Đây là bài viết rất cao siêu và trừu tượng của chân sư DK về cõi trung giới, trích trong quyển Luận về Chánh Thuật. Quyển “Luận về Chánh Thuật” là quyển sách Ngài viết về để diễn giải 15 Qui Luật của Huyền Thuật, nhưng chính ra là để Ngài dạy cho các đệ tử của Ngài cách chủ trị thể cảm xúc của mình, làm chủ cõi trung giới. Khi một đệ tử đã hoàn toàn làm chủ được thể cảm xúc của mình, đã hoàn toàn thoát ra khỏi mọi ảo cảm, thì người đó đã đủ tư cách để được điểm đạo lần thứ hai.
Trong bài viết, có những phát biểu thuộc loại “gây sốc” như Giáo Sư Michael D. Robbins đã nói. Chúng trái ngược hẳn với những gì mà người ta biết đến thông qua sách vở huyền môn thông thường. Tuy nhiên, bạn cứ xem chúng như những công án thiền và hãy nghiền ngẫm nó, ngày nào đó ánh sáng “ngộ” sẽ đến với bạn.
Trước đây, trong quyển “Cõi Trung Giới”, ông C.W. Leadbeater viết về cõi trung giới như sau:
(1) Vấn đề đầu tiên cần được nêu rõ trong việc mô tả cõi trung giới là sự hoàn toàn “thực tại” của nó. …Tôi dùng từ “thực tại” với ý nghĩa rõ ràng, mà hàng ngày chúng ta thường dùng, tôi muốn nói: sự vật và cư dân ở cõi trung giới đều có thật, như bàn ghế, nhà cửa, lâu đài hay xác thân chúng ta. Giống như những sự vật ở cõi trần, những sự vật ở cõi trung giới không tồn tại vĩnh viễn, nhưng theo quan điểm bình thường, dù sao chúng cũng là thật khi chúng còn hiện hữu; sự hiện hữu mà chúng ta không thể bỏ qua, dù phần đông nhân loại không cảm biết hay chỉ cảm biết một cách mơ hồ.
(2)… Người ta thường gọi nó là vùng ảo ảnh, không phải vì nó hư ảo hơn cõi trần, mà chỉ vì những người chưa được huấn luyện sau khi quan sát cõi trung giới trở về, có cảm nhận như nó thay đổi rất bất thường.
Để hiểu rõ sự thay đổi bất thường này, ta cần chú ý đến hai đặc tính chính của cõi trung giới. Đặc tính thứ nhất là nhiều cư dân ở cõi trung giới có năng lực kỳ diệu, tự làm thay đổi hình dạng một cách rất nhanh chóng, và có nhiều trò đùa để trêu chọc người nào mà chúng muốn. Đặc tính thứ hai là thị giác cõi trung giới là một quan năng khác biệt và mở rộng hơn rất nhiều so với thị giác cõi trần. Một đồ vật được nhìn thấy một lượt từ mọi phía, cả bên trong lẫn bên ngoài, như được mở toang ra. Do đó rất khó cho người chưa có kinh nghiệm ở thế giới mới này hiểu đúng thật những gì họ thấy, và còn khó khăn hơn nữa nếu họ muốn diễn tả lại bằng ngôn ngữ bình thường.
(3) Một số học giả Minh Triết Thiêng Liêng thường có thói quen khinh thường khi nói đến cõi trung giới, và cho rằng nó không đáng được chú ý đến; nhưng với tôi, đó là một quan điểm sai lầm. Chắc hẳn mục đích chúng ta nhắm đến là sự sống của linh hồn, thật tai hại nếu người sinh viên quên mục đích cao cả đó, mà chỉ bằng lòng dừng lại với tâm thức cõi trung giới. Do nghiệp quả, một số người có thể phát triển những quan năng cao của thể trí trước, tạm thời vượt bỏ giai đoạn phát triển ở cõi trung giới, nhưng đó không phải là phương pháp thông thường được các vị Chân Sư Minh Triết áp dụng cho đệ tử. (*)
(4) Có thể việc khai mở trước những quan năng thể trí không gây trở ngại gì, vì cái cao thường bao gồm cái thấp, nhưng đối với phần đông chúng ta, sự tiến hóa nhảy vọt, đốt giai đoạn, có thể gây nhiều lỗi lầm tai hại; phương pháp tốt nhất là nên đi từ từ, từng bước một. Cõi trung giới ở kế cận cõi trần, và những kinh nghiệm đầu tiên về thế giới siêu hình thường có liên quan đến nó. Như thế, cõi trung giới rất quan trọng đối với người mới bắt đầu công việc nghiên cứu về thế giới vô hình. Khi biết rõ những điều bí nhiệm của cõi trung giới, chúng ta không những hiểu được nhiều hiện tượng khó giải thích ở các buổi chiêu hồn thuật, ở các căn nhà bị ma ám v.v… mà còn bảo vệ cho chính chúng ta và người chung quanh tránh khỏi những điều nguy hiểm.
Ông nói nhiều điều quan trọng về cõi trung giới trong đoạn trích trên, và có những điều trái ngược những gì mà Chân sư DK dạy trong các sách của Ngài. Chúng tôi xin lược qua những điểm chính trong đoạn trên và đối chiếu với những gì mà Chân sư DK viết trong chương “The Negation of the Great Illusion” của quyển A Treatise on White Magic.
1. Ông nói đến tính “thực” của cõi trung giới:
Vấn đề đầu tiên cần được nêu rõ trong việc mô tả cõi trung giới là sự hoàn toàn “thực tại” của nó.
Chân sư DK thì viết như sau:
Cõi cảm dục … vốn là một hiệu ứng hư ảo và không có sự tồn tại thực sự. Tuy nhiên—trong thời gian và không gian, và đối với sự hiểu biết của tâm thức chứng kiến—nó lại thực hơn là những gì mà nó che giấu. Tôi không thể dùng lời lẽ nào để diễn tả điều này rõ ràng hơn được.
Vâng, đối với một số người thì nó lại “thực” hơn những gì mà nó đang che dấu. Nhưng đối với vị Chân sư hay vị Điểm đạo đồ bậc cao thì “cõi trung giới không tồn tại… Bí mật của Chân Sư là việc khám phá rằng không có cõi cảm dục nào cả; Ngài nhận ra rằng cõi cảm dục là một ảo tưởng của trí tưởng tượng…”
2. Ông nói “Người ta thường gọi nó là vùng ảo ảnh, không phải vì nó hư ảo hơn cõi trần, mà chỉ vì những người chưa được huấn luyện sau khi quan sát cõi trung giới trở về, có cảm nhận như nó thay đổi rất bất thường…”. Chân sư DK cũng gọi nó là cõi ảo tưởng, vì những lý do mà Ngài liệt kê trong bài viết.
… cõi cảm dục là một ảo tưởng của trí tưởng tượng, và đã được tạo ra do việc sử dụng thiếu kiểm soát của trí tưởng tượng sáng tạo và việc lạm dụng các năng lực huyền thuật … chỉ trong thời gian và trong không gian, và qua việc lạm dụng có tính chu kỳ các năng lực huyền thuật (magical) và thông linh (psychic) mà cõi cảm dục của đại ảo tưởng đã xuất hiện, và bây giờ nó trở thành một điều có thực đến nỗi – theo một ý nghĩa nào đó – nó lại thực hơn (đối với con người) so với giới ánh sáng và giới hình tướng.
3. Ông Leadbeater nói rằng “Một số học giả Minh Triết Thiêng Liêng thường có thói quen khinh thường khi nói đến cõi trung giới, và cho rằng nó không đáng được chú ý đến; nhưng với tôi, đó là một quan điểm sai lầm.” Đức DK thì nói rằng:
Thế nhưng, chính ảo tưởng này rốt cuộc sẽ ban cho con người mật khẩu bí ẩn để tiến vào Thiên Giới và mang lại sự giải thoát cho y. Chính bản thân ảo ảnh (maya) này dùng để hướng dẫn y vào chân lý và tri thức; chính trên cõi cảm dục mà tà thuyết chia rẽ phải được chế ngự, và chính trên chiến trường Kurukshetra mà Arjuna đầy tham vọng cá nhân, và Arjuna vũ trụ mới học được bài học rằng chủ thể hiểu biết và đối tượng hiểu biết chỉ là một.
Trong câu trích trên, đức DK nói rằng cõi trung giới là ảo tưởng, nhưng chính nó sẽ dẫn con người vào cõi giới của Thượng đế. Trong Chí Tôn Ca, Kurukshetra là chiến trường mà Arjuna chiến đấu. Kurukshetra tượng trưng cho cõi trung giới và Arjuna là người đệ tử chiến đấu trên chiến trường đó, còn Krishna tượng trưng cho Linh hồn hay Chân Ngã. Một câu khác của đức DK:
Y [người tầm đạo] vẫn còn cần phải hoạt động trên cõi cảm dục, và có lẽ y không thể tránh việc này trong một thời gian dài. Đối với y, dấu hiệu của sự tăng trưởng là sự triệt thoái đều đặn tâm thức của y ra khỏi cõi giới đó, đạt được sự thăng bằng và nhận thức trí tuệ, tiếp theo là công việc sáng tạo trên cõi trí.
4. Ông Leadbeater nói rằng “Một số người có thể phát triển những quan năng cao của thể trí trước, tạm thời vượt bỏ giai đoạn phát triển ở cõi trung giới, nhưng đó không phải là phương pháp thông thường được các vị Chân Sư Minh Triết áp dụng cho đệ tử. Có thể việc khai mở trước những quan năng thể trí không gây trở ngại gì, vì cái cao thường bao gồm cái thấp…”
Điều này hoàn toàn trái ngược với giáo lý của đức DK. Ngài không chủ trương khai mở quyền năng của thể cảm xúc trước (như thông nhãn và thông nhĩ cõi trung giới), mà đệ tử của Ngài phải khai mở quyền năng cao trước khi khai mở quyền năng thấp, vì “vì cái cao thường bao gồm cái thấp” như ông C.W. Leadbeater đã nói. Các bạn có thể xem lời khuyên của Ngài ở đây.
Đây là một bài thuộc dạng khó đọc và khó hiểu, nhưng nếu các bạn muốn khai mở tâm thức của linh hồn, thì phải hiểu và quen thuộc những giáo lý trừu tượng như thế này . Chúng tập cho chúng ta tư duy trừu tượng, con đường để khai mở cầu Antahkarana nối phàm ngã và Chân ngã.
Bài viết dựa vào bản dịch của dịch giả Trần Văn Khá. Xin cám ơn dịch giả của quyển A Treatise on White Magic
********************
SỰ PHỦ ĐỊNH ĐẠI ẢO TƯỞNG – The Negation of the Great Illusion
Qui luật thứ XV của Huyền thuật Chánh Đạo:
Các ngọn lửa tiến gần hình bóng, nhưng không đốt cháy nó. Lớp vỏ lửa đã hoàn tất. Nhà huyền thuật hãy xướng lên các linh từ hoà lẫn lửa và nước.
The fires approach the shadow, yet burn it not. The fire sheath is completed. Let the magician chant the words that blend the fire and water.
Cụm từ trong Qui luật số XV nói rằng “linh từ pha trộn lửa và nước” có ý nói đến hiệu quả được tạo ra ở điểm ngưng tụ, sau khi nhà huyền thuật xướng các linh từ vĩ đại tạo ra các hiệu quả đó. Quy luật này hầu như không thể giải thích được và Tôi cũng không được phép cung cấp cho bạn các linh từ tạo ra tiến trình này. Tôi chỉ có thể đưa ra một số gợi ý nhằm khuyến khích người tìm đạo chân chính suy gẫm, nhưng hỡi ơi, chúng có thể chỉ khiến những ai suy nghĩ hời hợt, những người vốn tìm kiếm các phương pháp và các công thức dễ dàng và nhanh chóng để làm việc đó, bực dọc mà thôi. Nhiệt và hơi ẩm hiện hữu trong việc tạo ra mọi hình thể của sự sống, nhưng bí nhiệm vĩ đại (và gần như là bí nhiệm cuối cùng cần giải thích cho vị đại sư) là làm thế nào mà sự phối hợp ba loại lửa lại có thể tạo ra hơi ẩm hay nguyên tố nước. Vấn đề này và hiện tượng này tạo thành cơ sở của Đại Ảo Tưởng (Great Illusion) mà các cổ thư có nói tới; do sự kết hợp này mà ảo ảnh (maya) che phủ được tạo ra.
The phrase in Rule XV which says “that blend the fire and water” has reference to the effect produced at the [612] point of condensation, after the great words bringing about that effect have been pronounced. This rule is almost incapable of explanation and it is not permitted to me to give to you the words that effect this process. Only some hints may be given which will serve to encourage the true aspirant to think and may alas, only irritate the casual thinker who seeks easy and quick methods and formulas through which to work. Heat and moisture are present in the production of all forms of life, but the great mystery (and almost the final mystery to be explained to the adept) is how the merging of three fires can produce moisture or the watery element.This problem and this phenomenon constitute the basis of the Great Illusion to which the ancient books refer; through the agency of the combination, the enveloping maya is produced.
Thật ra, không có cái gọi là nước (water); quả cầu nước, hay cõi cảm dục, nếu bạn có thể nhận thức điều này, vốn là một hiệu ứng hư ảo và không có sự tồn tại thực sự. Tuy nhiên—trong thời gian và không gian, và đối với sự hiểu biết của tâm thức chứng kiến—nó lại thực hơn là những gì mà nó che giấu đằng sau nó. Tôi không thể dùng lời lẽ nào để diễn tả điều này rõ ràng hơn được. Chỉ có thể gợi ý cho người đạo sinh thông minh rằng ánh sáng của linh hồn y (được phản chiếu trong trí của y) và năng lượng của hình hài (như được biểu lộ trong thể dĩ thái của y) đối với y, trong lĩnh vực nhị nguyên tạm thời này, là hai thực tại cơ bản của y. Bản chất nước của kinh nghiệm cảm dục của y, nơi mà hai khía cạnh này của thiên tính dường như (bạn hãy lưu ý đây cũng là ảo tưởng) gặp gỡ và tác động, chỉ là một hiện tượng huyễn ảo, và, theo một ý nghĩa huyền bí, không căn cứ trên thực tế. Bất kỳ người tầm đạo chân chính nào cũng biết rằng tiến bộ tâm linh của y có thể được đánh giá qua sự giải thoát của y ra khỏi ảo tưởng này và về việc giải phóng y vào bầu khí trong suốt và ánh sáng tinh khiết của tâm thức thiêng liêng của y.
There is, in reality, no such thing as water; the watery sphere, the astral plane, is, could you but realize it, an illusory effect and has no real existence. Yet—in time and space and to the understanding of the witnessing consciousness—it is more real than that which it hides and conceals. I cannot make this clearer in words. It is only possible to suggest to the intelligent student that the light of his soul (reflected in his mind) and the energy of form (as expressed in his etheric body) are for him, in the realm of temporary duality, his two basic realities. The watery nature of his astral experience in which these two aspects of divinity seem (again illusion, be it noted) to meet and work is but a glamorous phenomenon and in an occult sense is not based on fact. Any true aspirant knows that his spiritual progress can be gauged in terms of his freedom from this illusion and of his release into the clear air and pure light of his spiritual consciousness.
Trong tâm thức của mình, giới động vật hoạt động với cái thứ hai của hai thực tại cơ bản này, và đối với nó thì sự sống của thể dĩ thái và mãnh lực chi phối bản chất động vật hoặc bản chất vật chất là sự biểu lộ quan trọng nhất của chân lý. Tuy nhiên, thú vật đang bắt đầu cảm nhận một cách lờ mờ thế giới ảo tưởng và sở hữu một số quyền năng và giác quan thông linh có thể nhận ra—nhưng không giải thích được— cõi cảm dục. Bức màn ảo tưởng bắt đầu rớt xuống trước đôi mắt của động vật nhưng nó không biết điều đó. Con người đã lang thang trong thế giới ảo tưởng qua nhiều kỷ nguyên, vì thế giới đó là sự sáng tạo riêng của y. Tuy nhiên, con người, đến lượt mình, từ quan điểm của tâm thức, có sự tiếp xúc với cả hai thực tại và dần dần học cách xua tan ảo tưởng bằng sự tăng trưởng đều đặn của ánh sáng rực rỡ của linh hồn. Tôi mạn phép tạm dừng ở đây để nhắc bạn rằng nhị nguyên chỉ là một giai đoạn trên vòng cung tiến hóa, cuối cùng sẽ dẫn đến việc nhận thức về nhất nguyên (unity).
In its consciousness, the animal kingdom works with the second of these two basic realities, and for it the life of the etheric body and the force which governs the animal or material nature are the [613] prime expression of truth. Yet the animal is beginning to sense dimly the world of illusion and possesses certain psychic powers and senses which recognize yet fail to interpret the astral plane. The veil of illusion is beginning to fall before the eyes of the animal but it knows it not. The human being has wandered for ages in the world of illusion, for it is of his own creating. Yet man in his turn, from the standpoint of consciousness, has contact with both the realities and learns little by little to dissipate the illusion by the steady growth of the radiant light of the soul. May I pause here to remind you that duality is only a stage on the evolutionary arc, leading eventually to the realization of unity.
Bức màn ảo tưởng giống như thời điểm trước bình minh, khi thế giới của các sự vật quen thuộc được nhìn thấy qua lớp sương mù, và các dải sương mù che giấu các hình hài của thế giới và cũng che giấu mặt trời đang lên. Lúc bấy giờ chúng ta có thời gian giữa chừng, cái thời kỳ bí ẩn và mơ hồ khi cái chân bị che giấu bởi cái giả; rồi thì chúng ta có tình trạng kỳ lạ và méo mó khi các hình tướng không được nhìn thấy đúng y bản chất chúng, mà chúng mất đi hình dạng, màu sắc và hình phối cảnh của chúng. Khi đó không thể có được nhãn quang thật sự. Từ cách tiếp cận biểu tượng nói ở trên ta có thể thấy rằng giai đoạn cảm dục (astral stage) và chu kỳ thời gian rộng lớn mà đại ảo tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ chỉ là tạm thời và thoáng qua. Đó không phải là giai đoạn của một sự biểu lộ thiêng liêng nhất định. Đó không phải là giai đoạn nhận thức trong sáng rõ ràng. Đó không phải là giai đoạn của công việc hoàn thiện. Đó là khoảng thời gian mà các vị Bán Thần (half-Gods) xuất hiện. Đó là thời gian mà chân lý chỉ được cảm nhận lờ mờ, hình ảnh chỉ thỉnh thoảng được nhìn thấy một cách mơ hồ. Đó là giai đoạn của sự nhận thức Thiên Cơ nửa vời, và khi con người làm việc dựa trên tri thức không hoàn chỉnh thì khó khăn và các lỗi lầm chắc chắn xảy ra. Đó cũng là giai đoạn của sự méo mó và biến động thường xuyên; trong khi rõ ràng là chúng ta có vẻ như không ngừng bị lôi kéo về bên này hoặc bên kia bởi các mãnh lực tác động một cách mù quáng và dường như không mục đích.
The veil of illusion resembles the moment before dawn when the world of familiar things is seen through the fogs and the streamers of mist which veil the world form and also veil the rising sun. Then we have that halftime, that mysterious and vague period when the real is hidden by the unreal; then we have that weird and distorted condition when forms are not seen as they truly are but lose their shape and color and perspective. True vision is then impossible. The astral stage and the vast cycle of time in which the great illusion holds sway can therefore be judged, from the above symbolic approach, to be but temporary and transient. It is not the stage of a definitely divine manifestation; it is not the stage of pure undimmed awareness; it is not the stage of the perfected work. It is that period of time wherein the half-Gods walk; it is the time wherein truth is only dimly sensed, the vision only vaguely and occasionally seen; it is the stage of the half-realized Plan, and when one works on partial knowledge, difficulty and mistakes are bound to supervene. It is also the stage of distortion and of constant mutability; whilst it is in evidence we have the apparently ceaseless pulling hither and thither by forces, working blindly and seemingly without [614] purpose.
Trong giới hạn liên quan đến nhân loại, đó là thời gian mà con người bị bao bọc trong màn sương mù, lạc lối trong làn chướng khí phát ra từ mặt đất (biểu tượng của bản chất căn bản của giới động vật). Tuy nhiên, đôi khi giai đoạn này được thấy là không thực khi ánh sáng le lói của tâm thức thiêng liêng rọi xuyên qua bóng tối bao trùm. Đây là thời gian chuyển tiếp giữa sự thống trị của tâm thức động vật và sự thống trị của tâm thức tinh thần, và giai đoạn chuyển tiếp của ảo tưởng cảm dục này chỉ được biết đến trong gia đình nhân loại. Không có cõi cảm dục nào ngoại trừ trong tâm thức của giới thứ tư trong thiên nhiên, vì con người chịu “ảnh hưởng của ảo tưởng” theo một ý nghĩa khác với sự nhận thức hữu thức của bất kỳ giới nào khác – giới dưới nhân loại hoặc giới siêu nhân.
As far as humanity is concerned, it is the time wherein man is enveloped in mist and fog, and lost in the miasmas arising out of the ground (symbol of the foundational nature of the animal kingdom). Yet at times this stage is seen to be unreal as the dawning light of the spiritual consciousness pierces through the surrounding darkness. It is the interlude between the dominance of the animal consciousness and that of the spiritual, and this interlude of astral illusion is only known in the human family. There is no astral plane except in the consciousness of the fourth kingdom in nature, for man is “under illusion” in a sense different to the conscious awareness of any other kingdom—subhuman or superhuman.
Tôi cảm thấy tuyệt vọng trong cố gắng giải thích ý của Tôi được rõ ràng. Làm thế nào mà một người bị lệ thuộc vào các ảo tưởng của các giác quan, như tất cả mọi người, lại có thể hình dung được trạng thái tâm thức của những người đã tự giải thoát mình ra khỏi những ảo tưởng của cõi cảm dục, hay có thể nhận thức được tình trạng nhận thức của những hình thức sự sống vốn chưa phát triển được tâm thức cõi cảm dục? Chính bản chất kép của thể trí gây ra ảo tưởng này, vì thể trí của con người trao cho y cái chìa khóa của thiên giới hoặc khóa chặt không cho y bước qua cánh cửa đi vào thế giới của các thực tại tâm linh. Chính cái trí cụ thể và phi nguyên lý mang lại mọi phiền toái của nhân loại. Chính ý thức về Ngã thức (I-ness) và tinh thần của cá tính chia rẽ (separative individuality) đã đưa nhân loại đến tình trạng hiện tại của nó, và tuy thế ngay cả điều đó cũng là một phần của tiến trình phát triển vĩ đại. Chính tâm thức về nhị nguyên tính, và ý thức được nhận thức một cách chủ quan và được thừa nhận một cách đồng thời về “Tôi là Thượng Đế” và “Tôi là hình tướng”, đã đẩy nhân loại vào đại-ảo-tưởng.
I despair in making my meaning clear. How can one who is subject to the illusions of the senses, as are all human creatures, conceive of the state of consciousness of those who have freed themselves from the illusions of the astral plane or realize the state of awareness of those forms of life which have not yet developed astral consciousness? It is the dual nature of the mind which causes this illusion, for the mind of man presents to him the keys of the kingdom of heaven or locks upon him the door of entrance into the world of spiritual realities. It is the concretizing unprincipled mind which brings about all the troubles of humanity. It is the sense of I-ness and the spirit of separative individuality which has brought humanity to its present condition, and yet even that is a part of the great developing process. It is the consciousness of duality, and the subjectively realized and synchronously acknowledged sense of “I am God” and “I am form” which has plunged mankind into the great illusion.
Thế nhưng, chính ảo tưởng này rốt cuộc sẽ ban cho con người mật khẩu bí ẩn để tiến vào Thiên Giới và mang lại sự giải thoát cho y. Chính bản thân ảo ảnh (maya) này dùng để hướng dẫn y vào chân lý và tri thức; chính trên cõi cảm dục mà tà thuyết chia rẽ phải được chế ngự, và chính trên chiến trường Kurukshetra mà Arjuna đầy tham vọng cá nhân, và Arjuna vũ trụ mới học được bài học rằng chủ thể hiểu biết và đối tượng hiểu biết chỉ là một. Khoa học bí ẩn của Vị Chân Sư Minh Triết là bí mật của việc làm thế nào xua tan màn sương mù và bóng tối ảm đạm, vốn được tạo ra bởi sự hợp nhất của các lửa trong các giai đoạn đầu. Bí mật của Chân Sư là việc khám phá rằng không có cõi cảm dục nào cả; Ngài nhận ra rằng cõi cảm dục là một ảo tưởng của trí tưởng tượng, và đã được tạo ra do việc sử dụng thiếu kiểm soát của trí tưởng tượng sáng tạo và việc lạm dụng các năng lực huyền thuật. Công việc của Thánh Đoàn chủ yếu là tiêu diệt các hình bóng và xua tan hơi ẩm; mục đích của các Chân Sư là để cho ánh sáng của linh hồn soi vào, và cho thấy rằng tinh thần và vật chất là hai thực tại vốn cấu thành các đơn vị, và rằng chỉ trong thời gian và trong không gian, và qua việc lạm dụng có tính chu kỳ các năng lực huyền thuật (magical) và thông linh (psychic) mà cõi cảm dục của đại ảo tưởng đã xuất hiện, và bây giờ nó trở thành một điều có thực đến nỗi – theo một ý nghĩa nào đó – nó lại thực hơn (đối với con người) so với giới ánh sáng và giới hình tướng. Theo một ý nghĩa thú vị nhất, bởi vì con người là một linh hồn và ánh sáng của linh hồn hiện hữu trong y, ánh sáng đó ngày càng tỏa sáng hơn, và chính điều này tạo ra ảo tưởng. Chính do ảo tưởng này mà công việc huyền thuật đã được tiến hành theo các đường lối sai lầm, và đã được dựa trên các động cơ sai lầm, và được lắp vào một hệ thống vốn mạnh mẽ hơn so với người hoạt động trung bình, vì toàn thể sức mạnh của ảo tưởng thế giới chống lại tất cả những nỗ lực của người sơ cơ trong huyền linh thuật.
Yet it is this very illusion which renders up to man eventually the secret password into the kingdom of God and brings about his release. It is this maya itself which [615] serves to guide him into truth and knowledge; it is on the plane of the astral that the heresy of separateness has to be overcome, and it is on the field of Kurukshetra that the individual aspiring Arjuna, and the cosmic Arjuna, learn the lesson that the knower and the known are one. The secret science of the Master of the Wisdom is the secret of how to dissipate the fogs and mist and darkness and gloom which are produced by the union of the fires in the early stages. The secret of the Master is the discovery that there is no astral plane; he finds that the astral plane is a figment of the imagination and has been created through the uncontrolled use of the creative imagination and the misuse of the magical powers. The work of the hierarchy is primarily to bring to an end the shadows and to dispel the moisture; the aim of the Masters is to let in the light of the soul and to show that spirit and matter are the two realities which constitute the unity and that it is only in time and in space and through the cyclic misuse of the magical and psychic powers that the astral plane of the great illusion has come into being and is now so real a thing that it is—in a certain sense—more real (to man) than the kingdom of light and the kingdom of form. In one most interesting sense it is true that because the human being is a soul and because the light of the soul is found within him and is gradually growing into fuller radiance this itself produces the illusion. Because of this illusion, the magical work has been carried forward along wrong lines and has been based on wrong motives and fitted into a scheme which is stronger than the average worker, for the whole force of the world illusion is against all the efforts of the beginner in white magic.
Do đó các qui luật kết thúc với phát biểu rằng nhà huyền thuật hãy xướng lên những linh từ “hòa trộn lửa và nước”, nhưng đây là những qui luật dành cho người tầm đạo. Các qui luật tương ứng dành cho các điểm đạo đồ lại kết thúc với lời sau đây: “Điểm đạo đồ hãy xướng lên nốt phối hợp các lửa”. Điều này có ý nghĩa và khích lệ nhiều cho người sơ cơ trong công việc huyền thuật. Y vẫn còn cần phải hoạt động trên cõi cảm dục, và có lẽ y không thể tránh việc này trong một thời gian dài. Đối với y, dấu hiệu của sự tăng trưởng là sự triệt thoái đều đặn tâm thức của y ra khỏi cõi giới đó, đạt được sự thăng bằng và nhận thức trí tuệ, tiếp theo là công việc sáng tạo trên cõi trí. Có một tuyên ngôn thú vị và cổ xưa được tìm thấy trong văn khố của các Thánh Sư (adepts), diễn tả một số giai đoạn trong công việc huyền thuật, tất nhiên chúng được diễn đạt dưới ngôn từ biểu tượng:
The rules therefore end with the statement that the magician chants the words that “blend the fire and water”—but these are the rules for the aspirant. The rules for initiates of a paralleling kind end with the [616] words: “Let the initiate sound the note that unifies the fires”. This is significant and of much encouragement to the beginner in the magical work. He is still perforce working on the astral plane and he cannot possibly avoid so doing for much time. The mark of growth for him is the steady withdrawal of his consciousness from that plane and his attainment of mental poise and of mental awareness, followed by creative work on the mental plane. There is an interesting and ancient proclamation found in the archives of the adepts which covers some of the stages in the magical work, couched of course in symbolic form:
“Nhà huyền thuật hãy đứng bên trong đại dương của thế gian. Y hãy đắm mình trong nước và ở đó y hãy đứng trên nền đất của y. Y hãy nhìn xuống vào đáy nước sâu. Không thấy gì trong hình dạng chính xác. Không có gì ngoại trừ nước. Nước chuyển động dưới chân y, xung quanh y, và ở trên đầu y. Y không thể nói; y không thể nhìn thấy. Chân lý biến mất trong nước.
“Let the magician stand within the great world sea. Let him immerse himself in water and there let him stand his ground. Let him look down into the watery depths. Nothing is seen in form correct. Nothing appears but water. Beneath his feet it moves, around him, and above his head. He cannot speak; he cannot see. Truth disappears in water.
“Nhà huyền thuật hãy đứng trong dòng suối. Xung quanh y nước chảy. Chân của y đứng vững trên đất và đá, nhưng mọi hình thể mà y thấy bị chìm đắm trong sương mù xám dày đặc. Nước ở xung quanh cổ y, nhưng chân y ở trên đá và đầu y ở trong không khí. Y có tiến bộ. Vẫn còn đó sự biến dạng. Y biết y đang đứng, nhưng y không biết và cũng không hiểu đi đâu và làm thế nào để đi. Y xướng lên những linh từ của huyền thuật, nhưng bị nghẹn lại, mờ nhạt và biến mất. Sương mù trả chúng lại cho y, và không một nốt thực sự nào phát ra. Xung quanh y có nhiều âm thanh của nhiều hình hài, chúng nuốt mất âm thanh của y.
“Let the magician stand within the stream. Around him water flows. His feet stand firm on land and rock, but all the forms he sees are lost in the grey immensity of mist. The water is around his neck, but, feet on rock and head in air, he maketh progress. All is distortion still. He knows he stands, but where to go and how to go he knows not, nor understands. He sounds the words of magic, but muffled, dim and lost, the mist returns them to him, and no true note sounds forth. Around him are the many sounds of many forms, which swallow up his sound.
“Nhà huyền thuật hãy đứng trong màn sương nước, ra khỏi dòng nước chảy. Một số đường nét hiện ra lờ mờ. Y nhìn thấy một khoảng cách nhỏ trên Thánh Đạo. Ánh sáng lập lòe xuyên qua những đám mây mờ. Y nghe tiếng nói của y; nốt (note) của nó rõ ràng hơn và chân thực hơn. Y có thể nhìn thấy hình dáng của những khách hành hương khác. Đằng sau y là biển. Y nhìn thấy dòng suối dưới chân y. Xung quanh y là màn sương mù. Y không nhìn thấy bầu trời cũng như mặt trời trên đầu y.
“Let the magician stand in watery mist, free of the running stream. Some outlines dim appear. He sees a little distance on the Path. Flickers of light break through the clouds of mist and fog, He hears his voice; its note is clearer and more true. The forms of other pilgrims can be seen. Behind him is the sea. Beneath his feet is seen the stream. Around him mist and fog. Above his head no sky is seen nor sun.
“Nhà huyền thuật hãy đứng trên vùng đất cao hơn, nhưng trong cơn mưa. Các giọt nước đổ xuống người y; sấm sét nổi lên, tia chớp lóe sáng trên bầu trời. Nhưng khi cơn mưa đổ xuống, nó xua tan sương mù, nó rửa sạch hình hài và làm trong sạch bầu khí quyển.
“Let the magician stand on higher ground, but in the rain. The drops pour down upon him; the thunder breaks; the lightning flashes in the sky. But as the rain pours down, [617] it dissipates the mist, it washes clean the form and clears the atmosphere.
“Nhờ vậy, hình tướng được nhìn thấy và âm thanh được nghe thấy, mặc dù cho đến lúc đó còn lờ mờ, vì tiếng sấm gầm vang và âm thanh dữ dội của mưa đang rơi. Nhưng bây giờ có thể nhìn thấy bầu trời. Mặt trời ló dạng, và ở giữa những đám mây trôi, các khoảng xanh của bầu trời chào đón đôi mắt mỏi mệt của người đệ-tử.
“Thus forms are seen and sounds are heard, though dim as yet, for loud the thunder roars and heavy is the sound of falling rain. But now the sky is seen; the sun breaks forth and in between the drifting clouds, expanses of the blue of heaven cheer the tired eyes of the disciple.
“Nhà huyền thuật hãy đứng trên đỉnh núi. Bên dưới y, trong các thung lũng và đồng bằng, người ta có thể nhìn thấy nước, các dòng suối và những đám mây. Bên trên y là màu xanh của bầu trời, ánh sáng rực rỡ của mặt trời đang lên, sự trong lành của không khí vùng núi. Mỗi âm thanh đều rõ ràng. Sự tĩnh lặng nói thành tiếng” (speak with sound).
“Let the magician stand upon the mountain top. Beneath him in the valleys and the plains, water and streams and clouds are seen. Above him is the blue of heaven, the radiance of the rising sun, the pureness of the mountain air. Each sound is clear. The silence speaks with sound.”
Sau đó đến các cụm từ có ý nghĩa cao siêu, nó cung cấp hình ảnh của sự thành tựu:
“Nhà huyền thuật hãy đứng trong mặt trời, từ đó nhìn lên địa cầu. Từ điểm cao đó của vùng trời an bình, ngài hãy xướng lên các linh từ vốn sẽ tạo ra các hình tướng, xây dựng các thế giới, các vũ trụ và ban phát sự sống của ngài cho những gì mà ngài đã tạo ra. Ngài hãy phóng các hình tướng được sáng tạo trên đỉnh núi theo một cách thức để chúng có thể xuyên qua những đám mây đang vây quanh quả địa cầu, và mang theo ánh sáng và sức mạnh. Những thứ này sẽ xua tan tấm màn che của các hình tướng vốn đang che giấu trú sở thực sự của trái đất khỏi con mắt của người nhìn”.
Then come the highly significant phrases which give the picture of the consummation:
“Let the magician stand within the sun, looking from thence upon the ball of earth. From that high point of peace serene let him sound forth the words that will create the forms, build worlds and universes and give his life to that which he has made. Let him project the forms created on the mountain top in such a way that they can cleave the clouds which circle round the ball of earth, and carry light and power. These shall dispel the veil of forms which hide the true abode of earth from the eye of the beholder.”
Đó là mục đích của công việc huyền thuật. Nó bao hàm việc phát hiện ra rằng cõi cảm dục và ánh sáng cảm dục mà ta thường gọi chỉ là những máy chiếu phim do chính con người tạo ra. Những gì mà con người đã tạo ra thì y cũng có thể phá hủy.
Such is the end of the magical work. It involves the discovery that the astral plane and the astral light so-called are but the cinematographs created by man himself. What man has created he can also destroy.
Còn nhiều điều về công tác huyền thuật nữa mà Tôi không thể đưa ra vào lúc này. Các linh từ hỗn hợp không thể được đưa ra dưới bất cứ hoàn cảnh nào, ngoại trừ dưới sự tuyên thệ giữ bí mật, sự tuyên thệ này sẽ tự động chi phối vị đệ tử thệ nguyện. Người tầm đạo không tuyên thệ với ai cả, ngoại trừ với chính linh hồn của mình khi linh hồn ban truyền cho y các linh từ đó. Y có được chúng như là kết quả của sự nỗ lực và cố gắng không mệt mỏi. Y biết rằng các công thức này là đặc quyền của mọi linh hồn và chỉ có thể được biết đến và được vận dụng an toàn bởi những ai đã hiểu được Chân Ngã là Một. Do đó y tự thệ nguyện không bao giờ tiết lộ các linh từ này cho bất kỳ kẻ nào không hành động như một linh hồn hay còn đang lang thang mù quáng trong thung lũng của ảo tưởng. Chính từ sự đáp ứng tự động bởi các bậc thức giả của nhân loại với tri thức này mà Đại Đoàn các Thánh Sư (Hierarchy of Adepts) đã tập hợp nhân sự cho mình.
More as to the magical work I may not at this time give. The words that blend may not under any circumstances be given except under the oath of secrecy which governs automatically the pledged disciple; these oaths are given to no man but are rendered by the aspirant to his own soul when that soul has conveyed to him the words. He finds them for himself as the result of tireless effort and endeavor. He knows that these formulas are the prerogative of all souls and can only be known and safely used by those who have realized the Self as One. He therefore pledges himself never to reveal these [618] words to any one who is not functioning as a soul or who is wandering blinded in the vale of illusion. From this automatic response to knowledge by the knowers of the race, the Hierarchy of Adepts has gathered its personnel.
jupiter nguyen
jupiter nguyen
jupiter nguyen
jupiter nguyen
Duy Sáng