắt thứ ba không nhất thiết là hình ảnh. Trong khi cái nhìn thông thường cung cấp hình ảnh của hình tướng, linh thị của linh hồn cung cấp một ấn tượng vượt ngoài hình tướng và tương đối mang tính vô sắc tướng. Phần lớn nó thường được trải nghiệm như một nhận thức trực giác bên trong tâm trí và trái tim. Đó là một dạng nhìn thấy siêu việt hình tướng, và được nhận thức trong tâm trí như một hiểu biết sâu sắc hoặc cái biết mang tính tinh thần. Con người càng phát triển tâm thức (về mặt tinh thần) thì con mắt thứ ba càng khai mở. Như vậy, con mắt của linh hồn cũng tiến hóa theo thời gian.

Người ta thường nghĩ rằng con mắt thứ ba về bản chất là mở ra hoàn toàn. Điều này chỉ đúng với người đang ở gần Cánh Cổng Giác Ngộ – một chuyện thật sự hiếm hoi. Đối với những người cam kết với sự phát triển tinh thần của chính mình và thức tỉnh với linh hồn, con mắt thứ ba này chỉ mở một phần. Nhưng con mắt thứ ba đã mở một phần vẫn có giá trị thiên khải. Mặc dù quyền năng của nó chưa chín mùi hoàn toàn, nó vẫn cung cấp cho người đệ tử một hiểu biết sâu sắc về chiều kích tinh thần của đời sống và hoàn cảnh. Đối với đa số quần chúng chưa thức tỉnh với linh hồn, những thiên khải được đưa ra bởi con mắt thứ ba vẫn còn ngủ ngầm như một tiềm năng tương lai. Do đó, sẽ hữu ích khi nhớ rằng có một vài con mắt liên quan đến sự tiến hóa tâm thức của con người. Khi xét trong một ý nghĩa rộng nhất, cái thấy của con người tiến hóa qua ba cấp độ khi trên con đường hướng tới giác ngộ. Ba cấp độ nhìn này tương ứng với ba vận cụ của con người mà qua đó đời sống con người tiến hóa qua dài rộng thời gian (phàm ngã, linh hồn, chân thần). Cấp độ cái thấy lớn hơn luôn bao gồm cái nhỏ hơn.



Một trong những vai trò quan trọng nhất của con mắt thứ ba đó là nó hoạt động như chiếc đèn hiệu dẫn đường trong đời sống. Khi một người thực sự nỗ lực sống với những thúc đẩy của linh hồn, lúc đó sẽ xuất hiện một cảm giác rằng cuộc sống phải được định hướng khác đi. Thường thì nó dựa trên một nhận thức ngày càng tăng rằng những động cơ được xã hội ủng hộ không còn hấp dẫn nữa. Những động cơ này thường mang tính vật chất và chủ yếu hấp dẫn với phàm ngã. Nhưng, được dẫn dắt bởi linh hồn có nghĩa là sống cuộc đời theo những cách mà thường có vẻ như đi ngược lại với những gì xã hội khuyến khích. Nói một cách ẩn dụ là giống như bơi ngược dòng. Khi con mắt thứ ba bắt đầu thức tỉnh khỏi giấc ngủ lịch sử của nó, tầm nhìn và ý nghĩa cuộc sống bắt đầu tái định hướng theo lối này.

Chẳng hạn như, ham muốn giàu có, thỏa mãn cá nhân, quyền lực và danh vọng là những động lực chủ chốt định hình nền văn hóa và thái độ của đa số về đời sống. Tuy nhiên, khi con mắt thứ ba bắt đầu mở ra, sức mạnh lôi kéo của những thúc đẩy xã hội này bắt đầu suy yếu. Sống cuộc đời theo một cách khác trở thành một thôi thúc mạnh mẽ. Một cảm thức về trách nhiệm vì phúc lợi của toàn thể rộng lớn (hơn là chỉ nghe theo những cám dỗ của phàm ngã) trở thành động cơ cao quý hơn điều khiển đời sống một người. Trong quá trình này, những ham muốn của phàm ngã nhường chỗ cho tầm nhìn thiên khải và mục đích cao cả hơn được truyền tải bởi linh hồn.

Con mắt thứ ba hỗ trợ nhiều khía cạnh chương trình sáng tạo của linh hồn. Bên cạnh việc hỗ trợ người đệ tử cảm nhận đúng đắn định hướng cho những nỗ lực sáng tạo của mình, nó cũng cung cấp năng lượng cho các luân xa cần thiết để làm điều này. Nói cách khác, dưới sự hướng dẫn của linh hồn, con mắt thứ ba có thể kích thích đúng đắn về mặt năng lượng các luân xa đặc thù cần để mang tới những ý tưởng sáng tạo của nó. Chẳng hạn như, nếu biểu hiện bên ngoài của minh triết linh hồn đòi hỏi một sự nâng cao phẩm tính của tình thương như thiên tính Christ, dưới sự định hướng của linh hồn, con mắt thứ ba hướng đến luân xa tim. Bằng cách làm như vậy, nó thổi sự sống và sức sống mới mẻ vào luân xa tim, nhờ đó khơi dậy sự phát tỏa của luân xa này.

Những thiên khải được chuyển tải bởi linh hồn qua con mắt thứ ba trình bày cho người đệ tử một bức tranh rộng lớn hơn và sâu sắc hơn về đời sống và những sự kiện bên ngoài. Chúng mang đến một góc nhìn rộng lớn hơn về chính cuộc tiến hóa và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả những gì chúng ta nhận thức đang tiến hóa. Cho dù chúng ta đang nói tới một con người, một hệ thống xã hội hay một giới trong tự nhiên, mỗi thực thể đều đang nỗ lực hướng đến một trạng thái hiện hữu cao hơn. Nhờ linh thị của con mắt thứ ba, mọi thứ được nhận ra trong bản chất nhị nguyên của chúng – bên trong và bên ngoài, vi tế và thô trược. Mọi thứ bắt đầu được nhìn thấy như là một hòa trộn giữa ánh sáng và bóng tối, giữa linh hồn trong mối quan hệ với những khuynh hướng của phàm ngã. Ở đây ta thấy chìa khóa cho hiểu biết về cách con mắt thứ ba định hình nhận thức. Nó tiết lộ cho người đệ tử sự khác biệt giữa hình tướng được biểu hiện và năng lượng thiêng liêng tìm cách biểu đạt qua hình tướng. Cuối cùng thì, mọi thứ được nhận ra như là Sự Sống đang nỗ lực tự biểu đạt qua hình tướng, và làm vậy ở những cấp độ thay đổi khác nhau của sự thuần khiết và sự biến dạng.

Qua ánh nhìn của con mắt thứ ba, người đệ tử có thể nhìn vượt ngoài hình tướng để cảm nhận những năng lượng sống động làm sinh động nó. Trong khi đôi mắt trần của phàm ngã chỉ nhìn thấy hình tướng và sự kiện (và bị thu hút hay đẩy lùi bởi chúng), thì linh hồn nhìn thấy tính thiêng liêng ẩn giấu bên trong mọi hình tướng và hoàn cảnh. Nhưng linh hồn chỉ có thể thành công khi nó có thể thuyết phục phàm ngã ngừng phán xét, vì phàm ngã có khuynh hướng chia rẽ nên nó dễ phán xét những gì nó nhìn thấy. Khuynh hướng này cản trở cái thấy vi tế (được truyền tải bởi con mắt thứ ba) được ghi nhận bên trong tâm trí.

Một trong những cản trở lớn nhất đối với linh hồn là khuynh hướng của phàm ngã hay phán xét quá sớm điều gì đó là tốt hay xấu, đúng hay sai. Hành vi này ngăn chặn cái thấy sâu sắc hơn của con mắt thứ ba. Về cơ bản, linh thị của linh hồn biến mất khi phàm ngã nhanh chóng đưa ra sắc lệnh phán xét của nó. Thay đổi điều này chắc chắn thật khó khăn. Nó liên quan đến việc từ từ thuyết phục phàm ngã rằng nó không bao giờ nhìn thấy sự thật trọn vẹn mà chỉ là một mảnh của sự thật. Thêm vào đó, việc nuôi dưỡng một trái tim yêu thương và tha thứ cũng hữu ích để làm giảm bớt thôi thúc phán xét của phàm ngã. Qua thời gian, cả hai cách tiếp cận này có thể cung cấp cho phàm ngã một cảm thức khiêm tốn cần thiết. Nói một cách ẩn dụ, con mắt thứ ba hoạt động khi chúng ta nhìn cuộc đời với ánh mắt dịu dàng.

Khi con mắt thứ ba hoạt động, một mối quan hệ với thời gian cũng bắt đầu quy định tâm thức một người. Từ quan điểm nội môn, nhận thức thời gian của chúng ta được tạo ra bởi những thay đổi từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác diễn ra trong tâm thức. Ở mỗi khoảnh khắc vi mô, tâm thức ở trong một cấu hình khác biệt chút ít. Kết quả của điều này là nhận thức về thời gian. Tuy vậy, khi linh hồn đang góp phần vào trải nghiệm trí tuệ của một người, nó thấm nhuần cái trí với một kiểu mẫu nhận thức khác biệt liên quan đến thời gian. Ta bắt đầu nhìn thời gian theo những đơn vị lâu dài hơn. Trong khi phàm ngã có thể bận rộn với điều đang diễn ra trong vài ngày, vài tuần hay vài tháng tới, cái thấy của linh hồn dẫn dắt chúng ta suy tư trên phương diện nhiều năm, nhiều thập kỷ, và thậm chí hàng thế kỷ.

Con mắt thứ ba thêm chiều sâu vào nhận thức con người, do đó hỗ trợ những thiên khải đến từ linh hồn hay Đạo Viện sâu thẳm bên trong. Nó mang tri kiến thiên khải vào sự thật nằm sau hậu trường. Cái thấy của linh hồn là cái hướng dẫn chúng ta sống một dạng đời sống mới mẻ và khác biệt. Nó giúp chúng ta nhận thức những sự kiện thế giới trong một ánh sáng mới, và với minh triết lớn lao hơn. Thông qua cái nhìn của nó, tính nhất thể của nhân loại có thể được nhìn thấy, và từ cái thấy đó, một cam kết phụng sự cho toàn thể rộng lớn hơn xuất hiện. Người phụng sự cho việc nâng đỡ nhân loại tiến bước tới.

NGỌN ĐÈN THẮP SÁNG

Con đường tinh thần thường được xem như là con đường thắp sáng. Con đường đi tới sự giác ngộ được phát tỏa bởi ánh sáng. Mặc dù chúng ta có thể bàn về nhiều dạng ánh sáng tinh thần tỏa chiếu trong tâm thức con người (như là ánh sáng của bác ái, của minh triết, hay ánh sáng của mục đích), chính ánh sáng trong đầu là cái sẽ làm chúng ta chú ý tại thời điểm này.

Sâu bên trong luân xa đầu là một tiền đồn của Ánh Sáng Siêu Nhiên từ từ bắt đầu tỏa chiếu khi một người thức tỉnh với những thôi thúc linh hồn. Thực sự, đó là sự phát tỏa mà Chân Sư tìm kiếm trong một người đệ tử, và đó được gọi là ngọn đèn thắp sáng. Khi mức độ hợp nhất giữa phàm ngã với linh hồn ngày càng tăng dần theo thời gian, độ chiếu sáng của ngọn đèn nội tâm cũng gia tăng theo đó. Với những ai có linh thị dĩ thái, họ có thể thấy được sự phát tỏa xung quanh đầu như vầng hào quang.

Ngọn đèn thắp sáng là nơi chốn bình an sâu thẳm bên trong khoảng trống tâm thức của người đệ tử. Tìm thấy trong nội tâm và chỉnh hợp với nó tạo ra một cảm thức nội tâm về hạnh phúc của linh hồn. Như là lối ra mà qua đó linh hồn phát tỏa tình thương và minh triết của nó, nó thức tỉnh bên trong tâm trí và trái tim người đệ tử một cảm giác về sự chắc chắn bình an, thậm chí cả khi đời sống bên ngoài đôi khi có thể đầy hỗn loạn.

Ánh sáng phát tỏa này cũng là nơi chốn của quyền năng tinh thần. Khi được phát triển tốt, người đệ tử có thể điều hướng tất cả mọi vấn đề của y và những nỗ lực bên ngoài từ vị trí trung tâm của nó sâu thẳm bên trong.

Điều này đại diện cho khả năng giữ Bản Thể bên trong trung tâm của ngọn đèn thắp sáng. Bằng cách làm vậy, người đệ tử có thể soi sáng vào tất cả những sự kiện, hoàn cảnh và vấn đề như là một chức năng của việc phụng sự của linh hồn. Dưới đây là một số tên gọi của ngọn đèn thắp sáng trong văn học huyền linh.

Trái tim bên trong đầu
Ánh sáng nội tâm được thức tỉnh
Ánh sáng trong đầu
Ánh sáng của nhận thức trực tiếp
Ánh sáng vành hoa
Tâm trí tràn ngập ánh sáng
Sự phát tỏa trong đầu

Vị trí của người đệ tử trên Đường Đạo liên quan trực tiếp đến mức độ ánh sáng phát tỏa ra từ ngọn đèn nội tâm này. Nó biểu thị mức độ linh hồn kiểm soát phàm ngã. Ánh sáng càng rạng rõ thì phàm ngã càng nhường chỗ cho quyền năng làm chủ của linh hồn và tương tác giữa các cõi giới tâm thức cao hơn và thấp hơn càng được thêm củng cố. Dòng soi sáng tuôn đổ xuống não bộ vì thế có thể diễn ra. Điều đó gợi ý rằng ánh sáng của linh hồn đang bắt đầu biểu hiện qua chất liệu của thể dĩ thái của người đệ tử, được tập trung trong luân xa đầu. Đây là một điểm quan trọng cần nhấn mạnh, bởi vì mặc dù vị trí của ngọn đèn thắp sáng là ở trung tâm bên trong đầu, chính luân xa đầu dĩ thái (chứ không phải chất xám của não bộ hồng trần) là cái đang được nói đến.

Sự phát triển của ngọn đèn thắp sáng

Sự thức tỉnh và phát triển của ngọn đèn thắp sáng là điều gì đó xảy ra qua thời gian vài kiếp sống. Sự tỏa sáng của nó có khuynh hướng tăng tốc khi người đệ tử trở nên ý thức hơn về quá trình. Sự phát lửa chỉ có thể xảy ra khi một người thức tỉnh với thể nguyên nhân, và trong quá trình trở nên phân cực trí tuệ. Một số người tin rằng trái tim là cơ quan trung tâm của sự biểu đạt linh hồn. Tuy nhiên điều này chỉ đúng ở những giai đoạn phát triển ban đầu trên Đường Đạo. Mặc dù trái tim con người là cái tiếp nhận và truyền tải tự nhiên tình thương của linh hồn, chính bản chất trí tuệ của linh hồn (cái trí), hòa nhập với bác ái, mới là cái tìm thấy lối ra của nó qua ngọn đèn thắp sáng ở khu vực trung tâm trong đầu.

Sự phát triển của trái tim luôn đi trước sự thức tỉnh của cơ quan trung tâm bên trong đầu. Ánh sáng bác ái phải đang hoạt động hoàn toàn trước khi ngọn đèn thắp sáng có thể được sử dụng một cách hữu thức. Khi hoa sen 12 cánh của luân xa tim mở ra để hiển lộ tình thương của Thượng Đế, ngọn đèn bắt đầu đồng bộ với nó. Một trong những cái tên khác của ngọn đèn thắp sáng là trái tim bên trong đầu. Điều này gợi ý rằng ngọn đèn thắp sáng đại diện cho sự hòa nhập của tình thương cao cả với cái trí của linh hồn. Thú vị là, tại cốt lõi của luân xa vương miện (hoa sen ngàn cánh), ta thấy một hoa sen 12 cánh, và cũng được gọi là trái tim trong đầu. Cả hai, luân xa tim và trái tim trong đầu do đó đều là những hoa sen 12 cánh, và điều đó làm cho một sự đồng bộ tự nhiên có thể diễn ra giữa cả hai. Ngọn đèn thắp sáng đơn giản là một tương ứng cao hơn của luân xa tim, và nó bao gồm cả tình thương như thiên tính Christ và thượng trí.

Việc sử dụng ngọn đèn thắp sáng là cái gì đó phải được thực hiện một cách hữu thức và chủ động. Không may thay, nhiều người chí nguyện có khuynh hướng đi tìm Vị Chân Sư có thể cho họ ánh sáng tinh thần mà họ tìm kiếm. Ánh sáng của linh hồn (và đạo viện) chỉ có thể được tìm thấy khi một người đã thắp lên ngọn đèn của chính mình. Sự phát triển của ánh sáng nội tâm này phải đạt được qua chỉnh hợp tham thiền và một sự cam kết thanh luyện phàm ngã. Phàm ngã cũng phải được giải phóng khỏi sự bận rộn ích kỷ của nó. Và dưới đôi mắt của Chân Sư, chính độ rạng rỡ của ngọn đèn của một người là thước đo sự tiến bộ của y.

Các Chân Sư Minh Triết tìm kiếm người có ngọn đèn bốc cháy, và liệu nó có cháy đều đặn và ngày càng gia tăng độ sáng. Thực tế, mức độ gần gũi với Chân Sư và đạo viện phần lớn liên quan đến độ sáng của ngọn đèn thắp sáng.

Khi sự phát tỏa của nó đang gia tăng, Chân Sư nhận ra rằng người đệ tử đã sẵn sàng cho một kết nối gần gũi hơn với công việc của đạo viện. Tuy nhiên, nếu ánh sáng vẫn còn mờ hay không ổn định, Ngài biết rằng người chí nguyện chưa sẵn sàng để rút vào trong nội tâm gần hơn tới đạo viện. Bởi vì một ánh sáng bị ẩn giấu hay còn lờ mờ là triệu chứng rằng vòng xoáy của các cảm xúc vẫn còn cầm giữ quá mức trong đời sống của người chí nguyện, hoặc rằng thể trí vẫn còn bị nhuốm màu bởi chủ âm tham vọng.

Tại thời điểm này trong lịch sử nhân loại, sự thức tỉnh của ngọn đèn thắp sáng đang diễn ra với tần số gia tăng. Ngày nay, có nhiều người đang bắt đầu cảm nhận một thôi thúc cao cả hơn bên trong, và đang cảm nhận được kêu gọi để tham dự vào sự hướng dẫn mà nó chuyển tải. Đây là một biểu thị rằng ngọn đèn thắp sáng đang phát khởi và bắt đầu nhấp nháy. Xa hơn nữa trên con đường đệ tử, ánh sáng nội tâm này sẽ càng rạng rỡ và trở nên ổn định. Cảm giác về sự kết nối với linh hồn không còn đến rồi đi; ánh sáng không còn chập chờn nữa.

Xa hơn nữa trên Đường Đạo (khi sống như một điểm đạo đồ bậc ba), ngọn đèn thắp sáng tỏa chiếu đến một mức độ mà thể ánh sáng của vị điểm đạo đồ xuất hiện. Sự rạng rỡ thêm vào đó là do ngọn đèn thắp sáng là điểm thấp nhất của Sự Sống đó, được điều khiển từ chân thần, có thể giáng xuống.

Khi phàm ngã đã được thanh luyện đến một mức độ cần thiết, ngọn lửa từ cõi giới Tinh Thần có thể tìm thấy biểu hiện qua ngọn đèn thắp sáng. Điều này tương ứng với việc ở cuộc điểm đạo thứ ba, người đệ tử trở nên lần đầu tiên ý thức về chân thần. Và sau đó khi đạt được giác ngộ hoàn toàn, sự phát tỏa của thể thắp sáng này thực sự kỳ diệu, trở nên ngày càng nổi bật hơn cả thể xác.

Tham thiền huyền linh là một trong những thực hành quan trọng nhất để hỗ trợ sự phát khởi và khuyếch đại ngọn đèn thắp sáng. Khi người chí nguyện hữu thức thức tỉnh với linh hồn qua tham thiền, điều đó biểu thị rằng ngọn đèn nội tâm đã được thắp lên và đang bắt đầu tỏa chiếu yếu ớt. Tim đèn đã được phát lửa, và một dạng ánh sáng khuyếch tán bắt đầu bao quanh đầu một cách vi tế. Qua thời gian và công việc tham thiền tiến triển, cuối cùng nó sẽ củng cố thành một điểm ánh sáng tập trung trong khu vực của tuyến tùng bên trong thể dĩ thái.

Ban đầu, ngọn đèn nội tâm này được phát lửa bởi giao điện năng động diễn ra giữa luân xa ajna và luân xa vương miện, và các đại diện tuyến nội tiết tương ứng của chúng (tuyến yên và tuyến tùng). Luân xa ajna là luân xa liên quan đến sự tích hợp và chú ý tập trung của phàm ngã, trong khi luân xa vương miện là điểm neo giữ của mục đích và ý định của linh hồn.

Khi người chí nguyện tiếp tục thanh luyện phàm ngã của mình, một trường từ tính dần dần được hình thành giữa các tuyến tùng và tuyến yên. Luân xa ajna sau đó bắt đầu rung động đồng thanh với rung động phát ra bởi luân xa vương miện. Hệ quả là nó tăng cường nhường chỗ cho chương trình của linh hồn. Ánh sáng bên trong đầu bắt đầu tỏa chiếu rạng rỡ, và cái trí của người đệ tử trở nên dần dần được chiếu sáng.

Về cơ bản, sự xuất hiện của ngọn đèn thắp sáng là kết quả của ánh sáng linh hồn khi nó hòa nhập với chất liệu dĩ thái trong khoảng trống não bộ. Đôi khi được gọi là không khí sức sống (vital airs), chất liệu vi tế này nằm trong các tâm thất của não bộ, và được quét vào hoạt động bởi ánh sáng của linh hồn khi nó nhìn xuống. Điều này kích thích các nguyên tử của não bộ, và ánh sáng của chúng sau đó được thêm vào. Do đó, theo ý nghĩa trọn vẹn nhất, ánh sáng được phát ra từ ngọn đèn nội tâm này là kết quả của 3 dạng ánh sáng hòa trộn cùng nhau:

Ánh sáng của linh hồn đang nhìn xuống
Ánh sáng của chất liệu dĩ thái trong đầu
Ánh sáng của những nguyên tử của não bộ, đặt ở trung tâm.

Mối quan hệ giữa con mắt thứ ba và hang động

Ngọn đèn thắp sáng có liên hệ mật thiết với sự khai mở con mắt thứ ba. Khi nó từ từ tăng cường độ sáng của mình, Con Mắt Linh Thị tương ứng làm sâu sắc hơn khả năng nhìn thấy của nó. Như là cơ quan nhận thức được linh hồn sử dụng, con mắt thứ ba không khai mở hoàn toàn cho đến sau cuộc điểm đạo biến dung – khi sự tham dự trọn vẹn vào đời sống điểm đạo đồ (ngược lại với đời sống đệ tử) đã đạt được. Do đó, trong đời sống người đệ tử, con mắt thứ ba chỉ mở ra một phần, biểu thị rằng ngọn đèn thắp sáng tương tự chưa sáng chói trọn vẹn.

Con mắt thứ ba có 2 cách thức hoạt động cơ bản, và chúng có thể được liên hệ với sự gia tăng từng bước của độ sáng của ngọn đèn thắp sáng. Khi ngọn đèn được thắp sáng ban đầu, sự phát tỏa của nó có khuynh hướng quay ra ngoài hướng về lĩnh vực tri thức. Kết quả là người đệ tử chớm nở cảm nhận được ánh sáng của sự thật và tìm cách liên hệ nó với bản toát yếu của tri thức nhân loại, thường trong nỗ lực tìm cách xác thực. Tuy nhiên, khi cội nguồn ánh sáng nội tâm này tăng cường, y bắt đầu hữu thức chuyển nó vào bên trong hướng đến “Đám Mây Nhân Chứng”, và như vậy, bắt được ánh nhìn của Chân Sư.

Như một Đám Mây Nhân Chứng đã được giải phóng, các Chân Sư Minh Triết luôn sẵn sàng để thiết lập mối liên hệ truyền thông với các đệ tử của các Ngài – mức độ thân mật được xác định bởi độ sáng của hào quang người đệ tử. Nó biểu thị rằng người đệ tử đang nỗ lực giờ đây đã có thể tạo ra một cảm giác về sự chỉnh hợp chiều dọc với linh hồn và đạo viện mà y (như một linh hồn), cam kết phụng sự. Điều này được nhận ra một cách hữu thức nhờ một khám phá quan trọng cuối cùng được người đệ tử thực hiện – rằng ngọn đèn thắp sáng cũng chính là một điểm tiến nhập.

Để tìm ra Con Đường Đạo, một người phải trở thành chính Con Đường Đạo đó. Đi theo Con Đường thực sự là một hành trình nội tâm mà cuối cùng dẫn tới linh hồn và vượt ngoài như thế. Và chính ngọn đèn thắp sáng phục vụ như cánh cổng cho sự tiến nhập của nó. Người đệ tử phải học cách tiến vào ánh sáng và trở thành chính bản thân ánh sáng. Sau đó y hoạt động như một ánh sáng tỏa rạng có thể chuyên chở sự soi sáng vào những nơi tăm tối và, nhờ làm như thế, mà thắp sáng cho con đường của những người khác.

Luân xa đầu là vị trí nơi mà ta nhìn thấy Hang Động. Thực sự, Hang Động, ngọn đèn thắp sáng và con mắt thứ ba là sự mô tả rộng của cùng một thứ. Mỗi cái nhấn mạnh một yếu tố khác biệt của cơ quan dĩ thái nội tâm này. Như một ngọn đèn thắp sáng, nó điều hướng chúng ta xem xét sức mạnh của Ánh Sáng Siêu Nhiên và giá trị thiên khải của nó. Như là con mắt thứ ba, khả năng linh thị tinh thần được xem xét. Và khi xem như Hang Động, ẩn dụ của nó nhấn mạnh vị trí được bao bọc của nó trong đầu và vai trò của nó như một cổng để thoát ra.

Hang Động (và do đó là ngọn đèn thắp sáng) là điểm neo giữ cho cầu antahkarana. Thông qua tham thiền, học tập và phụng sự tận tâm, cầu antahkarana dần dần được kiến tạo. Và dù nó thường được mô tả như là một kênh dẫn truyền thông nối kết linh hồn với phàm ngã, nó cũng hành động như một hành lang của chất liệu đầy năng lương dẫn dắt đến với linh hồn và đạo viện bên trên. Hang Động không phải là một phương tiện để chạy thoát khỏi những khó khăn của đời sống hồng trần. Đúng hơn, nó là một lối thoát khỏi những hạn chế của phàm ngã tam phân để được làm giàu có bởi minh triết trực giác ở phía xa bên kia cánh cổng.

Ngọn đèn thắp sáng hoạt động như một điểm phát tỏa ánh sáng tinh thần, cũng như là một phương tiện về tái phân cực tâm thức một người đến một cấp độ cao hơn và minh triết hơn bên trong.

Nguồn tài liệu: William A. Meader, Supernal Light, A Compendium of Esoteric Thought, Emergent Light, 2022 
 

Leave Comment