Thành Lập Thánh Đoàn (Chương 4 DDTNLVTDH)

CHƯƠNG IV

SỰ THÀNH LẬP THÁNH ĐOÀN

Giới thiệu: Chương 4 của quyển Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ, nói về sự Thành Lập của Thánh đoàn (hay còn gọi Huyền Giai—Hierarchy, Thiên Đoàn, Đại Đoàn Chưởng Giáo). Phần bình giảng của GS Michael D. Robbins, phần dịch sang tiếng Việt do một số học viên Việt Nam của Trường Morya Federation thực hiện. Bản Pdf song ngữ Anh Việt có thể xem ở đây.

“Đức Hành Tinh Thượng Đế của hệ Địa Cầu chúng ta, một trong bảy vị Tinh Quân trước Thánh Tòa, đã lâm phàm, và, dưới hình tướng của Đức Sanat Kumara, Đấng Thái Cổ, là vị Chúa Tể Thế giới, đã giáng lâm xuống hành tinh bằng vật chất hồng trần trọng trược này, và đã ở lại với chúng ta kể từ đó. Do bản chất cực kỳ thanh khiết của Ngài, và do sự kiện là Ngài tương đối vô nhiễm (sinless) (theo quan điểm của nhân loại), và do đó, không thể đáp ứng với bất cứ điều gì trên cõi hồng trần trọng trược. Ngài không thể khoác lấy một xác phàm trọng trược như chúng ta, nên Ngài phải hoạt động trong thể dĩ thái của Ngài. Ngài là Đấng cao cả nhất trong các Đấng Hóa Thân hay các Đấng Giáng Lâm, vì Ngài là một phản ánh trực tiếp của Đấng cao cả sẽ sống, thở, và hoạt động suốt mọi cuộc tiến hóa trên hành tinh này, giữ vạn vật trong hào quang hay là phạm vi ảnh hưởng từ lực của Ngài”.

****

Sự Xuất Hiện Của Thánh Đoàn Trên Hành Tinh

Sách này không bàn về những bước đã đưa đến việc thành lập Thánh Đoàn trên hành tinh chúng ta, hoặc xem xét các điều kiện trước khi có sự giáng lâm của các Đấng cao cả này. Chúng ta có thể nghiên cứu những điều nói trên trong các sách huyền môn khác ở phương Tây và trong các Thánh Kinh phương Đông. Đối với mục đích của chúng ta, chỉ cần nói là vào giữa kỷ nguyên Lemuria, cách đây khoảng 18 triệu năm, đã xảy ra một biến cố vĩ đại, trong số những điều khác, biểu thị các phát triển sau đây:

— đức Hành Tinh Thượng Đế của hệ Địa Cầu chúng ta, một trong bảy vị Tinh Quân trước Thánh Tòa, đã lâm phàm, và, dưới hình tướng của Đức Sanat Kumara, Đấng Thái Cổ, là vị Chúa Tể Thế giới, đã giáng lâm xuống hành tinh bằng vật chất hồng trần trọng trược này, và đã ở lại với chúng ta kể từ đó. Do bản chất cực kỳ thanh khiết của Ngài, và do sự kiện là Ngài tương đối vô nhiễm (sinless) (theo quan điểm của nhân loại), và do đó, không thể đáp ứng với bất cứ điều gì trên cõi hồng trần trọng trược. Ngài không thể khoác lấy một xác phàm trọng trược như chúng ta, nên Ngài phải hoạt động trong thể dĩ thái của Ngài. Ngài là Đấng cao cả nhất trong các Đấng Hóa Thân hay các Đấng Giáng Lâm, vì Ngài là một phản ánh trực tiếp của Đấng cao cả sẽ sống, thở, và hoạt động suốt mọi cuộc tiến hóa trên hành tinh này, giữ vạn vật trong hào quang hay là phạm vi ảnh hưởng từ lực của Ngài.

Description: http://makara.us/04mdr/02comment/ihs/ihs_4_files/image002.jpg
Dãy Trái Đất (Earth Scheme)

1. Lịch sử huyền bí của hành tinh chúng ta được trình bày tỉ mỉ trong Giáo lý bí nhiệm bởi H.P. Blavatsky. Trong thế giới phương Tây, luận thuyết này trình bày những giải thích toàn diện và phong phú nhất về chủ đề này.

2. Theo Truyền thống Minh Triết Ngàn Đời, quá trình biệt ngã hóa đã diễn ra trên hành tinh của chúng ta, trên dãy Địa cầu của chúng ta, hơn 21 triệu năm trước. Con số được đưa ra là 21.688.345 năm trước; được viết trong Chiêm tinh nội môn, tr. 64, vào năm 1932 hoặc 1933). Thời điểm này khoảng ba triệu năm trước khi thành lập Thánh đoàn Huyền môn trên Trái đất.

3. Nếu Đức Sanat Kumara thành lập Thánh đoàn Tinh thần (và cả Shamballa) trên Địa cầu của chúng ta cách đây mười tám triệu năm, khoảng giữa Thời kỳ Lemurian, và nếu Thời kỳ Atlantean kéo dài từ mười một đến mười triệu năm, thì khoảng thời gian hợp lý của Thời kỳ Lemurian, có lẽ, chừng mười lăm hoặc mười sáu triệu năm.

4. Chủ đề về mối quan hệ giữa Hành tinh Thượng đế chúng ta và Đức Sanat Kumara vừa phức tạp vừa bị che giấu. Trong một số tài liệu, các Ngài xuất hiện như là những Đấng khác nhau. Trong những tài liệu khác, Đức Sanat Kumara được hiểu là một phần mở rộng của Hành tinh Thượng đế.

5. Trong tài liệu này, chúng ta thấy Hành tinh Thượng đế mang hóa thân vật lý “dưới hình tướng của Đức Sanat Kumara”. Trong trường hợp này “hóa thân vật lý” có nghĩa là hóa thân “dĩ thái”.

6. Hành tinh của chúng ta (bầu Địa cầu của dãy Địa cầu) được gọi là một “hành tinh vật chất dày đặc”, mặc dù trên thực tế, nó có nhiều chiều kích vi tế.

7. Hành tinh Thượng đế của chúng ta được cho là “một trong Bảy Tinh quân trước Thánh tòa”. Đây là một phát biểu lạ lùng. Có lẽ, “Thánh tòa” là trung tâm quyền lực của Thái dương Thượng đế. Nhưng Hành tinh Thượng đế của chúng ta đang biểu lộ thông qua một hành tinh không thánh thiện. Người ta sẽ tưởng tượng rằng bảy hành tinh thánh thiện trong thái dương hệ chúng ta (Vulcan, Mộc tinh, Thổ tinh, Thủy tinh, Kim tinh, Hải Vương tinh và Thiên Vương tinh—tên được đưa ra theo thứ tự các cung mà chúng biểu hiện chủ yếu vào thời điểm này) sẽ là Bảy Tinh quân. Có lẽ theo một cách nào đó, vẫn chưa được khám phá, Địa cầu là “một phần” của một trong những Hành tinh Thượng đế cao cả hơn này.

8. Chúng ta được cho biết rằng Đức Sanat Kumara không có mối liên hệ thực sự nào với cõi vật chất dày đặc, được cấu tạo bởi chất liệu dư thừa của thái dương hệ đầu tiên. Do đó, chúng ta có một lý do rõ ràng về nguyên nhân tại sao ảnh hưởng của Ngài lại khiến nâng lên về mặt tinh thần như vậy. Ngài nâng chúng ta khỏi bị cuốn vào sự nô lệ với vật chất thô trược.

9. Đối với hệ-Địa cầu của chúng ta, có một số Đấng Hóa Thân ở các cấp bậc khác nhau. Chúng ta được cho biết rằng Đức Sanat Kumara là người vĩ đại nhất trong số các Ngài.

10. Như một định nghĩa sâu hơn về danh tính của Ngài, chúng ta được cho biết rằng Ngài là một “phóng chiếu/phản ánh trực tiếp” của Hành tinh Thượng đế — “Đấng cao cả sẽ sống, thở, và hoạt động xuyên qua mọi cuộc tiến hóa trên hành tinh này.”

11. Một Đấng hóa thân, trong nhiều ý nghĩa khác, là “đấng sắp đến”, có nghĩa là, khi thời điểm chín muồi cho sự xuất hiện của Ngài, Đức Sanat Kumara (Đấng Vĩ Đại) sẽ làm cho sự hiện diện của Ngài được cảm nhận một cách mạnh mẽ trên cõi dĩ thái của hành tinh nhỏ bé đậm đặc của chúng ta.

Trong Ngài, chúng ta sống, chuyển động, và hiện tồn, và không ai trong chúng ta có thể vượt qua phạm vi hào quang của Ngài. Ngài là Đấng Đại Hy Sinh, đã rời bỏ sự vinh quang của các chốn cao siêu của Ngài, và vì [Trang 29] những đứa con nhân loại đang tiến hóa, Ngài đã khoác lên mình Ngài một hình tướng hồng trần, và được làm giống như con người. Ngài là Đấng Trông Nom Im Lặng, liên quan trực tiếp với nhân loại chúng ta, dù rằng đúng ra, chính đức Hành Tinh Thượng Đế trên cõi tâm thức cao của Ngài mà Ngài đang hoạt động, mới là Đấng Trông Nom Im Lặng đích thực có liên quan đến hệ hành tinh này.

Có lẽ có thể nói rằng: — Đấng Chúa Tể Thế gian, Đấng Điểm Đạo Độc Nhất có cùng vị thế liên quan với Hành Tinh Thượng Đế, giống như sự biểu lộ ở cõi trần của một Chân Sư đối với Chân Thần của Chân Sư đó trên cõi Chân Thần. Trong cả hai trường hợp, trạng thái tâm thức trung gian của Chân Nhân hay Chân Ngã đã bị thay thế, và những gì chúng ta thấy và biết là sự biểu lộ tự tạo trực tiếp của chính tinh thần thuần khiết. Đó là sự hy sinh. Ở đây, phải nhớ rằng trong trường hợp của Đức Sanat Kumara có một mức độ khác biệt vô cùng lớn lao, vì trình độ tiến hóa của Ngài cao hơn nhiều trình độ tiến hóa của một vị cao đồ, giống như trình độ tiến hóa của một cao đồ cao hơn một người thú. Điều này sẽ được trình bày chút ít trong phần kế tiếp của chủ đề của chúng ta.

1. Có một số Đấng mà trong các Ngài “chúng ta sống, chuyển động và hiện tồn” — Hành tinh Thượng đế, Thái dương Thượng đế, và cả Đức Sanat Kumara.

2. Điều quan trọng là chúng ta không thể vượt qua phạm vi hào quang của Ngài. Rõ ràng sẽ phải mất một thời gian nữa trước khi chúng ta có thể du hành dễ dàng đến các hành tinh khác, vì nhiều người có quan năng thông linh bậc thấp tự cho là đã làm được việc đó, không nghi ngờ gì đó là việc kể lại những trải nghiệm cõi cảm dục.

3. Thuật ngữ, “Sự hy sinh Vĩ đại” là duy nhất thuộc về Ngài, trong chừng mục liên quan đến chúng ta (trên hành tinh này). Thuật ngữ “vầng hào quang” được sử dụng để mô tả trạng thái năng lượng cao cả mà từ đó Ngài xuống để trợ giúp những thực thể thấp hơn trên hành tinh của chúng ta. Sau này, trong Luận về Lửa càn khôn, chúng ta được cho biết rằng Đức Sanat Kumara đã đến hành tinh của chúng ta (bầu thứ tư của dãy thứ tư của hệ thứ tư) thông qua bầu thứ hai {bầu Kim tinh} của dãy thứ hai {dãy Kim tinh} của hệ thứ tư). Một số người đã nói rằng Ngài thực sự đến từ hành tinh Kim tinh; Chân sư Tây Tạng làm sáng tỏ vấn đề này, nói về nguồn gốc của Bản thể vĩ đại (Đức Sanat Kumara) như là một phần của hệ Địa cầu chúng ta, mà nó được hòa hợp một cách đặc biệt với hệ Kim tinh.

4. Điều quan trọng là Đức Sanat Kumara được cho là đã được “tạo ra giống như con người”. Điều này có thể đúng theo nghĩa đen, và đúng một cách vẻ vang. Có lẽ hình thể của Đức Sanat Kumara (hình thể dĩ thái được sử dụng trên cõi dĩ thái) là nguyên mẫu lý tưởng cho tất cả loài người.

5. Mặc dù Đức Sanat Kumara được gọi là “Đấng Trông coi Thầm lặng”, chúng ta hiểu rằng thuật ngữ đó nên được áp dụng cụ thể cho Hành tinh Thượng đế của hành tinh chúng ta.

6. Có sự khác biệt lớn giữa trạng thái tinh thần của Đức Sanat Kumara và trạng thái đó của một Chân sư Minh triết bình thường. Chúng ta được cho biết rằng mức độ tiến hóa của Đức Sanat Kumara cao hơn so với một Chân sư giống như mức độ tiến hóa của Chân sư đó cao hơn so với người thú. Giữa người thú và một Chân sư là năm lần điểm đạo, và hàng triệu năm kinh nghiệm của con người. Thêm năm cuộc điểm đạo vào cấp độ điểm đạo của một Chân sư, có phải điều đó có nghĩa là Đức Sanat Kumara là điểm đạo đồ ở cấp độ thứ mười? Đây hoàn toàn là suy đoán, và có lẽ địa vị của Đức Sanat Kumara thậm chí không thể được thể hiện theo hệ thống điểm đạo của nhân loại, vì kinh nghiệm của Ngài trong các thái dương hệ trước đây là rất rộng, và một Chân sư (trong hầu hết các trường hợp) là sản phẩm của thái dương hệ này.

7. Một so sánh khác được đưa ra: Đức Sanat Kumara đối với Hành tinh Thượng đế như là biểu hiện thể xác của Chân sư đối với chân thần của Chân sư trên cõi chân thần. Đây là một “khoảng cách dài” đáng kể, và dường như nâng cao vị thế của Hành tinh Thượng đế mà hầu hết vượt quá khả năng nhận thức của chúng ta.

8. Có thể Chân sư Tây Tạng đang coi Đức Sanat Kumara là một kiểu “mayavirupa” của Hành tinh Thượng đế?

9. Theo một cách nào đó, Đức Sanat Kumara là “tinh thần đang biểu lộ”. Tinh khiết và tự do trên các cõi cao nhất của cõi hồng trần vũ trụ của chúng ta, Ngài đang buộc chính Ngài phải chịu đựng sự giam cầm ngột ngạt nhất trong bản chất vật chất của Địa cầu vì lợi ích của hành tinh nhỏ bé của chúng ta.

10. Chúng ta có một số ý tưởng về việc phải mất hàng triệu năm để tạo ra một Chân sư từ một người thú. Vậy phải mất bao lâu để một Chân sư trở thành một Đấng Kumara? Người ta có thể tưởng tượng rằng việc đó sẽ không được hoàn thành trong mahamanvantara này. Thật là khó khăn và tốn thời gian để chuyển một Chân sư thành một Solar Pitri (Thái dương Thiên thần). Solar Pitris (những Đấng tiến hóa cao hơn trong số các Ngài) sau này có thể trở thành những đấng như Đức Sanat Kumara bây giờ. (c.f. TCF 844)

11. Chúng ta bắt đầu hiểu được điều gì đó về cấp bậc và vị thế của Đấng Vĩ đại đang trông coi nhân loại và Địa cầu. Một số môn sinh gọi Đức Sanat Kumara thân thiết theo kiểu “tên riêng”, như thể việc trò chuyện hàng ngày với Ngài (ở Shamballa) không có gì lạ thường. Thực sự, đây là một điều không thể, và một ý thức tỷ lệ đúng đắn hơn sẽ điều chỉnh được xu hướng này.

Cùng với sự giáng lâm của Đấng Thái Cổ, có một nhóm các Đấng khác tiến hóa rất cao, tiêu biểu cho nhóm nghiệp quả cá nhân của chính Đấng Thái Cổ, và những Đấng là thành quả của bản chất tam phân của Hành Tinh Thượng Đế. Có thể nói các Ngài hiện thân cho những thần lực xuất phát từ các trung tâm đầu, tim và cổ họng, và các Ngài đã đến cùng với Đức Sanat Kumara để hình thành những tiêu điểm thần lực của hành tinh để trợ giúp vào kế hoạch vĩ đại nhằm khai mở ngã thức cho mọi chúng sinh. Vị trí của các Ngài đã dần dần được lấp đầy bởi những người con của nhân loại có đủ điều kiện, dù rằng cho đến thời gian gần đây, có rất ít người từ nhân loại trực tiếp trên Địa cầu của chúng ta.

Các vị hiện nay là nhóm nội môn chung quanh Đức Chúa Tể Thế Gian, đã được tuyển chọn chủ yếu từ những hàng ngũ của những vị đã được điểm đạo trong dãy nguyệt cầu (chu kỳ tiến hóa [Trang 30] trước chu kỳ của chúng ta), hoặc những vị đã đến từ các hệ thống hành tinh khác, trên một số dòng năng lượng thái dương, được xác định theo chiêm tinh, tuy nhiên, số người đã chiến thắng trong chính nhân loại chúng ta đang gia tăng số lượng một cách nhanh chóng, và giữ mọi chức vụ thứ yếu dưới nhóm nội môn trung ương gồm Sáu vị, cùng với đức Chúa Tể Thế Gian hợp thành trung tâm nỗ lực của Thánh Đoàn.

1. Ở đây Chân sư Tây Tạng đang nói về sự xuất hiện của các Kumaras khác nhau cùng với Đức Sanat Kumara. Ngài đang thảo luận đặc biệt về ba vị Kumaras bao quanh Đức Sanat Kumara vốn được gọi theo cách khác là “Các vị Hoạt Phật”.

2. Trong các phần khác nhau của Giáo lý, chúng ta được cho biết rằng có 105 Kumaras, Đức Sanat Kumara có lẽ là Đấng thứ 105. Bởi vì cũng có ba Kumaras nội môn, nên con số được nâng lên thành 108. Con số này cực kỳ quan trọng trong Kinh Vệ Đà và Ấn Độ giáo, và thiết kế đền thờ Hindu thường được thực hiện với con số này trong tâm trí. (Con số 108 có tổng bằng 9 cho thấy sự hoàn chỉnh của nó, số chín là con số của một chu kỳ đã hoàn thành).

3. Ở những nơi khác trong Giáo lý, mối quan hệ của Đức Sanat Kumara với ba vị Hoạt Phật được khám phá kỹ lưỡng hơn. Có vẻ như ba vị Hoạt Phật này là Hành tinh Thượng đế trong một thái dương hệ trước đó, và có liên hệ với Đức Sanat Kumara vào thời điểm đó.

“Trong thái dương hệ trước, các Ngài là Hành tinh Thượng đế của ba hành tinh trong đó nguyên khí trí tuệ đã đạt đến giai đoạn phát triển cao nhất của nó…” (R&I 267-268)

4. Thật thú vị khi xem xét rằng Đức Sanat Kumara, và các Kumaras ngoại môn và nội môn có liên hệ với Ngài, có thể được coi là “kết quả của bản chất tam phân của Hành tinh Thượng đế”. Từ “kết quả” gợi ý tới từ “phát xạ”. Khi xem xét bản chất của bất kỳ T/thực thể nào, dù lớn hay nhỏ, câu hỏi phải được đặt ra, “Ở khía cạnh nào thì T/thực thể này là một sự phát xạ hay là kết quả của các Thực thể vĩ đại hơn mà nó là một khía cạnh?”

5. Từ một khía cạnh nào đó, không có T/thực thể nào trong vũ trụ là tự-khởi sinh, và ngay cả các Thực thể vĩ đại nhất trong số mọi Thực thể vũ trụ (chúng ta hãy gọi đó là ‘Đấng Thượng đế Vũ Trụ) là sự phát xạ hoặc kết quả của ĐẤNG ĐÓ —ĐẤNG DUY NHẤT HIỆN TỒN.

6. Từ thiết lập cấu trúc được mô tả ở đây, chúng ta có thể hiểu Đức Sanat Kumara hoạt động như một kiểu “Điểm bên trong Tam giác”, hoặc, có lẽ, là “Con mắt bên trong một Tam giác” — các vị Hoạt Phật là Tam giác, đại diện cho ba trạng thái hoạt động thiêng liêng thông qua các trung tâm đầu, tim và cổ họng.

7. Những Kumaras ban đầu đi cùng với Đức Sanat Kumara đã dần dần chuyển sang các phạm vi với cơ hội khác và vị trí của các Ngài dần dần được lấp đầy bởi Những người con của Nhân loại — tuy nhiên, phần lớn là nhân loại thuộc Dãy Nguyệt cầu hơn là nhân loại của Dãy Địa cầu thực sự của chúng ta. Nhân loại của Dãy Nguyệt cầu, đã bắt đầu cuộc hành hương của họ vào một thời điểm sớm hơn nhiều so với nhân loại ở Dãy Địa cầu, nên về bản chất, như một quy luật, họ phát triển và khai mở hơn.

8. Chân sư D.K. nói về việc lấp đầy “vị trí của các Ngài”. Ở đây chúng ta đang nói về những vị trí trong Shamballa hay những vị trí trong Thánh đoàn? Khả năng thứ hai có vẻ hợp lý hơn đối với nhân loại Dãy Địa cầu, vì ngay cả Đấng Christ — chân thần phát triển nhanh nhất của nhân loại Dãy Địa cầu, trong suốt hai nghìn năm qua, cũng chỉ trở thành một thành viên của Shamballa (có lẽ kể từ trải nghiệm của Ngài trong Khu vườn của Gethsemene khi Ngài chấp nhận Thiên ý như là của chính Ngài, bởi vậy Ngài vượt qua được cuộc điểm đạo thứ sáu).

9. Đoạn văn này lôi cuốn vì tiết lộ bản chất của những người đang làm việc với Đức Sanat Kumara bên trong Shamballa. Ngoài ra còn có nhiều điều ẩn sau các lời lẽ này hơn là những gì mắt thấy.

10. Chúng ta được cho biết rằng các vị Hoạt Phật hiện tại là Đấng Hành tinh Thượng đế trong một hệ thống trước đó. Chắc chắn vị trí của các Ngài [ND: trong Shamballa] không thể, được lấp đầy bởi những người mà chỉ đơn giản là các điểm đạo đồ trên Dãy Nguyệt cầu.

11. Rằng một số điểm đạo đồ thuộc Dãy Nguyệt cầu lẽ ra phải đi vào Shamballa, có vẻ hợp lý, nhưng việc bất kỳ điểm đạo đồ nào trong số này được bao gồm trong “nhóm Sáu vị” xung quanh Đức Chúa tể Hoàn cầu dường như là một điều bất khả, nếu nói về vị trí cao quý của Sáu vị đó.

12. Có thể, có các cấp bậc tương đối lớn và tương đối nhỏ dưới Đức Sanat Kumara và nhóm Sáu vị. Những người bây giờ bao gồm “nhóm nội môn xung quanh Đức Sanat Kumara” (một nhóm lớn hơn “nhóm Sáu vị” có thể được hiểu là đang lấp đầy các cấp bậc tương đối lớn ở Shamballa dưới nhóm Sáu vị. Các Ngài đến từ Dãy Nguyệt cầu. Những người thuộc nhân loại của Dãy Địa cầu đang tốt nghiệp có thể được hiểu là hoạt động thông qua các cấp bậc tương đối nhỏ ở Shamballa (và chủ yếu là các văn phòng đơn giản trong Hệ thống Thánh đoàn)

13. Do đó, chúng ta có:

Đức Sanat Kumara

Trưởng Hội đồng Bên trong ở Shamballa

Ba vị Phật Nội môn

Các thành viên chưa được tiết lộ của “nhóm Sáu vị”

Ba vị Phật Ngoại môn, Các vị Hoạt Phật

Cũng là thành viên của “nhóm Sáu vị” – được biết đến nhiều hơn là nhóm Ba vị nội môn.

Các điểm đạo đồ Dãy Nguyệt cầu

Hiện tại là “một phần của nhóm nội môn xung quanh Đức Sanat Kumara”, nhưng không phải là một phần của “nhóm Sáu vị”

Những điểm đạo đồ dãy Địa cầu

Dần dần lấp đầy các cấp bậc nhỏ (có thể) liên quan đến Shamballa, nhưng đặc biệt là trong các cấp bậc của Thánh đoàn

14. Có một ‘khu vực’ trong vùng phía trên của Thánh đoàn dường như chồng lấp với Shamballa. Có những Chân sư là thành viên của cả Thánh đoàn và Shamballa. Những vị điểm đạo đồ cao cấp nhất của nhân loại trong dãy Địa cầu của chúng ta có thể là những người tập trung bên trong khu vực này.

15. Chúng ta cũng được cho biết về những Đấng “đã đến trên một số dòng nhất định của năng lượng thái dương hệ, được xác định theo chiêm tinh, từ các hệ hành tinh khác”. Những Đấng này cũng là một phần của “nhóm nội môn xung quanh Đức Sanat Kumara”. Hàm ý là các Ngài cao cấp hơn nhiều so với những điểm đạo đồ dãy Địa cầu.

16. Chúng ta lưu ý thực tế rằng “nhóm nội môn trung tâm của Sáu vị” tạo thành “trái tim của nỗ lực Huyền Giai”. Phần lớn phụ thuộc vào cách từ “trái tim” được sử dụng. Thông thường, Đấng Christ được coi là “người đứng đầu” của Thánh đoàn Tinh thần, và chắc chắn là “trái tim” của nó. Ở đây tôi nghĩ rằng thuật ngữ “nỗ lực Huyền Giai” không chỉ đề cập đến Thánh đoàn Tinh thần của hành tinh chúng ta mà còn đề cập đến toàn bộ cấu trúc Huyền Giai mà hành tinh này được tổ chức, bao gồm tất cả các Huyền giai sáng tạo, cao hơn và thấp hơn nhân loại. Có vẻ như Đức Sanat Kumara và sáu Kumaras xung quanh Ngài là “trái tim” của toàn bộ quá trình phân cấp của hành tinh này. Shamballa là đỉnh cao nhất của mọi nỗ lực phân cấp trên hành tinh của chúng ta.

Hiệu Quả Trước Mắt

Kết quả sự giáng lâm của các Ngài, cách đây hàng nhiều triệu năm, thật là kỳ diệu, và các hiệu quả của việc đó vẫn còn đang được cảm nhận. Có thể kể ra các hiệu quả này như sau: — Đức Hành Tinh Thượng Đế trên cõi riêng của Ngài đã có thể dùng một phương pháp trực tiếp hơn nhằm tạo ra những kết quả mà Ngài muốn, để thực hiện kế hoạch của Ngài. Như được biết rõ, hệ hành tinh với bầu trọng trược và các bầu nội tàng (inner) tinh anh hơn của nó, đối với Hành Tinh Thượng Đế cũng giống như thể xác và các thể tinh anh hơn đối với con người.

Vì thế, có thể nói theo lối minh họa rằng, sự lâm phàm của Đức Sanat Kumara tương tự như sự nắm giữ chắc chắn sự kiểm soát tự thức (self-conscious) mà Chân Nhân của một người thể hiện trên các thể của y, khi đã đạt được một giai đoạn tiến hóa cần thiết. Người ta nói rằng bên trong đầu của mỗi người có bảy trung tâm lực, được liên kết với các bí huyệt khác trong cơ thể, và qua đó mà thần lực của Chân Nhân được truyền đi và luân chuyển, để thực hiện kế hoạch. Sanat Kumara, với sáu vị Kumaras kia, cũng giữ một vị thế tương tự. Nhóm trung ương gồm bảy Đấng này giống như bảy trung tâm trong đầu đối với toàn cơ thể. Các Ngài là các tác nhân chỉ đạo, và là các tác nhân truyền năng lượng, thần lực, chủ đích và ý chí của Hành Tinh Thượng Đế trên cõi riêng của Ngài.

Bí huyệt đầu này của hành tinh hoạt động trực tiếp qua các bí huyệt tim và cổ họng, và nhờ đó mà kiểm soát mọi bí huyệt còn lại. Đây là một cố gắng dùng minh họa để trình bày mối quan hệ [Trang 31] của Thánh Đoàn với nguồn cội hành tinh của nó, và cũng là sự tương đồng mức độ cao giữa phương pháp hoạt động của một vị Hành Tinh Thượng Đế và của con người, là tiểu vũ trụ.

1. Khi Chân sư Tây Tạng viết về những kết quả “kỳ diệu”, chúng ta phải cân nhắc cẩn thận từ đó, vì ý thức tỷ lệ của Ngài được điều chỉnh nhiều hơn so với chúng ta và Ngài không phóng đại.

2. Lưu ý việc sử dụng từ “sự giáng lâm”, thường được dành cho các cuộc thảo luận về sự ra đời của Chân sư Jesus. Những gì đang được thảo luận ở đây là một “sự giáng lâm” vĩ đại hơn nhiều trong các thuật ngữ hành tinh.

3. Chúng ta hiểu rằng sự xuất hiện của Đức Sanat Kumara và 104 Kumaras là một sự trao quyền cho Hành tinh Thượng đế, trao cho Ngài một phương pháp ảnh hưởng trực tiếp hơn đến sự tiến hóa của hành tinh trọng trược này, bầu Địa cầu của chúng ta. Trên thực tế, trong các phần khác của Giáo lý, chúng ta biết rằng Hành tinh Thượng đế đã trải qua một cuộc điểm đạo vào thời điểm đó.

4. Khi chúng ta nói về Hành tinh Thượng đế “trên cõi giới của chính Ngài”, chúng ta đang nói đến các cõi vũ trụ — có lẽ là cõi trí vũ trụ (cõi phụ thứ ba) nơi tập trung thể nguyên nhân của Hành tinh Thượng đế, hoặc thậm chí của cõi chân thần vũ trụ, trên đó tập trung vào Chân thần của Hành tinh Thượng đế.

5. Một phép tương đồng quen thuộc được đưa ra, giống như hệ thống trọng trược và tinh tế của hệ hành tinh với các thể khác nhau, tinh tế và đậm đặc, của một con người. Các dãy và các bầu khác nhau của hệ hành tinh giống như các vận cụ và luân xa khác nhau trong hệ thống năng lượng của con người. Trong hệ hành tinh của Ngài, Hành tinh Thượng đế được coi là Bản thể thực sự hay Chân thần.

6. Cụm từ “nắm chắc sự kiểm soát tự thức” được sử dụng để mô tả quá trình Đức Sanat Kumara và các Kumaras hỗ trợ của Ngài xuất hiện bên trong các cõi tương đối thấp hơn của hệ hành tinh chúng ta. Hành tinh Thượng đế (hoạt động như là Chân Ngã) đã đang đảm đương sự kiểm soát trực tiếp hơn và nhiều hơn đối với biểu hiện thấp hơn của Ngài.

7. “Trên sao dưới vậy”. Nếu Hành tinh Thượng đế (như Chân ngã) hoạt động theo cách tương tự như cách Chân ngã của con người hoặc Thái dương Thiên thần hoạt động liên quan đến phàm ngã của nó, thì có lẽ chúng ta đang được cho biết điều gì đó về tình trạng tiến hóa của Hành tinh Thượng đế của chúng ta.

8. Trong hệ thống phát triển tâm linh của con người, Chân ngã/Thái dương Thiên thần sẽ nắm chắc hơn (hoặc, ít nhất, tăng cường sự chú ý) khi cánh hoa thứ năm của thể nguyên nhân của con người đã mở ra đến một mức độ vừa đủ. Từ đó trở đi, Chân ngã giám sát chặt chẽ hơn sự phát triển phàm ngã của nó.

9. Có thể là Hành tinh Thượng đế của hành tinh không thánh thiện chúng ta, cũng đã đạt đến một điểm tương tự trong sự phát triển của Hoa sen Chân ngã chín/mười hai cánh của Ngài trên cõi trí vũ trụ?

10. Mặt khác, thuật ngữ “nắm chắc” dường như gợi ý một giai đoạn phát triển tiến hóa sau này hơn là giai đoạn khai mở cánh hoa thứ năm của Hoa sen Chân ngã của Hành tinh Thượng đế. Khi cánh hoa thứ năm khai mở trong một con người, Chân ngã sẽ đạt được sự nắm giữ ‘chắc hơn’, nhưng chưa phải là “nắm chắc”.

11. Có thể nói (đề cập đến quá trình điểm đạo của một con người) rằng ở lần điểm đạo đầu tiên đạt được một sự “nắm chắc” tương đối, và ở lần điểm đạo thứ ba thì sự “nắm chắc” thực sự phát triển.

12. Hai từ “nắm chắc” gợi ý đến hoạt động của hành tinh Vulcan — hành tinh của sự vững chắc và sự chăm chú vào việc “nắm chặt” hay “nắm chắc”. Vulcan tham gia vào cả lần điểm đạo thứ nhất và thứ ba của con người. Theo phép tương đồng, điều này ngụ ý rằng, bằng cách nào đó, năng lượng từ hành tinh đó đã tham gia vào quá trình giáng lâm của các Kumaras. Vulcan tham gia vào nhiều sự điểm đạo vĩ đại, và thậm chí ngày nay còn liên kết chặt chẽ với Shamballa thông qua Kim ngưu. Sự tiếp cận chính của nhân loại đối với Shamballa diễn ra tại Lễ hội Wesak khi Kim Ngưu (và do đó là Vulcan) mạnh mẽ.

13. Mặc dù có thể khá dễ dàng để suy ra trạng thái điểm đạo của Hành tinh Thượng đế chúng ta (nhiều điều được đưa ra theo những dòng thông tin đó trong nhiều cuốn sách khác nhau) nhưng không dễ để xác định các chi tiết của quá trình này.

14. Có lẽ, đó là đủ để chúng ta nhận ra rằng việc thành lập Shamballa/Thánh đoàn trên hành tinh chúng ta, trùng hợp với một cuộc điểm đạo quan trọng của Hành tinh Thượng đế và trên thực tế, có nghĩa là khả năng thực hiện các Kế hoạch của Ngài một cách trực tiếp hơn nhiều bên trong các phạm vi biểu hiện thấp hơn của Ngài.

15. Đoạn văn này của Chân sư Tây Tạng chứa đầy tính huyền bí. Điểm đạo Nhân loại và Thái dương hệ là cuốn sách đầu tiên được xuất bản cho công chúng, nhưng nó chứa đầy những thông tin huyền bí sâu sắc và không thể bỏ qua.

16. Sau đó, Chân sư Tây Tạng đề cập đến một chủ đề huyền bí nhất liên quan đến Quy Luật thứ Tám dành cho các Ứng viên điểm đạo:

Khi người đệ tử đến gần Cửa Điểm Đạo, Bảy cái chính yếu phải được thức động và mang lại sự đáp ứng từ bảy cái thứ yếu trên vòng kép”.

Bảy trung tâm bên trong đầu, như nó vốn là, là trung tâm chủ đạo, điều khiển bảy luân xa hoặc trung tâm chính mà chúng ta quen thuộc hơn.

17. Không có nhiều thông tin được biết một cách chính xác về bản chất và vị trí của bảy trung tâm đầu này. Chúng là bí truyền ngay cả với hầu hết các học viên của huyền bí học, mặc dù rõ ràng là không phải như thế đối với các Chân sư.

18. Trong đoạn này, chúng ta được cho biết rằng Bảy Kumaras chính tương tự như bảy trung tâm trong đầu. Cũng như các Kumaras này là những Đại diện Chỉ đạo toàn bộ cuộc sống hành tinh của chúng ta, vì vậy bảy trung tâm đầu trong con người chỉ đạo tất cả các trung tâm hoặc luân xa khác liên quan đến cuộc sống vi mô của con người.

19. Khi nói về bảy trung tâm đầu, chúng ta buộc phải nghĩ đến Bảy Rishis của chòm Great Bear, là Bảy Trung tâm Đầu trong một Bản thể rộng lớn không thể tưởng tượng được được gọi là “Đấng Không Thể Nghĩ Bàn”. Ngoài ra, chúng ta buộc phải nghĩ đến Vulcan (có lẽ là hành tinh chính của Ý chí) và điều đó dường như có mối liên hệ trực tiếp với các trung tâm đầu có tính điều khiển này, vì nó là hành tinh truyền năng lượng Ý chí của chòm Great Bear. Đây là những suy nghĩ khá huyền bí và không cần phải tìm hiểu quá kỹ lưỡng ở đây. Chúng được đề cập đến để cho thấy có bao nhiêu điều huyền bí được ngụ ý trong các trang của cuốn sách đầu tiên này của Chân sư Tây Tạng được đưa ra qua bà Alice Bailey.

20. Khi chức năng của bảy trung tâm đầu trong con người trở nên công truyền hơn, có khả năng là hoạt động của Bảy Kumaras (theo nghĩa hành tinh) cũng sẽ trở nên công truyền hơn. Tuy nhiên, sự tiết lộ này có thể còn lâu mới đến.

21. Khi trung tâm đầu như một tổng thể hoạt động như một đơn vị thống nhất, nó bao gồm chức năng của bảy trung tâm trong đầu. Có thể thấy một sự tương tự khi coi Shamballa có thể (giống như một trung tâm đầu hợp nhất) hoạt động như một đơn vị thống nhất, chỉ đạo tất cả các phần khác của sự sống hành tinh. Các Kumaras khác nhau đôi khi có thể hoạt động tương đối độc lập, nhưng một hành động tổng hợp trên một phần của Shamballa nói chung sẽ là một biểu hiện năng lượng chỉ đạo mạnh mẽ hơn nhiều so với hoạt động của bất kỳ Kumara cụ thể nào riêng biệt.

Giới thứ ba của thiên nhiên, là giới động vật, đã đạt đến một trình độ tiến hóa tương đối cao, và người thú đã chiếm hữu Trái đất; y là một sinh vật có một thể xác cường tráng, một thể cảm dục (hay thể cảm giác và xúc cảm) đã được điều hợp, và một mầm mống trí tuệ thô sơ mà một ngày kia có thể hình thành một hạt nhân của thể trí. Nếu để cho tự phát triển qua nhiều thời đại lâu dài, người thú cuối cùng cũng được tiến hóa ra khỏi giới động vật thành giới nhân loại, và sẽ trở thành một thực thể có lý trí, hoạt động, có ngã thức, nhưng tiến trình này có thể tỏ ra chậm chạp biết bao khi chúng ta nghiên cứu các thổ dân trong rừng ở Nam Phi, người Veddha ở Tích Lan và người Ainu nhiều lông lá ở Nhật.

1. Ở đây Chân sư Tây Tạng đang cung cấp cho chúng ta một phần thú vị về lịch sử căn chủng của hành tinh.

2. Tình trạng của người thú trước quá trình biệt ngã hóa được mô tả, và từ giải thích này, thực thể đó, về mặt vật lý, đã được coi là một mẫu vật hùng mạnh —chắc chắn là vậy khi so sánh với sức mạnh thể chất và tầm vóc của con người hiện đại.

3. Chúng ta biết rằng người thú này đã “sở hữu Trái đất”. Vì vậy, ngay cả trong những ngày sơ khai ấy, người-như-người thú đã là “Vua của tự nhiên”.

4. Điều quan trọng là phải tập trung vào “mầm mống thô sơ của thể trí” mà con người đã sở hữu. Mầm mống này có thể đã phát triển thành trí thông minh thực sự, tự ý thức, độc lập và không được trợ giúp. Nhưng sự hỗ trợ đã đến từ sự giáng xuống của các Thái dương Thiên thần và thông qua sự xuất hiện của các Kumaras khoảng ba triệu năm sau đó. Kết quả của hai quá trình quan trọng này đã là sự phát triển nhanh chóng của tâm thức và trí thông minh của con người, và cuối cùng là sản sinh ra con người hiện đại, thông minh.

5. Những thổ dân ở Nam Phi, Veddhas của vùng Sri Lanka (Ceylon), và loài Ainus lông lá là hậu duệ của những người thú mà trong họ tia lửa trí tuệ không được cấy vào, và là những người không được hưởng lợi trực tiếp từ sự xuất hiện của các “God-Kings” (như các Kumaras, các Đấng đã hóa thân thành những người được coi là các vị Vua). Để biết thêm thông tin hấp dẫn về những dòng giống này, hãy tham khảo Giáo lý Bí nhiệm của H.P.B.

6. Chúng ta có thể hiểu và đánh giá cao sự khác biệt lớn về trí thông minh và sự phát triển tồn tại giữa ba nhóm người nguyên thủy được đề cập ở đây và nhân loại thông minh hiện đại. Ngược lại, chúng ta có một lời nhắc nhở sống động về số phận của nhân loại nếu không có “sự can thiệp thiêng liêng” của các Thái dương Thiên thần và các Kumaras.

Việc Đức Hành Tinh Thượng Đế quyết định khoác lấy một hiện thể hồng trần đã tạo nên một sức kích thích phi thường trong diễn trình tiến hóa, và bằng sự lâm phàm của Ngài và các phương pháp phân phối thần lực mà Ngài sử dụng, Ngài đã mang lại, trong một chu kỳ thời gian ngắn ngủi, những điều mà nếu làm khác đi thì hẳn đã chậm chạp không tưởng nỗi. Mầm mống trí tuệ trong người thú đã được kích thích. Con người hạ đẳng có bốn thành phần:

a. Thể xác trong hai khả năng của nó, là thể dĩ thái và thể trọng trược,

b. Sinh khí, sinh lực, hay prana,

c. Thể cảm dục hay tình cảm,

d. Mầm mống trí tuệ phôi thai,

đã được phối kết, được kích thích, và trở thành một vật chứa đựng thích hợp cho các thực thể có ngã thức giáng nhập, là các Tam Thượng Thể tinh thần (là phản ánh của ý chí tinh thần, trực giác hay minh triết, và thượng trí ) từ lâu đã đang chờ đợi một cơ hội thích hợp như thế. Như vậy, giới thứ tư hay giới nhân loại đã [Trang 32] ra đời, và đơn vị, hay con người, có ngã thức hay có lý trí, đã bắt đầu sự nghiệp của y.

1. Chân sư D.K. nói về “một sự kích thích bất thường” xảy ra khi Hành tinh Thượng đế quyết định sử dụng một vận cụ vật lý. Trước đó, Ngài đã nói về một sự kiện “kỳ diệu”. Chúng ta có thể bắt đầu hiểu sự can thiệp này có ý nghĩa quan trọng như thế nào không chỉ đối với nhân loại mà còn đối với toàn bộ hành tinh.

2. Chúng ta không biết gì về các phương pháp phân phối thần lực được Hành tinh Thượng đế sử dụng, nhưng chắc chắn là các Chân sư biết, và ở vị trí để đánh giá sự khác biệt mà các phương pháp đó tạo ra đối với tốc độ tiến hóa của nhân loại, và do đó là quá trình tiến hóa của hành tinh.

3. Ý chúng ta thực sự muốn nói gì khi đề cập đến “sự lâm phàm” của Hành tinh Thượng đế? Chắc chắn sự thật đơn thuần về sự tồn tại của một hệ hành tinh với nhiều dãy, nhiều bầu khác nhau và thậm chí một bầu vật lý có nghĩa là Hành tinh Thượng đế đã ở trong lần lâm phàm (từ thời điểm bầu đó được tạo ra). Các dãy và bầu khác nhau là những vận cụ khác nhau của hóa thân của Ngài, cũng như thể trí, cảm dục, dĩ thái và thể xác là những vận cụ hóa thân của một thực thể con người đang nhập thế.

4. Khi thuật ngữ đó được sử dụng ở đây, “sự lâm phàm” có thể được hiểu theo nghĩa là một sự tập trung cụ thể hơn của Hành tinh Thượng đế với sự chú ý của Ngài vào các bầu/phạm vi thấp hơn của biểu hiện hành tinh. “Sự lâm phàm” trở thành một thuật ngữ chỉ mối liên hệ chặt chẽ hơn giữa các chiều cao và các chiều sâu của Đấng Hành tinh Thượng đế.

5. Bởi vậy, “sự lâm phàm” có nghĩa là một dạng hiện diện khác và sâu sắc hơn. Hành tinh Thượng đế, mặc dù luôn hiện diện dưới dạng “Đấng Hiện diện” Hành tinh, vẫn hiện diện nhiều hơn do việc thực hiện cái mà ở đây mô tả là “sự lâm phàm”. Ngài hiện diện cụ thể qua Sanat Kumara thì hơn là Ngài ở trạng thái trừu tượng và không có một vận cụ biểu hiện như Sanat Kumara (và các Kumara khác) đại diện.

6. Chân sư Tây Tạng nói về thành tựu của Hành tinh Thượng đế, đã mang lại trong một “chu kỳ thời gian ngắn” một quá trình phát triển mà nếu không như thế thì sẽ “chậm không thể tưởng tượng nổi”. Hãy suy ngẫm về việc nó chậm thế nào. Chắc chắn, bạn và tôi sẽ không suy nghĩ về những vấn đề bí truyền và triết học vào thời điểm này nếu không xảy ra sự can thiệp trước đó.

7. Nhưng theo một cách khác, đoạn này mô tả quá trình biệt ngã hóa. Các vận cụ thấp hơn của người thú được điều phối dưới áp lực khởi xướng của Hành tinh Thượng đế. Những vận cụ này đã trở thành “chỗ chứa phù hợp” cho sự xuất hiện của các thực thể tự ý thức được gọi là “các tam nguyên tinh thần”.

8. Chúng ta có thể dừng lại tại điểm này để nhận ra rằng “chúng ta” (như chúng ta cơ bản là) các tam nguyên tinh thần (cũng như các tam nguyên này là một sự phát xạ của các chân thần).

9. Như thể một phần nào đó của chúng ta (phần tinh thần) đã ‘chờ đợi’ một phần khác của mình (phần vật chất — sống và hoạt động trong ba giới thấp) phát triển, để ‘chúng ta’ có thể ‘đến cùng nhau’ — hợp nhất tất cả các phần của chúng ta.

10. Ngụ ý là chúng ta đã, với tư cách là các tam nguyên tinh thần, “tự ý thức”, nhưng với điều đó chúng ta chưa đạt được sự tự ý thức (một kiểu hạn chế hơn) trong các giới thấp hơn (nơi chúng ta cũng đang và đồng thời hoạt động). Sự tự ý thức của một tam nguyên tinh thần và sự tự ý thức đang phát triển/mở rộng của một người đang phát triển về bản chất khá khác nhau, mặc dù cả hai đều là một dạng của sự tự ý thức. (Để hiểu mọi thứ thực sự hoạt động như thế nào chúng ta phải đọc kỹ giáo lý Chân sư Tây Tạng).

11. Biệt ngã hóa là thời điểm của lịch sử hành tinh mà lúc đó các Thái dương Thiên thần can thiệp vào các vấn đề của người thú. Các Ngài trở thành cầu nối như là phương tiện để các tam bộ cao hơn có thể hợp nhất với tứ hạ thể. Do đó, theo một cách nào đó, các Ngài tượng trưng cho số tám, là số của nguyên khí Christ hợp nhất. Một tam bộ, cộng với một tứ bộ, cộng với một Thái dương Thiên thần, tổng cộng là tám.

12. Một số người có thể nói rằng bản thân các Thái dương Thiên thần thực sự là các tam nguyên tinh thần, nhưng tôi không nghĩ rằng họ tương đương nhau. Các Thái dương Thiên thần là những thực thể phát triển cao, trở về từ “Niết bàn” đã đạt được trước đó. Các Thái dương Thiên thần (cũng giống như con người chúng ta) là chân thần với các tam nguyên tinh thần. Chính kỹ năng và sự hiểu biết vĩ đại của các Ngài (dựa trên nhiều niên kỷ kinh nghiệm) đã cho phép các Ngài tạo cầu nối cho hai khía cạnh bản chất của con người — người thú và tam nguyên tinh thần/chân thần.

13. Tuy nhiên, một chút suy nghĩ về vấn đề này cho thấy rằng các Thái dương Thiên thần hẳn có mối quan hệ xác định nào đó với tam nguyên tinh thần của con người. Các chi tiết của mối quan hệ này (tôi nghi ngờ là vượt xa sự hiểu biết của nhân loại) không được thảo luận trong Giáo lý.

Một kết quả khác nhờ sự giáng lâm của Thánh Đoàn là một sự phát triển tương tự, dù ít được nhận biết, trong tất cả các giới của thiên nhiên. Ví dụ như trong giới khoáng thạch, một số khoáng chất hay nguyên tố đã nhận được một sự kích thích nhiều hơn, và trở nên có tính phóng xạ, và một sự biến đổi hóa học bí nhiệm đã diễn ra trong giới thực vật. Điều này đã tạo điều kiện dễ dàng cho tiến trình nối kết giữa các giới thực vật và động vật, cũng như tính phóng xạ của các khoáng

chất là phương pháp bắc cầu giữa các giới khoáng thạch và thực vật.

Khi đến lúc, các nhà khoa học sẽ đi đến mức thừa nhận rằng mỗi giới của thiên nhiên đều được liên kết và được nhập vào khi các đơn vị của giới đó trở nên có tính phóng xạ. Tuy nhiên, chúng ta không cần phải đi lạc theo những đường

lối này. Một gợi ý cũng đủ cho những người có mắt thấy được, và có trực giác để hiểu được ý nghĩa được truyền đạt, bởi những thuật ngữ vốn bị hạn chế do chúng chỉ có một ngụ ý thuần vật chất.

1. Chúng ta đang dần hiểu rằng việc tạo ra nhân loại thông qua việc biệt ngã hóa người thú, sau đó là sự ra đời của Thánh đoàn, trên thực tế, là một sự kiện hành tinh, ảnh hưởng đến nhiều giới tự nhiên hơn là giới nhân loại mới xuất hiện.

2. Tất cả các giới đều nhận được sự kích thích và được nâng lên gần hơn sự chuyển đổi thành—những gì đang dành cho chúng giới tiếp theo và đang chờ đợi — giới khoáng vật hướng tới giới thực vật, giới thực vật hướng tới giới động vật, và giới động vật (tất nhiên) hướng về phía nhân loại (chủ đề chính của chương này).

3. Đôi khi ta bàn cãi rằng khi Chân sư D.K. thảo luận về “sự phóng xạ”, liệu Ngài có định nghĩa “phóng xạ” như thuật ngữ này vốn được hiểu bởi các nhà khoa học hiện đại hay không. Có thể không phải là Ngài đang thảo luận về cái có thể được gọi là bản chất (noumenon) của phóng xạ mà khoa học ngày nay quen thuộc hơn là một trường hợp đặc biệt?

4. Chỉ có thể trong nhiều thế kỷ tới, khoa học hiện đại của chúng ta mới có thể phát triển đến mức độ đó, và rồi rất nhiều bí ẩn trong số này sẽ được giải đáp. Có các bộ phận của Thánh đoàn đặc biệt tập trung vào việc làm sáng tỏ những thay đổi và phát triển quan trọng trong các giới thấp hơn. Chúng ta sẽ phải chờ đợi sự tiết lộ của các Ngài.

5. Vì các mục đích thực tế, con người chúng ta có thể thấy sự phát triển của cái gọi là “tính phóng xạ” của chính chúng ta, bằng cách tuân theo “các quy luật của những gì phát xạ” — cụ thể là chân thần (c.f., Quy tắc XIII cho Ứng viên trong IHS). Chúng ta càng bỏ lại tâm thức cá nhân nghiêm ngặt và nuôi dưỡng tâm thức nhóm; chúng ta càng học cách vượt lên trên cả tâm thức nhóm để phát triển “tâm thức Thượng đế” (hay Tính duy nhất); chúng ta càng trở nên có “tính phóng xạ”, và càng thích hợp để chuyển sang giới tự nhiên thứ năm, Giới Linh hồn.

Vào thời Lemuria (3), sau sự giáng lâm vĩ đại của các Thực Thể tinh thần xuống thế gian, công việc mà các Ngài đã trù định thực hiện đã được hệ thống hóa. Các chức vụ được phân bổ, và các diễn trình tiến hóa trong mọi bộ phận của thiên nhiên đều được đặt dưới sự hướng dẫn khôn ngoan, hữu thức của Huynh Đệ Đoàn nguyên thủy này. Huyền Giai của các Huynh đệ Ánh sáng này vẫn còn tồn tại, và công việc vẫn tiếp diễn đều đặn. Tất cả các Ngài đều hiện diện trên cõi

hồng trần, hoặc là trong các thể xác trọng trược, như nhiều vị Chân Sư sử dụng, hoặc trong các thể dĩ thái, như các vị phù trợ cao cả hơn và đức Chúa Tể Thế Gian đang dùng. Thật có giá trị cho con người khi nhớ rằng các Ngài đang hiện diện ở cõi trần, và tâm niệm rằng các Ngài đang sống với chúng ta trên hành tinh này, kiểm soát các vận mệnh của nó, hướng dẫn các công việc của nó, và đưa các trường tiến hóa của nó tiếp tục tiến đến một sự hoàn thiện tối hậu. [33]

1. Ba năng lượng chính được biểu lộ bởi Shamballa là sự thanh lọc, hủy diệt và tổ chức.

2. Ở đây, Chân sư D.K., nhấn mạnh đến sự tổ chức. “Huynh Đệ Đoàn nguyên thủy” nắm trong tay một nhiệm vụ to lớn — việc khai hóa người thú mới thành người. Ngoài ra, Huynh Đệ Đoàn là cần thiết để hướng đến sự tiến hóa của các giới tự nhiên khác (chúng không bao giờ bị Chính phủ Trung ương của hành tinh bỏ mặc).

3. Chân sư D.K. nhắc nhiều về tính liên tục của Huynh Đệ Đoàn qua nhiều thời đại, và chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra rằng Huynh Đệ Đoàn thường hiện diện trong thể vật lý (khi Thánh đoàn giám sát về mặt vật lý) — nghĩa là, mặt vật lý bao gồm sự tồn tại của các cõi dĩ thái.

4. Lưu ý rằng trong đoạn văn này, Thánh đoàn Tinh thần được gọi là “Thánh đoàn của Ánh sáng”, và thực sự thì ánh sáng (hơn là tình thương) là nhu cầu chính trong giai đoạn giữa của thời Lemuria.

5. Tại sao lại hữu ích khi con người ghi nhớ rằng các thành viên của Huynh Đệ Đoàn (dù ở trong Thánh đoàn hay trong Shamballa) “đang tồn tại về mặt vật lý…” và “tồn tại trên hành tinh này cùng chúng ta, kiểm soát số phận của nó, hướng dẫn công việc của nó, và dẫn dắt tất cả các diễn biến của nó đến một sự hoàn hảo cuối cùng”?

6. Có lẽ, điều quan trọng là chúng ta không nên nghĩ về các vị Chân sư và Chohans là những gì trừu tượng mà thay vào đó, là những điều ngay ở đây. Việc nghĩ về Các Ngài như sự hiện hữu ngay ở đây có ảnh hưởng đến hành vi bên trong và bên ngoài của chúng ta, và khiến chúng ta có trách nhiệm hơn để sống theo các tiêu chuẩn cao nhất của chúng ta. Sự hiện diện ngay ở đây của Các Ngài là một kích thích mạnh mẽ đối với sự tiến hóa của nhân loại và hành tinh.

7. Nhân loại ngày nay phải gánh chịu rất nhiều từ sự thiếu hiểu biết và không tin tưởng vào Thánh đoàn Tinh thần và Sự sống Shambala. Nếu những Bản thể này được coi là vừa có thật vừa hiện diện ngay ở đây, thì toàn bộ thái độ của nhân loại sẽ thay đổi và sự tiến hóa của loài người sẽ đạt được những bước tiến dài.

[Trang 33] Tổng hành dinh của Thánh Đoàn này ở tại Shamballa, một trung tâm trong sa mạc Gobi, mà các cổ thư gọi là “Bạch Đảo”. [Lục địa mà một số người cho là đã có nền văn minh rất xa xưa, và hiện bị Ấn Độ Dương bao phủ (Tự điển Webster) -ND]. Trung tâm này hiện hữu trong chất dĩ thái, và khi nhân loại trên địa cầu đã phát triển được nhãn thông dĩ thái thì người ta sẽ nhận ra vị trí của trung tâm này, và thừa nhận tính xác thực của nó. Nhãn quan này đang được phát triển nhanh chóng, như chúng ta có thể thấy qua báo chí và các sách vở hiện nay, tuy nhiên, vị trí của Shamballa sẽ là một trong những thánh địa dĩ thái được hiển lộ sau cùng, vì nó tồn tại trong chất dĩ thái thứ nhì. Nhiều vị Chân Sư mang xác phàm ở trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, ở một nơi ẩn dật được gọi là Shigatse, cách xa những nơi sinh hoạt của con người, nhưng phần đông các Ngài ở rải rác trên khắp thế giới, ở nhiều nơi khác nhau trong các quốc gia khác nhau, ẩn danh và không ai nhận biết, dù vậy, ở những nơi này, mỗi Vị tạo thành một tiêu điểm cho năng lượng của Đức Chúa Tể Thế Gian, và tỏa chiếu chung quanh Ngài nguồn bác ái và minh triết của Thượng Đế.

1. Chân sư D.K. viết rất cụ thể về thực tế và thậm chí là ‘vị trí’ của Shamballa. Truyền thống cổ xưa chứng thực sự tồn tại của Shamballa và đặt tên cho nó là “Bạch Đảo”. Chân sư khẳng định rằng tính thực tế của nó sẽ được công nhận khi nhãn thông dĩ thái được phát triển.

2. Đôi khi người ta còn tranh cãi về việc liệu Shamballa có ‘nằm’ trong các dĩ thái hệ thống hay dĩ thái vũ trụ (các cõi thượng đế, chân thần, niết bàn và bồ đề trong thái dương hệ của chúng ta) không. Có lẽ câu trả lời chính xác là “cả hai”. Con người đang ở điểm phát triển “nhãn quan dĩ thái”, nhưng không phải ở điểm phát triển nhãn quan dĩ thái vũ trụ. Bên cạnh đó, các cõi dĩ thái vũ trụ (trong đó cõi bồ đề là thấp nhất) là các cõi không có vị trí, có mặt ở khắp mọi nơi, hiện diện phong phú đa dạng. Vì vậy, khi chúng ta nói về vị trí, chúng ta phải nói đến các dĩ thái vật lý. Những năng lượng vĩ đại có mặt khắp nơi nên có những điểm cụ thể cho việc biểu lộ vị trí trên các cõi thấp hơn – không phải là một suy nghĩ phi lý.

3. Trong khi nhãn quan dĩ thái đang nhanh chóng xuất hiện, nó liên quan đến tầm nhìn của các trạng thái năng lượng xảy ra trên cõi dĩ thái thứ tư và thứ ba (dĩ thái công truyền). Dĩ thái thứ hai và thứ nhất vẫn là bí truyền, và Shamballa (như một địa điểm) được tập trung vào cõi dĩ thái thứ hai, và do đó, sẽ vẫn còn là bí truyền trong một thời gian nữa.

4. Việc trọng tâm của nó phải là cõi dĩ thái thứ hai là quan trọng, vì chân thần (từng là ‘cư dân’ của Shamballa) được tập trung vào cõi hệ thống thứ hai, cõi chân thần.

5. Tuy nhiên, theo một nghĩa sâu hơn, chúng ta không được quên rằng trọng tâm cao hơn của Đức Sanat Kumara (ít nhất là trong mối quan hệ với cõi vật lý vũ trụ) nằm trên cõi Thượng Đế của thái dương hệ của chúng ta. Ngay cả Đức Christ cũng bắt đầu tập trung vào đó.

6. Việc nắm được độ cao và độ sâu của biểu hiện của Shamballa là quan trọng. Theo một cách nào đó, Shamballa, là Một, là Tất cả.

7. Địa điểm thực tế (nơi ở) của các Chân sư đã được thảo luận. Chúng ta được cho biết, một số các Ngài đang sống ở Shigatse. Có thể, kể từ khi Trung Quốc xâm lược Tây Tạng, các Ngài không còn ở đó nữa (ít nhất về mặt vật lý). Shigatse không còn là một nơi biệt lập nữa và đã thay đổi hoàn toàn kể từ khi cuốn sách này được xuất bản vào năm 1922.

8. Tuy nhiên, điểm chính là nhiều Chân sư có cơ thể vật lý (dù được sinh ra theo cách bình thường, hay “được tạo ra từ ý chí” thông qua quyền năng Kriyashakti). Nơi ở của các Ngài thường không được biết đến nhiều, vì các Ngài không thể tiến hành công việc của mình một cách liên tục. Những người cần tìm đường đến với sự hiện diện vật lý của một vị Chân sư sẽ tìm được đường. Điều này sẽ ngày càng gia tăng khi sự Hiển lộ của Thánh đoàn tập hợp được đủ động lực.

9. Chúng ta có thể hiểu rằng khi một Chân sư Minh triết có một cơ thể vật lý, thì Thánh đoàn, theo một cách nhỏ bé nào đó, đã được hiển lộ. Toàn bộ quá trình ngoại hiện là về sự xuất hiện ở trên và thông qua cõi hồng trần của các sự sống (và các kiểu mẫu) mà tập trung ở các thế giới bên trong.

10. Hãy lưu ý rằng mỗi Chân sư (bất kể Cung của Ngài) đều là Đấng phân phối “bác ái – minh triết”, phẩm chất thiết yếu của Thánh đoàn của Ánh sáng và Tình Thương.

Việc Mở Ra Cửa Điểm Đạo

Bàn về lịch sử của Thánh Đoàn qua những thời kỳ hoạt động lâu dài của các Ngài, chúng ta không thể làm gì hơn là đề cập đến một số biến cố nổi bật của quá khứ và nêu lên một số kết quả. Nhiều thời đại ngay sau khi Thánh Đoàn được thành lập, công việc thật chậm chạp, và gây nản lòng. Nhiều ngàn năm đến rồi đi, và các giống dân xuất hiện và biến mất khỏi địa cầu, trước khi có thể giao phó ngay cả loại công việc được thực hiện bởi các điểm đạo đồ cấp một cho những người con của nhân loại đang tiến hóa. Nhưng vào giữa căn chủng thứ tư, là giống dân Atlantis, một biến cố đã xảy ra đòi hỏi một sự thay đổi, hay sự cách tân trong phương pháp của Thánh Đoàn. Một số thành viên của Thánh Đoàn đã được gọi đi đến công tác cao hơn ở một nơi khác trong thái dương hệ, và điều này, do [34] cần thiết, đã đưa vào Thánh Đoàn một số người tiến hóa cao của gia đình nhân loại. Để cho người khác có thể nhận địa vị của các Ngài, tất cả các thành viên cấp thấp của Thánh Đoàn đều được nâng lên một cấp, để tạo chỗ trống cho các chức vụ thứ yếu. Vì thế, đã có ba điều đã được quyết định trong Phòng Hội đồng của Đức Chúa Tể Thế Gian.

1. Mặc dù trong một cuốn sách giới thiệu như Điểm đạo, Nhân loại và Thái dương hệ, không thể bàn đến lịch sử của Thánh đoàn trong suốt thời gian dài tồn tại trên Trái Đất, nhưng lịch sử đó có tồn tại, và một ngày nào đó sẽ tạo thành một nghiên cứu hấp dẫn và quan trọng .

2. Các thành viên của Thánh đoàn là những Đấng vĩ đại làm việc vất vả. Thật vậy, các Ngài “vất vả trong Song Ngư” trong sứ mệnh cứu chuộc. Điều thú vị là Chân sư D.K. sử dụng từ “gây nản lòng” để mô tả các kết quả của những nỗ lực ban đầu của Thánh đoàn. Rõ ràng nhân loại/người thú của thời kỳ đó rất chống lại việc vun bồi— đó là bản chất của vật chất cấu tạo nên các vận cụ của y. Thánh đoàn đã có những hy vọng và lý tưởng nhất định, nhưng rõ ràng những điều này đã không đạt được nhanh chóng như các Ngài đã dự đoán.

3. Để giúp người nguyên thủy đạt được ngay cả cấp độ điểm đạo đầu tiên phải là một nỗ lực của Hercules. Điều này phải đòi hỏi không chỉ hàng nghìn năm mà hàng triệu năm. Chúng ta chỉ có thể kinh ngạc trước sự kiên nhẫn yêu thương của Thánh đoàn Tinh thần.

4. Ở đây, Chân sư D.K. cung cấp một đoạn thú vị không chỉ về lịch sử hành tinh, mà còn về lịch sử thái dương hệ. Vào giữa căn chủng chính Atlantean, một số thành viên của Thánh đoàn sau đó đã được gọi đi làm công việc cao hơn ở những nơi khác trong thái dương hệ. Đây là cơ hội được ban cho những Người Con nhân loại đang tiến hóa, đặt họ dưới áp lực. Sao Thổ là vị “Thần của Cơ hội” cũng là vị “Thần của áp lực”.

5. Có vẻ như những con người phát triển cao từ dãy Nguyệt cầu cũng được đưa đến vào thời điểm này (dưới xung lực thu hút của Đấng Mahachohan). Chính những cá nhân này đã lấp đầy những chỗ trống được tạo ra trong mọi hàng ngũ và hồ sơ của Thánh đoàn bởi các lệnh triệu tập ngoài hành tinh.

6. Chúng ta đã được cho biết rằng nhiều đơn vị nhân loại phát triển cao từ dãy Nguyệt cầu chưa từng phải đi qua căn chủng Lemurian, thay vào đó họ đi vào dãy Địa cầu để tiếp tục quá trình tiến hóa của họ tại một thời điểm trong căn chủng Atlantean. Từ những gì được nói ở đây, chúng ta có thể thấy rằng một số nhân loại tiên tiến hơn thuộc dãy Nguyệt cầu này đã được đưa đến là vì cần thiết.

7. Một vấn đề đáng quan tâm: một số sự kiện quan trọng nhất trên Trái đất không phải xuất phát từ bên trong phạm vi hành tinh của chúng ta, mà có nguyên nhân hoàn toàn đến từ bên ngoài nó. Trong trường hợp này, một yêu cầu thuộc thái dương hệ đã ảnh hưởng đến sự phát triển của nhiều hình thức sự sống trên hành tinh của chúng ta, tạo cơ hội cho sự tiến hóa của giới nhân loại.

8. Dựa trên các yêu cầu mang tính hệ thống của thái dương hệ, một số quyết định nhất định đã được đưa ra trong Shamballa. Những quyết định này đã có những tác động sâu rộng đến tận ngày nay.

1. Đóng cánh cửa mà người thú vượt qua để vào giới nhân loại, trong một thời gian không cho phép có thêm Chân Thần trên cõi cao có được các hạ thể. Điều này giới hạn số lượng của giới thứ tư hay nhân loại, ở mức giới hạn lúc đó của nó.

1. Nhiều người chủ sở hữu những loài vật nuôi thông minh có thể nghĩ rằng vật nuôi của họ “gần giống như con người” (và theo một cách nào đó thì điều này có thể đúng), nhưng hiện tại (và thực sự là từ hàng triệu năm trước) “cánh cửa” vào giới nhân loại đã bị đóng, và vẫn sẽ như vậy trong hàng triệu năm tới.

2. Hàm ý rằng, vào giai đoạn giữa thời kỳ Atlantean đó, có sáu mươi tỷ chân thần nhân loại, giống như ngày nay, vì con số đã ‘đóng băng’ theo quyết định của Shamballa.

3. Lưu ý rằng trong quá trình biệt ngã hóa, mỗi chân thần chiếm một cơ thể ở các cõi thấp hơn. Các chân thần là những ‘người chơi’ tích cực trong quá trình biệt ngã hóa và họ thực hiện ý định của mình với sự hỗ trợ của các Đấng Thái dương Thiên thần.

2. Mở ra một cánh cửa khác, và cho phép các thành viên của gia đình nhân loại, những ai tự nguyện tuân thủ giới luật cần thiết, và thực hiện sự nỗ lực kỳ diệu cần có, để nhập vào giới thứ năm hay giới tinh thần. Bằng cách này, các hàng ngũ của Thánh Đoàn có thể được lấp đầy bởi những thành viên nào của nhân loại thuộc địa cầu có đủ điều kiện. Cửa này được gọi là Cửa Điểm Đạo, và vẫn còn mở ra theo các điều kiện như Đức Chúa Tể Thế Gian đã ấn định vào thời Atlantis. Các điều kiện đó sẽ được đưa ra trong chương cuối cùng của sách này. Cánh cửa giữa giới nhân loại và giới động vật sẽ lại được mở ra trong đại chu kỳ tới, hay một số sách khác gọi là “Vòng tuần hoàn” (“round”), nhưng vì điều này còn phải đợi đến nhiều triệu năm nữa, nên chúng ta khỏi phải bận tâm.

1. Nếu một cánh cửa đã đóng, một cánh cửa khác lại được mở ra. Nhân loại trong dãy Địa cầu hoàn toàn không hề tiến bộ như những điểm đạo đồ của dãy Nguyệt cầu, những người đã bước vào thời kì Atlantean. Cần phải có một cách thức đào tạo nhanh chóng; chương trình điểm đạo là cách thức này.

2. Một lần nữa, Chân sư D.K. sử dụng các từ “kì diệu”, điều này sẽ khiến chúng ta tạm dừng lại. Nhiều người trong chúng ta vẫn đang chuyển tiếp vào giới tự nhiên thứ năm và chưa phải là các thành viên hoàn toàn trong đó. Có lẽ chúng ta đã tham gia vào nỗ lực kì diệu này một thời gian, nhưng vẫn còn nhiều nỗ lực lớn hơn phải làm.

3. Chúng ta lưu ý ở đây có đề cập đến “các điều kiện được đặt ra bởi Chúa tể Hoàn Cầu trong thời kỳ Atlantean” cho tất cả những ai sẽ đi qua Cổng Điểm đạo. Về mặt này, cần phải nói rằng những người sẽ vào Cổng đó không làm như vậy bằng cách thực hiện theo cách của riêng họ, mà chỉ khi họ thực hiện các điều kiện được đặt ra bởi những người có thẩm quyền.

4. Đề cập đến chu kỳ tiếp theo của “vòng tuần hoàn” — vòng thứ năm. Có nhiều lý thuyết liên quan đến các vòng tuần hoàn như vậy, nhưng trong bản phân tích ngay trước đó, hầu hết chúng được lý thuyết hóa bởi các sinh viên bí truyền hơn là được thấu hiểu.

5. Trong đoạn này, chúng ta biết rằng vòng tuần hoàn tiếp theo là “vài triệu năm nữa”. Từ “vài” có lẽ cố tình để cho mơ hồ, nhưng chắc chắn có nghĩa là dưới mười, và có lẽ giống như bốn, năm hoặc sáu. Khi chúng ta suy nghĩ về sự bắt đầu sắp xảy ra của vòng tuần hoàn thứ năm, nhiều câu hỏi có thể nảy sinh. Vài triệu năm có vẻ là một khoảng thời gian rất ngắn, đặc biệt là vì cả hai căn chủng thứ sáu và thứ bảy đều phải chạy theo lộ trình của chúng (và căn chủng thứ năm được hoàn thiện) trước khi vòng tuần hoàn thứ năm bắt đầu. Ngoài ra, có rất ít thời gian cho phép những gì H.P.B. đã mô tả như một “pralaya” cần thiết giữa các vòng tuần hoàn.

6. Những chu trình được gọi là “vòng tuần hoàn” này có thực sự hoạt động theo cách khá tuyến tính như được mô tả bởi các nhà Thông Thiên Học thời kỳ đầu không? Nếu vậy, việc ám chỉ của Chân sư Tây Tạng về chỉ vài triệu năm trước khi bắt đầu vòng tuần hoàn thứ năm sẽ rất khó giải thích.

7. Tuy nhiên, một điều được đề xuất mạnh mẽ — là các căn chủng gốc sau này tồn tại trong thời gian ngắn hơn đáng kể so với các căn chủng gốc trước đó. Nếu căn chủng gốc Lemurian tồn tại khoảng mười lăm hoặc mười sáu triệu năm, người Atlantean khoảng mười hai đến mười triệu năm, và căn chủng Aryan (cho đến nay) khoảng một triệu năm, người ta có thể thấy các vòng xoắn ốc được thắt chặt đáng kể. (Chúng ta phải lưu ý về các giai đoạn căn chủng gốc chồng lấp lên nhau). Hàm ý là các căn chủng gốc Adamic {căn chủng đầu tiên} và Hyperborean {thứ hai} đã tồn tại lâu hơn nhiều so với căn chủng Lemurian.

8. Sự tiến bộ tinh thần của cá nhân con người cũng phản ánh vòng xoắn đang được thắt chặt này; những phát triển tinh thần cuối cùng và cao trào mà chúng ta gọi là điểm đạo diễn ra với tốc độ nhanh chóng khi so sánh với giai đoạn kéo dài của quá trình tiến hóa ban đầu của loài người.

9. Một ngụ ý khác mà chúng ta có thể tập hợp một cách hợp lý, đó là chúng ta sắp kết thúc vòng tuần hoàn thứ tư (ít nhất là khi ta vẫn xét về bầu Địa cầu). Vòng tuần hoàn có thể (như các nhà Thông Thiên Học gợi ý) tiếp tục tiến trình của nó trên các bầu thứ năm, sáu và bảy — tất cả đều vi tế — nhưng khoảng thời gian của nó trên bầu của chúng ta (bầu 4) không thể kéo dài (ít nhất là không theo kiểu Thông Thiên Học thông thường) .

3. Cũng có quyết định làm cho đường ranh giới giữa hai thế lực vật chất và tinh thần được phân định rõ ràng, tính nhị nguyên cố hữu của toàn cuộc biểu lộ đã được chú trọng, nhằm mục tiêu trước mắt là để dạy cho những người nào muốn tự giải thoát họ ra khỏi các giới hạn của giới thứ tư, hay giới nhân loại, và như thế chuyển sang giới thứ năm hay giới tinh thần. Vấn đề thiện hay ác, ánh sáng hay bóng tối, đúng hay sai, đã được phát biểu rõ ràng chỉ vì lợi ích của nhân loại, và để giúp con người có thể dẹp bỏ được các chướng ngại giam hãm [Trang 35] tinh thần, và nhờ đó đạt được sự tự do tinh thần. Vấn đề này không có trong các giới dưới nhân loại, cũng không có đối với các bậc siêu nhân. Con người phải học qua kinh nghiệm và đau khổ sự thật về tính nhị nguyên của toàn thể cuộc hiện tồn. Khi đã học như thế, y bèn chọn những gì liên quan đến trạng thái tinh thần hữu thức viên mãn của thiên tính, và học cách tập trung chính y vào trạng thái này. Khi đã đạt được sự giải thoát như thế, y thực sự nhận ra rằng vạn vật là một, rằng vật chất và tinh thần là một thể thống nhất, không có gì tồn tại ngoại trừ những gì được tìm thấy bên trong tâm thức của Hành Tinh Thượng Đế, và – ở những chu kỳ rộng lớn hơn – trong tâm thức của Thái Dương Thượng Đế.

1. Quyết định thứ ba có ý nghĩa to lớn đối với ‘những môn sinh tốt nghiệp trường học Trái đất’. Những người tốt nghiệp như vậy được gọi là “những người phân xử giữa các cặp đối lập”. (TCF 1178)

2. Con người thời kỳ đầu hoang mang về “đúng và sai”, về bản chất thực sự của tinh thần và vật chất. Khả năng phân biện một cách đúng đắn thì đơn giản không phải là một phần phát triển trong vận cụ của y.

3. Sự rõ ràng về “ranh giới phân định” giữa tinh thần và vật chất, giữa thiện và ác, mang đến cho nó khả năng hành động chính xác, và khả năng bước chân lên một con đường có định hướng, dẫn đến cực này hay cực khác.

4. Chúng ta có thể nhìn thấy hành tinh Sao Thổ đang hoạt động ở đây. Sao Thổ là hành tinh của sự phân biện, nó vẽ ra đường biên hoặc ranh giới giữa các thực thể và các phẩm chất. Một đường ranh giới như vậy được gọi là “vòng-giới-hạn”.

5. Ngoài ra, cung năm, chi phối “Định Luật Phân tách”, phải là một phần quan trọng của sự phân chia giữa các mặt đối lập.

6. Chúng ta có thể thấy rằng trong khi nguyên khí thứ năm, trí tuệ, không còn được định hướng như một yếu tố kích thích đối với người thú, nguyên khí thứ năm, vốn có ở con người đã biệt ngã hóa trong thời kỳ đó, đã được ban cho một sự thúc đẩy mạnh mẽ.

7. Bản thân các tính chất nhị nguyên là sự phản ánh của cung bốn của ‘các mặt đối lập xung đột’. Khả năng phân biện giữa các mặt đối lập là một chức năng của cung năm, được hỗ trợ bởi ảnh hưởng của Sao Thổ.

8. Câu chuyện sơ lược về tâm lý học của sự giải thoát được cho biết. Về cơ bản công thức là “phân tách và tái hợp”. Không có cách nào để có tâm thức về tính nhất thể ngoại trừ thông qua sự phân tách rõ ràng của các đối cực trước khi sự tái hợp của chúng xảy ra.

9. Con người sơ khai đắm chìm trong tính nhị nguyên, nhưng lại quên mất nó. Sự tồn tại của tính nhị nguyên đó phải được y chú ý đến. Một khi y nhận thức được tính nhị nguyên của toàn bộ sự tồn tại của mình, y có trách nhiệm (Sao Thổ) chọn cực mà y sẽ tập trung vào.

10. Chúng ta có thể hỏi làm thế nào mà Thánh đoàn đã xác định một cách rõ ràng ranh giới phân định giữa Tinh thần và Vật chất.

11. Một phương pháp có thể là thông qua việc ban hành và thực thi các luật và quy tắc ứng xử mới mà chúng phân tách giữa đúng và sai. Chúng ta có thể thấy rằng phần lớn cung một và cung năm hẳn có liên quan tới nỗ lực này.

12. Các quy tắc cho sự thành tựu phải được truyền đạt và các thành viên của Thánh đoàn phải thực hiện việc giám sát chặt chẽ hơn đối với một số người nhất định để đảm bảo họ tuân thủ các luật cần thiết và các quy tắc tiến bộ.

13. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng Thánh đoàn, với tư cách là Người giám sát Luật, hẳn đã nhìn thấy việc áp đặt hình phạt (và dạy dỗ) khi các điều luật bị vi phạm. Chỉ có như vậy đường ranh giới mới có thể được củng cố.

14. Tóm lại, có thể con người thời kỳ đầu phải chịu trách nhiệm về hành động của mình nhiều hơn so với việc trước khi “đường ranh giới” được nhấn mạnh.

Như thế, Thánh Đoàn đã lợi dụng năng lực phân biện của thể trí, vốn là đặc tính rõ rệt của nhân loại, để giúp con người, nhờ cân bằng các cặp đối lập, có thể đạt đến mục tiêu của y, và tìm thấy con đường trở về nguồn cội mà y đã từ đó đi ra.

1. Khả năng phân biện vốn có trong trí tuệ. Trí tuệ là nguyên khí thứ năm và khả năng phân biện là món quà của cung năm.

2. Chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của khả năng lựa chọn. Con người nguyên thủy đã không thực hiện việc chọn lựa có ý thức; thời kỳ thống trị của sao Hỏa (do ham muốn thúc đẩy) phải chạy theo lộ trình của nó trước khi sao Thổ có thể thiết lập sự thống trị của nó. Sao Thổ là một hành tinh thiêng liêng; Sao Hỏa (hành tinh của sự nổi loạn) thì không.

3. Con người thời kỳ đầu đã đạt đến điểm mà y có đủ kinh nghiệm để bắt đầu nhìn thấy hậu quả của những hành động của mình và hướng đi có thể xảy ra của những hành động đó. Tầm nhìn về những khả năng (tốt và xấu) đã được đưa ra bởi những người hướng dẫn của nhân loại, và con người có thể bắt đầu chọn (Sao Thổ) hướng mà y khao khát (Sao Hỏa) theo đuổi. Sau đó y có thể chọn hướng đi mà ý chí y muốn theo.

4. Chúng ta có thể nói rằng khi những quyết định của Shamballa này được đưa ra, các nhà Điều hành Hành tinh đã ngầm thừa nhận rằng nhân loại không còn là nhân loại sơ sinh nữa.

Quyết định này đã đưa đến cuộc chiến đấu rộng lớn, là đặc trưng của nền văn minh Atlantis, và lên đến tột đỉnh trong cuộc hủy diệt được gọi là trận đại hồng thủy, mà mọi Thánh Kinh trên thế giới đã đề cập. Các lực lượng ánh sáng và các lực lượng bóng tối đã được dàn trận chống lại nhau, và điều này là để trợ giúp nhân loại. Cuộc tranh đấu vẫn còn tiếp diễn, và Thế Chiến mà chúng ta đã vừa trải qua là một sự tái phát của nó. Trên mỗi phương diện của Thế Chiến đó đều có hai nhóm, những người chiến đấu cho một lý tưởng khi họ đã thấy nó, và lý tưởng cao nhất mà họ biết, và những người đấu tranh vì các quyền lợi vật chất ích kỷ. Trong cuộc chiến của những lý tưởng gia có ảnh hưởng, hay những kẻ duy vật, nhiều người bị cuốn vào, đã chiến đấu một cách mù quáng và thiếu hiểu biết, và do thế đã bị chìm đắm trong nghiệp quả và thảm họa của nhân loại.

1. Nếu chúng ta đã nghiên cứu về Minh triết Ngàn đời, thì chúng ta cũng được nghe nói về “Đại chiến” ở Atlantis giữa “Chúa tể của bóng tối” và “Chúa tể của ánh sáng”.

2. Điều thú vị là nhận ra rằng cuộc chiến quyết định này được thúc đẩy bởi một quyết định ngoài phạm vi hành tinh (kêu gọi việc phụng sự cấp cao hơn trong thái dương hệ của một số thành viên thuộc Thánh đoàn Tinh thần của hành tinh lúc bấy giờ), và kết quả là một quyết định của Shamballa nhằm đáp ứng tình trạng khẩn cấp của hành tinh xảy ra do sự ra đi của các thành viên điểm đạo này của Thánh đoàn.

3. Có thể, nhiều nguyên nhân đã góp phần vào việc bắt đầu cuộc chiến kéo dài giữa khuynh hướng tinh thần và vật chất của nhân loại. Hoàn toàn không phụ thuộc vào tình trạng khẩn cấp của hành tinh, nhân loại đã đạt đến độ chín đủ để được cho phép tự do lựa chọn. Thể trí đã được phát triển đầy đủ để phục vụ sự ham muốn,và điều đó làm cho thể trí trở nên có ảnh hưởng hơn (dù tốt hay xấu).

4. “Đại chiến” từng là/vẫn là một khoảng thời gian kinh khủng, coi như hai cuộc chiến tranh thế giới của thế kỷ XX là phần mở rộng hoặc tái phát của cuộc chiến Atlantean.

5. Chân sư Tây Tạng phân chia các đối thủ trong “Thế chiến” hiện đại của chúng ta giữa những người theo chủ nghĩa lý tưởng và những người chiến đấu vì lợi ích vật chất và ích kỷ. Có thể có cả các tác nhân của cái thiện và ác ở cả hai phía — đặc biệt là trong Thế chiến thứ nhất. Nhưng vào thời điểm Thế chiến thứ hai kết thúc, những người theo chủ nghĩa lý tưởng thực sự đã bị đuổi ra khỏi các quốc gia phe Trục, mặc dù là những người theo chủ nghĩa lý tưởng cuồng tín và lầm lạc (và Hitler chắc chắn là một trong số đó) vẫn có thể được tìm thấy.

6. Trận chiến (vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay) là giữa các giá trị của thái dương hệ đầu tiên rất vật chất, với các giá trị được định sẵn một cách thiêng liêng để thể hiện thông qua thái dương hệ của chúng ta (từ một quan điểm là thái dương hệ thứ hai trong chuỗi ba thái dương hệ).

7. Quyết định của Shamballa vào thời Atlantean đã tập trung một luồng ánh sáng to lớn vào các đơn vị nhân loại đáp ứng được trong thời kỳ đó. Không có ánh sáng vĩ đại nào có thể xuất hiện mà không gợi lên sự phản lại của lực lượng bóng tối, và do đó mọi việc đã là như vậy. Mọi sự tiến bộ phải được thực hiện với cái giá của sự hy sinh những điều cũ; cái cũ phải được gợi lên để được hy sinh. Chính xác tại thời điểm có thể tiến bộ thì đối thủ (được trang bị vũ khí tấn công ngược lại) có thể xuất hiện,

Ba quyết định này của Thánh Đoàn đang và sẽ có một hiệu quả sâu xa lên nhân loại, nhưng đang đạt được kết quả mong muốn, và [36] diễn trình tiến hóa được thúc đẩy mau chóng, và một hiệu quả quan trọng sâu xa trên trạng thái trí tuệ của con người có thể được nhìn thấy.

1. Những quyết định vĩ đại của Shamballa không chỉ có ảnh hưởng trong một thời đại; chúng có ý nghĩa to lớn đối với các chu kỳ lớn hơn nữa, mà kéo dài tới hàng triệu năm.

2. Chúng ta có thể nói rằng vào thời điểm ‘Quyết định Atlantean’ này, con đường đã được mở ra để nhân loại bắt đầu bước vào giới thứ năm của tự nhiên. Đầu tiên, nhân loại của dãy Nguyệt cầu phải đi qua Cổng Điểm đạo và vào Giới Linh hồn; nhiều người đã làm như vậy. Tuy nhiên, nhân loại trong dãy Địa cầu cũng không bị tụt lại quá xa, và ngày nay họ đang được chuẩn bị với số lượng lớn để đi qua Cổng Điểm đạo.

3. Với mối liên hệ chặt chẽ của Đức Sanat Kumara và dòng năng lượng Kim tinh, không có gì lạ khi quyết định của Ngài đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến bản chất trí tuệ của nhân loại. Kim tinh đặc biệt là hành tinh của trí tuệ được linh hồn chiếu sáng. Chính nhờ trí tuệ của người Kim tinh mà việc điểm đạo có thể được thực hiện. Thánh đoàn được gọi theo một cách khác là “Cộng đồng của những Trí tuệ có tổ chức và được soi sáng”. Đức Sanat Kumara là một Đấng khích lệ vĩ đại tất cả những gì trong con người có lý trí và được soi sáng; Ngài tìm cách đánh bại bản chất không lý trí vốn là đặc điểm nổi bật của người thú chưa phát triển.

Ở đây cũng nên nêu ra rằng, một số đông các sinh linh, mà người Thiên Chúa giáo gọi là thiên thần, và người Đông phương gọi là chư thần (4), đang hoạt động với tư cách là thành viên của Thánh Đoàn. Nhiều vị này đã trải qua giai đoạn nhân loại cách đây nhiều kỷ nguyên, hiện làm việc trong các hàng ngũ của cuộc tiến hóa vĩ đại song song với trường tiến hóa nhân loại, và được gọi là trường tiến hóa thiên thần. Ngoài những nhân tố khác, cuộc tiến hóa này bao gồm các vị thần kiến tạo phương diện ngoại cảnh của hành tinh, và qua các vị thần kiến tạo này, các mãnh lực tạo nên mọi hình thể mà chúng ta đã biết hoặc còn xa lạ. Do đó, các thiên thần hợp tác với nỗ lực của Thánh Đoàn quan tâm đến phương diện hình tướng, trong khi các thành viên khác của Thánh Đoàn thì chăm lo việc phát triển tâm thức bên trong hình tướng. [37]

1. Đây là một trong những đoạn văn quan trọng mô tả vương quốc thiên thần và cách thức mà nó tham gia bên trong tổ chức phân cấp.

2. Chân sư D.K. dường như đang nhấn mạnh công việc của những vị thần hoặc thiên thần đó, những người từ lâu đã trải qua giai đoạn tiến hóa của nhân loại. Hàm ý là một người có thể bước vào hàng ngũ thiên thần tiến hóa từ nhân loại. Điều ngược lại cũng đúng trong một số trường hợp nhất định.

3. Sự tiến hóa của nhân loại và thiên thần được cho là “song song”, có nghĩa là không cái nào là công cụ cho cái nào, mặc dù sẽ có những vị thiên thần tiến hóa hơn nhân loại, những vị mà nhân loại phải tuân theo, và ngược lại.

4. Một sự khác biệt cơ bản (và chung) giữa hai dòng tiến hóa được đưa ra: các thành viên Thiên thần của Thánh đoàn thực hiện chủ yếu công việc xây dựng hình tướng, trong khi các thành viên khác của Thánh đoàn (nhiều thành viên nhân loại hơn) làm việc với sự phát triển của tâm thức bên trong hình tướng.

5. Con người, về nhiều mặt, là kẻ hủy diệt của hình tướng. Họ học hỏi và tiến bộ thông qua việc sử dụng và phá hủy các hình tướng mà họ hiện thân. Như một quy luật, họ luôn “phá vỡ vỏ bọc”; họ chống lại giới hạn mà hình tướng đại diện. Điều này không đúng với những thiên thần tìm kiếm việc xây dựng và gìn giữ các hình tướng hài hòa.

6. Những gì chúng ta có thể thu thập được từ mọi điều đã nói, là công việc của Thánh đoàn vẫn tồn tại và tốt đẹp ngay cả trong thế giới hiện đại. Thánh đoàn là một Lực lượng hướng dẫn và chỉ đạo một cách hữu hiệu và nếu không có các Ngài, nhân loại sẽ vừa mất mát vừa có nguy cơ tuyệt chủng.

7. Thánh đoàn tinh thần của hành tinh chúng ta, dưới sự hướng dẫn của Đức Christ (và thậm chí mạnh mẽ hơn là của Chúa tể Thế gian), đang tham gia vào một sứ mệnh cứu chuộc đặc biệt nhằm cứu rỗi một nhân loại sai lầm và cứu chuộc một hành tinh đang bị chậm phát triển. Các kế hoạch cho sự cứu chuộc này đã có từ lâu. Chúng đã được đưa vào hoạt động cách đây mười tám triệu năm và vẫn tiếp tục một cách có hệ thống (mặc dù được thích nghi) kể từ thời điểm đó.

8. Có thể khó để mở rộng lòng biết ơn của chúng ta đối với những Đấng vĩ đại đã thiết lập Thánh đoàn trên Trái đất từ ​​lâu trước đây, sâu trong đêm tối của thời gian, nhưng lòng biết ơn của chúng ta phải rất sâu sắc. Khi chúng ta càng đi sâu vào các nghiên cứu huyền bí của mình, chúng ta sẽ nhận ra rằng việc các Ngài tới đã khiến cho nền văn minh của nhân loại hiện nay trở nên khả thi. Thông qua sự can thiệp của các Ngài vào quá trình tiến hóa của hành tinh của chúng ta, chúng ta đã không phải chịu rất nhiều năm vô minh và bị nô dịch bởi các mãnh lực vật chất. Nếu chúng ta cố gắng mở rộng lòng biết ơn của mình đối với những Đấng đã ở đó cho chúng ta, về cơ bản là những Đấng Cứu Thế, chúng ta sẽ thấy kết quả là sự soi sáng và thấu hiểu.

Leave Comment