Con Đường Điểm Đạo (Chương IX, DDTNLVTDH)

Giới thiệu: Đây là Chương 9 của quyển Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ, với phần bình giảng của GS Michael D. Robbins, Hiệu trưởng Trường Morya Federation. Bản dịch do một số học viên Việt Nam của Trường dịch.

Con đường điểm đạo nối tiếp Con Đường Đệ Tử, hay đúng hơn là chồng lấp phần nào Con Đường Đệ Tử. Những thông tin được Chân sư DK đưa ra ở đây cho ta một cái nhìn “trung thực” về các cuộc điểm đạo, đúng đắn hơn, và “đính chính” một số ngộ nhận mà một số đệ tử đã trình bày trước đây. Giai đoạn từ điểm đạo lần 2 đến lần 5 xảy ra chỉ trong vài kiếp sống, và như bà Blavatsky có nhắc đến (trong Secret Doctrine III), Chân sư Jesus ngay sau kiếp sống ở Palestine, Ngài khoác lấy xác thân của Apollonius of Tyana và đạt quả vị Chân sư trong kiếp sống đó. Giai đoạn điểm đạo từ 1 đến 3, con người được xem ở trên “Thập Giá Cố Định”, và chuyển sang “Thập Giá Chủ Yếu” ở lần điểm đạo thứ 5. Do đó, Thập Giá Cố Định được xem là ngắn nhất trong ba Thập Giá, được ví như nút thắt giữa của đồng hồ cát mà 2 đầu là Thập Giá Biến Đổi và Thập Giá Chủ Yếu.

******

CHƯƠNG IX

CON ĐƯỜNG ĐIỂM ĐẠO

Sau một thời gian ngắn hoặc dài, người đệ tử sẽ đứng trước Cửa Điểm Đạo. Chúng ta phải nhớ rằng khi hành giả tiến đến Cửa này và đến gần Chân sư hơn, thì đó là lúc chân y thấm máu của trái tim, như có nói trong “Ánh Sáng trên Đường Đạo.” Mỗi bước đi lên bao giờ cũng thông qua sự hy sinh tất cả những gì lòng ta quyến luyến trên cảnh giới này hay cảnh giới khác, và sự hy sinh này phải luôn luôn là tự nguyện. Kẻ tiến bước trên Đường Dự Bị và Thánh Đạo là người đã tính được cái giá phải trả, có ý thức về giá trị đã được điều chỉnh, và do đó không xét đoán sự việc như cách xét đoán của thế nhân. Y là người đang cố dùng “cường lực để chiếm thiên giới”, và trong cố gắng này y chuẩn bị cho hậu quả đau khổ. Y là người thà mất tất cả để đạt mục tiêu, và trong khi chiến đấu cho chân ngã chủ trị phàm ngã thì sẵn sàng hy sinh dù phải vào cõi chết.

1. Một trong những yếu tố phải luôn được ghi nhớ là liệu Chân sư Tây Tạng đang nói đến cuộc điểm đạo đầu tiên (“Sự giáng sinh”) hay cuộc điểm đạo thứ ba (sự “Biến hình”) — cuộc điểm đạo đầu tiên của thái dương hệ. Không phải lúc nào cũng dễ dàng trong mọi bối cảnh để xác định cái nào trong hai cái này có thể là chủ đề của cuộc thảo luận. Đôi khi có vẻ như một “quy trình che đậy” (blinding process) nào đó đang cố tình được sử dụng. Có vẻ như Chân sư DK muốn tư tưởng xung quanh chủ đề về điểm đạo vẫn linh động. Có một nguy cơ “phân loại học thuyết” nếu bất kỳ hệ thống tư tưởng cứng nhắc nào nảy sinh và tồn tại lâu dài. Vì vậy, nhiều người rất quan tâm đến vấn đề này và tìm cách phân loại không chỉ bản thân họ mà cả những người khác. May mắn hoặc không may mắn, họ thường thiếu hiểu biết sâu sắc và chuyên môn để làm như vậy. Bằng cách hơi “che đậy” chủ đề về lần điểm đạo thứ nhất và thứ ba, Chân sư Tây Tạng đảm bảo rằng các đệ tử đang đánh giá không tự cảm thấy đủ chắc chắn để đưa ra kết luận vội vã. Họ buộc phải tiếp tục tự vấn bản thân, điều này chỉ có thể dẫn đến sự soi sáng lớn hơn.

2. Như việc điểm đạo được trình bày trong cuốn sách này, Điểm đạo trong Nhân loại và Thái dương hệ, sự bắt đầu của Con đường đệ tử dường như xảy ra trước cuộc điểm đạo đầu tiên của hành tinh, “Sự giáng sinh”.

3. Giai đoạn đầu tiên của con đường đệ tử được gọi là “Tiểu đệ tử” (“Little Chelaship”). Đó là một giai đoạn của chí nguyện, thuộc Con đường Dự Bị, và, mặc dù có liên quan đến cuộc điểm đạo hành tinh đầu tiên, nó bắt đầu vào thời điểm trước khi cuộc điểm đạo đó có thể được thực hiện. Thời gian của “Tiểu đệ tử”, như Chân sư Tây Tạng mô tả, “trải qua vài kiếp sống” (DINA I 716) “Tiểu Đệ tử” được gọi là “thời kỳ của tâm thức Lemurian”. (DINA I 716)

4. Giai đoạn của Con đường đệ tử sau “Tiểu Đệ tử” là “Đệ tử trong Ánh Sáng” được gọi là giai đoạn “Atlantean” của tiến trình con đường đệ tử. Chân sư Tây Tạng nói với chúng ta rằng “hai kiếp sống đôi khi là đủ để trải qua giai đoạn này” (DINA I 716) Có vẻ như một “Đệ Tử trong Ánh Sáng” có thể là một điểm đạo đồ ở cấp độ đầu tiên, nhưng chúng ta không được bảo rằng một chela (đệ tử) như thế cần phải vậy. Vì giai đoạn “Đệ tử được chấp nhận” hầu như luôn luôn xảy ra sau lần điểm đạo đầu tiên, và giai đoạn “Đệ tử trong Ánh Sáng” ngay trước giai đoạn “Đệ tử được chấp nhận”, có vẻ như ở một thời điểm nào đó trong quá trình “Đệ tử trong Ánh Sáng”, người đệ tử là điểm đạo đồ cấp độ đầu tiên.

5. Vào lúc đạt đến cụm từ “Đệ tử Được Chấp Nhận”, cuộc điểm đạo đầu tiên gần như chắc chắn đã được thực hiện. Đây là trường hợp gần như luôn luôn xảy ra và tôi chỉ biết một ngoại lệ đối với quy tắc này. Tuy nhiên, chỉ vì một người đã điểm đạo bậc một không có nghĩa là người đó nhất thiết phải là một đệ tử được chấp nhận. Một số kiếp sống có thể trôi qua trước khi “sự chấp nhận”, hiểu về mặt kỹ thuật, xảy ra.

6. Khi xem xét các giai đoạn khác nhau của đường Đạo, có nhiều điểm trùng lặp. Không có quy tắc cứng nhắc để xác định thời điểm Con đường Dự bị, Con đường đệ tử, Đệ tử được Chấp nhận, Đệ tử Cao cấp, v.v., bắt đầu và kết thúc. Các cuộc điểm đạo hành tinh lần thứ nhất và thứ hai sẽ xảy ra tại một số điểm nhất định dọc theo các giai đoạn khác nhau này của đường Đạo.

7. Cổng điểm đạo (Portal of Initiation), như đã thảo luận ở đây, biểu thị cuộc điểm đạo đầu tiên của hành tinh.

8. Chân sư DK nhấn mạnh bản chất khó khăn của cách tiếp cận Cổng điểm đạo đó, vì “đôi chân được tắm trong máu của trái tim”. Điều này có nghĩa là bàn chân không thể di chuyển về phía trước ngoại trừ thông qua quá trình hy sinh. Luôn luôn phải từ bỏ cái nhỏ hơn cho cái lớn hơn. Không có gì và không có ai buộc người chí nguyện phải thực hiện những hy sinh cần thiết; nhu cầu đối với họ được nhận ra trong nội tâm và người chí nguyện tự nguyện đáp ứng các yêu cầu đó.

9. Người trung bình (thậm chí cả những người chí nguyện trung bình) nắm giữ nhiều thứ thân yêu. Chính việc cầm hay nắm này phải được buông ra để tay của y có thể tiếp nhận được những quyền năng (món quà) cao hơn. Cái mà chúng ta bám vào ngăn cản quyền truy cập vào cái vốn có giá trị cao hơn. Vì vậy, đối với một người sẽ tiến lên trên đường Đạo, yêu cầu “buông bỏ” luôn luôn hiện hữu.

10. Cần nhắc lại rằng cuốn sách “Ánh sáng trên đường Đạo” được cho là được viết bởi Chân sư Hilarion thông qua Mabel Collins. Đó là một luận thuyết nhỏ mang tính chiến binh dành cho những ai muốn tiến lên trên đường Đạo một cách nhanh chóng.

11. Chúng ta được nhắc nhở rằng nếu chúng ta bước trên Con đường của sự thánh thiện, chúng ta phải “tính toán chi phí”. Không một cá nhân nào có ý thức thông thường về các giá trị lại tuân theo sự khắc nghiệt của Con đường đó. Chỉ những người có đủ kinh nghiệm nhập thế mới làm sáng tỏ ý thức về giá trị của họ, và quyết định một cuộc sống mà ở đó những thứ thấp kém hơn (hầu hết đều quý báu) được tự nguyện từ bỏ.

12. Chân sư Tây Tạng dùng những từ ngữ mạnh mẽ để mô tả thái độ của một cá nhân chuẩn bị bước vào Con đường Điểm đạo. Những thái độ được bày tỏ ở đây gợi nhớ đến Thánh Paul, người nằm trong số những vị đã khuyên rằng một người phải “giành lấy nước thiên đàng bằng vũ lực” và người “coi mọi sự là mất mát” nếu y không thể giành được “phần thưởng của lời kêu gọi cao cả trong Đấng Christ của y.” (xem TCF 578)

13. Người ta có thể tự hỏi về sự cần thiết của chủ nghĩa cực đoan như vậy. Có phải mỗi đệ tử bước trên Con đường Điểm đạo phải là một “người, trong cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ bản ngã thấp hơn của chân ngã cao hơn, sẵn sàng hy sinh cho đến chết”? Chúng ta nên nhớ rằng Chân sư Tây Tạng không hề phóng đại. Các giai đoạn đầu tiên của Con đường Điểm đạo sẽ không đòi hỏi nhiều như các giai đoạn sau, nhưng một người đã đặt chân lên Con đường đó, và quyết tâm đi theo Con đường đó cho đến cùng, sẽ phải đương đầu với sự cần thiết phải nắm giữ và thể hiện thái độ cực đoan ở đây. Không có cách nào khác là giải phóng khỏi hình tướng, đặc biệt là trong thời gian cuộc điểm đạo hành tinh đang diễn ra, và khi mãnh lực đang được sử dụng bởi Thánh đoàn và Shamballa để tăng tốc những người chí nguyện trên “Con đường Tiến lên”.

14. Khi suy ngẫm về những khả năng xảy ra này, chúng ta phải nghiêm túc tự hỏi: “Tôi thực sự khao khát điều gì?” Tùy theo bản chất câu trả lời của chúng ta sẽ là sự sẵn lòng của chúng ta để khẳng định bản thân (thông qua sự hy sinh cần thiết) trên Con đường Điểm đạo.

Hai cuộc điểm đạo đầu tiên.

Vào cuộc điểm đạo thứ nhất, việc Chân nhân chế ngự thể xác phải đạt đến mức cao. “Các tội lỗi của xác thịt”, nói theo ngôn từ của Thiên Chúa giáo, phải được thống trị; tính tham ăn uống, và lối sống buông thả không được còn ảnh hưởng. Hành giả không còn chiều theo các đòi hỏi của tinh linh hồng trần; sự chế ngự phải hoàn toàn và cám dỗ phải chấm dứt. Phải đạt [83] được một thái độ tuân hành chung đối với Chân nhân và sự tự nguyện tuân hành phải rất mạnh mẽ. Vận hà giữa chân ngã và phàm ngã được mở rộng và sự tuân phục của thân xác phải thực sự là tự động.

15. Chúng ta lưu ý rằng khi điểm đạo diễn ra, khả năng kiểm soát của Chân ngã đã rất mạnh. Chân sư DK sử dụng các từ, “cấp độ thành tựu cao” để diễn tả cấp độ kiểm soát mà Chân ngã khẳng định đối với cơ thể vật lý vào thời điểm có thể điểm đạo lần đầu tiên. Điều này có nghĩa là những trải nghiệm ban đầu về nhận biết chiều kích linh hồn, tiếp cận linh hồn và chỉnh hợp với linh hồn đều xảy ra trước khi thực sự có thể thực hiện được lần điểm đạo đầu tiên.

16. Có thể dễ dàng thực hiện một trong hai điều: hoặc đánh giá quá cao cấp độ đạt được cần thiết cho cấp độ đầu tiên hoặc đánh giá thấp nó. Một số môn sinh của Minh triết nói như thể việc đạt được cấp độ đầu tiên có nghĩa là rất nhỏ nếu có; họ coi đó là một giai đoạn hoàn toàn sơ đẳng. Những người khác có thể nâng cao ý nghĩa của nó trong tâm trí của họ, họ quên rằng cuộc điểm đạo của “Sự ra đời” báo hiệu sự bắt đầu, và rằng sự phát triển tâm linh giữa cấp độ thứ nhất và thứ hai cần trải qua nhiều kiếp sống.

17. Điều quan trọng cần nhận ra là Con đường Chí nguyện (được một số người gọi là “Con đường Dự bị”) nhất thiết phải bắt đầu trước khi có thể đạt cấp độ đầu tiên.

18. Khi Con đường Đệ tử được thảo luận, người ta phải biết gần như giai đoạn nào của Con đường đang được thảo luận. Con đường Đệ tử dài, kéo dài những kiếp sống xảy ra trước cấp độ đầu tiên và bao gồm cả những kiếp sống ngay trước cấp độ thứ ba. Trên thực tế, [nếu] thuật ngữ “đệ tử” thực sự khá chung chung và áp dụng cho nhiều giai đoạn của Con đường Tiến hóa Vĩ đại. Con đường Đệ tử chắc chắn không dừng lại ở cấp độ thứ ba với cuộc điểm đạo đầu tiên của Thái dương, mà tiếp tục theo cách bao gồm các vị La Hán, Chân sư Minh triết, Chohans và thậm chí cả những sinh mệnh vĩ đại như Sanat Kumara, một đệ tử của Thái dương Thượng đế.

19. Tuy nhiên, đối với các mục đích thực tế, khi Con đường Đệ tử được thảo luận, thời gian các kiếp sống thường bắt đầu trước cấp độ thứ nhất và bao gồm cả kiếp sống mà cấp độ thứ ba được thực hiện. Sau đó, một người ở trên Con đường Điểm đạo một cách thực thụ và tốt đẹp, mặc dù trước thời điểm đó (sau khi đạt được cấp độ thứ nhất hoặc thứ hai), người ta phải coi một đệ tử là điểm đạo đồ tập sự.

20. Cuộc điểm đạo đầu tiên, một cách tượng trưng, ​​là một cuộc điểm đạo Lemurian và do đó liên quan rất nhiều đến cuộc điểm đạo kiểm soát thể vật lý dĩ thái. Ở thời Lemuria, con người sơ khai đã tìm cách đạt được sự thống trị của bản chất vật chất bằng vận cụ dĩ thái, và cuộc điểm đạo đầu tiên có liên quan đến quá trình đó nhưng ở một khúc quanh cao hơn nhiều trên vòng xoáy tiến hóa. Ở cấp độ đầu tiên, thể dĩ thái phải đáp ứng với ý chí của linh hồn. Ở tình huống này, cơ thể vật lý sẽ tự động đáp ứng.

21. Ở cấp độ đầu tiên, một người chứng tỏ mình đã chinh phục được “Tội lỗi của Xác thịt” và quan trọng là “cám dỗ” của những tội lỗi đó đã rời đi. Người ta có thể, thông qua sức mạnh của ý chí, buộc mình không phạm tội theo những cách thô hơn, nhưng liệu “cám dỗ” để làm điều đó đã thực sự rời đi chưa? Đây sẽ là một câu hỏi tâm lý mang tính xác định, và chỉ khi “cám dỗ” không còn quyến rũ được tâm thức thì người ta mới có thể đạt được cấp độ điểm đạo đầu tiên.

22. Chúng ta lưu ý rằng liên quan đến cấp độ này, rằng mặc dù sự phục tùng đối với Chân ngã (Thái dương Thiên thần) không được hoàn toàn, nhưng phàm ngã đã phát triển một “thái độ tuân phục chung” đối với Chân ngã. Có thể có những trường hợp không tuân theo, nhưng “sự sẵn sàng” tuân phục rất mạnh mẽ. Điều này chỉ ra rằng người ấy đánh giá cao quan điểm của Chân ngã và các dòng năng lượng phát ra từ đó và tìm cách điều chỉnh bản ngã thấp hơn cho phù hợp.

23. Thật thú vị khi thấy rằng cấp độ đầu tiên thể hiện sự “mở rộng kênh” giữa cái cao hơn và cái thấp hơn — tức là giữa linh hồn và phàm ngã. “Xác thân” bị khuất phục rất nhiều và việc tuân thủ các ý định cao hơn của nó gần như tự động.

Sự kiện rằng không phải mọi điểm đạo đồ đều đạt tiêu chuẩn này, có thể được giải thích bằng nhiều lý do, tuy nhiên, âm điệu họ phát ra cần phải ở trên phương diện ngay chánh; họ sẽ tỏ ra thành thật và công khai nhìn nhận các khuyết điểm của chính mình, và người ta sẽ biết rằng họ đang phấn đấu để tuân thủ tiêu chuẩn đến mức cao nhất, dù có thể là chưa đạt được sự hoàn thiện. Các điểm đạo đồ có thể, và vẫn có thể sa ngã, và do thế phải gánh lấy tác động trừng phạt của luật. Do sự sa ngã này, họ có thể, và thực sự làm tổn thương cả nhóm và vì thế phải gánh chịu nghiệp quả điều chỉnh, phải đền bù sự tổn hại bằng việc phụng sự kéo dài về sau, khi mà các thành viên của nhóm tự mình áp dụng luật, dù rằng vô thức; sự tiến bộ của họ bị trở ngại nghiêm trọng, và họ phải mất nhiều thì giờ để giải quyết nghiệp quả với các phần tử bị tổn thương. Chính sự kiện một người là điểm đạo đồ, và do đó làm trung gian cho loại mãnh lực được tăng cường lớn lao, khiến các lệch lạc của y ra ngoài con đường chánh thì có các hiệu quả mạnh mẽ hơn là trường hợp của một người kém tiến hóa; sự báo phục và hình phạt của y cũng sẽ lớn hơn. Tất nhiên là y phải trả giá cho các lỗi lầm, trước khi được phép tiến xa hơn trên Đường Đạo. Về phần tập thể bị y làm tổn thương, thái độ của họ sẽ như thế nào? Nhận thức mức nghiêm trọng của lỗi lầm, khôn ngoan chấp nhận các sự kiện thực của trường hợp này, kiềm chế việc chỉ trích một cách thiếu tình huynh đệ, và ban rải tình thương cho người huynh đệ lầm lỗi:− tất cả những điều trên, cùng với hành động sao cho tỏ rõ trước mắt công chúng rằng các tội lỗi và những vi phạm định luật như thế không thể tha thứ được. Thêm vào đó, thái độ trí tuệ của nhóm liên quan sẽ hướng dẫn họ (trong khi có hành động cương quyết) giúp người huynh đệ lầm lỗi thấy được sự sai phạm của mình, giải quyết nghiệp quả báo phục, và sau đó phục hồi lòng yêu [84] mến, kính trọng đối với y, khi y đã thực hiện được những sửa đổi thích đáng.

24. Chân sư DK nói lên điều hiện thực. Ngài nhận thức rõ rằng không phải tất cả những điểm đạo đồ tập sự đều đạt được tiêu chuẩn đặt ra, nhưng ít nhất họ sẽ thừa nhận những thiếu sót của mình — công khai nếu cần thiết. Họ sẽ đấu tranh để tuân theo các tiêu chuẩn cao, và sự đấu tranh của họ sẽ được thể hiện rõ ràng. Ở cấp độ đầu tiên sự hoàn hảo không đạt được và không được mong đợi. Thánh đoàn xem những nỗ lực của một đệ tử để đạt được điều đáng mong đợi là quan trọng dù sự thành tựu có trọn vẹn hay không.

25. Chân sư DK thảo luận về “sự sa ngã” của điểm đạo đồ. Đây là điều khá phổ biến trong thời kỳ khó khăn của chúng ta. Khi “sự sa ngã” đến, “luật” không thể dừng lại và hình phạt sẽ đến.

26. Điểm đạo đồ tập sự có liên quan đến một nhóm và “sự sa ngã” như vậy có thể khiến cả nhóm bị thương. Vết thương sẽ phải được chữa khỏi, và trong quá trình này, nhóm trở thành công cụ của luật nghiệp quả. Đây là giai đoạn khó chịu và nghiêm khắc nhất đối với điểm đạo đồ tập sự ‘phạm lỗi’, nhưng y thường học được bài học cần thiết.

27. Trên đường Đạo, chúng ta học được rằng chúng ta không sống một mình. Mọi thành tựu đều nâng nhóm của chúng ta lên; mỗi “sự sa ngã” kéo nó xuống. Chúng ta “biết” chúng ta không đi một mình! (xem DINA I, 584, Quy tắc của đường Đạo VI)

28. Chân sư DK nói về năng lượng học huyền bí. Một điểm đạo đồ (ngay cả một điểm đạo đồ tập sự ở hai cấp độ đầu tiên) sử dụng năng lượng và mãnh lực mạnh hơn những năng lượng được sử dụng bởi một cá nhân bình thường. Khi các mãnh lực mạnh bị định hướng sai, hậu quả do đó sẽ lớn hơn. Chúng ta có thể thấy tại sao cần phải đảm bảo một tiêu chuẩn nhất định về hành vi hy sinh bản thân ở những giai đoạn nhất định dọc theo đường Đạo trước khi ban tặng đệ tử những năng lượng và mãnh lực còn mạnh mẽ hơn. Đây thường là vai trò của hành tinh thự thách, Sao Thổ—hành tinh đảm bảo rằng chúng ta tuân thủ luật.

29. Không có gì được phép đối với các luật bảo vệ đường Đạo (và đồng thời bảo vệ kẻ đi theo Con đường đó). Cần phải thoát khỏi lỗi lầm trước khi cho phép tiến bộ hơn nữa. Nếu không như vậy, thiệt hại có thể lớn hơn nhiều. Trẻ em không được phép chơi với lửa.

30. Chúng ta thấy Chân sư DK đã dành nhiều thời gian để thảo luận về vấn đề này. Sự gặp phải những sai sót rõ ràng đáng chú ý từ con đường Đạo đúng đắn thường đủ để các nhóm phải được thông báo về cách ứng phó thích hợp của họ trong những trường hợp như vậy.

31. Các thành viên trong nhóm cần nhiều minh triếttình thương dành cho người huynh đệ ‘lầm lỗi’. Trên tất cả, phải tránh “những lời chỉ trích không thân thiện”. Các đệ tử không biết họ có thể gây ra thiệt hại cho nhau như thế nào thông qua việc ham mê chỉ trích. Tâm trí của họ mạnh mẽ và do đó, những lời chỉ trích của họ có sức mạnh lớn hơn làm tổn thương, và thậm chí còn hủy diêt. Trong những tình huống như thế này, một đệ tử (trong vai trò là thành viên của nhóm) thể hiện bản chất đáng được kính trọng của mình.

32. Cũng rõ ràng rằng nhóm mà đệ tử vi phạm thuộc về phải “làm gương” và đảm bảo rằng công chúng đang theo dõi nhận ra rằng cả nhóm không dung túng cho hành vi phạm lỗi. Cả người phạm lỗi và người bị xúc phạm đều phải rút ra những bài học lớn.

33. Người ta có thể thấy sự pha trộn giữa cung hai và cung một trong lời khuyên mà Chân sư DK dành cho nhóm. Các thành viên trong nhóm phải vững vàng, nhưng họ phải giúp người huynh đệ lầm lỗi nhìn ra lỗi của mình, giúp y vượt qua nghiệp quả, và khi tất cả đã cân bằng, họ sẽ phục hồi lại vị thế cho y. Theo “Quy tắc của đường Đạo”, Quy tắc II, “không được bài bác lẫn nhau”.

34. Khi nghiên cứu phần này, chúng ta học được điều gì đó về cách thức hoạt động của nghiệp. Karma là một công cụ giáo dục. Quả báo là nhằm mục đích giáo dục chứ không phải để trừng phạt. Chính tình thương sâu sắc bên trong và lòng trung thành giữa các thành viên của nhóm phải luôn hiện diện trong suốt quá trình sửa chữa. Điều này không bao giờ được quên, nếu không các thành viên trong nhóm sẽ rơi vào ‘lỗi lầm’ của sự chia rẽ, đứa con của Một Đại Tà Thuyết — Đại Tà Thuyết Chia Rẽ.

Không phải tất cả mọi người đều phát triển theo cùng đường lối, hay theo các đường lối song hành, và do thế không thể ấn định các quy luật cứng nhắc về tiến trình chính xác cho mỗi cuộc điểm đạo, ấn định đúng các luân xa nào cần được khơi hoạt, hoặc linh thị nào cần ban cho họ. Có quá nhiều điều tùy thuộc vào cung của người đệ tử, hoặc sự phát triển của y theo một chiều hướng nào đó (vì mọi người thường không phát triển đồng đều), tùy theo nghiệp quả riêng của y và cũng tùy các nhu cầu cấp thiết của từng thời kỳ. Tuy nhiên, có thể đề nghị như thế này: Vào cuộc điểm đạo thứ nhất, ứng với cuộc giáng sinh của Đức Christ, luân xa tim là luân xa thường được khơi hoạt, để nhằm chế ngự thể cảm dục hữu hiệu hơn, và phụng sự nhân loại lớn lao hơn. Sau cuộc điểm đạo này, điểm đạo đồ được dạy dỗ chính yếu về các sự kiện của cảnh giới cảm dục; y phải ổn định thể tình cảm của mình và học cách làm việc trên cảnh giới cảm dục cũng dễ dàng như trên cảnh giới hồng trần; y được phép tiếp xúc với các thiên thần cõi cảm dục; y học cách chế ngự các tinh linh của cõi cảm dục; y phải hoạt động dễ dàng trên các phân cảnh thấp, và giá trị và phẩm chất của công việc y làm trên cảnh giới hồng trần càng tăng. Vào cuộc điểm đạo này, y chuyển từ Phòng Học Tập sang Phòng Minh Triết. Vào thời gian này, sự phát triển thể cảm dục được liên tục chú trọng, dù rằng thể trí của y vẫn tăng trưởng đều đặn.

35. Chân sư đang nói một điều rất quan trọng ở đây. Là học viên của Minh triết Ngàn đời, chúng ta rất muốn có công thức làm rõ các quá trình xảy ra trong mọi giai đoạn trên đường Đạo, khiến chúng có thể nhận dạng và dự đoán được. Điều này không xảy ra vì số lượng các biến quá lớn. Có những biến thể trong quy trình điểm đạo chính xác, trong việc làm sống động các luân xa, và trong việc cung cấp tầm nhìn, chỉ kể tên ba lĩnh vực quan trọng cần xem xét. Có thể nắm được một số khái quát, nhưng không nên đánh giá quá vội vàng bởi vì có rất ít người dưới cấp bậc Chân sư thực sự biết được.

36. Chúng ta thấy tầm quan trọng của việc biết được “cung” của một ứng viên điểm đạo; nói về “cung”, chúng ta muốn nói đến tất cả các cung liên quan đến hệ thống năng lượng của y, nhưng đặc biệt là các cung linh hồn và phàm ngã, và có lẽ, ở một cấp độ sâu nào đó, cung Chân thần cho sự đi lên đúng của các ngọn lửa vi tế phụ thuộc vào cung cao nhất đó, cung mà Đấng Điểm đạo (Hierophant) chắc chắn phải biết.

37. Cũng đúng rằng, mặc dù có một trình tự chung trong quá trình phát triển của bất kỳ con người nào, nhưng sự phát triển không đồng đều thường là chuẩn mực, và sự phát triển đồng đều là rất hiếm. Đó là lý do tại sao chúng ta thấy rất nhiều người tiến bộ theo những cách nhất định và tương đối kém phát triển ở những mặt khác. Sự không đồng đều này cũng gây ra nhiều xung đột trong hệ thống năng lượng của chính họ và trong mối quan hệ của họ với những người khác và môi trường.

38. Nghiệp cũng là một yếu tố rất quan trọng bởi vì hệ thống năng lượng của một người dường như đảm bảo việc áp dụng một số năng lượng và mãnh lực có thể đẩy nhanh sự tiến bộ của y, nhưng sự mất cân bằng vẫn có thể tồn tại do những ‘lỗi lầm’ chưa được giải quyết trong quá khứ. Các khoản nợ phải được trả.

39. Cũng phải xem xét các năng lượng và các mãnh lực nổi bật trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Những năng lượng và các mãnh lực đó có thể thúc đẩy hoặc làm trầm trọng thêm sự cân bằng và mất cân bằng trong hệ thống năng lượng của ứng viên và không thể bị bỏ qua.

40. Chúng ta thấy còn bao nhiêu điều cần xem xét và sự thận trọng nhất định trong nhận định về những điểm đạo đồ và quá trình của họ có thể là đường lối khôn ngoan nhất.

41. Một điểm chung liên quan đến quá trình điểm đạo xuất hiện; đó là trung tâm tim thường được sống động ở lần điểm đạo đầu tiên. Điều này cho phép tiến hành công việc quan trọng với thể xác và giúp ứng viên có định hướng phụng sự mạnh mẽ hơn.

42. Thể cảm dục là vận cụ mạnh nhất trong ba vận cụ phàm ngã và khó bị khuất phục nhất. Ngay từ đầu của quá trình điểm đạo, người ta nhấn mạnh vào sự hiểu biết và kiểm soát của nó, mặc dù sự kiểm soát đó sẽ không được thể hiện đầy đủ cho đến khi thực hiện cấp độ thứ hai trong một số kiếp sống sau này.

43. Phải nói rằng ở những nơi khác trong Giáo lý, tầm quan trọng của trung tâm cổ họng khi điểm đạo lần đầu tiên cũng được nhấn mạnh.

44. Điểm đạo đồ cấp độ đầu tiên đang đi ra khỏi Phòng Học tập để vào Phòng Minh triết. Câu hỏi đôi khi đặt ra là khi nào điều này diễn ra. Một số ý kiến ​​cho rằng nó không xảy ra cho đến khi cấp độ thứ ba được thực hiện. Đây là tuyên bố rõ ràng. Tuy nhiên, minh triết đầy đủ chắc chắn không đạt được vào thời điểm này. Người ta có thể tự hỏi bao giờ đạt được minh triết đầy đủ. Ngay cả một Chân sư Minh triết cũng chưa đạt được điều đó một cách trọn vẹn đối với sự sống bao trùm của hành tinh, mặc dù trong mối quan hệ với ba thế giới thấp hơn, Ngài chắc chắn đã đạt được điều đó.

45. Có một sự tương ứng chặt chẽ giữa việc vào Phòng Minh triết, leo lên Thập giá Cố định và bắt đầu sử dụng ba cánh hoa hy sinh của Hoa sen Chân ngã (Egoic Lotus). Các quá trình bên trong này đang xảy ra đồng thời. Lần điểm đạo đầu tiên chắc chắn là một điểm ngăn cách, ngăn cách một quá trình sống lâu dài dành riêng cho sự sống ‘thái âm’ với một quá trình tập trung vào minh triết và bác ái của linh hồn.

Giữa các cuộc điểm đạo thứ nhất và thứ nhì có thể hành giả phải trải qua nhiều kiếp sống. Có thể phải cần một thời gian dài nhiều lần đầu thai trước khi hoàn toàn chế ngự thể cảm dục, và điểm đạo đồ sẵn sàng cho bước kế tiếp. Có sự tương đồng thú vị trong cuộc đời của vị điểm đạo đồ Jesus trong Kinh Tân Ước. Nhiều năm trôi qua giữa lúc Giáng sinh và lễ Rửa tội, nhưng ba bước còn lại đã được thực hiện trong ba năm. Một khi đã được [85] điểm đạo lần thứ hai, sự tiến bộ của điểm đạo đồ sẽ mau lẹ, cuộc điểm đạo thứ ba và thứ tư có thể tiếp theo trong cùng kiếp sống hay kiếp kế tiếp.

46. Đoạn văn trên có tầm quan trọng lớn. Chúng ta biết rằng “nhiều kiếp sống” có thể xảy ra giữa lần điểm đạo thứ nhất và thứ hai. Chúng ta không được cho biết là có bao nhiêu.

47. Sự tương đồng từ cuộc đời của Chân sư Jesus sẽ cho chúng ta biết khoảng ba mươi kiếp sống, vì Sự Rửa Tội đã diễn ra vào năm thứ ba mươi của Ngài. Cuộc truyền giáo của Ngài kéo dài ba năm, và Ngài đã bị đóng đinh, theo câu chuyện mà chúng ta biết, vào năm thứ ba mươi ba của Ngài. Nếu chúng ta, vì lợi ích của cuộc tranh luận, giả định một kiếp sống giữa cuộc điểm đạo thứ hai và thứ ba; một kiếp giữa cuộc điểm đạo thứ ba và thứ tư; và thêm một kiếp nữa từ điểm đạo thứ tư đến thứ năm (tất cả chỉ là những giả định thuận tiện), thì số kiếp từ giữa năm thứ nhất đến năm ba mươi nhiều gấp ba mươi lần trong khoảng thời gian giữa điểm đạo thứ hai và ba, hoặc ba và bốn.

48. Tất nhiên, chúng ta đang làm việc với các con số tương đồng tượng trưng. Chúng ta đã được bảo rằng không phải tuân theo quy tắc cứng nhắc nào về vấn đề điểm đạo có thể xảy ra nhanh như thế nào. Nếu chúng ta tin những gì được đưa ra trong đoạn này (và đôi khi nó có vẻ gây sốc), chúng ta biết rằng có thể thực hiện cuộc điểm đạo thứ hai, thứ ba và thứ tư trong cùng một kiếp sống. Như thường lệ, Chân sư Tây Tạng nghiêm túc trong lời Ngài nói, vì vậy chúng ta phải cố gắng hiểu làm thế nào điều này có thể khả thi.

49. Sự tương tự từ cuộc đời của Chân sư Jesus cho chúng ta biết, ít nhất, thời gian giữa lần điểm đạo thứ nhất và lần thứ hai thì dài hơn nhiều so với thời gian giữa lần điểm đạo thứ hai và thứ tư.

50. Khoảng thời gian giữa điểm đạo thứ nhất và thứ hai là ba mươi kiếp hay lâu hơn? Nó có vẻ là một khoảng thời gian khá dài. Bằng chứng mà chúng ta có thể thu thập được chỉ ra rằng có thể ở trong giai đoạn “Tiểu Đệ tử” trong một vài kiếp sống; rằng có lẽ hai kiếp sống sẽ đủ cho “Đệ tử trong Ánh Sáng”; rằng “một số người đã ở trên Con đường Đệ tử được Chấp nhận này (được hiểu về mặt kỹ thuật) trong nhiều kiếp.” (DINA I 12); có một số môn sinh của Chân sư DK đã tham gia Con đường Đệ tử được Chấp nhận trong ít nhất hai hoặc ba kiếp. Chúng ta cũng được cho biết những điều sau đây tương đối hóa số lượng các kiếp sống giữa các cuộc điểm đạo: “Sau khi thu được thành quả của thí nghiệm được chỉ ra ở trên, sẽ có một giai đoạn nhất định trong đó kinh nghiệm sử dụng các câu chuyện về thần thoại liên quan diễn ra. Điều này chiếm phần xen kẽ giữa lần điểm đạo này và lần điểm đạo khác. Điều này có thể bao gồm một khoảng thời gian của nhiều kiếp sống hoặc cho thấy là tương đối ngắn. ” (R&I 337) Chân sư DK không gợi ý rằng Ngài chỉ nói về khoảng thời gian giữa lần điểm đạo đầu tiên và lần thứ hai.

Từ trên chúng ta có thể thấy rằng, chắc chắn sẽ có tối thiểu bảy, tám hoặc chín kiếp sống giữa lần điểm đạo thứ nhất và thứ hai. Chúng ta suy ra những con số này bằng cách thêm “một số” (đối với “Tiểu Đệ tử” — chữ chung có thể có nghĩa là có lẽ từ bốn đến bảy mạng sống), cộng với hai (hoặc có thể nhiều hơn đối với “Đệ tử trong Ánh sáng”), cộng với ít nhất là hai hoặc ba đối với người Đệ tử được Chấp nhận. Trên thực tế, chúng ta đã thấy rằng Con đường Đệ tử được Chấp nhận có thể kéo dài “nhiều kiếp”.

Việc tính toán là không chính xác, và tôi chắc chắn rằng Chân sư DK có ý định để nó vẫn như vậy, vì có nhân tố tự do ý chí đi vào và phủ định khả năng của một công thức bất biến.

51. Thời gian của giai đoạn làm Đệ tử được Chấp nhận khác nhau được đưa ra như sau: “Nói một cách đầy đủ rằng giai đoạn ‘đệ tử được chấp nhận’ tiến triển (và nó thay đổi trong các trường hợp khác nhau) thì người đệ tử ngày càng tiến gần đến trái tim của nhóm, và tìm thấy vị trí và hoạt động chức năng của riêng mình trong cơ quan hợp tác đó.” (LOM 271).

52. Một “Đệ Tử trên Đường Dây” (giai đoạn thứ tư của con đường đệ tử) phải là một đệ tử được chấp nhận trong “hơn một kiếp sống” (DINA I 743). Có thể lý giải rõ ràng rằng một đệ tử không thể “Trên Đường dây” cho đến khi đường antahkarana được xây dựng (thường gần hoặc chỉ sau cấp độ thứ hai) mặc dù “đường dây” ở đây được đề cập không hoàn toàn giống với antahkarana.

53. Để có được một số ước tính về thời gian liên quan giữa lần điểm đạo đầu tiên và lần thứ hai, chúng ta phải nhớ rằng giai đoạn của “Tiểu Đệ tử” gần như chắc chắn sẽ bắt đầu trước khi cuộc điểm đạo đầu tiên được thực hiện (bao nhiêu kiếp, chúng ta không thể biết chắc chắn), và giai đoạn “Đệ tử được Chấp nhận” tiếp tục vượt ra ngoài cấp độ thứ hai và chỉ bị chấm dứt khi một người trở thành một điểm đạo đồ thực sự ở cấp độ thứ ba. Tuy nhiên, vì khoảng thời gian giữa cấp độ thứ hai và thứ ba không dài (có lẽ cả hai đều được lấy trong cùng một kiếp sống hoặc kiếp sống ngay sau), thực tế là “Đệ tử được Chấp nhận” tiếp tục sau khi đạt cấp độ thứ hai không thêm quá nhiều kiếp vào thời hạn của giai đoạn này. Có vẻ như phần lớn số kiếp sống trong giai đoạn “Đệ tử được Chấp nhận” xảy ra trước lần điểm đạo thứ hai, trừ khi người đệ tử được chấp nhận mất một khoảng thời gian dài bất thường giữa lần điểm đạo thứ hai và thứ ba.

54. Khoảng thời gian giữa cấp độ thứ nhất và cấp độ thứ hai, chúng ta có thể nói, không ít hơn bảy và có lẽ gấp đôi con số đó, hoặc thậm chí là nhiều hơn. Vì vậy, phụ thuộc rất nhiều vào sự nghiêm túc của người đệ tử, nghiệp của y và cơ hội của thời đại.

55. Chúng ta đủ biết rằng một thời gian rất dài xảy ra giữa hai cấp độ này và hầu hết các đệ tử mà chúng ta có thể gặp phải sẽ tập trung vào một điểm nào đó giữa hai cấp độ này. Đây là trường hợp của các đệ tử trong cuốn “Đường Đạo trong Kỷ Nguyên Mới (DINA), những người mà chúng ta có thể đánh giá một cách hợp lý, không phải là tất cả những gì khác biệt với các đệ tử khác trong thế giới hiện đại. Có lẽ, nếu có, họ tiến bộ hơn một chút so với mức trung bình vì Chân sư DK đã chọn họ để được hướng dẫn đặc biệt. Phần lớn trong số họ phải đối mặt với cuộc điểm đạo thứ hai, và không nhất thiết là sắp xảy ra.

56. Điều chúng ta có thể thu thập được từ tất cả những suy luận này là rất nhiều phương trình thời gian nằm “trong tay của chúng ta”. Có sự khác biệt lớn về ‘tốc độ tiến hóa’ tương đối của các đệ tử khác nhau. Nguyên nhân của những khác biệt này nằm rất nhiều trong chính họ. Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra rằng, ở thời điểm hiện tại, có thể tiến bộ rất nhanh bởi vì thế giới đang rất cần những người phụng sự vị tha và Thánh đoàn cũng rất cần sự hỗ trợ.

57. Ngày nay, nhiều đệ tử chọn bỏ qua ‘kỳ nghỉ’ giữa các lần lâm phàm của họ trong devachan. Ta có thể tưởng tượng rằng những người nhiều lần trở lại hóa thân nhanh chóng, sẽ tiến bộ nhanh hơn.

58. Đối với cuộc điểm đạo thứ hai, thứ ba và thứ tư, dường như thời gian thực hiện chúng có thể là một kiếp hoặc có lẽ là hai kiếp. Mặt khác, các nguyên nhân được đưa ra cho khả năng (trong những hoàn cảnh đặc biệt) có nhiều kiếp sống xen vào giữa những cuộc điểm đạo này.

Cuộc điểm đạo thứ nhì tạo nên sự khủng hoảng trong việc chế ngự thể cảm dục. Giống như vào cuộc điểm đạo thứ nhất việc chủ trị thể xác đã được chứng tỏ, thì trong cuộc điểm đạo này, việc chủ trị thể cảm dục cũng được chứng tỏ tương tự. Sự hy sinh và chết dứt dục vọng là mục tiêu của nỗ lực. Chính dục vọng đã được Chân nhân chế ngự, và hành giả chỉ còn mong muốn những gì tốt đẹp cho toàn thể, phù hợp với ý chí của Chân nhân và của Chân sư. Tinh linh cảm dục được chế ngự, thể tình cảm trở nên tinh khiết và trong sáng, phàm tính tàn lụi nhanh chóng. Bấy giờ, Chân nhân lại chế ngự hai hạ thể và uốn nắn chúng theo ý chí của mình. Chí nguyện và mong muốn phụng sự, yêu thương, tiến bộ trở nên mạnh mẽ đến đỗi thường thấy có phát triển nhanh chóng. Đó là lý do tại sao lần điểm đạo này và lần điểm đạo thứ ba, thường (nhưng không phải luôn luôn) nối tiếp nhau trong chỉ một kiếp sống. Vào thời kỳ hiện nay của lịch sử thế giới, cuộc tiến hoá đã được kích thích mạnh mẽ đến đỗi các linh hồn chí nguyện—cảm biết được nhu cầu lớn lao và khẩn thiết của nhân loại—đang hy sinh tất cả để đáp ứng nhu cầu đó.

59. Điểm đạo nhất thiết phải liên quan đến các chủ đề về khủng hoảngkiểm soát. Thông qua quá trình điểm đạo, cơ hội được trao để đối mặt với khủng hoảng và thể hiện khả năng kiểm soát. Người ta nên nhận ra một cách chắc chắn tầm quan trọng của đức tính kiểm soát của sao Thổ như một điều cần thiết cho mọi tiến bộ tâm linh.

60. Kiểm soát các tinh linh vật lý hoặc cảm dục có nghĩa là một người không thể bị chúng “cuốn đi”, bị chúng chế ngự hoặc vượt qua. Chúng không kiểm soát mà chính người đệ tử kiểm soát.

61. Mục tiêu của lần điểm đạo thứ hai là “sự hy sinh và cái chết của dục vọng”. Theo một cách nào đó, ham muốn có thể không bao giờ bị khuất phục, bởi vì nó là một nguyên tắc phổ quát, ngay cả đối với những Sự Sống Vĩ đại nhất. Nhưng ham muốn thấp có thể bị hy sinh, bị chi phối và đưa đến chỗ chết.

62. Đối với một người thành công vượt qua cấp độ thứ hai, mong muốn được thực hiện để phụng sự những ý định cao hơn mà Chân ngã thúc đẩy.

63. Sự hỗn loạn bình thường của thể cảm dục lắng xuống; tinh linh cảm dục được kiểm soát, và tình trạng của thể cảm dục trở nên “thuần khiết và trong trẻo”. Đảm bảo một sự yên tĩnh và sáng tỏ tuyệt vời.

64. Ý chí là rất quan trọng ở cấp độ thứ hai, và theo đó, hành tinh Vulcan có liên quan, chi phối ở một cấp độ đáng kể, các khuynh hướng của sao Hỏa.

65. Khi chúng ta được bảo rằng “Chân ngã nắm lấy hai vận cụ thấp hơn và uốn nắn chúng theo ý muốn của mình”, ngôn ngữ này gợi ý về động lực của Vulcan.

66. Cấp độ thứ hai nhìn thấy “cái chết của sự ích kỷ” một cách tương đối (một khuynh hướng Sao Hoả); ý chí tinh thần bắt đầu thay thế ham muốn phàm ngã.

67. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng mặc dù thể cảm dục trở nên “thuần khiết và trong trẻo”, nhưng trong thể cảm dục vẫn còn khát vọng và khao khát rất lớn, nhưng đó là khát vọng và khao khát “phụng sự, yêu thương và tiến bộ”. Thể cảm dục trong những trường hợp như vậy không phản ứng nhưng có thể được tập trung mạnh mẽ và có thể chứng minh một yếu tố khích động mạnh trong việc thôi thúc và thúc đẩy người đệ tử đang là điểm đạo đồ tập sự của cấp độ thứ hai.

68. Giờ đây Chân sư DK đưa ra một quan điểm hơi khác về thời gian của các cuộc điểm đạo đang được thảo luận. Khoảng một đoạn trước, Ngài đã nói rằng một khi lần điểm đạo thứ hai được thực hiện, lần điểm đạo thứ ba và thứ tư sẽ “có thể” tiếp nối trong cùng một kiếp sống hoặc kiếp tiếp theo. Trong tài liệu tham khảo hiện tại (trong đoạn dưới phần bình giảng) Ngài không thảo luận về cấp độ thứ tư và nói rằng “cuộc điểm đạo này [lần thứ hai] và thứ ba, thường xuyên (mặc dù không phải lúc nào cũng thế) tiếp nối nhau trong một kiếp sống duy nhất.” Khả năng cuộc điểm đạo thứ hai và thứ ba xảy ra trong cùng một kiếp sống không được thảo luận ở đây (cũng không đề cập đến lần điểm đạo thứ tư).

69. Chúng ta nên phân tích các từ “thường xuyên” và “có thể”. Mặc dù cuộc điểm đạo thứ hai và thứ ba (cùng với lần thứ tư) sẽ “có thể” được thực hiện trong cùng một kiếp sống hoặc kiếp sống tiếp theo, nhưng lần thứ hai và thứ ba “thường xuyên” là kế tiếp nhau — cách nhau một kiếp sống.

70. Chúng ta không thể trở nên chính xác hơn về điều này; chúng ta nhận ra rằng giai đoạn thực sự chậm chạp trên Con đường Điểm đạo là giữa cấp độ thứ nhất và thứ hai. Một khi đạt được cấp độ thứ hai, sự tiến bộ thực sự nhanh chóng. Các cấp độ cao hơn (thứ ba và thứ tư) có thể đến trong cùng một kiếp, hoặc trong kiếp sau, và đôi khi có thể lâu hơn một chút (nếu không, cụm từ “mặc dù không phải lúc nào cũng thế” sẽ không được sử dụng). Quá trình đạt cấp độ thứ ba và thứ tư (khi đã đạt cấp độ thứ hai), một cách tương đối, là một quá trình nhanh chóng.

71. Yếu tố quyết định chính của phương trình thời gian là sự sẵn sàng của đệ tử hy sinh phàm ngã vì lợi ích của linh hồn và những mục đích cao cả hơn của nó. Mỗi người chúng ta hãy đánh giá “ý chí hy sinh” của mình, vì sự vững chắc và cường độ của loại ý chí này (“Ý chí hy sinh”), sẽ xác định cho chúng ta khoảng thời gian của Con đường Điểm đạo.

72. Thời đại ngày nay là duy nhất. Như Chân sư Tây Tạng nói: “vào thời kỳ này của lịch sử thế giới, sự kích thích như vậy đã được trao cho sự tiến hóa mà những linh hồn khao khát — cảm nhận được nhu cầu thảm khốc và đầy nước mắt của nhân loại — đang hy sinh tất cả để đáp ứng nhu cầu đó.” Hãy để chúng ta lưu ý từ “tất cả” — hy sinh tất cả. Khả năng làm như vậy thực sự “tách cừu khỏi những con dê”. Những “con dê” là những điểm đạo đồ chân chính.

Một lần nữa, chúng ta không nên hiểu lầm rằng toàn cả tiến trình này đi theo cùng những bước vào những giai đoạn bất biến, kế tiếp nhau. Nhiều điều được thực hiện kết hợp, đồng thời, bởi vì công tác chế ngự rất chậm chạp và khó khăn; nhưng trong khoảng thời gian giữa ba cuộc điểm đạo đầu tiên phải đạt được và giữ được một cấp độ tiến hoá nhất định của mỗi thể trong ba hạ thể, trước khi vận hà có thể được phép mở rộng thêm một cách an toàn. Nhiều người trong chúng ta hiện đang làm việc trên tất cả ba hạ thể, khi dấn bước trên Đường Dự bị.

73. Chân sư Tây Tạng, hiểu rõ xu hướng của cái trí cụ thể là tìm kiếm các công thức cứng nhắc, bất biến, cảnh báo chúng ta phải linh hoạt trong quan niệm của chúng ta về các quá trình điểm đạo. Trí cụ thể nghĩ theo trình tự (dưới ảnh hưởng sao Thổ) chứ không liên quan nhiều đến “sự đồng thời” (dưới sao Thiên Vương).

74. Đó là kinh nghiệm của chúng ta hay là không, rằng chúng ta đang làm việc trên “cả ba thể” cùng một lúc? Khi chúng ta đi vào vị trí của bất kỳ cuộc điểm đạo cụ thể nào, phần lớn sự chú ý có thể được dành cho thể phải được điều phục tại cuộc điểm đạo đó, nhưng cả ba thể tiếp tục yêu cầu tinh chỉnh thêm, cho đến khi đến thời điểm cuối cùng khi hoàn thành một trăm phần trăm nguyên tử trong mỗi vận cụ phàm ngã là các nguyên tử từ cõi phụ nguyên tử của cõi mà vận cụ đó tập trung vào. Ở lần điểm đạo thứ tư (chúng ta được biết) điều này xảy ra.

75. Chúng ta thấy rằng quá trình kích thích và mở rộng chắc chắn được điều chỉnh bởi “các quyền năng được phép”. Chỉ khi “một điểm xác định trong quá trình phát triển của từng vận cụ trong số ba vận cụ thấp hơn đã đạt được và duy trì” thì việc mở rộng kênh hơn nữa… mới được cho phép một cách an toàn”. Các Chân sư sẽ không tha thứ cho việc kích thích bất kỳ vận cụ nào chưa được kiểm soát trong các giới hạn nhất định; sẽ không an toàn nếu làm như vậy, và trên thực tế, sẽ làm chậm lại hơn là đẩy nhanh sự tiến bộ của đệ tử.

76. Chúng ta cũng lưu ý rằng việc đạt được một mức thành tích nhất định là không đủ; mức đó cũng phải được duy trì. Không gì được phó mặc cho số phận. Có lẽ có một số rủi ro nhất định được coi là “có thể chấp nhận được”, nhưng ngoài những rủi ro này, những người giám sát của Thánh đoàn sẽ không thực hiện.

77. Chúng ta ghi nhận tình trạng đồng nhất của Chân sư Tây Tạng với các học trò của Ngài. Ngài nói như thể Ngài bao gồm cả chính Ngài trong số những người đang bước trên Con đường Dự bị. Thật vậy, theo một cách nào đó, một Chân Sư tham gia vào tất cả các cuộc đấu tranh của chúng ta. Ngài ‘cảm nhận’ chúng ta và ‘hiện diện’ như thể Ngài là chính chúng ta.

Vào cuộc điểm đạo này, nếu theo đường lối thông thường, (là điều cũng không có gì chắc chắn) thì luân xa cổ họng sẽ được khơi hoạt. Nó tạo khả năng sử dụng các thành đạt của hạ trí vào [86] công việc phụng sự Chân sư và trợ giúp nhân loại. Nó cũng tạo khả năng cho ra và phát ra những gì hữu ích, có thể bằng lời nói, nhưng chắc chắn là bằng một lối phụng sự nào đó. Hành giả cũng được cho thấy nhu cầu của thế giới, và thấy thêm một phần của Thiên Cơ. Bấy giờ, việc phải làm trước khi được điểm đạo lần thứ ba là hoàn toàn hoà nhập quan điểm của cá nhân vào trong nhu cầu của toàn thể. Nó bao gồm việc Chân nhân hoàn toàn chế ngự cái trí cụ thể.

78. Chân sư Tây Tạng thận trọng biết bao! Ngài nói về điều sau đây của “tiến trình bình thường”, nhưng cảnh báo chúng ta về sự hiện diện của sự không chắc chắn. Mỗi cá nhân là duy nhất và có một phương thức tự do ý chí; không thể nói chính xác quá trình sẽ tiến hành như thế nào.

79. Chúng ta học được rằng trung tâm tim là trọng tâm chính của sự sống động ở cấp độ đầu tiên, mặc dù không nên bỏ qua sự kích thích đến trung tâm cổ họng, bởi vì sự nâng cao năng lượng xương cùng đến cổ họng là chủ đề lớn của cuộc điểm đạo đầu tiên.

80. Ở cấp độ thứ hai, đó là trung tâm cổ họng được kích thích thông thường, nhưng, một lần nữa, trung tâm tim không nên bị bỏ qua, bởi vì những thay đổi quan trọng trong thể cảm dục sẽ xảy ra khi năng lượng tùng thái dương được nâng cao đến tim. Do đó, chúng ta có thể thấy rằng sự kích thích tim và cổ họng là một đặc điểm của cả hai lần điểm đạo này — lần đầu tiên và lần thứ hai.

81. Theo một cách nào đó, cuộc điểm đạo thứ hai là một cuộc điểm đạo trí tuệ, mặc dù người ta thường nhấn mạnh đến sự kiểm soát của thể cảm dục. Tất nhiên, việc kiểm soát thể cảm dục như vậy, nếu muốn thành công, đòi hỏi một cấp độ tập trung trí tuệ. Ở cấp độ thứ hai, đệ tử thể hiện một “cái trí được soi sáng” và “trí thông minh tinh thần” (xem DINA II 267). Chúng ta có thể thấy sự chồng chéo trong các quá trình điểm đạo này phải không? Mặc dù cấp độ đầu tiên tập trung nhiều vào việc đạt được các kỷ luật thể chất, trái tim vẫn được kích thích để có thể dần dần thiết lập khả năng kiểm soát cảm dục. Cấp độ thứ hai dành cho chủ đề chính của nó là kiểm soát cảm xúc, nhưng hạ trí cũng là trọng tâm. Khai ngộ và trí tuệ tâm linh đều cần thiết để chuẩn bị cho cấp độ thứ ba, điều này có thể xảy ra trong cùng một kiếp sống mà cấp độ thứ hai được thực hiện hoặc tiếp theo. Mỗi cuộc điểm đạo mang lại cho người đệ tử một sự kích thích cụ thể đủ để bắt đầu chương trình giảng dạy dẫn đến việc thực hiện cuộc điểm đạo tiếp theo.

82. Sau đó, ở cấp độ thứ hai, trí thông minh hoạt động thông qua trung tâm cổ họng được “chuyển sang sử dụng trong việc phụng sự Chân sư” và “giúp đỡ con người”.

83. Trung tâm cổ họng liên quan đến khả năng nói một cách phụng sự, và nếu không nói được thì ít nhất cũng phải phụng sự. Trạng thái hoạt động của sự thiêng liêng là phức tạp, và người đệ tử có thể lập kế hoạch một cách thông minh cách thức mà y sẽ hợp tác với các Đấng Cao cả thay mặt cho nhân loại. Điều đáng kể là Luật thứ ba của Linh hồn là Luật Phụng sự. Cung ba luôn liên quan đến hoạt động, cho dù đi qua trung tâm cổ họng và trong lĩnh vực tư tưởng hay đơn giản là trên cõi vật chất.

84. Thông qua cơ quan của trung tâm cổ họng tư tưởng được hình thành. Tất nhiên, sự hình thành này phải được hướng dẫn bởi trái tim đã được củng cố thông qua thiền định và thông qua các quá trình điểm đạo. Trung tâm cổ họng phụng sự Thiên Cơ chịu ảnh hưởng của trung tâm tim (được kết nối trực tiếp với linh hồn).

85. Các số basáu có liên quan với nhau. Cung sáu, liên quan đến Nhân Mã, là một con số của tầm nhìn. Cung ba hoạt động thông qua trung tâm cổ họng được kích thích vào lần điểm đạo thứ hai này, vào thời kỳ đó người đệ tử thường bị cung sáu tác động. Hai lần ba là sáu. Chúng ta có thể thấy hai cung này (ba và sáu) có liên quan như thế nào và tại sao chúng lại đặc biệt như vậy ở cấp độ thứ hai, và (nếu chúng ta có thể nắm bắt được) một lần nữa ở cấp độ thứ sáu.

86. Tầm nhìn đặc biệt đến qua luân xa ajna; việc lập kế hoạch thông minh thông qua luân xa cổ họng. Ở cấp độ thứ hai, một liên minh giữa hai luân xa này bắt đầu, tương đối đạt đỉnh điểm ở cấp độ thứ ba với trọng tâm tập trung ở luân xa ajna.

87. Chúng ta được cung cấp thông tin quan trọng về công việc phải thực hiện giữa lần điểm đạo thứ hai và thứ ba: “sự nhấn chìm hoàn toàn quan điểm cá nhân trong nhu cầu của toàn thể”. Đây là một kỷ luật rất tuyệt vời, bởi vì phần lớn những gì có thể xuất phát từ thể nguyên nhân và thể hiện qua phàm ngã (và do đó, có thể được coi là “cá nhân” theo nghĩa cao) chắc chắn có giá trị. Tuy nhiên, liệu những khuynh hướng như vậy có nhất thiết phải tương quan với “nhu cầu của toàn thể” không?

88. Chúng ta có thể thấy rằng tính vô ngã là một thành tựu tuyệt vời và cần thiết giữa cấp độ thứ hai và thứ ba. Antahkarana là công cụ dẫn đến sự vô ngã đang phát triển bởi vì lĩnh vực của tam nguyên tinh thần (mà antahkarana dẫn dắt) là vô ngã — tức là, các chỉ thị phát ra từ nó không dựa trên nội dung của thể nguyên nhân.

89. Chúng ta thường nghe nói rằng trí cụ thể bị Chân ngã chi phối ở cấp độ thứ ba. Ý nghĩa thực sự của điều này là gì? Chắc chắn, ít nhất, những hình tư tưởng được tạo ra bởi trí cụ thể là động lực cho ý định của Chân ngã. Chúng là những hình tư tưởng được chiếu sáng không cản trở Thiên cơ, mà đóng vai trò là vận cụ để hoàn thành Thiên Cơ.

90. Ở cấp độ điểm đạo ba, hạ trí không tạo những hình tư tưởng lung tung, những hình tư tưởng vô ích. Nó hoạt động dưới ấn tượng của mục đích. Tư tưởng được coi là một tiềm năng để được cống hiến cho “lợi ích của mọi sự phát triển của Thiên cơ của Thượng đế”. Cung thể trí phụ thuộc vào cung Chân ngã, mà chúng ta hãy nhớ, là một loại ‘cung thượng trí’ (vì Hoa sen Chân ngã tập trung vào các cõi phụ thượng trí). Người đệ tử biết cách giữ cho thể trí vững vàng trong ánh sáng và tạo ra những hình tư tưởng được làm phong phú bởi Chân ngã và được trực giác nuôi dưỡng. Các khuynh hướng tạo ảo tưởng chính của trí cụ thể đã được khắc phục.

Hai cuộc điểm đạo tiếp theo.

Sau cuộc điểm đạo thứ hai, giáo huấn được nâng cao thêm một cảnh giới. Điểm đạo đồ học cách chế ngự thể trí của mình; y phát triển khả năng vận dụng chất liệu tư tưởng, và học các luật xây dựng tư tưởng sáng tạo. Y hoạt động tự do trên bốn phân cảnh thấp của cõi trí, và trước cuộc điểm đạo thứ ba—dù hữu thức hay không—y phải hoàn toàn làm chủ bốn phân cảnh thấp của mỗi cõi trong tam giới. Kiến thức của y về tiểu vũ trụ trở nên sâu xa, và về mặt lý thuyết cũng như thực hành, y đã thành thạo, đến mức cao, các luật của bản tính nơi chính mình; do đó, về mặt thực nghiệm, y có khả năng chế ngự được bốn phân cảnh thấp của cõi trần, cõi cảm dục và cõi trí. Điều sau cùng này rất đáng quan tâm. Việc chế ngự ba phân cảnh cao hơn vẫn chưa hoàn tất, và đây là một trong những lý do tại sao có các thất bại và những lầm lẫn của các điểm đạo đồ. Họ vẫn chưa hoàn toàn chủ trị được vật chất của ba phân cảnh cao, và các loại vật chất này còn cần được chế ngự.

91. Chân sư DK mô tả công việc kỹ thuật theo sau cấp độ thứ hai và dự kiến ​​cấp độ thứ ba. Công việc theo sau cấp độ thứ hai này xảy ra trên cõi trí hơn là tập trung nổi bật vào cõi cảm dục.

92. Vận cụ thể trí phải được kiểm soát, vật chất tư tưởng phải được điều khiển và một số quy luật nhất định phải được học — các luật xây dựng tư tưởng sáng tạo.

93. Tư tưởng phải được tập trung; xu hướng xây dựng hình tư tưởng bị khuất phục trừ khi cố ý. Vật chất tư tưởng [thể trí] phải được sắp xếp và sắp xếp lại một cách thông minh. (Sự sắp xếp và sắp xếp lại các từ trong quá trình viết là một phần của quá trình này.) Và, quá trình huyền linh thuật cũng được áp dụng cho tâm trí.

94. Việc làm chủ bốn cõi phụ của cõi trí (cõi trí cụ thể) có thể không phải là một quá trình lâu dài, có lẽ chỉ một hoặc hai kiếp nằm giữa lần điểm đạo thứ hai và thứ ba. Vào thời điểm cấp độ thứ ba được thực hiện, phải có sự làm chủ của bốn cõi phụ hạ trí này. Điều thú vị là người làm chủ có thể có ý thức hoặc vô thức. Có nhiều người, có vẻ như những người đã thành thạo những cõi phụ này nhưng vẫn chưa biết họ đã làm như vậy. Họ thậm chí có thể không biết rằng có những thứ như cõi phụ (vì ngôn ngữ của thuyết huyền bí kỹ thuật không phải là một phần trong vốn từ vựng của mọi đệ tử), nhưng khả năng kiểm soát và sáng tạo của họ thông qua hạ trí là đáng kể.

95. Trước khi đạt được cấp độ thứ ba, số bốn trở nên rất quan trọng. Nó là một con số gắn liền với con người như một tiểu vũ trụ, và với nguyên khí phàm ngã mà con số cũng là bốn — ba vận cụ mặt trăng và phàm ngã là vận cụ mặt trăng thứ tư và bao gồm.

96. Do đó, cấp độ thứ ba báo hiệu một kiểu ‘làm chủ tiểu vũ trụ’. Bốn cõi phụ trên mỗi cõi trong ba cõi của phàm ngã đều được làm chủ. Đây là những cõi phụ đáp ứng nhiều nhất cho phàm ngã. Ba cõi phụ cao hơn của ba cõi hệ thống thấp (thể chất, cảm xúc và tinh thần) vẫn chưa được làm chủ. Chúng là các cõi phụ đáp ứng với Chân ngã/Thái Dương Thiên Thần và sau đó là tam nguyên tinh thần. Có vẻ như cõi phụ thứ tư, cõi phụ trung tâm, là then chốt, và trên cõi phụ đó (trên ba phương diện phàm ngã) là một trận chiến giữa linh hồn/Chân ngã và những cơn thịnh nộ của phàm ngã.

97. “Những thất bại và sai lầm” của các điểm đạo đồ liên quan, như chúng ta được biết, với việc họ không thông thạo ba cõi phụ cao hơn. Linh hồn được gọi là “Tam giác” và tam nguyên tinh thần hiển nhiên là hình tam giác. Tầm nhìn và xung lực cao hơn chưa hoàn toàn sẵn có cho những điểm đạo đồ chưa phát triển hoàn thiện như vậy. Chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của việc xây dựng antahkarana và do đó có quyền truy cập vào tam nguyên cao hơn. Thiên cơ sau đó sẽ hướng dẫn cuộc sống của điểm đạo đồ, và những thất bại và sai lầm như vậy sẽ không xảy ra thường xuyên.

Vào cuộc điểm đạo thứ ba, đôi khi được gọi là sự Biến dung, toàn thể phàm nhân chìm ngập trong ánh sáng từ trên xuống. Chỉ sau cuộc điểm đạo này, Chân thần mới dứt khoát hướng dẫn Chân nhân và ngày càng tuôn đổ sự sống thiêng liêng của Ngài vào trong vận hà đã được chuẩn bị và thanh luyện; cũng như trong dãy hành tinh thứ ba là Dãy Nguyệt Cầu, Chân nhân đã [87] giúp phàm nhân biệt lập ngã tính qua tiếp xúc trực tiếp, một phương pháp khác với phương pháp biệt lập ngã tính được thấy trong dãy thứ tư này. Nếu được áp dụng ở đây, luật tương ứng có thể tỏ ra có khả năng hiển lộ nhiều điều, và có thể cho thấy một sự tương đồng thú vị giữa các phương pháp cá nhân hoá trong các dãy hành tinh khác nhau và những việc mở rộng tâm thức xảy ra vào các cuộc điểm đạo khác nhau.

98. Ánh sáng ban ra ở lần điểm đạo thứ ba là tương đối mạnh. Sao Kim, hành tinh của ánh sáng, và hành tinh sáng nhất có thể nhìn thấy (từ Trái đất) bằng mắt thường, tham gia mạnh mẽ vào cuộc điểm đạo này, cai quản, như nó là, trung tâm ajna.

99. Thuật ngữ “Biến hình” gợi ý một sự chuyển động vượt ra ngoài hình tướng và hình dạng. Nó gợi ý sự đi vào của arupa hoặc các cấp độ vô hình của thực tại.

100. Điều thú vị và quan trọng khi xem xét rằng Chân thần hướng dẫn Chân ngã chỉ sau lần điểm đạo thứ ba. Hướng dẫn này có thể mang lại điều gì? Chắc chắn là ý thức về Mục đích của hành tinh và nhận thức được thực tại hiện hữu.

101. Chúng ta được biết rằng trong dãy Mặt trăng (Moon-chain), Chân ngã đã cá thể hóa phàm ngã thông qua “tiếp xúc trực tiếp”. Trong ngữ cảnh này, nghĩa của “Chân ngã” là gì? Nó có lẽ không có nghĩa là “Thái dương Thiên thần” hay “Agnishvatta”, vì trên dãy đó, các Thái dương Thiên thần đã không can thiệp vào quá trình cá thể hóa (mặc dù ở các nơi khác nhau của Giáo huấn để chỉ ra rằng cuối cùng các Ngài có thể không hoàn toàn vắng mặt, ít nhất như những người quan sát). Trong ngữ cảnh của đoạn đang thảo luận này, có khả năng Chân ngã có nghĩa là “tam nguyên tinh thần” hoặc “tam nguyên cao hơn”, là đại diện của Chân thần, đã tiến hành quá trình cá thể hóa. Cũng có một sự ‘vươn lên’ tương hỗ của bản chất trí tuệ động vật hướng tới điểm tự phản xạ đó là đặc điểm của tâm thức cá nhân.

102. Sự mở rộng tâm thức xảy ra ở lần điểm đạo thứ ba dường như là xung động Chân thần. Thái Dương Thiên Thần có liên quan, nhưng đang bắt đầu ‘nhường chỗ’ cho Sự Hiện Diện mà Ngài đã ‘che dấu’. Sự mở rộng của tâm thức trước thời điểm đó là ‘Xung động của Chân ngã’. Chân thần trong những trường hợp như vậy là một Sự hiện diện tiềm ẩn, nằm “đằng sau hậu trường”.

103. Trong các phần khác nhau của Giáo huấn, có những thảo luận về vị trí (trong buổi lễ điểm đạo thực sự) của những người tham gia cụ thể trong quá trình điểm đạo. Thái dương Thiên thần là một vị tham gia vào các quá trình như vậy, và theo ‘vị trí’ của Ngài, có thể hiểu được nhiều điều về bản chất và mục đích của sự tham gia của Ngài. ‘Vị trí’ của Đức Christ cũng khác nhau, đặc biệt là khi đạt đến lần điểm đạo thứ ba. Cuốn sách Cung và Điểm đạo nên được nghiên cứu để biết thông tin này.

“Trong hai cuộc điểm đạo trước đó, Thiên thần Hiện diện đứng giữa đệ tử-ứng viên và Sự Hiện diện. Vào những lần điểm đạo sau đó, Thiên thần Hiện diện là chính Đức Christ, là một với linh hồn của ứng viên (cá nhân Thiên thần Hiện diện). Qua trái tim của Đức Christ, quyền năng năng động của Đấng Điểm đạo duy nhất, như một luồng ánh sáng, được Đức Christ chiếu xuống hoặc hạ thấp để ứng viên có thể sử dụng năng lực đó mà không gặp rủi ro hoặc nguy hiểm”. (R&I 176)

Suy ngẫm kỹ về những từ này sẽ gợi ý về sự hiện diện của những bí ẩn sâu xa.

104. Một gợi ý dường như đã được đưa ra — rằng quá trình biệt lập ngã tính có thể xảy ra trên nhiều dãy khác nhau. Liên quan đến Hệ Địa cầu, chúng ta đã được dạy rằng quá trình biệt lập ngã tính xảy ra ở cả dãy thứ ba và thứ tư (dãy Mặt trăng và dãy Địa cầu). Nó có thể xảy ra trong các dãy khác của cùng một Hệ thống. Con Số của dãy có thể che giấu phương pháp biệt lập ngã tính. Bên trong dãy thứ tư, chúng ta biết rằng các Thái dương Thiên thần đã có liên quan mật thiết, nhưng dường như không phải bên trong dãy thứ ba, và có lẽ không phải bên trong dãy thứ năm đang chờ đợi sự tập trung của Thượng đế. Những suy đoán cần thiết sẽ đưa chúng ta vào thế giới của đại vũ trụ.

105. Tuy nhiên, chúng ta hiểu điều này — rằng sự mở rộng tâm thức do Chân thần gây ra bắt đầu ở cấp độ thứ ba. Khi đó, con người trở nên tự chủ hơn. Sau lần điểm đạo thứ tư, việc mở rộng phải hoàn toàn do Chân thần thúc đẩy (khi Điểm đạo đồ hoạt động thông qua Chân thần đó), bởi vì Thái dương Thiên thần đã quay trở lại một trong những nguồn của Ngài (chúng ta được biết là “Trái tim của Mặt trời”).

106. Có lẽ, các dãy số chẵn cần sự hiện diện bắc cầu để mang lại biệt lập ngã tính. Có lẽ dãy số lẻ thì không. Trong huyền linh học (và đặc biệt là huyền linh học theo Pythagoras) có một sự khác biệt đáng kể giữa số lẻ và số chẵn. Những con số lẻ liên quan nhiều hơn đến Bản thể, và số chẵn liên quan đến không phải Bản thể và do đó, (ND: liên quan) đến sự can thiệp có thể xảy ra của những sinh mệnh (như Thái dương Thiên thần) vốn không phảiBản thể Chân thần con người (mặc dù các Thiên thần cũng “có” một Chân thần vậy).

Một lần nữa, điểm đạo đồ được cho thấy trước những gì sẽ xảy ra, luôn luôn ở vị thế nhận biết các thành viên khác của Thánh đoàn (Huyền Môn Chánh Đạo), và các quan năng thần thông của y được kích thích bằng cách làm sinh động các luân xa trên đầu. Không cần thiết và không nên phát triển các quan năng tổng hợp, hoặc thông nhĩ và thông nhãn, cho đến khi sau cuộc điểm đạo này. Mục đích của toàn cuộc phát triển là khơi dậy trực giác tinh thần; khi điều đó đã được thực hiện, khi thể xác thanh khiết, thể cảm dục ổn định vững vàng và thể trí được chế ngự, thì bấy giờ điểm đạo đồ có thể an toàn vận dụng và khôn ngoan sử dụng được các quan năng thần thông để trợ giúp nhân loại. Không những y có thể sử dụng các quan năng này và giờ đây y còn có khả năng sáng tạo và làm sinh động các hình tư tưởng rõ rệt và chính xác, rung động với tinh thần phụng sự và không bị chế ngự bởi hạ trí hay dục vọng. Các hình tư tưởng này sẽ không (như các hình tư tưởng tạo bởi đại chúng) có tính rời rạc, không liên kết, không liên quan với nhau, mà sẽ đạt một cấp độ tổng hợp khá cao. Hành giả phải làm việc khó nhọc, không ngừng trước khi có thể thực hiện được điều này, nhưng khi bản tính dục vọng đã được ổn định và thanh lọc, thì việc chế ngự thể trí sẽ trở nên dễ dàng hơn. Vì thế, con đường của người sùng tín, trong vài phương diện, thì dễ dàng hơn con đường của nhà trí thức, bởi vì y đã học được các biện pháp thanh lọc dục vọng và tiến lên theo các giai đoạn cần thiết.

107. Tại mỗi cuộc điểm đạo, một tầm nhìn được ban cho. Bây giờ chúng ta đang nói về tầm nhìn ở cấp độ thứ ba. Ở cấp độ này, theo một nghĩa nào đó, người ta đã bước vào hàng ngũ Thánh đoàn và vì vậy “luôn ở vị trí để công nhận các thành viên khác của Đại Bạch Đoàn”. Chúng ta nhớ Cổ luận, “Suy bụng ta ra bụng người.” [ND: Khi bạn phê bình, chỉ trích một ai đó, thì bạn cũng có tật xấu y như vậy.]

108. Đây là thời gian để khả năng thông linh thực sự xuất hiện — một khả năng thông linh phụ thuộc vào sự kích thích của các trung tâm đầu chứ không phải dựa vào kích hoạt của các trung tâm thấp hơn.

109. Ba loại quan năng được đề cập: “quan năng tổng hợp” và “khả năng nhĩ thông và khả năng nhãn thông”. “Các quan năng tổng hợp” là gì? Mặc dù không hoàn toàn cụ thể, chúng ta có thể nói rằng các quan năng tổng hợp mang lại nhận thức thống nhất và cho phép toàn thể ghi nhận nhận thức như thực tế. Trước thời điểm đó, tâm thức thường bị giới hạn trong nhận thức về các bộ phận.

110. Đối với khả năng nhĩ thông và khả năng nhãn thông, chúng thuộc loại cao hơn và không phải loại thường thấy trong giới động vật, mặc dù các Chân sư phải luôn có khả năng sử dụng các năng lực thấp hơn.

111. Cấp độ thứ ba cho thấy sự bắt đầu của “bản năng trực giác”, và xa hơn nữa, như được mô tả ở đây, là của “trực giác tinh thần”. Sự phát triển này cho thấy sự tham gia của cõi bồ đề.

112. Trước khi các quan năng ngoại cảm có thể được sử dụng một cách an toàn và sử dụng một cách khôn ngoan để giúp đỡ cuộc tiến hóa, cả ba khía cạnh của phàm ngã phải được biến đổi — thể vật lý dĩ thái trở nên thuần khiết, thể cảm xúc ổn định và thể trí được kiểm soát. Chúng ta có thể hiểu tại sao không nên và cũng không cần thiết phải đánh thức các quan năng ngoại cảm trước cấp độ thứ ba — bởi vì sự biến đổi cần thiết sẽ không diễn ra trước thời điểm đó, và ánh sáng lớn hơn khiến những quan năng ngoại cảm này trở nên chính xác vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ. Nếu không có sự biến đổi, chuyển hóa và biến hình cần thiết của các vận cụ thái âm, phát biểu của các giác quan ngoại cảm có thể bị sai lệch.

113. Cấp độ thứ ba báo hiệu điểm phát triển mà tại đó việc phụng sự thông qua việc xây dựng hình tư tưởng có thể bắt đầu một cách nghiêm túc. Trước thời điểm đó, các đệ tử có thể xây dựng các hình tư tưởng hữu ích và chuyển chúng thành lời nói, nhưng sức mạnh để làm việc với chính các hình tư tưởng trên cõi trí không đủ cao cấp để làm cho loại hình phụng sự này thực sự hiệu quả.

114. Chúng ta có thể tạo ra các hình tư tưởng “rõ ràng, được xác định rõ ràng”, và hình tư tưởng nào hoạt động “với tinh thần phụng sự” không? Nhiệm vụ có vẻ khó hơn. Chúng ta có thể dễ dàng chứng minh cho bản thân xem liệu chúng ta có đủ khả năng kiểm soát hạ trí để làm như vậy hay không. Nó sẽ chứng minh một thử nghiệm khiêm tốn.

115. Việc kiểm soát thể trí có liên quan trực tiếp đến việc đạt được thành công trong giai đoạn đầu là ổn định và thanh lọc thể cảm dục. Cảm dục là vận cụ mạnh nhất trong số ba vận cụ Mặt Trăng (thái âm) của chúng ta, và rất có thể, chúng ta được cho biết (và thường trải nghiệm), không phù hợp với sự hiện diện và ý định của linh hồn.

116. Chân sư DK không đánh giá thấp loại công việc phải đi vào sự thanh lọc và ổn định của thể cảm dục. Cần phải làm việc chăm chỉ và không ngừng. Không một người chí nguyện đơn thuần nào sẽ tiêu hao năng lượng cần thiết bởi vì để làm được như vậy, người ta thường phải đi ngược lại các cảm xúc — và những người chí nguyện thường bị các cảm xúc của họ chi phối.

117. Sau đó, một điều rất thú vị được nói — rằng người sùng tín thường có thời gian tiến bộ dễ dàng hơn người trí thức bởi vì người sùng tín đã học cách thanh lọc bản chất ham muốn của mình. Điều này sẽ khiến chúng ta tạm dừng lại [để suy ngẫm]. Nhiều người trong chúng ta không còn là những người sùng tín, và trên thực tế, có thể là một người kiểu hướng về trí tuệ. Chúng ta đã thanh lọc bản chất ham muốn của mình đủ để tranh thủ sự giúp đỡ của nó trong việc kiểm soát thể trí chưa? Thể trí có thể là một cái bẫy lớn và không dẫn đến tiến bộ nhanh chóng trừ khi các giai đoạn sơ bộ đã được xử lý đúng cách. Khi hỏi những câu hỏi thích hợp về sự thanh lọc, nhiều điều sẽ được đưa ra để kiểm tra.

Nay phàm nhân đã đạt đến một mức rung động rất cao, vật chất trong cả ba hạ thể tương đối thanh khiết, và mức thấu hiểu của phàm nhân về công việc phải làm trong tiểu vũ trụ, cũng như [88] về phần chia sớt công tác của đại vũ trụ đều rất tiến bộ. Vì thế, chúng ta mới hiểu rõ tại sao chỉ đến cuộc điểm đạo thứ ba thì vị Đại Giáo Trưởng, Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, mới đích thân làm chủ lễ. Đó là lần đầu tiên Ngài tiếp xúc với điểm đạo đồ và điều này không thể sớm hơn. Trong hai cuộc điểm đạo đầu tiên, vị Chủ lễ là Đức Christ, Đức Chưởng Giáo, Người Anh Cả trong nhiều vị huynh trưởng, là một trong những người được điểm đạo sớm nhất của nhân loại.

118. Phàm ngã của điểm đạo đồ cấp ba đã tiến hóa. Nó là một công cụ được thanh lọc, trao quyền và hữu ích.

119. Chúng ta biết rằng đối với điểm đạo cấp độ thứ ba, vật chất của ba thể là “tương đối tinh khiết” — mặc dù không hoàn toàn như vậy. Chỉ có bảy mươi lăm phần trăm vật chất của các vận cụ là vật chất cõi phụ nguyên tử.

120. Tuy nhiên, tiến bộ là đáng kể. Tại thời điểm này, có một sự hiểu biết tuyệt vời về công việc phải thực hiện trong tiểu vũ trụ (hệ thống năng lượng cá nhân) và cũng là sự hiểu biết đáng kể về phần sẽ được thực hiện trong công việc đối với đại vũ trụ (trong trường hợp này là toàn bộ hành tinh lớn hơn).

121. Điểm đạo đồ cần phải có một lượng kiến ​​thức vĩ mô nhất định trước khi Đấng Chúa Tể Hoàn Cầu có thể trở thành Đấng Điểm đạo. Tâm thức đã đủ “hành tinh hóa” để điểm đạo đồ tiếp cận các vấn đề thế giới một cách tương đối vị tha. Nếu ‘Chúa tể của Hành tinh, tức là (ND: Chúa tể) Thế giới’ sẽ chủ lễ tại lễ điểm đạo, ứng viên phải suy nghĩ và hành động thực tế về Thiên cơ và Mục đích của Hành tinh.

122. Chúng ta được biết rằng trước cấp độ thứ ba, Đấng Chúa tể Hoàn cầu không thể tiếp xúc với điểm đạo đồ tương lai. Tại sao không? Có lẽ vì một số lý do. Cường độ rung động khi đối mặt với tạp chất tương đối là một lý do. Tiếp xúc như vậy chắc chắn sẽ mang lại sự phá hủy không cần thiết.

123. Ngoài ra, Đấng Chúa tể Hoàn cầu, với tư cách là một đệ tử trực tiếp của Thái dương Thượng đế, là một sinh mệnh thái dương. Lần điểm đạo thứ ba là lần điểm đạo thái dương đầu tiên và do đó, sự tương ứng rất phù hợp. Yếu tố thái dương bên trong con người không đủ đánh thức trước cấp độ thứ ba để được hưởng lợi từ việc tiếp xúc với Chúa tể Hoàn cầu.

124. Và, tất nhiên, có câu hỏi về ý chí. Sanat Kumara đại diện cho Shamballa, “Trung tâm nơi Ý chí của Thượng đế được biết đến”. Ở cấp độ thứ ba, ứng viên có sự tiếp xúc thực sự có ý thức đầu tiên với Chân thần, và Sanat Kumara có thể tận dụng chính mối liên hệ này và thúc đẩy nó. Ở hai lần điểm đạo đầu tiên, cuộc điểm đạo ngưỡng, khía cạnh tình thương, nói chung, đang được kích thích. Đối với sự kích thích này, Đức Christ là Đấng điểm đạo (Hierophant) thích hợp. Khi đến thời điểm để kích thích ý chí và sắp xếp nó với Mục đích Hành tinh, Đấng Điểm đạo Hierophant phải là Sanat Kumara, Đấng mà đối với hành tinh của chúng ta, như ‘Đấng đứng đầu Shamballa’ là ‘Chúa tể của Ý chí’.

125. Đức Christ thuộc về “nhân loại của chúng ta” có nghĩa là nhân loại của dãy Địa cầu. Ngài được gọi là “Con đầu lòng trong số nhiều huynh đệ” có nghĩa là Ngài được sinh vào tâm thức cao cà hơn trước bất kỳ/hầu hết (ND: những huynh đệ khác)? Nhân loại dãy Địa cầu đã được sinh ra như vậy, và rất lâu trước sự ‘ra đời’ của nhiều thành viên nhân loại Dãy Mặt trăng, những vị đã được ‘xuất khẩu’ sang dãy Địa cầu.

126. Đức Christ được cho là “một trong những người sớm nhất của nhân loại chúng ta nhận điểm đạo”. “Nhân loại của chúng ta” có nghĩa là gì theo Chân sư Tây Tạng? Có lẽ, Ngài muốn nói đến nhân loại của dãy Địa cầu, dãy thứ tư của hệ thống thứ tư. Có những thành viên khác của nhân loại trên dãy Địa cầu bắt đầu điểm đạo vào cùng thời kỳ với Đức Christ không? Có lẽ đã có, nhưng ngay cả khi có, sự tiến bộ của Đức Christ hoàn toàn vượt xa tất cả các thành viên khác của nhân loại trong dãy Địa cầu.

127. Sự tiến bộ của Đức Christ nhanh chóng đến nỗi Ngài đã bỏ xa cả phần lớn nhân loại thuộc dãy Mặt Trăng lâu đời hơn nhiều. Đức Phật, chúng ta được cho biết, đi trước Ngài một chút trên đường Đạo, nhưng chỉ một chút, đã đạt được hiệu quả vị thế của cấp độ thứ ba trên dãy Mặt trăng (mặc dù không nhận được sự điểm đạo đó trong hệ thống thế giới trước đó, vì không thể được ban cho trong ‘hoàn cảnh mặt trăng’).

128. Đức Christ là một Đấng phi thường. Chính sự quen thuộc của tên gọi của Ngài thường ngăn cản chúng ta nhận ra sự huyền bí và quyền năng bao quanh Ngài. Nếu tất cả các thành viên trong Thánh đoàn hành tinh của chúng ta quỳ gối trước Đức Christ, điều đó phải có lý do chính đáng!

Browning đưa ra suy nghĩ này một cách tuyệt vời nhất trong những từ được tìm thấy trong bài thơ “Saul” của ông: —

………. Đó sẽ là

Một khuôn mặt giống như khuôn mặt của tôi đón nhận bạn; một người như tôi,

Bạn sẽ yêu thương và được yêu thương bởi, mãi mãi;

Một bàn tay như bàn tay này

Sẽ mở ra cánh cổng của cuộc sống mới cho bạn!

Hãy thấy Đức Christ đứng!

129. Một đoạn tuyệt vời của một bài thơ tuyệt vời được trình bày ở đây. Nhà thơ Robert Browning là một điểm đạo đồ nổi tiếng, và một huấn sư tâm linh quan trọng gọi Ngài là “Chân sư Robert Browning”.

130. Bài thơ, “Saul” đề cập đến sự biến đổi của “Saul of Tarsus” thành Thánh Paul.

131. Những lời này rất đẹp, đến nỗi tôi đề nghị chúng ta nên ghi nhớ và lặp lại chúng cho chính mình, để hòa hợp tốt hơn với Đức Christ và nghị lực phi thường của Ngài.

132. Tính nhân đạo của Đức Christ được nhấn mạnh trong đoạn này, nhưng cả thiên tính của Ngài nữa. Đức Christ với tư cách là đấng ban tặng “sự sống dồi dào” cũng được trình bày.

133. Dòng cuối cùng, “Hãy thấy đức Christ đứng!” gợi ý sự kết hợp giữa ý chí và tình thương, và thực tế là Đức Christ (đang đứng trong bản thể tâm linh) là một thành viên của Shamballa.

Nhưng khi điểm đạo đồ đạt được sự tiến bộ còn xa hơn nữa và đã được hai lần điểm đạo, thì có sự thay đổi. Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, Đấng Thái Cổ, Đấng Thánh Đế siêu việt, đích thân Ngài điều hành cuộc điểm đạo thứ ba. Tại sao điều này có thể xảy ra? Bởi vì nay thể xác được hoàn toàn hiến dâng có thể an toàn chịu đựng các rung động của hai thể kia khi chúng trở lại chỗ trú sau khi diện kiến Đấng THÁNH ĐẾ; bởi vì nay thể cảm dục được thanh lọc và thể trí được chế ngự có thể an toàn đứng trước NGÀI. Khi được thanh lọc và chế ngự, chúng chịu đựng được và lần đầu tiên hữu thức rung động theo Cung của Chân thần; bấy giờ, với các thể được chuẩn bị sẵn sàng y được phép đạt khả năng thấy và nghe trên mọi cảnh giới, và sử dụng an toàn năng lực đọc hiểu các ký ảnh, bởi vì có kiến thức đầy đủ hơn tức là có thêm quyền năng. Tâm hồn y nay đã đủ thanh khiết và yêu thương, và trí tuệ đã đủ vững vàng để chịu được sức căng thẳng của hiểu biết. [89]

134. Chân sư DK tiếp tục với việc mô tả của Ngài về cuộc điểm đạo thứ ba.

135. Những cái tên tuyệt vời và đẹp đẽ được đặt cho Đấng Chúa Tể Hoàn Cầu. Ngài là “Đấng Thái Cổ”, đã chủ trì sự phát triển của loài người trên Trái đất gần như từ khi mới thành lập (và trên thực tế, Ngài có lẽ rất biết về sự ra đời của nó, xảy ra khoảng ba triệu năm trước khi Shamballa và Thánh Đoàn được thành lập trên bầu của chúng ta).

136. Ngài còn được gọi là “Đấng Cai Quản bất khả tư nghị”. Bất khả thuyết – không thể mô tả hết được. Con người của Ngài phi thường đến nỗi nó nằm ngoài sức mạnh của cả sự hiểu biết của con người và sự thể hiện của con người. Hiệu quả là không thể diễn đạt được.

137. Sức mạnh do Đấng Chúa Tể Hoàn Cầu nắm giữ (mặc dù nhất thiết phải giảm đi đáng kể vì nó hướng về ứng viên cho lần điểm đạo thứ ba thông qua Thanh Quyền Trượng “Viên Kim Cương Rực Lửa”) là to lớn ngoài khả năng nhận thức của chúng ta. Tất cả công việc của chúng ta trong việc thanh lọc bất kỳ vận cụ nào trong ba vận cụ phàm ngã đều nhằm giúp chúng ta chịu được sức ép của những năng lượng cường độ mạnh mẽ mà chúng ta phải mang theo khi trải qua quá trình điểm đạo có sự tham gia của Sanat Kumara với tư cách là Đấng Điểm Đạo – Hierophant.

138. Thể vật lý dĩ thái sẽ bị tan vỡ bởi những rung động được tăng cường mạnh mẽ của các thể trí và thể cảm dục quay trở lại nếu nó không đủ tinh khiết.

139. Chúng ta được bảo rằng thể cảm dục và thể trí phải “đứng trước VUA”. Điều này đúng ở một cấp độ nào đó, nhưng vì ba lần điểm đạo đầu tiên được thực hiện bên trong thể nguyên nhân, chúng ta cần một cách hiểu đặc biệt rằng thể cảm dục và thể trí (‘bên ngoài’ của thể nguyên nhân) đứng trước VUA.

140. Chúng ta có thể nói rằng do quá trình điểm đạo (mang tính chủ quan sâu sắc và thường xảy ra vào ban đêm khi ứng viên đang ‘ngủ’), các thể trí và cảm dục trở nên tích điện rung động một cách mạnh mẽ nhất — bất kể chính những thể này có đứng trước VUA hay không, hoặc ứng viên đã đứng trước VUA trong thể nguyên nhân của mình theo cách mà thể nguyên nhân trực tiếp truyền đạt kích thích mà nó nhận được đến các thể cảm dục và thể trí.

141. Có thể nói rằng vào giờ thức tỉnh, thể cảm dục và thể trí ‘trở về’ (trở về thể xác) sẽ được nạp các năng lượng tinh thần, đến nỗi thể vật lý không thể chịu đựng được sự căng thẳng trừ khi nó đạt được một độ tinh khiết cần thiết.

142. Thật thú vị khi thấy rằng thông qua quá trình ở cấp độ thứ ba này, lần đầu tiên các thể cảm dục và thể trí rung động trước cung của Chân thần. Chân thần là nguồn, đối với mục đích vi mô, của “Ánh sáng Vĩ đại nhất”. Do đó, các khía cạnh của tâm thức được tăng cường rất nhiều bởi sự tiếp xúc này. Các khả năng ngoại cảm được kích thích trực tiếp bởi Chân thần (được coi là “Con mắt nhìn thấy Tất cả”).

143. Người ta đề nghị rằng quan năng đọc hồ sơ (có lẽ là hồ sơ akashic) được ban cho ở cấp độ này. Số ba của lần điểm đạo thứ ba tương ứng với phẩm tính của cung ba, điều này khiến những diễn giả của nó là những nhà sử học vĩ đại. Tương ứng, hồ sơ lịch sử của quá khứ thể hiện rõ ràng — ít nhất là quá khứ vi mô, và có lẽ một số quá khứ của hành tinh.

144. Thật thú vị là không an toàn khi đọc bản ghi này trước khi đạt được cấp độ thứ ba. Có thể cho rằng có rất nhiều sai sót, sai lệch và các tưởng tượng trong ‘luận giải’ rõ ràng của những người chưa đạt được cấp độ này.

145. Chân sư DK gợi ý cho chúng ta lý do tại sao việc cố gắng đọc (ND: hồ sơ akashic) sớm lại là một mối nguy hiểm bằng cách cho chúng ta biết tại sao việc đọc như vậy là có thể và được phép ở cấp độ thứ ba: “Trái tim bây giờ đủ trong sáng và yêu thương, và trí tuệ đủ ổn định để chịu đựng sự căng thẳng của việc biết.”

146. Người ta thường nói với chúng ta rằng “vô minh là phúc lạc”. Có rất nhiều thứ trong hồ sơ vi mô sẽ gây ra sốc, đau khổ và có thể là tê liệt, trừ khi tâm thức chiêm ngưỡng chúng đã đủ trưởng thành — trưởng thành trong tình thương và năng lực trí tuệ. Biết được những điều khủng khiếp của quá khứ sẽ áp đặt một căng thẳng to lớn đối với tâm thức không được chuẩn bị. Đây là lý do tại sao “Dòng sông lãng quên — “Lethe” tồn tại — để giữ cho việc ghi nhận quá sớm quá khứ không phá hủy các khả năng của hiện tại.

147. Khi Thánh đoàn xem xét sự tiến bộ của nhân loại (hoặc thiếu tiến bộ), người ta nói rằng đối với các Ngài đó là một “sự thống khổ tinh tế”. Nỗi thống khổ này liên quan đến “sự căng thẳng của hiểu biết”. Sự thiếu hiểu biết hoặc mù quáng do linh hồn áp đặt lên tâm thức căng thẳng của phàm ngã của nó là một cơ chế bảo vệ tuyệt vời. Nhưng vào thời điểm điểm đạo đồ sẵn sàng đứng trước Chân thần và Đấng điểm đạo, phần lớn sự bảo vệ này có thể được từ bỏ để có lợi cho việc tiếp cận với ánh sáng lớn hơn. Với sự diễn ra của sự mặc khải do Chân thần gây ra, những trách nhiệm mới sẽ xuất hiện và những nhận thức mới về lý do tại sao mọi thứ lại như chúng vốn có.

148. Có vẻ như tất cả chúng ta phải chuẩn bị siêng năng cho sự hiểu biết được ban cho trong Cuộc Biến Dung này.

149. Khi một người được đồng hóa với linh hồn / chân thần, người đó biết rằng tất cả những gì được chứng kiến đã xảy ra trong ba thế giới thấp hơn, về cơ bản, là ảo ảnh. Nó không thực. Nó có thể đẹp đẽ hoặc đau khổ tột cùng, nhưng về cơ bản nó là không thực. Người ta thấy rằng tất cả đều đang trên đường hoàn thành và linh hồn của mọi thứ đều tốt đẹp. Sự ổn định về tinh thần này cho phép người ta chứng kiến quá khứ với sự khách quan đầy yêu thương, yên tâm về điều Tốt lành đang đến. Người ta không xem những cảnh được tiết lộ một cách cá nhân, mà coi tất cả chúng như một phần của một quá trình tiến hóa tuyệt vời, phi cá nhân. Chỉ từ một điểm thuận lợi tâm linh như vậy, sự mặc khải của quá khứ (do tiếp xúc với chân thần mang lại) mới có thể tồn tại được.

Trước cuộc điểm đạo thứ tư, việc huấn luyện được tăng cường, và sự xúc tiến tích lũy kiến thức phải mau lẹ không thể tưởng. Điểm đạo đồ thường đến thư viện có chứa sách huyền bí, và sau cuộc điểm đạo này, không những y có thể giao tiếp với vị Chân sư mà từ lâu y đã hữu thức liên kết và làm việc với Ngài, mà y còn có thể tiếp xúc và phần nào trợ giúp các vị Đế quân, Đức Bồ-tát và Đức Bàn Cổ.

150. Chân sư Tây Tạng hiện đang nói về khoảng thời gian giữa cuộc điểm đạo thứ ba và thứ tư. Việc đào tạo những điều huyền bí được tăng cường rất nhiều. Có một sự tích lũy và tích lũy kiến ​​thức nhanh chóng đến khó tin. Đây là thời kỳ mà ba cánh hoa tổng hợp, ba cánh hoa bên trong nhất của Hoa sen Chân ngã, đang nhanh chóng nở ra. Theo đó, điểm đạo đồ trải nghiệm sự tổng hợp của kiến ​​thức (được thảo luận ở đây), sự tổng hợp của tình thương và sự tổng hợp của ý chí (có thể có nghĩa là sự tuân phục sâu sắc của điểm đạo đồ đối với Mục đích Hành tinh của Sanat Kumara — ở cấp độ mà y có thể nhận thức được Mục đích này).

151. Con đường, chúng ta được nói, “dốc hết sức dọc con đường”; có lẽ ít người trong chúng ta có thể hình dung được mức độ cường độ và tốc độ cần thiết mà điểm đạo đồ cấp độ thứ ba phải chịu khi y tiếp cận khả năng của cấp độ thứ tư. Chúng ta có thể thấy tại sao sao Thủy lại tham gia vào quá trình này, vì sao Thủy là ‘Thần Tốc độ’. Tốc độ của tất cả các quy trình nội bộ được tăng lên đáng kể. Sao Thổ cũng tham gia (xem EA 71), vì việc kỷ luật phải rất ghê gớm.

152. Mô tả trên dường như được viết từ quan điểm của người cung hai, hoặc có lẽ là cung ba hoặc cung năm. Nếu một người là một học giả, khả năng được “truy cập thường xuyên vào thư viện sách huyền bí” sẽ dường như không thể cưỡng lại được. Người ta có thể tự hỏi liệu các kiểu người cung một, cung bốn và cung sáu có thường xuyên xuất hiện trong các thư viện như vậy không.

153. Sau khi ‘đạt’ cấp độ ba, điểm đạo đồ chắc chắn là một “Đệ tử trong Hào quang” (“Chela trong Aura”) và có thể liên hệ trực tiếp với Chân sư của mình theo ý muốn. Những mối liên hệ của y thậm chí có thể mở rộng đến những sự sống vĩ đại hơn rất nhiều của các Đấng mà y hiện có thể phần nào hỗ trợ — Chohans, Bồ tát và Manu.

154. Chúng ta có thể thấy cuộc sống mở rộng ra sau cấp độ thứ ba một cách phi thường như thế nào. Cấp độ này giới thiệu cho chúng ta một phạm vi kinh nghiệm hoàn toàn khác.

155. Nếu ai đó đã đọc “Light in the Sanctuary” — nhật ký của Geoffrey Hodson, có lẽ người ta sẽ nhận ra điểm đạo đồ cấp độ thứ ba theo đường lối cung hai và cung một. Những kiểu liên hệ được đề cập ở đây được ám chỉ bởi Hodson — một người trung thực không rơi vào sự phóng đại.

156. Vì vậy, hai trong số các từ khóa chính cho giai đoạn điểm đạo phát triển này là tăng cường và tốc độ.

Y cũng phải dùng trí hiểu thấu các luật của ba cõi thấp, đồng thời vận dụng chúng để trợ giúp cơ tiến hoá. Y nghiên cứu các đồ án vũ trụ và phải thấu đáo các hệ thống; y trở nên thành thạo các thuật ngữ huyền bí và phát triển thị giác chiều kích thứ tư nếu chưa làm điều này. Y học cách điều khiển những hoạt động của các thiên thần xây dựng, và đồng thời làm việc liên tục để phát triển bản tính tinh thần của mình. Y bắt đầu mau chóng điều hợp thể bồ-đề, và trong sự phối hợp này y phát triển năng lực tổng hợp, lúc đầu ở cấp độ nhỏ, và dần dần đầy đủ hơn.

157. Điểm đạo lần thứ ba đương nhiên tương quan với số, ba, và như vậy, một cách tương ứng, các quy luật của ba cõi thấp hơn được điểm đạo đồ cấp độ thứ ba nắm bắt.

158. Chúng ta có thể thấy rằng điểm đạo đồ cấp độ thứ ba đang bắt đầu có khả năng hỗ trợ quá trình tiến hóa. Tính hữu dụng của y ngày càng trở nên vĩ mô hơn; y liên quan đến Thiên cơ của Hành tinh theo những cách mới.

159. Các nghiên cứu của y mở rộng rất nhiều, bao gồm các kế hoạch vũ trụ được tiết lộ bằng biểu đồ và chứa đầy các kỹ thuật huyền bí. Rằng y phát triển “tầm nhìn chiều kích thứ tư” là phù hợp với ứng dụng tiếp cận của y vào cấp độ thứ tư.

160. Điều thú vị và quan trọng là, mặc dù con đường điểm đạo là đơn giản hóa, người ta mong đợi sự thành thạo của nhiều kỹ thuật huyền bí ngay cả khi sự đơn giản hóa và tổng hợp xảy ra. Điểm đạo đồ càng cao thì khả năng ‘dung hợp các đối cực’ của y càng lớn.

161. Điểm đạo đồ cấp độ thứ ba là một người kiến tạo. Yếu tố kiến tạo thái dương được đánh thức trong y và y có thể chỉ đạo các thiên thần kiến tạo theo sự hiểu biết của mình về Thiên cơ.

162. Sự phối hợp cần thiết của vận cụ bồ đề liên quan đến chương trình đào tạo của cấp độ thứ tư, vì cõi thứ tư (tương quan với cấp độ thứ tư) là cõi bồ đề. Trái tim, được kích thích theo một cách mới ở cấp độ thứ tư (xem R&I 340), là luân xa thứ tư và đặc biệt liên quan đến sự biểu hiện của năng lượng bồ đề.

163. Một trong những hành tinh có liên quan ở đây khi điểm đạo đồ chuẩn bị cho cấp độ thứ tư là Neptune (Hải Vương tinh), chủ tinh cõi bồ đề, liên quan đến trái tim như hành tinh của “ngọn lửa thái dương”, và gắn liền với sự hy sinh và từ bỏ cấp độ cần thiết như hành tinh cấp độ thứ tư trở thành một khả năng.

164. Bồ đề cũng liên quan đến tổng hợp — tổng hợp trong tình thương, tức là tổng hợp ở khía cạnh thứ hai của nó. Cánh hoa tổng hợp thứ hai của Hoa Sen Chân Ngã được nhấn mạnh rất nhiều khi cấp độ thứ tư được tiếp cận. Trái tim và khối óc “trong Đức Christ” bắt đầu nảy nở trong điểm đạo đồ khi y chuẩn bị thực hiện phiên bản nhỏ bé của Sự hy sinh Vĩ đại của riêng mình. Chúng ta nhớ rằng Song Ngư là dấu hiệu liên quan đến Sanat Kumara trong vai trò “Sự hy sinh Vĩ đại” của Ngài, và sao Hải Vương, theo một cách nào đó, là chủ tinh hành tinh sâu nhất của Song Ngư (dù rằng nó không được liệt kê là chủ tinh ngoại môn, bí truyền hoặc huyền giai).

165. Tất cả những điều này bắt nguồn từ tuyên bố rằng “Không một người nào bắt đầu điều phối thể bồ đề cho đến khi y chịu ảnh hưởng của Sao Hải Vương …. Khi điều này xảy ra, lá số chiêm tinh phàm ngã của y sẽ cho thấy ảnh hưởng này chi phối.” (TCF 899). Khi tham chiếu này được đặt cùng với tham chiếu hiện tại, rằng giữa lần điểm đạo thứ ba và thứ tư, điểm đạo đồ “bắt đầu nhanh chóng điều phối thể bồ đề”, chúng ta có một dấu hiệu quan trọng về vai trò của sao Hải Vương trong giai đoạn tiến hóa cao cấp này.

166. Tổng hợp gợi ý sự đồng nhất, nhưng cũng là sự tập hợp của những chi tiết lớn. Ba “hành tinh tổng hợp” (Sao Thổ, Sao Hải Vương và Sao Thiên Vương) đều cần thiết nếu muốn đạt được ba khía cạnh của sự tổng hợp. Ba hành tinh này có thể được hình dung một cách hợp lý là cai quản ba cánh hoa tổng hợp của Hoa sen Chân ngã nở ra rất nhanh trong khoảng thời gian xen kẽ giữa điểm đạo thứ ba và thứ tư.

Vào thời gian được điểm đạo lần thứ tư, điểm đạo đồ đã phải hoàn toàn làm chủ được phân cảnh thứ năm, và do đó trở nên toàn thông—xin dùng nhóm thuật ngữ này,—trên năm phân cảnh thấp của cõi trần, cõi cảm dục và cõi trí, và đang trên đà làm chủ phân cảnh thứ sáu. Thể bồ-đề của y có thể hoạt động trên hai phân cảnh thấp của cảnh giới bồ-đề.

167. Cấp độ điểm đạo thứ tư là “A La Hán” hay “Cao Đồ”? Việc sử dụng từ “bậc lão luyện (cao đồ)” trong đoạn này có thể khiến chúng ta gọi một điểm đạo đồ như vậy là một bậc lão luyện thực thụ, nhưng tôi nghĩ đây không phải là cách giải thích chính xác.

168. Cuộc điểm đạo có liên quan (tức là lần thứ tư) về số lượng thấp hơn một bước so với số lượng cõi phụ được làm chủ. Ở đây chúng ta được biết rằng cuộc điểm đạo thứ tư tương quan với sự làm chủ của năm cõi phụ. Điều này có nghĩa là lần điểm đạo thứ ba có tương quan với cấp độ làm chủ của bốn cõi phụ (IHS 86) và lần thứ hai (như một lần điểm đạo ngưỡng) với cấp độ làm chủ của ba (ND: cõi phụ) không?

169. Cõi siêu dĩ thái (tức là cõi phụ thứ ba của cõi vật lý dĩ thái, tính theo chiều ngược xuống) vẫn được coi là dĩ thái về mặt ngoại môn. Số năm tương quan với khía cạnh Brahma, nhưng số sáu liên quan đến Vishnu. Có vẻ như điểm đạo đồ cấp độ thứ tư đã sẵn sàng giữa hai khía cạnh này, và rằng Chân sư Minh triết, với tư cách là Chân sư hoàn thiện về khía cạnh Brahma tiểu vũ trụ, được thiết lập khá kỹ lưỡng về khía cạnh Vishnu, mặc dù không hoàn toàn thoát khỏi sự giám sát của khía cạnh Brahma.

170. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng sẽ rất nguy hiểm nếu tiến hành chỉ dựa trên cơ sở “sự chắc chắn về số học” vì các dữ kiện của tình huống dường như khác với những dữ kiện được mong đợi thông qua một cách giải thích số học chặt chẽ của Luật Tương ứng.

171. Chúng ta đã lưu ý rằng cuộc điểm đạo thứ tư liên quan nhiều đến việc tiếp cận với nguyên lý thứ sáu được gọi là bồ đề. Không phải tất cả các cõi phụ của cõi bồ đề đều khai mở cho điểm đạo đồ cấp độ thứ tư; mà [chỉ] hai cõi phụ thấp hơn mở. Hai cõi phụ này hỗ trợ các quan năng tâm linh liên quan đến “Sự Hiểu Biết của Bốn Âm thanh” và “Chữa lành”. Chúng ta nên dừng lại ở đây để nhận ra rằng nhiều người nói rằng họ đã có sự tiếp xúc được xác nhận với cõi bồ đề, nhưng những người đó chưa phải là điểm đạo ngay cả của cấp độ thứ ba, rất có thể là nạn nhân của sự hiểu sai của chính họ. Có vẻ như phải đạt được cấp độ thứ tư để hoạt động liên quan đến thậm chí là các cõi phụ thấp nhất của cõi Bồ đề.

172. Chúng ta thấy lý do tại sao một nghiên cứu chặt chẽ về các kỹ thuật huyền bí lại quan trọng như vậy. Việc học tập như thế mang lại một sự khiêm tốn nhất định và ý thức đúng đắn về tỷ lệ tương quan với bản thân và đường Đạo.

Cuộc đời của người được điểm đạo lần thứ tư, hay Thập giá hình, là một cuộc đời hy sinh lớn lao và đầy đau khổ. Đó là cuộc sống của người thực hiện hạnh Đại Từ Bỏ, và ngay cả ở phương diện ngoại môn cũng có vẻ gian lao, khó khăn và đầy đau khổ. Y đã đặt tất cả, ngay đến phàm nhân đã hoàn hảo của mình, trên bàn thờ hy sinh, và không còn gì nữa. Tất cả đều bị từ bỏ, bạn bè, tiền bạc, danh vọng, tiếng tăm, địa vị trong đời, gia đình, và ngay cả chính sự sống.

173. Trong một lúc, Chân sư DK chuyển sự nhấn mạnh của cuộc thảo luận của Ngài từ các kỹ thuật huyền bí sang một đánh giá chung về bản chất của hóa thân mà một người đang trong quá trình điểm đạo thứ tư đã trải qua. Chúng ta được cho biết rằng một cuộc sống như vậy “thường là một cuộc sống có sự hy sinh và đau khổ lớn lao” — không phải là một viễn cảnh dễ chịu đối với những người đệ tử bình thường sẽ đọc những lời này.

174. Chân sư DK cho rằng phần lớn nỗi đau là do chủ quan nhưng dù về mặt khách quan, cuộc đời được nhìn nhận là “vất vả, khó khăn và đau đớn”.

175. Ở phương Tây, cuộc điểm đạo thứ tư thường được gọi là “Sự đóng đinh”; ở phương Đông, “Sự từ bỏ vĩ đại”. Ở phương Đông, có lẽ ít nhấn mạnh hơn đến đau khổ thể xác và cái chết, nhưng sự tách rời nội tâm cần thiết cũng nghiêm ngặt như vậy, có thể hơn thế nữa.

176. Chân sư Tây Tạng trở nên rất cụ thể về các yêu cầu của cấp độ này. Vào thời điểm đạt đến cấp độ thứ tư, phàm ngã (cộng hưởng như đối với cấp độ thứ tư) được hoàn thiện. Phàm ngã hoàn thiện này không sống cho riêng mình, mà phải được hy sinh cho một mục đích lớn hơn, và do đó được tự nguyện đặt trên “bàn thờ hy sinh”.

177. Con người “bị tước mất tất cả”, là một cách nói khác để nói rằng tất cả đã bị “lấy mất” khỏi y — tất cả những gì được tìm thấy trong ba thế giới thấp hơn (bao gồm cả thế giới của thể nguyên nhân, thượng trí) . Tuy nhiên, việc “lấy mất” thực sự là một sự “dâng hiến” hy sinh.

178. Chúng ta hãy tạm dừng để xem liệu chúng ta có thể chịu đựng được sự từ bỏ của “bạn bè, tiền bạc, danh tiếng, phàm ngã, vị trí trong thế giới, gia đình và thậm chí chính cuộc sống”. Tất cả phải được từ bỏ để không còn gì có thể giữ một người (qua xiềng xích của dục vọng) như một tù nhân với các kinh nghiệm thấp kém nữa.

179. Nếu chúng ta nghĩ về những gì Chân sư Jesus đã trải qua, hoặc gần đây là một điểm đạo đồ như Cha Damien, hoặc, trên một đường lối cung khác, Sir Francis Bacon, hoặc có lẽ, Joan of Arc, chúng ta sẽ có một số ý tưởng về quá trình từ bỏ — ít nhất là ở Thế giới phương Tây. Có lẽ nghiên cứu về cuộc đời của Ramakrishna, của Vivekananda, hay xưa hơn, của Milarepa (dường như đã vượt ra ngoài cấp độ thứ tư) sẽ cho thấy một điều gì đó của phương pháp tiếp cận được ưa chuộng ở phương Đông.

180. Một số kiếp sống vẫn còn ở phía trước khi người đọc bình thường của cuốn sách này sẽ phải đối mặt với nhu cầu từ bỏ quyết liệt như vậy, nhưng tốt hơn là bạn nên quen với ý tưởng này, vì một quan niệm trung thành về những gì ở phía trước sẽ hướng dẫn cuộc sống trong hướng đi thích hợp, và sẽ liên hệ một cách hữu ích tất cả những từ bỏ nhỏ với Cuộc Đại Từ bỏ sắp xảy ra.

181. Đối với những người thiên về chiêm tinh, chúng ta có thể xem lá số, từng nhà một, để xem điều gì cần phải từ bỏ. Mỗi nhà có liên quan đến các yếu tố vật chất nhất định, và từ tất cả các yếu tố đó, điểm đạo đồ phải chứng minh sự tách rời tối hậu của mình.

182. Tất cả những gì còn lại một khi ‘của cải’ đã được cho đi hay lấy đi, là “bàn tay trống không dấu móng tay” nay có thể mở ra để nhận những món quà cao hơn, mà sau đó y có thể ban tặng cho những người cần. Như một bản ngã nhỏ, y không còn sở hữu bất cứ thứ gì. Trên thực tế, y không còn tồn tại như một “bản ngã nhỏ” nữa, vì toàn bộ ý thức về bản sắc của y đã thay đổi.

Các cuộc Điểm đạo cuối cùng.

Sau cuộc điểm đạo thứ tư, không còn nhiều điều phải làm nữa. Việc ngự trị phân cảnh thứ sáu tiến hành nhanh chóng, và vật chất của các phân cảnh cao của cõi bồ-đề được phối kết. Điểm đạo đồ được nhận vào vòng liên giao mật thiết hơn trong Huyền giai và tiếp xúc hoàn hảo hơn với các thiên thần. Y đang mau chóng học hết các nguồn giáo huấn của Phòng Minh Triết và thấu đáo được các đồ án và đồ biểu phức tạp nhất. Y trở nên thành thạo ý nghĩa của màu sắc và âm thanh, có thể vận dụng định luật trong tam giới, và có thể tiếp xúc với Chân thần của mình dễ dàng hơn là phần đông nhân loại có thể tiếp xúc với Chân nhân của họ. Y cũng được giao phó công tác lớn lao là giáo huấn nhiều môn sinh, trợ giúp nhiều kế hoạch, và quy tụ quanh y những người sẽ trợ giúp y trong tương lai. Đây là chỉ đề cập đến những vị ở lại để giúp đỡ nhân loại trên hành tinh này; về sau chúng ta sẽ bàn đến một số đường lối công tác mở ra trước vị Chân sư khi Ngài không còn phụng sự trên địa cầu.

183. Chúng ta thấy rằng Chân sư Tây Tạng đang cho chúng ta bức tranh tổng quát về các trạng thái thăng tiến vượt xa khả năng đạt được ngay lập tức của chúng ta. Do đó, hiểu biết lý thuyết của chúng ta đã được nâng cao và chúng ta bắt đầu phát triển một cảm giác cần thiết về tỷ lệ.

184. Chân sư DK trở lại một số chi tiết kỹ thuật. Cõi thứ sáu là đối tượng kiểm soát của điểm đạo đồ cấp độ thứ tư (y đã làm chủ được năm), và theo sau sự điểm đạo đó phải chịu sự chi phối. Điều này rất phù hợp tương ứng, vì cõi thứ tư hoặc cõi bồ đề là nhà của nguyên lý thứ sáu, bồ đề.

185. Các cõi phụ cao hơn của cõi bồ đề được “phối hợp” nhưng chúng ta lưu ý rằng Chân sư Tây Tạng không nói rằng điểm đạo đồ cấp độ thứ tư nhất thiết có thể hoạt động trên bất kỳ hoặc tất cả các cõi phụ đó.

186. Điểm đạo đồ ở cấp độ thứ tư đạt được “sự thân mật Đạo viện” lớn hơn và tiếp xúc đầy đủ hơn với các vị thiên thần, những nhà kiến tạo hình tướng, có liên quan chặt chẽ với số sáu. (Chúng thường liên quan đến luân xa thứ sáu, tính từ trên cao xuống.) Sự thống trị của điểm đạo đồ đối với cõi phụ thứ sáu của các thế giới thấp hơn và liên hệ với một nhóm sinh mệnh cộng hưởng với số sáu là tương ứng chính xác.

187. Khi nào thì nhiệm kỳ trong Phòng Minh triết (Hall of Wisdom) chấm dứt? Một bậc Chân sư Minh triết, một điểm đạo đồ cấp độ năm, đã làm chủ được minh triết. Do đó, một điểm đạo đồ cấp độ thứ tư vững chắc đang trên đường đạt đến cấp độ thứ năm, nhanh chóng làm chủ những gì mà Phòng Minh triết có ​​thể cung cấp.

188. Một điểm đạo đồ như vậy ngày càng hiểu sâu về luật; biến những tiềm năng sáng tạo của “màu sắc và âm thanh” thành của riêng mình, trở nên tinh thông trong ý nghĩa của chúng (một cụm từ huyền bí). “Ý nghĩa” liên quan đến ý chí và mục đích. Y đang chuẩn bị để trở thành một nhân tố sáng tạo thực sự trong việc thực hiện Thiên cơ, và để đạt được điều này, cần phải có kiến ​​thức sâu sắc về màu sắc và âm thanh.

189. Điều quan trọng là nhận ra rằng điểm đạo đồ được đào tạo cho cấp độ thứ năm có thể tiếp xúc với Chân thần của mình một cách dễ dàng hơn phần lớn nhân loại có thể liên hệ với Chân ngã của họ. Điều này có nghĩa là tâm thức của y đang nhanh chóng trở nên phổ quát — tức là, mở rộng đến các trải nghiệm thái dương hệ (vì thái dương hệ của chúng ta được coi là vũ trụ nội bộ của chúng ta).

190. Ngay cả điểm đạo đồ cấp độ thứ năm (Chân sư Minh triết) vẫn chưa phải là Chân thần giải thoát, nhưng sự tiếp xúc của vị ấy với đời sống Chân thần là chắc chắn. Cần một điểm đạo đồ cấp độ thứ sáu để tách khỏi năm thế giới thấp hơn của sự tiến hóa của con người và siêu nhân, và sống cuộc sống của Chân thần trên cõi của chính nó.

191. Ở giai đoạn chuyển tiếp này, trách nhiệm của điểm đạo đồ tăng lên đáng kể; Ngài đang giúp đỡ nhiều môn sinh và qui tụ một cách có ý thức Ashram tương lai của mình — một quá trình mà Ngài đã tham gia một cách vô thức trong nhiều kiếp. Vì vậy, phạm vi công việc của Ngài ngày càng tăng lên nhanh chóng.

192. Chân sư DK đang nói ở đây phần lớn về những người đang đi trên Con đường Phụng sự Địa cầu, ở lại phụng sự bầu này (Trái đất nhỏ bé của chúng ta) cho đến khi được Sanat Kumara giải phóng cho các cuộc phiêu lưu vũ trụ và hệ thống khác. Việc phụng sự Con đường của Địa cầu không thể được vận hành theo ý muốn một cách đơn giản. Một người phải được Đức Sanat Kumara ‘mời’ làm như vậy.

193. Về mặt vũ trụ, việc phụng sự của Con đường Địa cầu đòi hỏi sự khiêm tốn lớn lao, vì nhiều khả năng phát triển cấp vũ trụ ngay lập tức bị loại bỏ bằng cách hy sinh để ở lại với bầu của chúng ta. Chân sư DK hứa sẽ nói về những Con đường khác — một chủ đề mà Ngài đã phát triển ở cấp độ sâu sắc trong cuốn sách này và những cuốn sách khác.

Sau cuộc điểm đạo thứ năm, hành giả đạt mức hoàn thiện cao nhất của hệ thống hành tinh này, dù rằng nếu muốn thì Vị này có thể nhận hai cuộc điểm đạo cao hơn.

194. Ở lần điểm đạo thứ năm, con người đạt đến sự hoàn hảo tương đối. Từ quan điểm của hệ thống hành tinh, cuộc sống của Ngài đã đạt đến sự hoàn hảo. Nhưng sau đó Ngài có thể bắt đầu kết hợp các khía cạnh thái dương nhất định vào tâm thức của Ngài thông qua việc thực hiện cuộc điểm đạo thứ sáu và thứ bảy — cũng như Đức Christ (một điểm đạo đồ gần như đã hoàn thành cấp độ thứ bảy) và các Chohans của Ngài (các điểm đạo cấp thứ sáu)

195. Thậm chí có thể có thêm bốn cuộc điểm đạo liên quan đến hệ thống hành tinh của chúng ta, nhưng Chân sư Tây Tạng không chọn thảo luận về chúng ở giai đoạn đầu này trong bài giải thích của Ngài về quá trình điểm đạo.

196. Cuộc điểm đạo thứ tám và thứ chín được cho là gây ra những khó khăn đặc biệt cho bất kỳ điểm đạo đồ cao cấp nào muốn thực hiện những cuộc điểm đạo này liên quan đến hành tinh của chúng ta. Tại sao lại như vậy, chúng ta chỉ có thể hình dung một cách phỏng đoán.

Để đạt được cuộc điểm đạo thứ sáu, vị Chân sư phải dự một khoá đặc biệt về huyền bí học hành tinh. Một vị Chân sư vận dụng định luật trong tam giới, trong khi một vị Đế quân được điểm đạo lần thứ sáu vận dụng định luật trên mọi cấp độ của dãy hành tinh; một vị Đế quân được điểm đạo lần thứ bảy vận dụng định luật trong thái dương hệ.

197. Một số ý tưởng sâu sắc được trình bày ở đây. Một điểm đạo đồ cấp sáu là một Tinh thần Hành tinh, và vì vậy thật hợp lý khi nghĩ rằng một điểm đạo đồ như vậy sẽ phải “tham gia một khóa học rất chuyên sâu về huyền linh học hành tinh”. Tất nhiên, “huyền linh học hành tinh” là gì? Ở giai đoạn tiến hóa của chúng ta, chúng ta không thể biết được. Tuy nhiên, chúng ta hãy giả sử rằng nó liên quan đến cách thức kỹ thuật trong đó Ý chí của Shamballa được thể hiện qua các cấp độ và các giới khác nhau trong tự nhiên.

198. Một so sánh quan trọng được đưa ra liên quan đến phạm vi quyền lực tương đối của những sinh mệnh như Chân sư, Chohan, và một Chohan của lần điểm đạo thứ bảy chẳng hạn như Đức Christ.

199. Phạm vi quyền lực của một Chân sư có vẻ tương đối hạn chế vì Ngài chỉ sử dụng luật trong tam giới. Chúng ta phải hỏi: Chân sư DK hàm ý là tam giới chỉ trên bầu này hay tam giới xuyên suốt dãy của chúng ta?

200. Một Chohan (Đế Quân) nắm giữ luật trong dãy ở mọi cấp. Điều này liệu có nghĩa là trên tất cả các cõi phụ của cõi vật chất vũ trụ bên trong dãy của chúng ta không? Chúng ta thấy rằng những tuyên bố này, mặc dù có vẻ đơn giản, không hoàn toàn rõ ràng.

201. Một Chohan ở cấp độ thứ bảy thực sự là một sinh mệnh thái dương và đã siêu việt trong quyền năng của Ngài để vận dụng luật, cả trong dãy hành tinh và, có lẽ cả hệ thống hành tinh (mặc dù khi xem xét toàn bộ hệ thống hành tinh, ta có thể lập luận rằng chúng ta đang nói đến một khía cạnh cấu trúc của thái dương hệ. Vì vậy, một Chohan ở cấp độ thứ bảy thì sử dụng luật trong một hệ thống hành tinh, trên thực tế, vận dụng luật trong thái dương hệ).

202. Điểm đạo thứ bảy liên quan đến bản chất của Thái dương Thượng đế của chúng ta (Bác ái-Minh triết) và dường như đưa điểm đạo đồ vào một mối quan hệ mới và thân thiết hơn với Thượng đế vĩ đại này. Nếu ở một khía cạnh nào đó, Đức Christ và Đức Phật là những điểm đạo đồ của cấp độ thứ bảy, thì về mặt nào đó, liệu các Ngài cũng là những đệ tử của Thái dương Thượng đế hay không?

203. Trong mọi trường hợp, chúng ta không được biết một Chohan ở cấp độ thứ bảy vận dụng luật trong thái dương hệ ở cấp độ nào. Chúng ta sẽ giả sử một cách hợp lý, không phải ở cấp độ đầy đủ nào, vì đó có vẻ là một bước nhảy quá lớn so với năng lực của một Chohan ở cấp độ thứ sáu.

204. Như đã liệt kê ở đây, sự khác biệt giữa năng lực của Chân sư, Chohan ở cấp độ thứ sáu và Chohan của cấp độ thứ bảy, dường như được phân biệt bởi một cấp số nhân thay vì một cấp số cộng.

Hiển nhiên là nếu khảo xét kỹ các vấn đề này để áp dụng, người môn sinh sẽ tìm thấy nhiều điều liên quan đến cá nhân y, dù rằng y còn cách xa chính cuộc lễ điểm đạo. Nhờ nghiên cứu tiến trình và mục đích, y có thể biết được sự kiện chính đại cơ bản rằng phương pháp điểm đạo là phương pháp của sự:− [91]

a. Nhận thức mãnh lực.

b. Áp dụng mãnh lực.

c. Sử dụng mãnh lực.

205. Chân sư DK nhận thức rõ rằng Ngài đang cho chúng ta thông tin vượt xa khả năng đồng hóa của chúng ta. Tuy nhiên, dường như Ngài hình dung ra lợi ích cho chúng ta nếu chúng ta siêng năng áp dụng bản thân vào việc xem xét các đối tượng này. Rõ ràng, những khái quát hữu ích có thể được thực hiện.

206. Chúng ta có thể dễ dàng liên tưởng đến các nguyên tắc chung về “nhận thức mãnh lực”, “áp dụng mãnh lực” và “sử dụng mãnh lực”.

207. Sự khác biệt giữa “áp dụng” và “sử dụng” là gì? Chúng ta có nên nói rằng “sử dụng” là một cấp độ cao hơn của “áp dụng” không? Đầu tiên phải đến với tâm thức — tức là “nhận thức”. Sau đó, mãnh lực phải được áp dụng, và cuối cùng là sử dụng một cách khéo léo.

208. Chúng ta được yêu cầu hiểu việc điểm đạo trong các thuật ngữ của mãnh lực. Điều này loại bỏ ảo cảm ra khỏi những xem xét như vậy. Một người tiếp cận phần nào như một nhà khoa học, thì đo lường chính xác tất cả các yêu cầu và năng lực của một người đối với những yêu cầu đó.

Điểm đạo đồ ở mọi cấp, từ vị khiêm tốn ở cấp thứ nhất, lần đầu tiên tiếp xúc với một loại mãnh lực chuyên biệt, lên đến vị Phật được giải thoát ở cấp thứ bảy, đều đang vận dụng một loại năng lượng nào đó.

209. Chân sư DK bắt đầu khái quát về những yếu tố mà mọi điểm đạo đồ phải đối mặt. Y trải qua toàn bộ khoảng thời gian điểm đạo thường gắn liền với hành tinh của chúng ta.

210. Một tuyên bố thực sự quan trọng xảy ra trong đoạn này. Chân sư DK gọi một “Chohan của Điểm đạo thứ bảy”, là “vị Phật giải thoát của cấp độ thứ bảy”. Đây là một tên gọi thú vị nhất. Loại giải phóng đó là giải phóng khỏi những hạn chế của vận cụ Chân thần!

211. Chúng ta phải nhớ rằng không chỉ Đức Phật (Gautama) là Đức Phật, mà Đức Di Lặc là “Đức Phật Di Lặc”.

212. Khi chúng ta nghĩ về Đấng mà chúng ta thường gọi là Đức Phật, chúng ta có thể giả thuyết rằng Quả vị Phật của Ngài bắt đầu khi Ngài đạt đến cấp độ thứ sáu (xảy ra vào thời điểm Ngài thành đạo vĩ đại). Dường như vào thời điểm đó, Ngài đã nhận được một liên lạc từ cõi trí vũ trụ, có thể được tiếp cận, vì bản chất Chân thần cung ba của Ngài.

213. Ngài đã được giác ngộ, và sự Giác ngộ đó có vẻ hợp lý là sự tiếp cận “Ánh sáng Vĩ đại nhất” của Shamballa, điều mà chỉ lần điểm đạo thứ sáu mới có thể mang lại, vì ở cấp độ thứ sáu, người ta đi vào nhận thức đầy đủ về Chân thần (Chân thần là ‘cư dân’ của Shamballa). Là một Chân thần cung ba, Ngài sẽ được liên kết một cách cộng hưởng với cõi trí vũ trụ, nơi đã thêm ‘quyền năng toả sáng’ của nó vào trải nghiệm thay đổi thế giới đó.

214. Chẳng bao lâu nữa, cả Ngài và Đức Christ sẽ là “Chư Phật giải thoát ở cấp độ thứ bảy”, vì các Ngài vẫn chưa hoàn thành cuộc điểm đạo thứ bảy. Những vị Phật như vậy có thể tập trung vào cõi thượng đế của thái dương hệ, cõi phụ đầu tiên của cõi vật chất vũ trụ. Sự giải thoát của các Ngài là giải thoát khỏi những ràng buộc của chân thần hiện tại (như Chân thần thể hiện chính nó trên cõi vật chất vũ trụ), nhưng các Ngài vẫn chưa được giải thoát khỏi cõi vật chất vũ trụ một cách toàn bộ. Đó là thành tựu của cuộc điểm đạo thứ chín.

Có thể trình bày các giai đoạn phát triển của người chí nguyện tìm đạo như sau:−

1. Qua phân biện, y phải ý thức được năng lượng hay mãnh lực của chính phàm ngã y.

215. Một loạt thành tựu tuần tự được liệt kê.

216. Người chí nguyện, trên tất cả, phải “Biết chính Mình”. Đây là kiến thức tiểu vũ trụ và đòi hỏi một trí óc phân biện, quan sát, tách rời.

2. Y phải áp đặt lên nhịp điệu mạnh mẽ đó một nhịp điệu cao hơn, cho đến khi nhịp điệu thấp được thay thế bởi nhịp điệu cao, và phương pháp phát triển năng lượng theo lối cũ hoàn toàn tan biến.

217. Phương pháp tiến bộ ở tất cả các cấp được đưa ra ở đây. Chúng ta được biết về động lực của việc “áp đặt năng lượng”. Nhịp điệu của một loại năng lượng (cao hơn) phải thay thế nhịp điệu của năng lượng thấp hơn. Các năng lượng và mãnh lực được phân biệt bởi nhịp điệu của chúng. Khi chúng ta xem xét bản chất của tần số rung động, chúng ta có thể dễ dàng liên hệ nó với nguyên tắc nhịp điệu.

218. Khi nhịp điệu cao hơn thay thế nhịp điệu thấp hơn, năng lượng cao hơn sẽ thay thế nhịp điệu thấp hơn một cách hiệu quả.

219. Bước thứ hai này vượt ra ngoài sự nhận biết phân biệt đơn thuần. Nó là một hình thức của huyền linh học ứng dụng, không chỉ là huyền linh học lý thuyết.

3. Sau đó, nhờ các nhận thức dần dần phát triển, y được phép tiếp xúc và được hướng dẫn sử dụng một số năng lượng tập thể, cho đến khi đạt vị thế vận dụng được mãnh lực hành tinh một cách khoa học. Khoảng thời gian cần cho giai đoạn cuối cùng này hoàn toàn tùy thuộc sự tiến bộ của y trong việc phụng sự nhân loại và phát triển các quyền năng của linh hồn, là trình tự đương nhiên của sự khai mở tinh thần.

220. Khi điểm đạo đồ tiến bộ, sức mạnh của y để có thể tiếp xúc và sử dụng năng lượng nhóm tăng lên.

221. Sự tiếp cận của y với các nhóm có phạm vi và sức mạnh ngày càng tăng tiếp tục cho đến khi cuối cùng, nhóm đó là toàn thể hành tinh có thể được tiếp cận và sử dụng một số năng lượng của nó (mãnh lực hành tinh).

222. Sự chuyển động tiến bộ là từ tâm thức tiểu vũ trụ, đến tâm thức và ứng dụng các năng lượng của linh hồn, đến tâm thức và ứng dụng các năng lượng của các nhóm ngày càng lớn hơn cho đến khi các năng lượng và mãnh lực hành tinh được tiếp xúc và sử dụng. Có sự mở rộng liên tục và gia tăng kỹ năng trong hành động.

223. Ngay cả đối với điểm đạo đồ cao cấp, tốc độ đạt được của y sẽ liên quan đến chất lượng và cường độ của việc phụng sự mà y thực hiện, và cấp độ mà y có thể khai mở và áp dụng những sức mạnh linh hồn (trong trường hợp này là những quyền năng của tam nguyên tinh thần). Cũng như những điểm đạo đồ thuộc các cấp độ trước đó, không có quy tắc cứng nhắc nào có thể được đặt ra để xác định mức độ tiến bộ.

Việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng bởi Đức Bồ-tát trong hai cuộc điểm đạo đầu tiên giúp điểm đạo đồ có thể kiểm soát và sử dụng mãnh lực của phàm ngã, năng lượng được thánh hóa thực sự của phàm nhân trong phụng sự; vào cuộc điểm đạo thứ ba, việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng bởi Đấng Điểm Đạo Duy Nhất giúp y có thể sử dụng mãnh lực của Chân ngã hay Chân nhân một cách rộng rãi hơn rất nhiều, và đem vận dụng ở [92] cõi trần toàn bộ năng lượng tích lũy qua nhiều kiếp sống trong thể nguyên nhân. Vào cuộc điểm đạo thứ tư, năng lượng của nhóm Chân nhân được giao cho y sử dụng để trợ giúp cuộc tiến hoá hành tinh, và vào cuộc điểm đạo thứ năm, y được tùy nghi sử dụng mãnh lực và năng lượng hành tinh (hiểu theo nghĩa nội môn, chứ không chỉ là mãnh lực hay năng lượng của bầu vật chất). Trong suốt năm cuộc điểm đạo, hai Đấng Cao Cả—trước hết là Đức Bồ-tát và sau đó là Đấng Điểm Đạo Duy Nhất, Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, hay Đức Sanat Kumara—là Đấng điều hành hay Chủ lễ. Sau các cuộc lễ này, nếu điểm đạo đồ quyết định nhận hai cuộc điểm đạo cuối cùng khả dĩ nhận được trong thái dương hệ này, thì một loại năng lượng còn cao hơn nữa biểu lộ Đại ngã Duy nhất bắt đầu tác động, và chỉ có thể được gián tiếp đề cập đến. Vào cuộc điểm đạo thứ bảy, Đấng mà Đức Sanat Kumara biểu hiện, Đức Thượng Đế của hành tinh chúng ta trên cảnh giới của Ngài, trở thành Đấng Điểm Đạo. Vào cuộc điểm đạo thứ sáu, biểu hiện của Đấng này trên một cảnh giới trung gian—một Đấng mà hiện còn được giữ kín danh hiệu—vận dụng Thần trượng, nhận lời thệ nguyện và truyền bí nhiệm. Ba biểu lộ này của chính phủ huyền giai—Đức Sanat Kumara ở phạm vi của tam giới, Đấng Vô Danh ở lĩnh vực các cõi cao của cuộc tiến hoá nhân loại, và chính Đức Thượng Đế của địa cầu ở giai đoạn cuối —là ba sự biểu hiện vĩ đại của chính Đức Hành Tinh Thượng Đế. Vào cuộc điểm đạo cuối cùng năng lượng của Đức Thái Dương Thượng Đế lưu chuyển thông qua Hành Tinh Thượng Đế, và chính Ngài khải thị cho điểm đạo đồ biết rằng Đấng Tuyệt Đối là tâm thức phát biểu ở mức viên mãn nhất, dù rằng vào giai đoạn hiện hữu của nhân loại, Đấng Duy Nhất phải được xem như là vô thức.

224. Đoạn này chứa đựng một lượng huyền bí phi thường. Kết quả của việc sử dụng các Thanh Quyền trượng khác nhau được gợi ý.

225. Khi Đức Bồ tát cầm Cây Quyền trượng của Ngài, các mãnh lực của phàm ngã được đặt trong sự kiểm soát của điểm đạo đồ và có thể được sử dụng. Cụm từ quan trọng ở đây là, “năng lượng thánh hóa thực sự của phàm ngã trong phụng sự”. Chúng ta có thể thấy rằng các cuộc điểm đạo thứ nhất và thứ hai giải phóng các năng lực phàm ngã để sử dụng đúng cách, nhưng không giải phóng hoàn toàn sức mạnh của Chân ngã được thể hiện qua phàm ngã.

226. Quyền trượng, do Đấng Chúa Tể Hoàn Cầu sử dụng, chạm vào Chân ngã theo một cách vẫn còn rộng hơn, điều này cho thấy rằng Quyền Trượng của Đức Bồ tát có thể khiến ít nhất một năng lượng Chân ngã nào đó chảy qua phàm ngã.

227. Khi Đấng Chúa Tể Hoàn Cầu sử dụng “Viên kim cương Rực lửa”, các lực của thể nguyên nhân được đưa xuống và xuyên qua, đi vào biểu hiện trên cõi vật chất. Tất cả những gì mà một người đã tích lũy qua nhiều, rất nhiều hóa thân được giải phóng để sử dụng trên cõi vật chất. Chúng ta có thể thấy lý do tại sao một điểm đạo đồ như vậy được gọi là một “chàng trai trẻ giàu có”.

228. Quyền Trượng do Đấng Sanat Kumara cầm trong lần điểm đạo thứ tư giải phóng năng lượng của “nhóm Chân ngã” của điểm đạo đồ. Y có thể tiếp cận được nhiều hơn nhiều so với nội dung của thể nguyên nhân của chính y. Có lẽ nội dung của thể nguyên nhân của nhiều người có thể được y sử dụng. Có lẽ, ở một mức độ nào đó, các mãnh lực của tam nguyên tinh thần được giải phóng. Điều quan trọng cần xem xét là tính vô ngã không ngừng gia tăng, và năng lượng nhóm hiện có sẵn với số lượng và chất lượng lớn hơn nhiều so với trước đây.

229. Chân sư Minh triết có thể sử dụng được cho Ngài năng lượng của hành tinh được hiểu một cách bí truyền. Quyền truy cập này đạt đến các chiều kích cao hơn nhiều so với các chiều kích đơn giản liên quan đến bầu vật chất. Do đó, có một bước chuyển lớn vượt ngoài nhóm chân ngã, đến những nhóm năng lượng lớn hơn nhiều. Chân sư đang vận hành, như một nhân tố hành tinh có ý thức và đang sử dụng trí thông minh và sức mạnh to lớn, Thiên Cơ (cho bầu này, và ở một cấp độ nào đó cho dãy này, dãy Địa cầu).

230. Chân sư DK liệt kê các Đấng Điểm Đạo khác nhau. Chúng ta đã quen thuộc với ý tưởng rằng Đức Christ và Đấng Chúa Tể Hoàn Cầu là các Đấng Điểm Đạo cho các lần điểm đạo được đánh số từ lần đầu tiên đến lần thứ năm — Đức Christ chủ tế ở hai lần điểm đạo đầu tiên và Sanat Kumara cử hành ở ba lần cuối cùng.

231. Nhưng Chân sư DK vượt ra ngoài năm cuộc điểm đạo thông thường để xem xét các Đấng Điểm Đạo ở cuộc điểm đạo thứ sáu và thứ bảy. Ở lần điểm đạo thứ bảy, đó là Hành tinh Thượng đế, được gọi là “Tinh thần Hành tinh”, là Đấng chủ trì.

232. Vào lần điểm đạo thứ sáu, một “Đấng Vô Danh”, và chỉ có thể gợi ý về bản chất của Ngài, là Đấng điểm đạo chủ tọa. Đây là một sinh mệnh bí ẩn. Có lẽ quá nhiều điều sẽ được tiết lộ về cấu trúc hành tinh hoặc về quá trình ‘hóa thân của hành tinh thượng đế’ nếu tên và địa vị của Đấng Vô danh này được tiết lộ.

233. Có ba biểu hiện của Hành tinh Thượng đế. Với tư cách là một Chân thần, Ngài biểu hiện như là “Tinh thần Hành tinh” — chính đấng Hành tinh Thượng đế, tập trung vào cõi thượng đế của thái dương hệ.

234. Như một linh hồn, Ngài hiển hiện như một Đấng Vô Danh, tập trung ngay trên năm cõi giới của sự tiến hóa của con người và siêu nhân. Đấng Vô Danh này có vẻ liên quan mật thiết với Chân thần của con người, con số của Ngài là sáu (theo cõi mà Ngài được thấy), bởi vì Đấng Vô Danh chủ trì cuộc điểm đạo thứ sáu.

235. Như một phàm ngã, Hành tinh Thượng đế biểu hiện như Sanat Kumara, như chúng ta được cho biết, đang lơ lửng ở ngoại vi của tam giới. Tuy nhiên, ở những nơi khác, chúng ta thấy Sanat Kumara đang tập trung vào Sự hiện diện của Ngài trên cõi thượng đế (logoic Plane).

236. Ở những nơi khác, Sanat Kumara được cho là đại diện cho khía cạnh linh hồn của Hành tinh Thượng đế. Ở đây, vai trò đó dường như rơi vào “Đấng Vô danh”.

237. Chúng ta đã gợi ý trước đây rằng Thái dương Thượng đế có vai trò của Ngài trong việc tham gia ở lần điểm đạo thứ bảy của các thành viên của Huyền giai sáng tạo thứ tư (Huyền giai của Nhân loại). Ở đây chúng ta học được rằng chính Hành tinh Thượng đế là “Tinh thần Hành tinh”, Đấng chủ trì ở cấp độ thứ bảy này, nhưng thông qua Ngài năng lượng của Thái dương Thượng đế được thể hiện. Cấp độ thứ bảy, từ một góc độ, cái có thể được gọi là ‘Năng lượng Thái dương’ và cũng đại diện cho Cuộc điểm đạo Biến Dung liên quan đến ngôi sao, Sirius.

238. Ở cấp độ thứ bảy này được tiết lộ cái được gọi là “Cái tuyệt đối trong tâm thức”. Tất nhiên, đây là một Tuyệt đối rất tương đối, nhưng, theo quan điểm của con người, thực sự là tuyệt đối. Chân sư DK nói với chúng ta rằng tâm thức như vậy đối với con người bình thường, là vô thức/không thể nhận thức được

239. Một nghiên cứu cẩn thận về những gì đã nói cho thấy rằng quá trình điểm đạo đang đưa tất cả các điểm đạo đồ hướng về phía trước. Là Chân thần, ngôi nhà của chúng ta nằm trong Thái dương (xem IHS 196). Chúng ta đang trên đường trở lại, một cách có ý thức, cuộc sống năng lượng thái dương mà chúng ta đang có.

Mỗi cuộc điểm đạo lớn thực ra chỉ là tổng hợp của các cuộc điểm đạo nhỏ hơn, và chỉ khi nào hành giả liên tục tìm cách mở rộng tâm thức trong các vấn đề của cuộc sống hằng ngày thì y mới mong đạt được các giai đoạn sau mà chẳng gì khác hơn là các thành quả của nhiều giai đoạn trước. Các môn sinh phải loại bỏ cái ý tưởng rằng nếu họ “thật tốt và vị tha” thì vào một ngày [93] bất ngờ nào đó họ sẽ đến trước Đức Chúa Vĩ Đại. Suy nghĩ như thế là đặt cái quả trước cái nhân. Đức tốt và lòng vị tha là kết quả của nhận thức và phụng sự, và đức hạnh thánh thiện là thành quả của các triển khai tâm thức mà hành giả tự thực hiện, thông qua cố gắng và nỗ lực lớn lao.

240. Chân sư DK liên hệ những cuộc điểm đạo sau với những cuộc điểm đạo trước đó, xem những cuộc điểm đạo sau này là tổng hợp của cuộc điểm đạo trước. Do đó, ngay cả khi chúng ta chuẩn bị cho những cuộc điểm đạo nhỏ hơn, chúng ta vẫn chuẩn bị cho những cuộc điểm đạo lớn hơn, theo những cách không ngờ đến.

241. Chúng ta nhận thấy Chân sư DK liên hệ việc điểm đạo với “các vấn đề của cuộc sống hàng ngày”. Có một sự liên tục ở đây. Chỉ khi nắm vững những công việc thực tế này thì mới có thể thực hiện được những bước dẫn đến những thách thức khó khăn hơn. Một cách khác để nói tất cả điều này là một điểm đạo đồ là một người thực tế một cách thực tiễn.

242. Đạo đức và hạnh kiểm tốt là cần thiết nếu một người muốn trở thành một điểm đạo đồ, nhưng tự chúng, hoàn toàn không đủ. Chỉ riêng việc “rất tốt và vị tha” sẽ không đưa ứng viên đến chân Đấng Điểm đạo.

243. Chân sư DK theo dõi nguồn gốc hoặc lòng tốt và lòng vị tha. Chúng phát sinh từ nhận thức và phụng sự, và sự thánh thiện của phàm ngã phát sinh từ sự mở rộng của tâm thức được khởi nguồn một cách vất vả. Như thể phẩm chất đạo đức là kết quả của những phẩm chất của tâm thức và của nhiều lao động cần thiết để hình thành nên những phẩm chất của tâm thức. Vì vậy, chính công việc khéo léo vất vả sẽ đưa chúng ta đến chân của Đấng Điểm đạo. Lao động vĩ đại mở ra cánh cửa. Ý chí tốt đẹp, vị tha, thánh thiện nảy sinh bởi vì công việc cần thiết đã được thực hiện.

Bởi vậy chính ở đây và ngay bây giờ, chúng ta có thể tự chuẩn bị cho điểm đạo, và làm điều này, không phải dựa trên khía cạnh nghi lễ, như nhiều người thiết tha mong mỏi, mà bằng cách làm việc có hệ thống, kiên trì liên tục phát triển thể trí, và bằng quá trình gian lao khó nhọc là chế ngự thể cảm dục để nó ứng đáp được với ba loại rung động:−

a. Rung động đến từ Chân nhân.

b. Rung động đến từ Chân sư.

c. Rung động đến từ các huynh đệ của y ở khắp chung quanh. Y trở nên nhạy cảm đối với tiếng nói của Chân ngã, và do thế thanh toán nghiệp quả dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của Chân nhân chính y. Qua Chân nhân, y trở nên ý thức được sự rung động phát ra từ Chân sư y; y học cách ngày càng cảm nhận được rung động đó và đáp ứng lại ngày càng đầy đủ hơn; cuối cùng, y trở nên ngày càng nhạy cảm với những sự hân hoan, đau thương và buồn khổ của những người y tiếp xúc hằng ngày; y cảm thấy đó là những hân hoan, đau thương và buồn khổ của y, nhưng không vì đó mà giảm suy năng lực.

244. Chân sư DK đưa chúng ta đến “ở đây và bây giờ” một cách mạnh mẽ. Việc điểm đạo không được coi là một số quá trình xa xôi mà người ta phải chờ đợi một cách kỳ vọng. Thay vào đó, thông qua lao động có hệ thống, việc chuẩn bị có thể bắt đầu ngay bây giờ. Ứng viên sẽ là người làm việc có hệ thống, như vậy dưới ảnh hưởng của sao Thổ và sao Thủy. Y cũng phải làm việc “bền bỉ” (một từ mạnh mẽ và phi thường), như vậy, dưới ảnh hưởng của Vulcan.

245. Từng cái một và đồng thời, các vận cụ phải được phát triển — đặc biệt là thể trí và thể cảm dục. Cả hai đều phải được thanh lọc và kiểm soát. Cơ thể vật lý cũng vậy, không thể bị bỏ qua, nhưng sự tu luyện chủ yếu của nó xảy ra ở thời kỳ sớm hơn so với thời điểm mà nhiều đệ tử hiện đang tìm thấy chính mình.

246. Thể cảm dục phải trở nên nhạy cảm theo ba hướng đối với ba rung động.

a. Rung động từ Chân ngã — coi Chân ngã này có thể là Thái dương Thiên thần hoặc tam nguyên tinh thần.

b. Rung động từ Chân sư và Đạo viện của Ngài.

c. Rung động từ tất cả các huynh đệ.

247. Mối quan hệ tức thời của ứng viên là với Chân ngã của y — được coi là Thái dương Thiên thần. (Có nhiều cách khác nhau để xem xét danh tính của “Chân ngã”. Thông qua Chân ngã đó, rung động của Chân sư có thể đến được với y).

248. Chân sư Tây Tạng kết thúc phần này với một lưu ý về sự thấu cảm. Khi Chân ngã thực sự được tiếp xúc, và khi các mệnh lệnh của nó được nghe theo (góp phần giải quyết nghiệp quả), thì một sự nhạy cảm lớn đối với niềm vui, nỗi đau và nỗi buồn của nhân loại nảy sinh.

249. Một điểm đạo đồ chân chính là người đồng nhất một cách tự nhiên với nhân loại, như thể các trạng thái tinh thần, tâm lý và thể chất của tất cả mọi người là của chính y. Thánh đoàn có ý định cứu nhân loại (là một phần công việc của Thánh Đoàn trong Kế Hoạch Thiêng Liêng của Hành Tinh – Thiên Cơ). Nếu một điểm đạo đồ tìm cách gia nhập hàng ngũ Chân sư, y phải bước vào một mối quan hệ tinh thần thân thiết mới với nhân loại.

250. Trong phân tích cuối cùng, Thánh đoàn Hành tinh là “Thánh đoàn của Tình thương” và chỉ những người yêu thương đồng loại của mình mới có thể là các vị điểm đạo chân chính của Đại Bạch Đoàn và cuối cùng là thành viên đầy đủ của Đoàn thể đó, với tư cách là các Vị Chúa tể Từ bi hoặc Chân sư Minh triết.

Leave Comment