Giới thiệu của minhtrietmoi.org:
Quyển Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ là quyển sách đầu tiên của Chân sư DK được Ngài viết thông qua bà Alice Bailey. Nó chứa đựng những kiến thức nền tảng được Ngài triển khai về sau, nhưng đặc biệt nó chứa những thông tin về Thánh đoàn của Hành tinh chúng ta, về các Chân sư, và huyền linh nhất là những thông tin về các cuộc Điểm đạo, các cấp bậc, và các Nghi Lễ của các cuộc điểm đạo đó. Những kiến thức huyền linh này bạn không thể tìm thấy ở bất kỳ cuốn sách nào khác, và cho thấy nó không thể đến từ một người “bình thường”, thậm chí một điểm đạo đồ dưới cấp bậc “Chân sư”. Trong sách, Ngài “đính chính” hay “sửa sai” một vài quan niệm được phổ biến rộng rãi trước đó, ví dụ Ngài cho chúng ta biết thời gian (số kiếp sống) giữa các cấp bậc điểm đạo 1-5, thì thời gian giữa cấp 1 và 2 thường là lâu nhất, còn thời gian giữa cấp bậc 2,3,4,5 ngắn hơn rất nhiều, thường nối tiếp hoặc xảy ra trong cùng một kiếp sống. Trong một quyển sách khác, Ngài cũng cho chúng ta biết đức Christ khi lâm phàm ở Palestine qua thể xác của vị đệ tử Jesus, Ngài mới đạt đến quả vị điểm đạo đồ bậc 6, cũng thời điểm đức Jesus đạt cấp bậc 4, và hiện nay, đức Christ, với cương vị là World Teacher, “Đức Chưởng Giáo của Thế Gian”, “Vị Thầy của các Chân sư và các Thiên thần”, vẫn đang hoàn thiện cấp điểm đạo 7. Và Ngài là người “Con của Nhân loại”, của dãy Địa Cầu, tiến hoá nhanh nhất. Những tiết lộ như thế, nhiều người sẽ không chấp nhận, nhưng chân lý sẽ được biết qua “kết quả” và ảnh hưởng của nó.
Cũng trong quyển sách này, Ngài cho biết Ngài (Chân sư DK) được điểm đạo thành một Chân sư Minh triết vào năm 1875, thời điểm thành lập Hội Thông Thiên Học. Nó khác với thông tin trong quyển “The Master and The Path” cho rằng vào thời điểm đó, Ngài chỉ là một Arhat—một vị La Hán.
Toàn bộ quyển sách đã được Thầy Hiệu trưởng Michael D. Robbins bình giảng, và các bạn học viên Trường Morya Federation Việt Nam biên dịch và đã đưa lên trang web minhtrietmoi.org dạng file pdf. Trong bài này, chúng tôi trích bình giảng của chương 7, Con Đường Dự Bị. Con Đường Dự Bị là con đường mà rất nhiều chí nguyện đang bước vào, và:
Con đường Dự bị bắt đầu khi một cá nhân trải qua sự tiếp xúc có ý thức đầu tiên của mình với linh hồn. Sau đó, y bắt đầu sống một cuộc sống nhị nguyên, nhận ra rằng có một thế giới cao hơn và một thế giới thấp hơn. Khi hướng tới thế giới cao hơn mà y khao khát, cuộc sống của y bị giằng xé bởi sự xung đột giữa các năng lượng và mãnh lực của hai thế giới này. Y được định vị như thể ‘ở giữa’ linh hồn và phàm ngã, và bị thu hút bởi cả hai.
Trên Con đường Dự bị, tình trạng của người chí nguyện được thử thách và chứng minh theo một số cách mà chuyển hóa hạn chế thành năng lực và tính ích kỷ thành vô kỷ. Không có cách nào để bước trên Con đường Điểm đạo, trừ khi một người đã chứng minh được mình xứng đáng để làm điều đó. Sự ‘chứng minh’ này diễn ra trên Con đường Dự bị và Con đường Đệ tử.
Chúng tôi hi vọng những bình giảng của GS Michael D. Robbins sẽ giúp các bạn hiểu rõ thêm về sách của Chân sư DK, và riêng đối với các học viên của Trường Morya Federation, đây sẽ là một tài liệu tham khảo vô giá cho con đường tu học.
****
CHƯƠNG VII
CON ĐƯỜNG DỰ BỊ
Chuẩn bị cho Điểm đạo.
Con Đường Dự Bị (thử thách) có trước Con Đường Điểm Đạo hay là Thánh Đạo, và đánh đấu thời kỳ của cuộc sống một người khi y dứt khoát đứng về phía các lực tiến hóa, và làm việc để rèn luyện đức hạnh. Y tự chủ trị, vun bồi các đức tính y còn thiếu, và chuyên cần ra sức chế ngự phàm ngã của mình. Y chủ tâm xây dựng thể nguyên nhân, lấp đầy các khoảng còn trống, và tìm cách biến nó thành chỗ thích hợp cho nguyên khí Christ.
1. Điểm đạo cần có sự chuẩn bị. Hai giai đoạn phát triển trước Con đường Điểm đạo: đó là Con đường Dự bị và Con đường Đệ tử (sẽ được trình bày chi tiết trong chương tiếp theo của sách IHS, Chương VIII).
2. Trong phần này, chỉ có hai con Đường được đề cập. “Con đường Dự bị” và “Con đường Điểm đạo”.
3. Con đường Dự bị là ‘Con đường Thử thách và Kiểm tra’. Từ một quan điểm, nó có thể được coi là bao gồm Con đường Đệ tử, vì có rất nhiều thử thách và bài kiểm tra trong cuộc sống của một đệ tử, và các đệ tử (trước khi họ trở thành “các đệ tử được chấp nhận” được gọi là “các đệ tử dự bị”). Tuy nhiên, các bài kiểm tra và thử thách trên Con đường Đệ tử có bản chất khác và nâng cao hơn so với những thử thách trên Con đường Dự bị.
4. Con đường Điểm đạo là Con đường Thiêng liêng hay ‘Toàn vẹn’, vì trên Con đường này, một số sự hợp nhất vĩ đại nhất định (của các năng lượng và trong tâm thức) xảy ra, và bản chất của Toàn thể được trân trọng và thấu hiểu hơn. Trên Con đường này, hệ thống năng lượng của người đệ tử trở nên tích hợp tốt và anh ấy/ cô ấy đạt được thứ có thể gọi là ‘sự toàn vẹn về tinh thần’ — một trạng thái tâm thức và cuộc sống không còn bị bao vây bởi những xung đột xảy ra bên trong trường của các vận cụ nguyệt tinh. Tất nhiên, sẽ có những loại xung đột đầy thách thức khác — như giữa linh hồn và tinh thần.
5. Con đường Dự bị bắt đầu khi một cá nhân trải qua sự tiếp xúc có ý thức đầu tiên của mình với linh hồn. Sau đó, y bắt đầu sống một cuộc sống nhị nguyên, nhận ra rằng có một thế giới cao hơn và một thế giới thấp hơn. Khi hướng tới thế giới cao hơn mà y khao khát, cuộc sống của y bị giằng xé bởi sự xung đột giữa các năng lượng và mãnh lực của hai thế giới này. Y được định vị như thể ‘ở giữa’ linh hồn và phàm ngã, và bị thu hút bởi cả hai.
6. Trên Con đường Dự bị, tình trạng của người chí nguyện được thử thách và chứng minh theo một số cách mà chuyển hóa hạn chế thành năng lực và tính ích kỷ thành vô kỷ. Không có cách nào để bước trên Con đường Điểm đạo, trừ khi một người đã chứng minh được mình xứng đáng để làm điều đó. Sự ‘chứng minh’ này diễn ra trên Con đường Dự bị và Con đường Đệ tử.
7. Khi nào một người chắc chắn đứng về phía các lực lượng tiến hóa và bắt đầu xây dựng nhân cách của chính mình? Chắc chắn, điều này xảy ra trước cuộc điểm đạo đầu tiên (“Sự giáng sinh của Đức Christ ở Bethlehem”).
8. Đó là một quyết định có ý thức đưa một người vào Con đường Dự bị; chứ người này không trôi vào nó. Những người đi trên Con đường này phải có ý thức về các giá trị được phát triển khá tốt, và nhìn thấy cả lợi thế và sự cần thiết của việc vun bồi nhân cách của họ.
9. “Nhân cách” là gì? Nó là một cấu trúc và tính chất nhất định của tư tưởng, cảm xúc và hành vi. Theo một cách nào đó, nó là một khuôn mẫu của các thói quen và thái độ. Nhân cách là cơ sở của phẩm chất hoạt động của một con người trong xã hội. Trên cơ sở nhân cách, một người được biết là tốt, xấu, hay bình thường. Khi các khuôn mẫu tư tưởng, cảm xúc và hành động của một người đạt đến một tiêu chuẩn phản ánh những khuôn mẫu trong bản chất cao hơn của y (bản chất linh hồn y), thì y được cho là “một người có nhân cách tốt”.
10. Trên Con đường Dự bị, người chí nguyện vun bồi nhân cách của mình cho đến khi y có thể được tin cậy để trở thành một thành viên có giá trị của xã hội và có tiềm lực để được sử dụng cho Thánh đoàn của Ánh sáng khi các Ngài cố gắng nâng cao nhân loại. Vun bồi nhân cách có nghĩa là xây dựng một khuôn mẫu hành vi (thể chất, tình cảm và trí tuệ) cho phép một người trở thành tài sản cho quá trình tiến hóa của nhân loại hơn là một tiêu sản.
11. Do đó, một thoả thuận lớn trách nhiệm cá nhân được đảm nhận bởi người quyết định bước vào Con đường Dự bị, cũng có thể được gọi là ‘Con đường Tự Hoàn thiện Hữu Thức’.
12. Người đi trên Con đường này có thể được gọi là “người chí nguyện tinh thần”. Người chí nguyện bắt đầu một quá trình tự quan sát sau đó là cố gắng tự kiểm soát bản thân. Người chí nguyện chân chính cố gắng và thất bại, cố gắng và thất bại, nhưng luôn tiếp tục cố gắng.
13. Trên Con đường Dự bị, chúng ta khám phá ra những gì còn thiếu trong bản chất của mình và cố gắng lấp đầy những “khoảng trống”. Những “khoảng trống” này thực sự là những “khoảng trống rung động” bên trong thể nguyên nhân của chúng ta (một trường lực hoặc vận cụ đóng vai trò là kho lưu trữ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của chúng ta được phát triển qua kinh nghiệm cá nhân lâu dài). Trên Con đường đó, chúng ta không chỉ phải sửa chữa và rèn luyện lại những thói quen và thái độ xấu của mình, mà còn phải hữu thức xây dựng những đức tính mà chúng ta cần để phát triển, nhưng vẫn chưa biểu hiện.
14. Dưới ảnh hưởng của Thiên bình (‘dấu hiệu của sự đánh giá’), người chí nguyện có thể bắt đầu so sánh mình với những cá nhân khác và do đó, bắt đầu nhận thấy những thiếu sót và khiếm khuyết của mình. Y nhận ra rằng các đệ tử và điểm đạo đồ chân chính phải là những cá nhân “hoàn thiện” và những sự mất cân bằng đáng chú ý phải được sửa chữa. Vì vậy, tinh thần tự đánh giá sự thật là một yêu cầu để bước trên con đường Dự bị thành công. Rõ ràng là cần phải có sự kiên nhẫn, vì Con đường Dự bị là một con đường dài — rất khó để sửa chữa không chỉ những thói quen của một đời người, mà còn của nhiều kiếp sống.
15. Trong trường hợp người bình thường, không phải là người chí nguyện, phàm ngã bị điều khiển phần lớn bởi ham muốn. Tuy nhiên, người chí nguyện thay thế ham muốn bằng khát vọng, và bắt đầu học ý nghĩa của ý chí. Càng ngày, người chí nguyện càng biết khi nào mình “bị lệch” — có nghĩa là không chỉnh hợp với linh hồn. Trong cuộc sống của người chí nguyện, linh hồn đang bắt đầu trở thành thực tế.
16. Rõ ràng Con đường Dự bị là Con đường mà người chí nguyện học (nhưng chưa nắm vững) ý nghĩa của kỷ luật. Y không biết rõ điều đó như thế nào cho đến khi y bước lên Con đường Đệ tử, nhưng những bài tập dẫn đến thành tựu tinh thần không thể được thực hành nếu không có kỷ luật.
17. Chúng ta biết rằng trên Con đường Dự bị, người chí nguyện đang học cách xây dựng “thể nguyên nhân với mục tiêu cụ thể”. “Kho lưu trữ tinh thần” này trở thành điểm tập trung chính cho tâm thức, vì thể nguyên nhân được hiểu là một “thể” chân thật hơn phàm ngã (và các vận cụ trí tuệ, cảm xúc và thể chất quen thuộc của nó). Chúng ta có thể thấy rằng người chí nguyện thực sự có quan niệm khác về bản sắc so với những người trung bình. Tất nhiên, không phải tất cả những người chí nguyện đều được đào tạo về huyền linh học, và do đó không phải tất cả đều hiểu những kỹ thuật huyền bí liên quan đến cấu tạo của con người. Tuy nhiên, sẽ có một sự hiểu biết rằng bản sắc thực sự nằm bên trong chứ không phải ở phàm ngã và vận cụ của nó. “Vương quốc Thiên đường ở bên trong.”
18. Làm thế nào để một người lấp đầy những khoảng trống trong thể nguyên nhân, hoặc như cách hiểu thông thường hơn, vun bồi những phẩm tính và năng lực mà y phát hiện ra là còn thiếu trong phàm ngã của mình?
1. Y chú ý tới những gì còn thiếu.
2. Y nuôi dưỡng mong muốn có (và do đó, tích lũy) những gì còn thiếu.
3. Y nghiên cứu biểu hiện của phẩm tính hoặc năng lực còn thiếu ở những người đang thể hiện nó.
4. Y chú ý đến các kiểu hành vi và biểu hiện đi kèm với việc thể hiện phẩm tính mong muốn.
5. Y thực hành các hành vi như vậy.
6. Y tìm cách hiểu và thực hành trạng thái trí tuệ được sở hữu bởi những người đang thể hiện thành công phẩm tính mong muốn — nhận ra rằng việc thực hành hành vi bên ngoài sẽ tương đối ‘sáo rỗng trừ khi tâm thức đã được chuyển hóa.
7. Y tham thiền về những phẩm tính mà y đang thực hành và hình dung chúng như là được thể hiện thành công.
8. Trong tham thiền và trong suy nghĩ có ý thức bình thường, y có thể khẳng định lại với chính mình lý do tại sao việc sở hữu và thể hiện phẩm tính, trên thực tế, là hữu ích và đáng mơ ước.
19. Thật thú vị, chúng ta lưu ý rằng bản thân thể nguyên nhân là để trở thành một “nơi chứa phù hợp cho Nguyên khí Christ”. Điều này có nghĩa là mặc dù nội dung của thể nguyên nhân luôn là ‘tốt’, nhưng một số thể nguyên nhân không đủ điều kiện để chứa đựng và biểu lộ Nguyên khí Christ. Chúng ta có thể nói rằng chỉ những phẩm tính cao hơn (được tìm thấy liên quan đến “những cánh hoa bác ái” và “những cánh hoa hy sinh” cao hơn) mới phù hợp với sự biểu lộ của Nguyên khí Christ.
20. “Nguyên khí Christ” là tình thương thiêng liêng. Có thể có một thể nguyên nhân chứa đựng nhiều đức hạnh nhưng trong đó năng lượng của tình thương thiêng liêng không được thể hiện rõ ràng. Trên Con đường Dự bị, chúng ta bắt đầu nuôi dưỡng năng lượng của tình thương thực sự, đó là phẩm tính cơ bản của linh hồn.
21. Do đó, nói chung, chúng ta hiểu rằng người chí nguyện đang ‘vun bồi phẩm tính Christ thành bản chất của mình’ —- tức là, xây dựng trạng thái thiêng liêng thứ hai thêm vào trạng thái thứ ba. Chỉ khi người chí nguyện đạt tiêu chuẩn (tức là, có đầy đủ phẩm tính cần thiết) thì người đó mới có thể bước vào Con đường Đệ tử. ‘Con đường của Đệ tử Dự bị” được bước lên khi cánh hoa thứ sáu của hoa sen chân ngã bắt đầu khai mở. Tuy nhiên, toàn bộ thời kỳ được đánh dấu bằng sự khai mở của cánh hoa thứ năm và thứ sáu của hoa sen chân ngã, chỉ mang tính chất dự bị và bao gồm bài kiểm tra của phàm ngã. Ngay cả khi cánh hoa thứ bảy và thứ tám đang mở ra, trong lần điểm đạo thứ nhất và thứ hai, giai đoạn này vẫn là dự bị, nhưng sau đó y thành một “Điểm đạo đồ Dự bị”.
22. Như vậy, có ba giai đoạn chung với nhiều sự chồng lấp:
a. Người Dự bị (tức là người Chí nguyện), người đi trên Con đường Dự bị, bản chất là, cánh hoa thứ năm đang khai mở và cánh hoa thứ sáu đang bắt đầu;
b. ‘Đệ tử Dự bị’ (hay người Chí nguyện Tiến bộ) bắt đầu Con đường này khi y chưa phải là điểm đạo bậc một và tiếp tục cho đến khi y trở thành “Đệ tử được chấp nhận” (thường là một vài kiếp sau cuộc điểm đạo bậc một). Trong giai đoạn này, cánh hoa thứ sáu đang khai mở và cánh hoa thứ bảy bắt đầu; và
c. ‘Điểm đạo Dự bị’ của hai bậc đầu tiên, người có thể là một “Đệ tử chấp nhận”, một “Đệ tử thệ nguyện” hoặc một “Đệ tử được chấp nhận” (theo thứ tự). Trong giai đoạn này, cánh hoa thứ bảy và thứ tám đang khai mở.
Con đường Đệ tử thực sự bắt đầu sau cuộc điểm đạo đầu tiên. Một số người có thể nói rằng một người không phải là một đệ tử thực sự hay chân chính cho đến khi thành “Đệ tử được chấp nhận”. Tuy nhiên, những giai đoạn này không có ranh giới cứng nhắc và ngay cả một đấng vĩ đại như Đấng Christ cũng có thể được coi là một người chí nguyện, một đệ tử và một điểm đạo đồ. Phần lớn phụ thuộc vào ngữ cảnh mà các thuật ngữ này được sử dụng.
1. Chúng ta được trao cho một phép so sánh tương đồng thú vị: Con đường Dự bị tương ứng với giai đoạn trước khi sinh trong sự phát triển của thai nhi. Do đó, chúng ta được dẫn dắt để hiểu rằng người chí nguyện tinh thần vẫn chưa thực sự được “sinh ra” — về mặt tinh thần. Trong cuộc sống của người chí nguyện, quá trình phát triển tinh thần này vẫn đang diễn ra bên trong ‘Mẹ’ — tức là phàm ngã. Phàm ngã là “Mẹ”; linh hồn là “Con”; tinh thần là “Cha”.
2. Con đường Dự bị đại diện cho sự khởi đầu của một kiểu định hướng lại (một kiểu ‘sám hối). Trong tiếng Anh, “sám hối” có nghĩa là “quay lại”, rẽ sang một hướng mới — tuy nhiên, thực sự, đó là một sự hướng trở lại linh hồn và tinh thần.
3. Một người đang bước trên Con đường Dự bị bắt đầu phân biệt hai luồng năng lượng — luồng năng lượng bình thường và quen thuộc của phàm ngã và các vận cụ của nó, và luồng năng lượng ‘cao hơn’ phóng phát từ linh hồn (mặc dù ban đầu, người chí nguyện chưa được huấn luyện có thể không chắc chắn hoàn toàn về nguồn gốc của luồng năng lượng cao hơn này).
4. Trên con đường Dự bị, người chí nguyện bắt đầu phát triển sự tận tâm/lương tri — một đức tính của hành tinh Sao Thổ. Lương tâm, theo nghĩa này, là ‘tiếng nói của linh hồn/Đấng Thái dương Thiên thần’. Y bắt đầu phấn đấu và khao khát với mức độ ngày càng nghiêm túc và chỉn chu. Sao Thổ nghiêm túc thậm chí còn quan trọng hơn trên Con đường Đệ tử và Con đường Điểm đạo.
5. Trên Con đường Dự bị, ham muốn được chuyển hóa thành khát vọng. Một hình thức chớm nở của ý chí và mục đích cao hơn cũng bắt đầu xuất hiện. Ham muốn thấp không còn chế ngự, và không được đáp ứng.
Sự tương đồng giữa thời kỳ tiền sản trong cuộc đời con người và giai đoạn tương tự trong sự phát triển của tinh thần nội tàng, thì thật là thú vị. Chúng ta có thể xét vấn đề theo cách này:
1. Lúc thụ thai, tương ứng với lúc biệt lập ngã tính.
2. Chín tháng mang thai, tương ứng với vòng sinh tử luân hồi.
3. Cuộc điểm đạo lần thứ nhất, tương ứng với giờ khắc sinh ra đời.
1. Chân sư Tây Tạng trình bày một tương đồng quan trọng giữa sự phát triển tinh thần bên trong và sự phát triển ở giai đoạn thai nhi của một con người. Một quá trình phát triển trong hàng triệu năm; cái còn lại chỉ mất trung bình 9 tháng. Cần một thời gian dài để xây dựng tâm thức của con người và một thời gian ngắn hơn nhiều để xây dựng một cơ thể con người.
2. Sự biệt lập ngã tính trên hành tinh này (và trong cái được gọi là ‘vòng tuần hoàn thứ tư của dãy Địa cầu’) đã diễn ra cách đây khoảng 21 triệu năm.
3. Con người mới hình thành bắt đầu từ quá trình biệt ngã hoá. “Tâm thức phản ảnh” được sinh ra, nhưng, tương tự như sự sống của thai nhi, tâm thức đó phải lớn lên và phát triển. Tâm thức của con người sơ khai không giống với sự tự nhận thức của con người trung bình ngày nay, mà con người sơ khai trông cũng không giống như con người hiện đại (theo Giáo lý bí nhiệm).
4. “Bánh xe Sự sống” với nhiều vòng quay — nhiều chu kỳ và các chu kỳ phụ của nó trong hàng triệu năm, tương ứng với quá trình trong tử cung, mà trong trường hợp của con người là kéo dài chín tháng. Chỉ những giai đoạn sau cùng của trạng thái thai kỳ mới có thể liên quan đến Con đường Dự bị và Con đường Đệ tử.
5. “Bánh xe Sự sống” chủ yếu đề cập đến chu kỳ đưa con người vào và ra khỏi sự tái sinh trên cõi trần. Khi “bánh xe” đó quay thì tính chất, phạm vi và khả năng nhận thức của tâm thức con người phát triển cho đến khi bắt đầu gần đạt tới những gì chúng ta nhận ra như là tâm thức của con người ngày nay. Dưới sự thúc đẩy của ham muốn, hoài bão và khát vọng, con người tiếp tục hoàn thiện bản thân, trở nên nhạy cảm hơn, thích nghi hơn và phù hợp hơn về mọi mặt. Y bắt đầu cảm nhận được những khả năng cao hơn những khả năng thuần về vật chất và hình tướng mà y chú ý trong hàng triệu năm. Cảm nhận được những khả năng và lợi thế của một cuộc sống cao hơn, y trở thành một người chí nguyện tinh thần và bắt đầu bước vào Con đường Dự bị.
6. Sau nhiều cuộc đấu tranh, con người đã sẵn sàng để được ‘sinh ra’ trong một trạng thái tâm thức cao hơn so với trạng thái bình thường của con người, giống như một bào thai (bây giờ là một đứa trẻ sẵn sàng cho sự tồn tại độc lập từ trong bụng mẹ) sẵn sàng sinh ra trong thế giới này. Cuộc điểm đạo đầu tiên đại diện cho thời khắc sinh ra. Một người được ‘sinh ra’ vào Giới Linh hồn. Nói đúng ra thì y không còn là thành viên của giới thứ tư của tự nhiên, Giới nhân loại.
7. Cũng giống như việc mang thai có thể nguy hiểm cho người mẹ và đứa trẻ, và có thể trải qua một số giai đoạn khủng hoảng, vì vậy, với kiểu ‘mang thai’ tinh thần này, linh hồn con người được phát triển trong bản chất phàm ngã (tức là “Mẹ”). Nhân loại đã trải qua một số cuộc khủng hoảng như vậy, trong số đó, mối nguy hiểm đối với linh hồn đang phát triển của con người (và linh hồn của nhân loại) là nghiêm trọng.
Con đường dự bị tương ứng với giai đoạn sau của thời kỳ thai nghén, với sự kiến tạo trong trái tim của hài nhi nguyên khí Christ. Vào cuộc điểm đạo lần thứ nhất, hài nhi này bắt đầu cuộc hành hương trên Đường Đạo. Cuộc điểm đạo thứ nhất chỉ đại diện cho sự khởi đầu. Một cấu trúc sinh hoạt, suy tư và hạnh kiểm đúng đắn đã được phát triển dần. Chúng ta gọi hình thức này là nhân cách. Giờ đây, nhân cách này phải được làm sinh động và có chủ nhân ngự trị.
Con đường Dự bị đến trước sự giáng sinh hữu thức vào Giới linh hồn – Giới thứ Năm trong Tự nhiên. Giới nhân loại là Giới Thứ tư trong Tự nhiên.
1. Chân sư Tây Tạng nói với chúng ta rằng Con đường Dự bị (kéo dài nhiều kiếp) tương ứng với “việc kiến tạo trong trái tim hài nhi nguyên khí Christ”.
2. Liên quan đến chu kỳ phát triển dài của con người, khi nào thì Con đường Dự bị mới thực sự bắt đầu? Không có cách nào chắc chắn để chúng ta xác định điều này, nhưng từ góc độ ‘giải phẫu và sinh lý học huyền bí’, chúng ta có thể nói một cách an toàn rằng nó không thể bắt đầu trước khi cánh hoa thứ năm của Hoa sen Chân ngã đã phần nào phát triển.
3. Trong thể nguyên nhân / hoa sen chân ngã có chín “cánh hoa” thông thường và ba “cánh hoa tổng hợp”. Cánh hoa thứ năm của hoa sen chân ngã tương ứng với trái tim. Sự khai mở của mỗi cánh hoa thể hiện sự phát triển các kỹ năng và giai đoạn nhận thức khác nhau của con người. Trên Con đường Dự bị (bao gồm một phần của ‘Con đường Đệ tử Dự bị’), các cánh hoa thứ năm và thứ sáu được mở ra — mỗi cánh hoa liên quan đặc biệt đến sự hoàn thiện của bản chất cảm xúc. Các trải nghiệm trên Con đường Dự bị tái tạo thể cảm xúc. Cánh hoa thứ năm và thứ sáu đều là cánh hoa bác ái. “Cánh hoa bác ái” đầu tiên (cánh hoa thứ tư của hoa sen chân ngã) và ba “cánh hoa tri thức” đã được nuôi dưỡng trong các giai đoạn tiến hóa trước Con đường Dự bị, và ba “cánh hoa hy sinh” sẽ được nuôi dưỡng trong các giai đoạn sau. (Để biết thêm thông tin về hoa sen chân ngã và những cánh hoa của nó, tham khảo cuốn Luận về Lửa Càn khôn). Giai đoạn chí nguyện có thể diễn ra trong nhiều kiếp, và chịu nhiều thất bại.
4. Chúng ta biết rằng ở đâu đó gần tháng thứ tư của thai kỳ con người, trái tim của thai nhi bắt đầu đập. Do đó, có lẽ chúng ta không thể dùng phép tương đồng liên quan đến “việc hình thành trong trái tim” theo quá sát nghĩa đen. Khoảng thời gian trong quá trình mang thai bình thường mà ở đó trái tim vật lý được hình thành đầu tiên và sau đó bắt đầu đập, là quá sớm để tương ứng với tính chính xác tương tự như giai đoạn của Con đường Dự bị.
5. Tuy nhiên, chúng ta có thể nói rằng, từ một góc độ tâm lý, những phẩm chất liên quan đến trái tim (và đến giai đoạn phát triển thứ hai của những cánh hoa bác ái của Hoa sen Chân ngã) được xây dựng trong Con đường Dự bị.
6. “Hài nhi Christ” là một tên gọi khác của người mới điểm đạo ở cấp độ đầu tiên. Trước khi một em bé vật lý được sinh ra, trái tim của em phải bắt đầu đập và trở nên đủ mạnh để duy trì sự sống độc lập của em khi ở bên ngoài bụng mẹ. Con đường Dự bị tương ứng với việc nuôi dưỡng và củng cố trái tim. ‘Các giá trị của trái tim’ lần đầu tiên xâm nhập vào tâm thức của con người và bắt đầu đấu tranh chống lại những giá trị ích kỷ hơn mà chúng đặc trưng cho phần lớn giai đoạn phát triển tiến hóa của y.
7. Cuộc điểm đạo đầu tiên đại diện cho sự bắt đầu. “Con đường bất tận” này lần đầu tiên được bước lên một cách hữu thức. “Hài nhi trong nguyên khí Christ” bắt đầu cuộc hành hương, nhưng lúc đầu y phải được dạy cách ‘đi bộ’ thay vì ‘bò’. Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra rằng cuộc điểm đạo đầu tiên, dù khó có thể đạt được, chỉ là bước khởi đầu của một quá trình dài và không cho thấy sự thành tựu tinh thần rất cao.
8. Từ một góc độ, người chí nguyện đặt chân lên Con đường Điểm đạo khi cuộc điểm đạo đầu tiên được thực hiện. Từ một khía cạnh khác, ở lần điểm đạo đầu tiên, người chí nguyện, bây giờ là một đệ tử chân chính, bắt đầu một cách nghiêm túc, bước vào Con đường Đệ tử với tư cách là một ‘Điểm đạo đồ tập sự’.
9. Vào thời điểm của cấp độ đầu tiên (lần điểm đạo thứ nhất) được thực hiện, cái mà chúng ta gọi là “nhân cách” đã đạt đến một giai đoạn nhất định về độ tin cậy (mặc dù vẫn còn nhiều điểm không hoàn hảo). Điểm đạo đồ cấp độ đầu tiên khá là trung thực. Có một cấu trúc nhân cách tốt có thể được dựa vào để đóng góp giá trị cho phúc lợi của nhân loại.
10. Việc củng cố và tăng cường cấu trúc tốt đó là điều bắt buộc và quá trình củng cố và tăng cường này xảy ra khi điểm đạo đồ bậc một tiếp tục “đi trên Con đường” qua cấp độ thứ hai và thứ ba. Mục đích của Con đường Điểm đạo (các giai đoạn trước của nó là Con đường Đệ tử) là để thấy rằng hình mẫu của nhân cách được làm sống động và ngự trị bởi Nguyên khí Christ (phát ra từ bức xạ của Đấng Thái dương Thiên thần.)
11. Sự khai mở của cánh hoa thứ bảy báo hiệu sự bắt đầu của cuộc điểm đạo đầu tiên.
Thackeray đã khéo mô tả quá trình xây dựng này bằng những lời rất thường được trích dẫn:− [64]
“Gieo một tư tưởng và gặt một hành động; gieo một hành động và gặt một thói quen; gieo một thói quen và gặt được tính cách; gieo tính cách và gặt được số phận.”
1. Những lời nói của Thackeray rất mạnh mẽ và nên được ghi nhớ để tăng cường hiểu biết của chúng ta về chúng. Toàn bộ khuôn mẫu của số phận phát triển từ những hành động nhỏ ban đầu không liên quan đến nhau — thoạt đầu là ‘hành động của tư tưởng’.
2. Mỗi nhà huyền linh và môn sinh của huyền linh học đều nhận ra rằng những gì chúng ta nghĩ và cách chúng ta nghĩ đều quan trọng liên quan đến việc tạo ra và hóa giải nghiệp quả.
3. Ban đầu, toàn bộ quá trình có xu hướng xảy ra ở mức độ hơi vô thức. Chúng ta hầu như không ghi nhận những tư tưởng mà chúng ta nghĩ, cũng như không hiểu những tư tưởng này chắc chắn dẫn đến hành động như thế nào.
4. Khi đến tuổi “chịu trách nhiệm tinh thần”, chúng ta bắt đầu nhận thức được những tư tưởng mà chúng ta nghĩ (và nghĩ lặp đi lặp lại nhiều lần). Sau đó, chúng ta ở một vị trí để làm điều gì đó về bản chất và phẩm tính của những tư tưởng này. Chúng ta có thể thực hiện một cách tiếp cận có chủ ý và dứt khoát để cải thiện hoàn cảnh nghiệp quả của cuộc sống và môi trường nhỏ bé của chúng ta (coi những người khác là các yếu tố môi trường xung quanh).
5. “Gieo” là gieo một hạt giống. “Gặt” có nghĩa là thu hoạch kết quả của việc gieo trồng. Mọi tác động đều có nguyên nhân của nó, và mọi nguyên nhân đều có hậu quả của nó — ít nhất là trong thế giới phi lượng tử!
6. Mọi tư tưởng giống như những ‘hành động thu nhỏ’ và có xu hướng diễn ra như những hành động đáng chú ý, ngay cả khi những hành động này không đáng chú ý. Tư tưởng đầy đủ theo một dòng nhất định sẽ thể hiện như một hành động dễ nhận biết. Nếu một số loại hành động được lặp đi lặp lại liên tục, chúng sẽ hình thành một thói quen hoặc một kiểu hành động có thể đoán trước được, có khả năng chống lại sự thay đổi. Các thói quen dường như có một “cuộc sống của riêng chúng” và, một khi đã được cấu trúc, không dễ dàng thay đổi cấu trúc của chúng.
7. Nếu các khuôn mẫu thói quen khác nhau được tiếp tục và tiếp thêm năng lượng, chúng sẽ tạo ra khuôn mẫu hành vi tổng thể (thể chất, cảm xúc và trí tuệ) mà chúng ta gọi là “tính cách”. Tính cách là ‘chữ ký của một người’; nó là bản sắc bên ngoài của y. ‘Tên gọi tinh thần’ là bản sắc bên trong của y. ‘Tính cách bên ngoài’ liên quan đến phàm ngã; “Tính cách bên trong”, đối với con người – như – một linh hồn.
8. Nếu một người sống với một tính cách nhất định trong bất kỳ khoảng thời gian nào, y sẽ bắt đầu gặt hái kết quả của việc làm đó. Mọi thứ xảy ra đến với y hay dành cho y trên cơ sở y là ai. Đây là ý nghĩa của việc “gieo tính cách và gặt số phận”.
9. Số phận là toàn bộ tập hợp các khuôn mẫu bên ngoài và tinh tế, phản ứng một cách từ tính với ‘khuôn mẫu mà chúng ta là‘ — tức tính cách của chúng ta. Số phận của chúng ta bị thu hút đến chúng ta bởi tính chất của các khuôn mẫu mà chúng ta đã tạo ra. Trong trường hợp như vậy, “những gì giống nhau thu hút nhau”. Cái thiện cuối cùng sẽ thu hút cái thiện (mặc dù cái ác có thể tạm thời ngăn chặn sự xuất hiện của cái Thiện). Cái ác cuối cùng sẽ triệu hồi cái ác cho chính nó bất kể bây giờ có thể là cơ hội tốt và sau đó hiện diện với kẻ có xu hướng hướng tới cái ác.
10. Những từ mạnh mẽ nhất trong toàn bộ câu ngạn ngữ là, “gieo tính cách, gặt số phận”. Các nhà chiêm tinh đã đơn giản hóa ý tưởng này bằng cách nói rằng “tính cách là số phận”.
11. Những ý tưởng này dựa trên niềm tin vào công lý vĩnh cửu và niềm tin rằng môi trường sẽ trả lại cho chúng ta sự phản ánh chính xác những gì chúng ta ‘là’ (hay chính xác hơn là đã tạo ra) — về mặt rung động.
12. Không thể có sự sai lệch cuối cùng giữa tính cách và số phận (khuôn mẫu hoặc cấu trúc của hoàn cảnh mà cuối cùng người ta tìm thấy chính mình). Cấu trúc lớp vỏ bên ngoài sẽ được tạo ra theo cấu trúc bên trong của tính cách.
13. Theo một cách khác, chúng ta có thể nói, “Những gì chúng ta thấy là những gì chúng ta đang có”.
14. Năng lực sáng tạo nghiệp của tư tưởng và lời nói vẫn chưa được hiểu đúng. Chỉ đến khi đó, chúng ta mới biết rằng số phận không xảy đến với một người; chúng được tạo ra vì con người ‘tạo ra chính mình’.
15. Trên Con đường Dự bị, chúng ta phát hiện ra rằng chúng ta phải chịu trách nhiệm về những gì xảy ra với chúng ta; chúng ta chịu trách nhiệm về việc chúng ta thăng tiến hay trầm luân trong cuộc sống. Chúng ta học cách hiểu nguyên nhân đằng sau tình trạng cá nhân của mình và chịu trách nhiệm về những nguyên nhân đó.
Vận mệnh bất tử của mỗi người và tất cả mọi người trong chúng ta là đạt được tâm thức của chân ngã và sau đó là tâm thức của Tinh thần Thiêng liêng. Khi hình thể đã sẵn sàng, khi ngôi đền Solomon đã được xây dựng bằng nguồn vật liệu của cuộc sống phàm nhân, bấy giờ sự sống-Christ giáng nhập, và vinh quang của Chúa bao trùm ngôi đền của Ngài. Hình thể trở nên sinh động mạnh mẽ. Ở đây ta thấy sự khác biệt giữa lý thuyết và việc thực hiện lý thuyết nơi chính bản thân. Người ta có thể đưa ra một bức tranh hay hình ảnh hoàn hảo, nhưng thiếu sự sống. Sự sống có thể hết sức được nắn đúc theo kiểu mẫu thiêng liêng; nó có thể là một bản sao tốt đẹp nhưng thiếu nguyên khí Christ ngự bên trong. Mầm sống đã có ở đó nhưng vẫn còn yên ngủ. Giờ đây nó được nuôi dưỡng cho đến mức chào đời và đạt được cuộc điểm đạo thứ nhất.
1. Trong đoạn này, chúng ta học về sự chuyển động, sống động và tính tinh thần của sự sống.
2. Nguyên lý sự sống này rất quan trọng trên Con đường (ND: đạo); thực tại chân thực luôn tồn tại, cũng như sự bắt chước của thực tại đó. Sự bắt chước là tốt như có thể, nhưng nó không phải là sự sáng tạo hoàn chỉnh và nó thiếu sự sống.
3. Chân sư Tây Tạng cung cấp phép tương đồng mang tính hướng dẫn. Hình ảnh có thể là bản sao chính xác của các khuôn mẫu cao hơn, tuy nhiên, thiếu “sự sống” là vốn có của các khuôn mẫu cao hơn như vậy. Tương tự, người ta có thể biết nhiều về lý thuyết, nhưng lại không áp dụng được lý thuyết đó vào thực tế — tức là không làm cho nó sống.
4. Chắc chắn là tốt khi tạo ra khuôn mẫu cuộc sống của chúng ta dựa trên điều thiêng liêng; đây là bước đầu tiên. Nhưng ngay cả một mô hình hoàn hảo cũng phải trở nên động, có nghĩa là, được thấm nhập bởi năng lượng của linh hồn. Có một sự khác biệt lớn giữa một ngôi nhà mới xây và vẫn ngôi nhà ấy khi ‘chủ nhân’ của nó đang sống trong đó. Ngôi nhà trở thành tổ ấm và sở hữu chất lượng cuộc sống — bởi vì nó được “sống”.
5. Vận mệnh cuối cùng và bất tử của chúng ta (số phận của phần bất tử trong chúng ta) được thảo luận ở đây: cuối cùng chúng ta sẽ đạt đến tâm thức về “chân ngã cao hơn” (hay linh hồn/Đấng Thái dương Thiên thần) và sau đó, đến tâm thức và quyền năng của Tinh thần Thiêng liêng, Chân thần. Những sức mạnh và sự hiện diện của linh hồn được tiết lộ trên Con đường Đệ tử. Những Quyền năng và sự Hiện diện của Tinh thần Thiêng liêng được tiết lộ trên Con đường Điểm đạo chính thức (bắt đầu từ lần điểm đạo thứ ba). Cuộc điểm đạo lần đầu tiên và lần thứ hai thông thường được thực hiện trên cái có thể được gọi là ‘Con đường Điểm Đạo Dự bị’, và những điểm đạo đồ ở cấp độ thứ nhất và thứ hai là “Điểm đạo đồ dự bị”.
6. Nếu chúng ta có một “vận mệnh bất tử”, đó là bởi vì chúng ta là những thực thể bất tử — những linh hồn, chân thần, tia lửa của Ngọn lửa Duy nhất (One Flame).
7. “Cái tôi cao hơn” trong chúng ta có thể được hiểu theo hai cách. Thứ nhất, thể nguyên nhân của chúng ta, theo một nghĩa nào đó, là cái tôi cao hơn của chúng ta. Do đó, chúng ta có thể đạt được (trong ý thức não bộ vật lý của chúng ta) loại tâm thức mà chúng ta sở hữu khi tập trung tự do trong thể nguyên nhân của chúng ta (thường xảy ra trong những giờ ngủ không mơ màng — và, sau một khoảng thời gian dài hơn hoặc ngắn hơn của sự thư giãn cõi trung giới và cõi hạ trí — giữa các hóa thân).
8. Từ một góc độ khác, đạt đến tâm thức của cái tôi cao hơn có nghĩa là trở nên nhạy cảm với phẩm chất của tâm thức do Đấng Thái dương Thiên thần sở hữu khi Ngài thấm nhập và kích thích thể nguyên nhân. Chúng ta nhớ rằng Thái dương Thiên thần là một “Chân sư”, một “Điểm đạo đồ thuộc mọi cấp độ”, và do đó có tâm thức rất cao so với tâm thức của con người bình thường. Trên thực tế, một Thái dương Thiên thần sở hữu một tâm thức cao hơn tâm thức của một Chân Sư Minh Triết của con người. Chúng ta có thể suy nghĩ về lý do cho điều này.
9. Khi chúng ta đạt được tâm thức Thượng đế, chúng ta đã tái đồng nhất với chân thần mà vốn chúng ta chính đã từng là. Do đó, tâm thức của chúng ta không chỉ là ‘siêu phàm ngã’, mà là ‘siêu cá nhân’.
10. “Hình thể” như được xem xét trong đoạn văn của Chân sư Tây Tạng, có thể được coi là cả phàm ngã và ba vận cụ của nó, và hình thể của thể nguyên nhân. Năng lượng Đức Christ phải truyền cho cả hai.
11. “Đền thờ Solomon” là biểu tượng của thể nguyên nhân và việc hoàn thành Đền thờ của Solomon cũng tương tự như việc đưa thể nguyên nhân đến giai đoạn phát triển hoàn chỉnh — một “thứ đẹp đẽ” sẵn sàng bị phá hủy để tinh thần có thể được giải phóng.
12. “Đời sống cá nhân” được ví như một “quặng mỏ” (mỏ đá) bởi vì những “viên đá” để xây dựng Đền thờ Solomon được đẽo từ “mỏ đá kinh nghiệm của con người” trong ba cõi giới thấp hơn. Những trải nghiệm đó được thể hiện thành những phẩm chất đẹp đẽ xây dựng và tô điểm cho “Đền thờ Solomon”.
13. Làm việc trong ‘mỏ đá của đời sống thấp hơn’ rất khó khăn và tốn nhiều công sức. “Ngôi đền bên trong” chỉ được xây dựng trong một thời gian dài, và công sức bỏ ra để làm như vậy là rất lớn.
14. Rõ ràng là những “viên đá” như vậy trước tiên phải được đẽo từ mỏ đá, cắt cho gần đúng hình dạng, sau đó chà nhám và đánh bóng, trước khi chúng có thể được xây dựng vào Đền thờ với “độ chính xác đúng đắn”.
15. Những phẩm chất cao hơn của chúng ta trước tiên được nắm bắt hoặc đẽo gọt, cắt gọt và tạo hình, và sau đó được tinh luyện trước khi chúng có thể tạo thành một phần của nội dung phát sáng của thể nguyên nhân.
16. Theo một cách khác, chúng ta là những viên đá — thoạt đầu không thích hợp để sử dụng trong hoặc xây dựng vào Đền thờ của Nhân loại. Nhưng sau khi phải chịu nhiều áp lực sàng lọc và loại bỏ quyết liệt, chúng ta cũng đã sẵn sàng để đảm nhận vị trí của mình trong ‘Cấu trúc vĩ đại’ đại diện cho ‘Vẻ đẹp của nhân loại’.
17. Trên Con đường Dự bị có sự “phủ bóng” phàm ngã bởi linh hồn hoặc Chân ngã cao hơn. Tiếp xúc (lần đầu tiên) được thực hiện với một sự hiện diện tinh tế, và sự hiện diện đó ngày càng trở nên ảnh hưởng. Sự hiện diện đó là huy hoàng — tràn đầy, tràn đầy ánh sáng, và ánh sáng bên trong ngày càng trở nên được thể hiện qua ‘Ngôi đền nguyên nhân’ và xuyên qua phàm ngã mờ đục ban đầu.
18. Sự hiện diện đầu tiên là ‘sự hiện diện của Đức Christ’ và nó được phát hiện bởi phàm ngã đang khao khát. Đức Christ phải vào Đền thờ đã được dọn sẵn cho Ngài. Thể nguyên nhân của chúng ta phải trở thành một công cụ của tam nguyên tinh thần.
19. “Đấng Hằng hữu” cao hơn là Thượng đế Thiêng liêng. Đấng Hằng hữu đầu tiên chỉ là “Thiên thần Hiện diện” (mặc dù là một sinh mệnh có vẻ đẹp và kỳ quan tuyệt vời). “Đấng Hằng hữu” đích thực và vĩ đại hơn chính là Bản thể Thượng đế của chúng ta và chỉ có thể trở thành tập trung và sức mạnh khi Thiên thần hiện diện đã truyền vào “Đền thờ Solomon” (thể nguyên nhân), và cũng là “Đền tạm trong Đồng vắng” (phàm ngã). Sau đó người ta có thể tiếp cận Đấng Hằng hữu này như một phàm ngã được linh hồn thấm nhập.
20. “Ngôi đền bên trong” chỉ được xây dựng trong một thời gian dài, và công sức bỏ ra để làm như vậy là rất lớn, kéo dài hàng triệu năm. Nhưng việc xây dựng có ý thức chỉ bắt đầu trên Con đường Dự bị.
21. Ở lần điểm đạo đầu tiên, một người trên Con đường Dự bị dài dằng dặc, cuối cùng cũng ‘sống lại’. Y bắt đầu sống theo một cách mới vốn hoàn toàn khác so với cái gọi là ‘sống’ hàng triệu năm của y trên Con đường Tiến hóa.
22. “Sự sống của Đấng Christ”, đi vào Đền thờ và phủ bóng nó bằng “vinh quang”, nếu xét trên thực tế, là sự hiện diện của Đấng Thái dương Thiên thần rạng rỡ có năng lượng chính là trạng thái thiêng liêng thứ hai (khía cạnh Christ) . Những sinh mệnh phát sáng này, thực sự, rất mỹ lệ khi so sánh với bức xạ của con người bình thường. Các Ngài (theo đúng nghĩa của từ, “deva”) là “những sinh mệnh sáng chói”.
23. Từ một khía cạnh khác, điều phủ bóng Đền thờ là sự hiện diện yêu thương của chính Đức Christ. Luôn luôn cần thiết phải mời Đấng Christ (Đức Di Lặc) vào ‘Đền thờ’ của chúng ta, và vào mọi đền thờ trên thế giới, vì Ngài là Vị Huấn sư vĩ đại của các thiên thần và nhân loại, và vị trí của Ngài là thánh địa bên trong của trái tim.
24. Do đó, chúng ta hiểu rằng một cấp độ sống động hoàn toàn mới được báo hiệu bằng việc điểm đạo lần đầu tiên. Sự sống động tinh thần, hoạt hóa tinh thần, sự nảy mầm tinh thần — tất cả đều là những dạng từ để chỉ việc ‘bước vào sự sống’ xảy ra khi Sự sống của Đấng Christ thực hiện ‘phép màu’ của nó và ‘trong’ hình tướng đang chờ đợi (và chuẩn bị). Sau một trải nghiệm như vậy, cá nhân có thể tự hỏi liệu mình có từng ‘sống’ trước thời điểm đó hay không.
25. Như vậy, trên Con đường Dự bị, nguyên tắc hoạt hóa là một trọng tâm quan trọng. “Anima” có nghĩa là cả “sự sống” và “linh hồn”. Trên Con đường này, hình tướng bên ngoài (hình tướng thái âm) được làm sống động, do đó được đưa vào cuộc sống — tức là, ở một mức độ sống động tinh thần. Đồng thời, hình thức bên trong, thể nguyên nhân (‘hình thức bên trong’, ‘hình tướng thái dương), được đưa vào trạng thái hoạt hóa một cách rạng rỡ, yêu thương. Điểm đạo làm cho thể nguyên nhân này trở thành một yếu tố biểu hiện tích cực.
26. Vậy thì, chúng ta tập hợp lại rằng cuộc điểm đạo đầu tiên không thể được coi là tình cờ hay nhẹ nhàng. Nó đánh dấu một cái gì đó hoàn toàn mới trong trải nghiệm của con người đang phát triển.
Trong khi hành giả ở trên Đường Dự Bị, y được chỉ dạy chính yếu là để tự biết mình, để xác định được các khuyết điểm của mình và để sửa đổi chúng. Lúc đầu, y được dạy để làm việc như một người cứu trợ vô hình, và thường được giữ làm loại công việc này trong khá nhiều kiếp sống. Về sau, khi tiến bộ hơn, y có thể được chuyển đến những công việc chọn lọc hơn. Y được dạy những điều sơ đẳng của Minh triết Thiêng liêng và bước vào các cấp học cuối trong Phòng Học Tập. Y được một vị Chân sư lưu ý, và được sự trông nom (để được giáo huấn cụ thể) của một vị đệ tử của Chân sư này hoặc một điểm đạo đồ, nếu y có nhiều triển vọng đặc biệt.
1. Câu ngạn ngữ lâu đời, “Biết chính mình”, có ứng dụng đặc biệt trên Con đường Dự bị. Cái tôi được biết đến là phàm ngã tam phân. Mặc dù con người suy nghĩ, cảm nhận và hành động, anh ta/cô ta hiểu được những thôi thúc tiềm ẩn đằng sau suy nghĩ, cảm giác và hành động đó. Nhiều điều ngạc nhiên (một số không mấy dễ chịu) sắp sửa xảy ra đối với những người chí nguyện tự quan sát một cách nghiêm túc.
2. Tự tri đòi hỏi sự quan sát của bản thân. Tất cả chúng ta đều phải vượt qua giai đoạn tự nhận thức do Sư Tử thể hiện. Năng lượng của dấu hiệu Sư Tử (liên quan đến bản thân và bản chất của nó) cũng rất quan trọng ở lần điểm đạo đầu tiên, vốn thường xảy ra trong kiếp sống khi Mặt trời ở vị trí Sư tử hoặc cung Mọc là Sư tử.
3. Con Đường Dự bị chỉ ra sự bắt đầu của quá trình sẵn sàng tách khỏi những thứ thuộc về phàm ngã. Trước thời điểm đó, việc tách khỏi đời sống phàm ngã có thể bị ép buộc đối với cá nhân, nhưng hiếm khi được lựa chọn một cách có chủ ý. Sự tách rời thậm chí còn trở nên nghiêm nhặt hơn trên Con đường Đệ tử và Điểm đạo
4. Khi bước vào Con đường Dự bị, ngay cả những giờ ngủ cũng phải được sử dụng một cách xây dựng. Chúng ta trở thành “những người trợ giúp vô hình”. Một “người trợ giúp vô hình” là người phụng sự trên cõi trung giới trong những giờ ngủ. Những người giám sát tinh thần của người chí nguyện sẽ chỉ ra bản chất của công việc cần thực hiện. Trí nhớ về công việc bên trong như vậy có thể đi vào ý thức não bộ đang thức.
5. Trên Con đường Dự bị, một người đang học những điều thô sơ của công việc phụng sự. Công việc như một người cứu trợ vô hình dạy những điều thô sơ này. Tất cả công việc đều được chấm điểm và có thể chuyển sang công việc khác cao hơn khi năng lực để làm việc đó được chứng minh. Người chí nguyện được giao công việc phù hợp với mức độ phát triển của y.
6. Có ba “Phòng” chính: Phòng Vô minh; Phòng Học tập và Phòng Minh triết. Cũng có thể có một Phòng sau này có thể được gọi là “Phòng của Sự sống”. “Phòng” là “lĩnh vực rung động” nơi trải qua các loại huấn luyện tinh thần cụ thể.
7. Phòng Học tập biểu thị các loại trải nghiệm mà con người trải qua khi nguyên khí trí tuệ thức tỉnh và trưởng thành.
8. Trải nghiệm trong “Phòng Minh triết” bắt đầu với lần điểm đạo đầu tiên. Trong Phòng Minh triết, một người đang trở thành một đệ tử chân chính và đã bước lên cái mà trong chiêm tinh học bí truyền được gọi là “Thập giá cố định”
9. Trải nghiệm của Con đường Dự bị xảy ra trong “lớp cuối cùng của Phòng học tập”, có nghĩa là một trong những kinh nghiệm cuối cùng của “Thập giá khả biến” (“Thập giá của nhiều thay đổi”), trước khi kinh nghiệm của Phòng Minh triết và “Thập giá cố định”.
10. Con đường Dự bị chắc chắn là một giai đoạn bắt đầu trong việc trau dồi đời sống linh hồn. Trên Con đường đó, các chi tiết của Minh triết ngàn đời không phải là lĩnh vực quan tâm hàng đầu. Chính nền tảng tinh thần đang được xây dựng, và do đó, trọng tâm chính là các nguyên lý.
11. Phòng Minh triết, trong đó Minh triết Thiêng liêng được truyền đạt bao gồm một lãnh vực rộng lớn của kinh nghiệm bên trong. Người chí nguyện chỉ sẵn sàng cho những kinh nghiệm “thô sơ” của minh triết như vậy.
12. Thật thú vị khi xem xét sự hướng dẫn bên trong đi kèm với quá trình phát triển tinh thần cá nhân. Người chí nguyện đang ở trong tình trạng tương đối vô minh, và không nhận thức được những người đã nhận ra mình. Tuy nhiên, anh ấy / cô ấy được biết đến bởi một Chân sư và thường nhận được sự hướng dẫn nội tâm từ một kiểu đệ tử tiến hóa nhất định. Nếu người tập sự có triển vọng đặc biệt, người hướng dẫn của họ có thể là điểm đạo đồ.
13. Trên thực tế, người ta nói rằng mọi người chí nguyện chân chính đều được biết đến với Vị Thầy của tất cả các Huấn sư — Đức Christ.
14. Những người bình thường thì không được các Chân sư “biết đến”. Sẽ không phục vụ mục đích hữu ích nào cho một Chân sư nếu để ý đến một cá nhân trung bình không có khát vọng. Tất cả các việc ghi nhận và đào tạo tiến hành theo Luật tiết kiệm.
15. Thật là bất thường khi người trên con đường Dự bị nhận ra rằng mình được những sinh mệnh cao hơn này biết đến và công nhận. Điều này cho thấy có nhiều điều liên quan đến quá trình tiến hóa của chúng ta mà chúng ta chưa biết vì nó xảy ra ở các mức độ rung động không được bộ não vật lý ghi lại và ghi nhớ.
Mỗi đêm trong khoảng từ mười giờ tối đến năm giờ sáng trên khắp thế giới, có các lớp học được những điểm đạo đồ cấp một và cấp hai tổ chức cho các đệ tử nhập môn và các đệ tử dự bị, để việc giáo huấn được hoàn toàn liên tục. Họ quy tụ trong Phòng Học Tập và phương pháp rất giống như trong các trường Đại học lớn,— các lớp theo thời khóa, công việc thực nghiệm, thi [65] cử, tuần tự được lên lớp và tiến tới khi vượt qua được các cuộc trắc nghiệm. Một số Chân nhân trên Đường Dự Bị theo học ngành tương tự như trường Trung học; những người khác thì được thu nhận ngay vào Đại học. Tốt nghiệp khi được điểm đạo, và vị điểm đạo đồ chuyển sang Phòng Minh Triết.
1. Chân sư Tây Tạng sử dụng một phép tương ứng minh họa rút ra từ lĩnh vực giáo dục. Theo một cách nào đó, toàn bộ quá trình trên hành tinh của chúng ta là của một trường học. Chúng ta có nên hiểu những gì Ngài nói với chúng ta ở đây theo nghĩa đen không? Tôi nghĩ vậy. Một số có trí nhớ về những “lớp học” này — nhớ lại hoạt động như một môn sinh hoặc một giảng viên, hoặc cả hai.
2. Ngôn ngữ được sử dụng ở đây phải được nghiên cứu cẩn thận. Chúng ta thấy rằng, trong số những người được cung cấp các lớp học, là những “đệ tử được chấp nhận”. Không ai có thể trở thành một đệ tử được chấp nhận trừ khi người đó đã vượt qua cấp [điểm đạo] đầu tiên, “Sự điểm đạo Khai sinh”. Đây, ít nhất, là quy tắc — mặc dù trường hợp ngoại lệ rất hiếm có thể tồn tại. Trên thực tế, giai đoạn được chấp nhận làm đệ tử có nhiều khả năng xảy ra sau điểm giữa chừng, giữa cấp độ thứ nhất và thứ hai. Do đó, chúng ta thấy rằng, trong đoạn văn đang thảo luận, có thể có một bức màn che đậy ở đây. Khi Chân Sư Tây Tạng sử dụng các từ “điểm đạo ở cấp độ thứ nhất và thứ hai”, thì Ngài gần như chắc chắn có nghĩa là, “điểm đạo đồ ở cấp độ thứ ba và thứ tư”, vì chúng ta nhớ rằng cuộc điểm đạo thứ ba thường được các Chân sư coi là cuộc điểm đạo thực sự đầu tiên. Do đó, bằng cách tương ứng, cuộc điểm đạo thứ hai, trong bối cảnh này, là lần thứ tư.
3. Chúng ta có thể thấy quá trình giáo dục được tổ chức tốt và nhịp nhàng như thế nào, đảm bảo rằng tất cả các múi giờ sẽ được tham gia. Có lẽ, một số lớp sẽ nhỏ hơn những lớp khác, tùy thuộc vào các khu vực trên hành tinh của chúng ta mà lớp đó xảy ra. Có một số múi giờ trong Thái Bình Dương, có rất ít người, nếu có, và có lẽ là rất ít đệ tử.
4. Tuy nhiên, trong các lớp như vậy, ngôn ngữ có lẽ sẽ không phải là một yếu tố phân biệt, vì ở các cõi giới bên trong, tư tưởng (bất kể nó có thể được diễn đạt bằng ngôn ngữ nào) có xu hướng được chuyển thành ngôn ngữ riêng của một người. Tuy nhiên, từ góc độ thực tế, có thể các nhu cầu ngôn ngữ thực tế của học viên có thể được đáp ứng bởi các giáo viên tiên tiến có đủ điều kiện về ngôn ngữ đó.
5. “Phòng Học tập”, tất nhiên, không phải là một “phòng” theo nghĩa đen; nó là một “miền rung động”, chịu các năng lượng và dòng năng lượng cụ thể. Theo ngôn ngữ của huyền linh học, mỗi “hội trường” được ngăn cách tạm thời với mọi “hội trường” khác. Mặc dù những người có khả năng rung động ở “hội trường” cao hơn có thể “hạ rung động” xuống “hội trường” thấp hơn, nhưng điều ngược lại là không đúng. Chẳng hạn, những rung động trong “Phòng học tập” sẽ không thể tập trung vào “Phòng Minh triết” — chỉ cho đến khi, họ đạt được tần số rung cần thiết.
6. Chúng ta thấy rằng Con đường Dự bị có các lớp và cấp độ của nó, cũng giống như Con đường Đệ tử (các phần trong đó thường được phân biệt thành các loại như “Đệ tử Chấp nhận”, “Đệ tử cam kết”, “Đệ tử Được chấp nhận”,“Đệ tử cao cấp”).
7. Sự khác biệt giữa trường trung học và trường đại học cần được suy ngẫm. Sự phân biệt này chỉ ra sự khác biệt giữa người chí nguyện và người chí nguyện tiến hóa. Rõ ràng, trong một trường đại học, các lớp học được cung cấp tăng độ sâu và khó. Người ta cũng có thể giả định (lý tưởng) rằng sinh viên trong trường đại học cần ít sự giám sát thận trọng hơn, và tự định hướng nhiều hơn và có trách nhiệm hơn.
8. Khi tốt nghiệp tại Phòng Học tập xảy ra, nó giống như tốt nghiệp Đại học. Một sinh viên tốt nghiệp như vậy, bước vào Phòng Minh triết với tư cách là điểm đạo đồ cấp độ đầu tiên, nên được coi là một “đệ tử” thực thụ mặc dù chưa phải là một “đệ tử được chấp nhận”.
9. Có rất nhiều sự tương đồng hiệu quả giữa các hệ thống phát triển học thuật và huyền bí. Cái được gọi là một trình độ/bằng cấp (biểu hiện của việc đạt được và tốt nghiệp) được cung cấp trong cả hai hệ thống. Ý tưởng về trình độ/bằng cấp bắt nguồn từ các trường huyền bí. Trên thực tế, nó bắt nguồn từ ngôi sao Sirius, với ba bằng cấp lớn mà tất cả các bằng cấp học thuật và tinh thần của chúng ta đều là những phản ánh mờ nhạt nhất.
10. Tại một thời điểm nào đó phát triển học thuật và tinh thần sẽ được thống nhất. Trong thế giới phương Tây thế tục của chúng ta, chúng trở nên tách biệt thành các tổ chức học thuật và tinh thần. Tuy nhiên, mỗi bên vẫn giữ nguyên khái niệm về bằng cấp. Tuy nhiên, nói đúng ra thì nguồn gốc thực sự của khái niệm này là tinh thần hơn là học thuật.
11. Các bằng cấp được cung cấp trong các tổ chức học thuật, theo một cách nào đó, là ‘diễn tập’ để đạt được các bằng cấp thực sự được trao thông qua việc điểm đạo. Khi quan điểm và ý thức về các giá trị của con người được điều chỉnh một cách chính xác hơn, điều này sẽ xảy ra.
12. Điều thú vị là “việc tốt nghiệp” nhận học sinh vào “Phòng Minh triết”. Việc đạt được cấp độ điểm đạo hành tinh đầu tiên (“Sự ra đời của Đức Christ ở Bethlehem”) là một loại tốt nghiệp. Nhưng sau đó, trong các tổ chức học thuật, có “Bằng Thạc sĩ” và “Bằng Tiến sĩ” — thậm chí là “Bằng Sau Tiến sĩ”). Bằng cấp cuộc điểm đạo thứ ba (Transfiguration) có thể được ví như “Bằng Thạc sĩ” thông thường, và việc đạt được bằng cấp thứ năm (Chân sư thực sự) cho Tiến sĩ học thuật.
13. Điều đáng chú ý là mức độ tổ chức xảy ra trên các cõi giới bên trong. Trên những cõi giới đó (mặc dù những hiện tượng xảy ra trên chúng tương đối mơ hồ đối với những ai bị giới hạn trong ý thức não bộ), sự hỗn loạn không chiếm ưu thế. Trên thực tế, các kiểu tổ chức tinh thần bên ngoài, các quy trình có trật tự và các nghi lễ thực sự là sự phản ánh của các quy trình ‘bên trong’, có tính tổ chức cao.
14. Các bằng cấp được hoàn thành dần dần, khi bạn leo lên từng bước ‘Bậc thang của sự tiến hóa về mặt tinh thần’. Việc hoàn thành dần dần này dẫn đến hoàn thành tốt nghiệp, xảy ra khi một người đã “đạt bằng cấp này”.
15. Trong các cuốn sách của Chân sư DK và Alice Bailey, có bốn mươi bốn tham chiếu về “Phòng Minh triết”. “Phòng” này được đưa bước vào ở cấp độ điểm đạo đầu tiên: “Hành giả đi qua, trong lần điểm đạo này, ra khỏi Phòng học tập tiến vào Phòng Minh triết.” (IHS 84)
16. Trong các quá trình mà chúng ta đang thảo luận ở đây, “tốt nghiệp”, do đó, xảy ra ở cấp độ đầu tiên. Tuy nhiên, có những kiểu tốt nghiệp khác và cao cấp hơn đang xuất hiện ở phía trước.
Các Chân nhân tiến bộ và những người có khuynh hướng tinh thần nhưng chưa ở trên Đường Dự Bị, thì dự các buổi giảng huấn của các đệ tử, và đôi khi các điểm đạo đồ cũng tổ chức những lớp học lớn để giúp ích họ. Công việc của họ có tính sơ đẳng hơn, dù vẫn là huyền môn theo quan điểm thế gian, và họ được trông nom học tập để trở thành các vị cứu trợ vô hình. Các vị cứu trợ vô hình thường được tuyển chọn trong số các Chân nhân tiến bộ. Những người rất tiến hoá, những người đang trên Đường Dự Bị và gần được điểm đạo, thường làm việc nhiều hơn trong những việc có thể gọi là công tác ngành, họp thành một nhóm trợ lý cho các thành viên của Thánh đoàn.
1. Chúng ta nhận thấy nguyên tắc phân cấp trong công việc. Tất cả hoạt động theo Luật Kinh tế (Luật Tiết Kiệm). Mỗi cấp độ thăng tiến đều có một kiểu người hướng dẫn phù hợp với nhu cầu của nó, những người tiến bộ vượt bậc thường không được tuyển dụng để hướng dẫn những người có trình độ đạt được vốn có thể được nâng lên đủ bởi những người hướng dẫn ở cấp độ thấp hơn.
2. Chúng ta thấy rằng, mặc dù các đệ tử là những người thường hướng dẫn Chân nhân tiến bộ và thiên về tinh thần, đôi khi một điểm đạo đồ sẽ trở thành người hướng dẫn cho một nhóm lớn học viên tương đối mới — có thể là vì mục đích truyền cảm hứng. Điều này tương tự như những tình huống ở các trường đại học hiện đại khi các giảng viên tiên tiến thỉnh thoảng tổ chức các lớp học lớn cho những người mới bắt đầu.
3. Cần lưu ý rằng khi một người trên Con đường Dự bị, người ta đã hơn cả một “Chân nhân tiến bộ”, vàhơn một người chỉ đơn giản là thiên về tinh thần. Bước trên Con đường Dự bị đã là một thành tựu tinh thần đáng kể và chỉ ra rằng một cấu trúc nhất định của suy nghĩ đúng đắn, lối sống đúng đắn và hành vi đúng đắn đã được xây dựng— và không chỉ đơn thuần là một hy vọng hay một ý định.
4. Thứ hạng tinh thần của con người có thể được liệt kê như sau:
1. Nhân loại trung bình không khát vọng (theo nhiều cấp độ và phân loại của nó)
2. Các Chân nhân tiến bộ (Advanced Egos)
3. Những người thiên hướng về tinh thần.
4. Các Chân nhân rất Cao cấp, gần như đang trên Con đường Dự bị
5. Những người bước trên Con đường Dự bị: Những người Chí nguyện
6. Các Đệ tử Dự bị, những người thực sự là những Người Chí nguyện với sự tập trung tinh thần ngày càng cao. Các Đệ tử dự bị là ” Các Đệ tử Chấp nhận “
7. Các Đệ tử Cam kết
8. Các Đệ tử được Chấp nhận
9. (Ba loại trên bao gồm các Điểm đạo tập sự của Cấp độ Thứ nhất và Cấp độ thứ hai).
10. Điểm đạo đồ — những người đã vượt qua cuộc điểm đạo thứ ba.
5. Điều này đưa chúng ta đến nhận thức rằng các học viên trên Con đường tinh thần thường đánh giá quá cao những thành tựu của họ, và nghĩ rằng họ đứng ở một vị trí cao của thành tựu tinh thần chỉ đơn giản vì họ “có khuynh hướng tinh thần”, hoặc vì họ đã trở nên quen thuộc một cách hợp lý (thông qua việc đọc) với tính chất và yêu cầu của các lần điểm đạo cao hơn. Thiên hướng về tinh thần không giống như việc thực sự bước chân lên một trong những giai đoạn của Thánh Đạo. Tự đánh giá thực tế là một nhu cầu lớn đối với những ai muốn bước trên Thánh Đạo với sự khiêm tốn— phẩm chất cần thiết để thành công
6. Chúng ta có thể thấy rằng chương trình cho phép một người trở thành “người trợ giúp vô hình” bắt đầu ngay cả trước khi một người bắt đầu bước vào Con đường Dự bị. Rõ ràng là định hướng hữu ích hoặc phụng sự là một yếu tố phân biệt lớn giữa những người thực sự bước vào Con đường và những người chỉ đơn giản là con người tương đối tiến bộ hoặc những người có khuynh hướng tinh thần đang suy đoánvề bản chất của Con đường.
7. Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng là “Người trợ giúp vô hình” phụng sự nhân loại theo nhiều cách khác nhau trong những giờ ngủ khi ở trong thể cảm dục. Việc những người trợ giúp vô hình được “tuyển dụng” cho thấy rằng có những linh hồn cao cấp đang tìm kiếm những người trợ giúp. Họ phải tiếp cận những người có năng lực và tìm cách đưa họ vào làm việc.
8. Mức độ phụng sự (hoàn thành hầu hết trong giờ ngủ) được thảo luận ở đây. Chúng ta có thể thấy toàn bộ cấu trúc của ‘sự hướng dẫn và công việc tinh thần’ được phân loại như thế nào, và được điều chỉnh như thế nào bởi nguyên tắc thứ bậc. Những người trợ giúp vô hình có thể được sử dụng để hỗ trợ các thành viên trung bình của nhân loại; những Chân nhân rất cao cấp (những người gần như đang trên Con đường Dự bị), và những người đang bước vào Con đường này, thực sự hoạt động như những trợ lý cho các thành viên của Thánh đoàn. Do đó, mối liên kết bên trong với một số thành viên của Thánh đoàn bắt đầu từ rất lâu trước khi mối liên kết đó có thể được nhận ra trong tâm thức bên ngoài hoặc não bộ, vì hầu hết con người không nhận thức được (với bất kỳ mức độ liên tục nào) về các hoạt động của họ trong những giờ ngủ.
Phương pháp giảng huấn.
Ba ngành giảng huấn trông nom ba thành phần phát triển của con người.
Thứ nhất: Đưa ra giáo huấn theo hướng áp dụng giới luật trong đời sống, tăng tiến đức hạnh, và phát triển tiểu vũ trụ theo các đường hướng vũ trụ. Hành giả được chỉ dạy ý nghĩa của chính mình; y đến mức tự biết mình là một đơn vị toàn vẹn, phức hợp, một hình ảnh thu nhỏ của thế giới bên ngoài. Khi học hỏi các luật của sự sống nơi chính mình, y đến mức thấu hiểu được Đại Ngã, và nhận thức được các định luật cơ bản của thái dương hệ.
1. Phép tương đồng giáo dục được tuân theo, và đó là một điều tốt, có lợi cho việc duy trì một cảm giác cân xứng về trạng thái và thành tựu.
2. Trong phần này, thảo luận về các loại hướng dẫn được cung cấp trong các ‘lớp học’ hàng đêm.
3. Loại hướng dẫn đầu tiên liên quan đến tiểu vũ trụ — con người cá nhân
4. Ba dạng phát triển tiểu vũ trụ đã được thảo luận ở trên. Một liên quan đến kỷ luật và đến dưới hành tinh Sao Thổ. Chúng ta có thể thấy ngay mối quan hệ (bằng tiếng Anh) giữa từ “kỷ luật” và từ “đệ tử”. Một đệ tử chân chính là người có thể áp dụng thành công kỷ luật tinh thần vào cuộc sống của mình.
5. Sự phát triển của đức hạnh có thể được đặt tên là “sự trưởng thành về mặt đạo đức”, và liên quan đến mức độ tích hợp hữu ích của chúng ta vào bối cảnh xã hội của chúng ta. Hành tinh Sao Mộc biểu thị sự ‘tích hợp đạo đức’ của chúng ta vào xã hội.
6. Trong giai đoạn hướng dẫn này, mắt tập trung vào tiền cảnh trước mắt của cuộc sống. Hành giả dường như đứng ở trung tâm của thế giới này, nhưng được dạy để nhận ra rằng y chỉ là sự phản ánh (một cách khá chi tiết) của tổng thể khách quan và chủ quan lớn hơn. Y học cách khái quát hóa từ cấu trúc và hoạt động tức thì của mình sang cấu trúc và chức năng rộng hơn, lớn hơn. Y học cách giải thích bản chất và bối cảnh xung quanh của mình theo Luật Tương đồng (hoặc phiên bản nghiêm nhặt hơn của nó — Luật Tương ứng).
7. Trong giai đoạn tăng trưởng đầu tiên này, các hành tinh Sao Kim cũng tham gia, chuyển tải lực hút linh hồn lẫn nhau. Sao Kim cũng đại diện cho nguyên lý ‘Tự phản tỉnh’; từ lâu, vào thời điểm biệt lập ngã thức, ảnh hưởng của sao Kim đã nổi bật trong việc tạo ra ‘tâm thức tự phản tỉnh’ (tức là tâm thức biệt ngã hóa).
8. Như vậy, chúng ta thấy ảnh hưởng của Sao Thổ, Sao Mộc và Sao Kim đều tham gia vào việc tạo ra sự tiến triển trên giai đoạn này của Đường Đạo.
Thứ nhì: Đưa ra giáo huấn về đại vũ trụ, mở rộng sự am hiểu trí thức của y về vận hành của vũ trụ. Kiến thức về các giới trong thiên nhiên, giáo huấn về những định luật của các giới ấy, và y được truyền dạy sự vận hành của các luật đó trong tất cả [66] các giới và trên mọi cảnh giới. Y đạt được một nguồn sâu xa các kiến thức tổng quát, và khi đã đến mức giới hạn của mình, y được gặp những người giúp y tiếp tục tiến tới kiến thức bách khoa. Khi đã đạt được mục tiêu, y có thể không biết hết mọi chi tiết còn cần phải biết trong toàn bộ ba cảnh giới, nhưng y đã thủ đắc phương cách để hiểu biết, các nguồn kiến thức và những kho chứa các thông tin. Một vị Chân sư bất cứ lúc nào cũng có thể tìm ra bất cứ điều gì trong bất cứ vấn đề nào, không chút khó khăn.
1. Hướng dẫn chuyển sang bản chất của đại vũ trụ, hoặc bối cảnh thế giới lớn hơn, trong đó tiểu vũ trụ đóng vai trò nhỏ bé của nó.
2. Chúng ta có thể thấy rằng trên Con đường Dự bị, sự phát triển trí tuệ được nhấn mạnh. Do đó, trọng tâm không chỉ tập trung vào thể cảm dục, mặc dù nó có thể là trung tâm chính của hoạt động và động lực, nhưng là hướng tới phía trước, nhằm đạt được thành tựu cuối cùng của sự phân cực trí tuệ.
3. Cái trí, do đó, chắc chắn và phát triển nhanh chóng, mặc dù vẫn chưa thể nói rằng người đó được “phân cực về mặt trí tuệ” — một tình trạng thực sự và cuối cùng chỉ tăng lên ở điểm giữa của lần điểm đạo thứ hai và thứ ba.
4. Giai đoạn phát triển đang được thảo luận ở đây dường như chỉ ra hoạt động của Thủy Tinh và dấu hiệu Song Tử. Chúng ta có thể thấy rằng trong sự phát triển tinh thần thực sự, trí tuệ đóng một vai trò quan trọng. Loại học tập được tham chiếu ở đây cuối cùng dẫn đến mức độ đạt được đó (đặc điểm của một Chân sư), trong đó tất cả kiến thức hành tinh đều có thể truy cập được.
5. Về mặt thực tế, chúng ta có thể thấy giai đoạn phát triển này hiện đang được tạo điều kiện thuận lợi như thế nào bởi sự phát triển của Internet toàn cầu — World-Wide Web.
6. Có một kiến thức chung được đào sâu và mở rộng, và do đó, chúng ta có thể thấy cách các cung của Sao Mộc và Sao Thổ được thêm vào các cung của Sao Thủy để đảm bảo đạt được điều này.
7. Một nguyên tắc chung quan trọng được chỉ ra khi mô tả sự phát triển tâm thức của người đệ tử: “khi hành giả đến vùng ngoại vi của chính mình, y sẽ gặp những người dẫn dắt y đến với kiến thức bách khoa”. Một khi chúng ta đã cạn kiệt tất cả các nguồn lực riêng của chúng ta, chúng ta sẽ không bị bỏ lại trong ‘sự giam hãm thất vọng’. Chúng ta được “gặp gỡ” bởi những người sẵn sàng dẫn dắt chúng ta vượt ra ngoài vòng giới hạn của chính chúng ta. Vì vậy, với sự giúp đỡ của các giáo viên, chúng ta chuyển đổi thực nghiệm từ tiểu vũ trụ sang đại vũ trụ.
8. Trong khi giai đoạn phát triển đầu tiên (tiểu vũ trụ) có thể được coi là đến dưới ảnh hưởng chung của cung ba (đối với con người cá nhân bị điều kiện hóa, nói chung, bởi cung ba), giai đoạn mở rộng được thảo luận ở đây phát triển, nói chung, dưới cung và trạng thái thứ hai, cũng như pha tiếp theo (pha tổng hợp) phát triển dưới cung một (mặc dù nó là trạng thái thứ hai của cung một).
9. Cũng có sự hướng dẫn về “các giới của tự nhiên” — những nhóm hành tinh bao gồm tuyệt vời chứa nhiều chân thần trong mối quan hệ ở một giai đoạn phát triển nhất định. Bảy giới tự nhiên, chúng ta sẽ nhớ, là:
1. Giới Khoáng vật
2. Giới Thực vật
3. Giới Động vật
4. Giới Nhân loại
5. Giới Linh hồn
6. Giới Sự sống Hành tinh
7. Giới Sự sống Thái dương
8. Đối với những giới này, phải kể đến Giới Thiên thần Deva vĩ đại, vốn có sự tương đồng trong tất cả bảy bộ phận được liệt kê ở trên.
Đương nhiên có những giới khác ngoài những giới được đặt tên, nhưng chúng sẽ không liên quan ngay lập tức đến con người vì những hạn chế hiện tại của tâm thức y.
1. Các giới có sự tương đồng với các luân xa hành tinh. Ví dụ, Giới Nhân loại có thể được hiểu như một luân xa cổ họng hành tinh; Thánh Đoàn (Giới Linh hồn) như một luân xa tim của hành tinh.
2. Một bộ phận của Sự sống Hành tinh được gọi bằng cái tên, “Nirmanakayas” (Những đấng Chiêm ngưỡng Thiêng liêng). Nhóm này nằm giữa Thánh Đoàn và Shamballa và có thể được ví như một Trung tâm Ajna hành tinh. ( Câu nói Nhóm Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian là trung tâm ajna của hành tinh mang ý nghĩa ở một cấp bậc thấp hơn nhiều.)
3. Giới Sự sống Thái dương bao gồm những Vị sống và di chuyển ở Shamballa. Những Sự sống này đại diện cho một trung tâm đầu của hành tinh.
4. Chúng ta lưu ý rằng khi người chí nguyện phát triển, kiến thức của y cũng tăng lên nhanh chóng. “Tài nguyên sâu sắc” về kiến thức trở thành của y, và cuối cùng kiến thức đó trở thành bách khoa toàn thư — bao trùm hành tinh (đặc biệt là liên quan đến ba cõi thấp hơn).
5. Chân sư D.K. cho chúng ta biết một điều đáng kinh ngạc về năng lực kiến thức của một Chân sư. Nếu một Chân sư không biết điều gì đó từ kinh nghiệm cá nhân, thì Ngài biết làm thế nào để biếtNgài có thể tham khảo ý kiến của một Chân sư khác, những người biết từ kinh nghiệm cá nhân, hoặc Người chỉ đơn giản là biết con đường đi vào “nguồn kiến thức và nguồn thông tin”. Tất cả tri thức trong tam giới là của Ngài.
6. Chúng ta có thể thấy rằng đoạn này mô tả một quá trình dẫn từ Con đường Dự bị đến sự toàn tri bậc chân sư (ít nhất là đối với tam giới).
7. Điều mà chúng ta lao động rất cần mẫn — cụ thể là việc tiếp thu kiến thức, là một vấn đề dễ dàng đối với Chân sư. Nhiệm vụ của Ngài là áp dụng kiến thức bách khoa của Ngài về ba kiểu kiến thức thấp hơn với minh triết và đáp ứng theo Thiên cơ.
Thứ ba: Đưa ra giáo huấn về những điều có thể gọi là tổng hợp. Người môn sinh chỉ có thể nhận được kiến thức này khi thể trực giác của y đã điều hợp. Đó là khả năng lãnh hội thực sự nội môn về định luật trọng trường hay hấp dẫn (luật căn bản của thái dương hệ này, là hệ thứ hai) với tất cả các hệ luận của nó. Người đệ tử học ý nghĩa của sự cố kết huyền bí và sự thống nhất nội tại đang giữ thái dương hệ thành một đơn vị đồng nhất. Phần lớn giáo huấn này thường được truyền thụ sau cuộc điểm đạo thứ ba, nhưng phần sơ khởi đã có trong các giai đoạn đầu của cuộc huấn luyện.
1. “Tổng hợp” là một thuật ngữ chỉ trạng thái quan hệ (hay đúng hơn là trạng thái ‘đồng nhất thiêng liêng’) rất khó mô tả.
2. Định Luật Tổng hợp là định luật đầu tiên trong ba định luật vũ trụ: Định Luật Tổng hợp, Định Luật Hấp dẫn và Định Luật Kinh tế (Tiết Kiệm).
3. Giai đoạn phát triển của đệ tử tập sự này diễn ra dưới cả cung một và cung hai. Tổng hợp, theo một cách nào đó, là trạng thái thứ hai của ý chí. Tổng hợp có thể được coi là trạng thái thứ hai của cung một, hoặc trạng thái đầu tiên của cung hai.
4. Sau lần điểm đạo thứ ba, linh hồn, hay nguyên khí thứ hai, nằm trong sự kiểm soát không thể tranh cãi, và do đó, việc học hỏi liên quan đến luật vũ trụ thứ hai (Hấp dẫn) và trạng thái thứ hai của ý chí (Tổng hợp) có thể được theo đuổi thành công.
5. Luật Cố kết cũng là luật thứ haithuộc thái dương hệ, và có thể được coi như được biểu thị bởi hành tinh Sao Mộc (là “lực kết hợp tất cả lại với nhau” — EA 126). Chúng ta có thể suy ra mối quan hệ của Sao Mộc với luật hấp dẫn.
6. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư Tây Tạng nói về một “sự thống nhấtbên tronggiữ hệ thống lại với nhau như một “đơn vị đồng nhất”. Tiểu đệ tử (Chela), ở giai đoạn này, học cách nhìn xa hơn sự phân mảnh của thế giới bên ngoài và hướng tới một yếu tố nội tại, thống nhất. Theo một cách nào đó, y không còn bị đánh lừa bởi ‘tâm thức chia rẽ’7. Rõ ràng là kiểu hướng dẫn thứ ba này mà người trên đường Dự bị nhận được cuối cùng sẽ khắc phục bất kỳ cảm giác tách biệt nào trong ý thức của họ.
8. Điều thú vị là sự hướng dẫn để hiểu và nhận thức về tính Tổng hợp được bắt đầu ở giai đoạn phát triển sớm hơn nhiều so với giai đoạn mà nó được hoàn thiện. Con đường Dự bị, như thường được hiểu, bắt đầutrướclần điểm đạo đầu tiên. Trong phần này của IHS chúng ta đang thảo luận về các quy trình liên quan đến Con đường Dự bị và đào tạo thô sơ về tính Tổng hợp là một trong những quy trình đó. Tuy nhiên, sự hiểu biết sâu sắc hơn và mối quan hệ với Tổng hợp xảy ra ở và sau cấp độ điểm đạo thứ ba.
9. Vì vậy, chúng ta thấy rằng việc hướng dẫn về Tổng hợp có thể kéo dài nhiều kiếp, trong khoảng từ cấp độ một đến cấp độ thứ hai, nhiều kiếp sống (tượng trưng là ba mươi kiếp) có thể trôi qua.
10. Những người có chút ít nuôi dưỡng tinh thần có thể bắt đầu, ngay cả ở giai đoạn đầu đó (tức là giai đoạn của Con đường Dự bị), để suy nghĩ và nói về tính duy nhất. Xu hướng nhận thức, suy nghĩ và lời nói này chỉ ra sự phát triển theo hướng tổng hợp được đề cập đến ở đây.
11. Thể Bồ đề hoặc trực giác được phối kết dưới ảnh hưởng Hải Vương tinh, do đó chúng ta có thể thấy hành tinh này góp phần vào cảm giác tổng hợp, thấm nhập, hợp nhất và xóa bỏ ranh giới ảo tưởng ngày càng tăng. Điều này khác với việc xóa bỏ các ranh giới một cách ảo tưởng (và do đó, không có thực) được cố gắng (thông qua các phương cách sai lầm) bởi những người vẫn còn bị ảo cảm.
Chân sư và Đệ tử.
Các đệ tử và các Chân nhân tiến hoá cao trên Đường Dự Bị nhận giáo huấn vào thời gian đặc biệt này nhằm hai mục đích nhất định:−
(a) Để trắc nghiệm mức thích ứng của họ cho công tác đặc biệt trong tương lai, loại công việc mà chỉ có các vị Hướng Dẫn nhân loại biết rõ. Họ được thử nghiệm khả năng sinh hoạt cộng đồng để nhằm chọn những người thích hợp đưa vào nhóm căn chủng thứ sáu. Họ được thử nghiệm trong các đường hướng công tác khác nhau, nhiều việc hiện nay chúng ta không thể hiểu, nhưng theo thời gian sẽ trở nên các phương pháp phát triển bình thường. Các Chân sư cũng trắc nghiệm để tìm những người mà trực giác đã đạt đến một mức phát triển cho thấy thể bồ-đề bắt [67] đầu phối kết, hoặc—nói đúng hơn—đã đến lúc các phần tử thuộc phân cảnh thứ bảy của cảnh giới bồ-đề có thể nhận thấy được trong hào quang của Chân nhân. Khi được như vậy, các Ngài mới có thể tin tưởng tiến hành công tác giáo huấn, và biết rằng môn sinh sẽ thấu hiểu một số sự kiện truyền đạt cho họ.
1. Chúng ta lưu ý rằng trong đoạn này, Chân sư D.K. gọi những người đang bước vào Con đường Dự bị là “các Chân Ngã cao cấp”. Nhưng trước đó Ngài đã nói về “những Chân Ngã tiến bộ và có khuynh hướng tinh thần, những người chưa đi trên Con đường Dự bị”. Có lẽ không có nhiều sự khác biệt giữa một Chân Ngã tiến bộ và những người đi trên Con đường Dự bị (tất cả những người này ít nhất phải là “những Chân Ngã tiến bộ”). Nếu có sự khác biệt, đó có thể là sự khác biệt về mức độ khát vọng, vì có thể là một “Chân Ngã cao cấp” nhưng chưa khao khát Con đường Thánh thiện.
2. Chúng ta biết trong đoạn này về các phương thức hướng dẫn không ngờ đến, cho các mục đích mà những người được hướng dẫn không hiểu được.
3. Nội dung của đoạn này là huyền bí và bí ẩn nhất. Chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta, với tư cách cá nhân, biết mình sẽ đi đâu, nhưng kiến thức của chúng ta về vận mệnh thực sự rất thiển cận và tương đối. Như là những linh hồn, chúng ta biết nhiều hơn, mặc dù những kiến thức như vậy thường không có sẵn cho ý thức não bộ của chúng ta.
4. Tầm nhìn xa của Hướng dẫn viên của Cuộc tiến hóa được chỉ ra ở đây. Các Vị là những nhà tiên tri và hoạt động dưới sự biểu hiện cao của năng lượng Nhân mã. Các Ngài là ‘Nhà tiên tri về một tương lai thiêng liêng sẽ được tiết lộ bởi Thiên Cơ’.
5. Vào thời điểm này trong lịch sử, những người tập sự đang được kiểm tra khả năng tham gia trong tương lai vào các quy trình mà họ hoàn toàn không biết. Thánh đoàn đặt kế hoạch của mình trước thời điểm thành hiện thực.
6. Người ta thắc mắc về tầm quan trọng của cái ở đây được gọi là “năng khiếu trong cuộc sống cộng đồng”. Chúng ta có thể đánh giá rằng năng khiếu này sẽ rất quan trọng trong Thời đại sắp tới, vì Bảo Bình là dấu hiệu của nhóm hoặc “cộng đồng”. Một người thành công trong sinh hoạt cộng đồng đã có thể vượt qua “mối quan hệ huyết thống”. Chúng ta nhớ rằng “Sao Hỏa là khách quan và đầy máu” trong khi Sao Hải Vương (tâm thức trực giác) là “chủ quan và tràn đầy sức sống”. Trong trường hợp này, sao Hỏa cai quản cõi cảm dục và sao Hải Vương (ND: cai quản) cõi bồ đề.
7. Một số kỹ thuật huyền bí nhất định được đưa ra ở đây liên quan đến “các phân tử” (trong cõi phụ thứ sáu và thứ bảy của cõi bồ đề) có thể được phát hiện trong hào quang của cá nhân đang điều phối thể bồ đề hoặc trực giác. Điều thú vị là thuật ngữ “nguyên tử” không được sử dụng, mặc dù ở những nơi khác trong Giáo huấn, nó vẫn có. Có lẽ, một phân tử là một cấu trúc phức tạp hơn một nguyên tử; điều này chỉ ra bản chất prakriti (vật chất) của các cõi “vô sắc tướng” cao hơn. Xét về mặt kỹ thuật, “nguyên tử” của các cõi phụ thấp là phức tạp và “phân tử”, trong khi các nguyên tử của cõi phụ nguyên tử của bất kỳ cõi giới hệ thống nào là đơn giản, không phức tạp, và do đó, phi phân tử (ít nhất, phản ánh cõi giới đó). Các nguyên tử dường như đơn giản của một cõi có thể được chia thành ‘các đơn thể phức tạp’ liên quan đến các cõi giới tinh tế hơn. (Để biết thêm thông tin về những dòng này, hãy tham khảo Hóa học Huyền bí, của Annie Besant và C.W. Leadbeater).
8. Có nhiều điều trong phần này của IHS về việc phối hợp và sử dụng vận cụ bồ đề. Cuối cùng thì giới nhân loại là một giới trực giác. Các chân thần nhân loại tìm thấy khu vực biểu hiện lớn nhất của họ trên cõi bồ đề / trực giác. Tiến bộ tinh thần thực sự trong kỷ nguyên hiện đại liên quan đến việc chuyển từ tập trung trí tuệ sang tập trung trực giác. Trong quá trình này, ba hành tinh sao Kim (thượng trí), sao Thủy liên kết giữa hạ trí, thượng trí và trực giác và sao Hải Vương (trực giác) đều có liên quan.
9. Sự bắt đầu của việc chuyển dịch từ trí tuệ sang trực giác được báo hiệu bởi sự sẵn sàng của nhiều thành viên trong gia đình nhân loại cho lần điểm đạo đầu tiên. Một lượng nhỏ ảnh hưởng của cõi bồ đề bắt đầu từ thời điểm này.
10. Lưu ý rằng chỉ có vật chất thuộc hai cõi phụ bồ đề thấp hơn có liên quan đến cấp độ khai mở này. Khả năng tiếp cận với các cõi phụ bồ đề cao hơn sẽ cho thấy mức độ khai mở khá cao liên quan đến các cuộc điểm đạo cao hơn.
11. Một số loại hướng dẫn chỉ có thể được hiểu bởi những người mà trực giác (năng lực bồ đề) đang thức tỉnh. Những cá nhân như vậy có thể trực nhận những ý tưởng đằng sau các công thức của từ, và do đó không bị mắc kẹt trong các công thức của trí cụ thể (hoặc thậm chí là trừu tượng). Sự thức tỉnh thực sự của trực giác chỉ ra một giai đoạn phát triển khá cao (giai đoạn mà antahkarana, hay “Cầu vồng” chắc chắn đang hoạt động).
12. Sự phát triển cầu antahkarana này thường đòi hỏi một giai đoạn phát triển gần với lần điểm đạo thứ hai. Thể cảm dục và bồ đề được kết nối một cách cộng hưởng, do đó, trên Con đường Dự bị, (trong thời gian đó, thể cảm dục nhận được rất nhiều sự tập trung cho việc thanh lọc), có thể bắt đầu nói về việc tiếp cận trực giác. Cả hai khu vực của tâm thức (cõi cảm dục và cõi bồ đề) đều được cai quản (theo những cách khác nhau và một phần) bởi Sao Hải Vương.
13. Trong đoạn này, chúng ta học vài điều về khả năng thấu hiểuliên quan đến thể bồ đề. Một trong những món quà của thể bồ đề là khả năng hiểu được nghĩa và ý nghĩa biểu tượng của kiến thức được truyền đạt. Theo một cách nào đó, cõi bồ đề là hành tinh của “sự thấu hiểu yêu thương” cũng giống như cung hai (rất nổi bật trên cõi bồ đề) là cung của “sự thấu hiểu yêu thương”.
(b) Hiện nay giáo huấn đang được truyền cho một nhóm đặc biệt, họ đã đầu thai vào thời kỳ hệ trọng này của lịch sử thế giới. Họ đã đến, tất cả đều cùng một lúc, trên khắp thế giới, để làm công việc nối liền hai cảnh giới hồng trần và cảm dục, qua các cấp dĩ thái.
1. Ở đây chúng ta đang nói về tầm quan trọng của sự phát triển tinh thần — khi được theo đuổi (trong thế kỷ này và trong những thế kỷ sắp tới) dưới ánh sáng của lý trí và khoa học.
2. Một khi các cõi cảm dục và vật chất được liên kết thông qua các cõi dĩ thái (một lần nữa có sự tham gia của Sao Hải Vương ‘nhạy cảm’), nhân loại sẽ nhận thức rõ hơn về các động lực và mong muốn “vô thức” (cảm dục) của mình, và một cú đánh lớn sẽ giáng vào ảo cảm của thế giới bao trùm rất nhiều người thông qua việc theo đuổi những ham muốn tương đối vô giá trị.
3. Toàn bộ cuộc sống của cõi trung giới sau đó có thể được đưa vào trạng thái tỉnh táo, tâm thức của não bộ. Nhà tâm lý học vĩ đại Carl Jung dường như rất thành thạo trong việc này; ông gọi cõi cảm dục là “Psyche”, và viết rất nhiều về các hiện tượng được nhận thức ở đó.
4. Người ta cũng có thể hiểu cách cung bảy liên kết (thông qua nó “Cái Cao nhất và Thấp nhất gặp nhau”) hoạt động như thế nào trong quá trình liên kết này, và thực sự, nhiều nhà thông linh tự nhiên hóa thân trong Kỉ nguyên Mới được Chân sư Tây Tạng cho là hoạt động trên cung huyền thuật thứ bảy này.
5. Chúng ta thấy sự ‘phân công lao động tinh thần’ lớn được phân bổ giữa nhiều nhóm khác nhau, đặc biệt phù hợp để hoàn thành một nhiệm vụ cụ thể.
Hãy xem xét câu này một cách nghiêm chỉnh, vì nó bao gồm công việc mà một số người trong thế hệ mới đã đến để thực hiện. Trong việc nối liền hai cảnh giới này cần có những người đang phân cực trong thể trí của họ (hoặc nếu không phân cực trong đó thì cũng đã phát triển khá đầy đủ và thăng bằng) và do đó có thể làm loại công việc này một cách an toàn và thông minh. Chính yếu là cần có những người mà các thể của họ có chứa một tỷ lệ nhất định của vật chất phân cảnh nguyên tử, để có thể thực hiện sự truyền thông trực tiếp giữa cấp cao và cấp thấp, qua thiết diện nguyên tử của thể nguyên nhân. Điều này không dễ gì giải thích cho rõ ràng, nhưng việc xem xét sơ đồ trong cuốn “Học về Tâm thức” của Bà Besant, trang 27, có thể giúp giải rõ một số vấn đề dễ gây lầm lẫn.
1. “Thế hệ mới hơn” đó đã ở cùng với chúng ta trong khoảng bảy mươi lăm năm kể từ khi IHS được viết. Chúng ta đã chứng kiến sự tiếp cận đáng kể của cõi cảm dục — phần lớn nó bị biến dạng và ảo cảm. Tuy nhiên, kết nối đã được thực hiện và đưa ra trước cái trí của công chúng.
2. Chúng ta có thể thấy rằng sự phân cực trí tuệ (hoặc ít nhất là sự cân bằng Thiên Bình) là cần thiết cho loại công việc với cõi cảm dục này — công việc đưa nội dung của nó vào tâm thức não bộ vật lý.
3. Nếu không có sự tập trung trí tuệ ổn định này (phần nào tách rời và hay quan sát/tinh ý), người ta có thể bị “cuốn đi” bởi đồng hóa quá mức với các dòng chảy và hiện tượng cảm dục. Mục tiêu là duy trì sự cân bằng, từ đó có thể đạt được trạng thái nhận thức thực sự.
4. Tầm quan trọng của vật chất cõi phụ nguyên tử được nhấn mạnh ở đây. Có một kênh trực tiếp giữa vật chất nguyên tử được tìm thấy trên mọi cõi hệ thống (mặc dù vật chất đó khác nhau về phẩm tính giữa các cõi). Nếu giao tiếp trực tiếp, sự liên kết cần thiết ít có khả năng bị sai lệch.
5. Giá trị của sự tinh khiết có thể được nhìn thấy, vì nó có thể làm cho tỷ lệ phần trăm vật chất cõi phụ nguyên tử trong các vận cụ thành lớn hơn, và do đó làm giảm sự biến dạng trong quá trình liên lạc và truyền từ vận cụ này sang vận cụ khác, và từ cõi này sang cõi khác.
6. Vì “linh từ thiêng liêng” OM góp phần thanh lọc và làm tăng tỷ lệ vật chất cõi phụ nguyên tử trong mỗi vận cụ phàm ngã, chúng ta có thể thấy giá trị của OM liên quan đến việc đạt được sự liên kết đan xen giữa thể và cõi cảm dục, và cơ thể và cõi vật lý-dĩ thái
7. Khuyến khích kiểm tra kỹ thuật về thể nguyên nhân, và một tài liệu tham khảo hữu ích được đưa ra, liên quan đến một cuốn sách của vị điểm đạo đồ và nhà thấu thị đã được chứng minh, Annie Besant.
8. Khi cung năm ngày càng phát huy tác dụng trong Thời đại Bảo bình, khả năng hiểu giải phẫu và sinh lý học bên trong từ quan điểm khoa học và chính xác chắc chắn sẽ phát triển. Thuyết thần bí sẽ suy tàn và huyền linh học (dưới cung năm và cung bảy) phát triển mạnh mẽ. Con người sẽ nhìn thấy hơn là chỉ cảm nhận.
9. Điểm chính cần thu thập là nếu một người muốn tham gia vào công việc tinh thần chính xác và thực sự hữu ích, thì việc thanh lọc là điều không thể thiếu, nếu không thì sự biến dạng, trì hoãn và việc áp dụng sai là điều chắc chắn.
Chúng ta phải nhận ra hai điều khi suy ngẫm về chủ đề các Chân sư và Đệ tử. Một là, trong Thánh Đoàn không điều gì bị mất đi do thiếu nhận thức luật tiết kiệm. Mọi sự chi dụng thần lực của vị Chân sư hay Huấn sư đều do dự kiến sáng suốt và phân biện khôn ngoan. Giống như chúng ta không để cho các giáo sư đại học dạy những học viên sơ cấp, chính các Chân sư cũng không làm việc với cá nhân mọi người cho đến khi họ đạt được một trình độ tiến hoá nào đó và sẵn sàng để ích dụng được giáo huấn của các Ngài.
[68] Hai là, chúng ta phải nhớ rằng mỗi người trong chúng ta đều được nhận biết do độ chói rạng của ánh sáng nơi chính mình. Đây là một sự kiện huyền môn. Khi cấp độ vật chất kiến tạo các thể của chúng ta càng tinh tế thì ánh sáng nội tại sẽ càng chiếu rực rỡ. Ánh sáng là rung động, và qua sự đo lường rung động người ta xác định được trình độ của các môn sinh. Vì thế, không điều gì có thể ngăn cản hành giả tiến tới nếu y quan tâm thanh luyện các hiện thể của mình. Ánh sáng bên trong sẽ chói rạng và ngày càng rực rỡ hơn, khi tiến trình thanh luyện tiếp tục, cho đến khi chất liệu nguyên tử chiếm đa số và nguồn vinh quang của con người nội tâm sẽ rất lớn lao. Do đó, có thể nói rằng tất cả chúng ta đều được xếp hạng tùy theo cường độ ánh sáng, tùy theo mức độ rung động, tùy theo sự thanh khiết của âm điệu và sự trong sáng của màu sắc. Bởi vậy, vị Huấn sư của chúng ta là ai sẽ tùy theo trình độ của chúng ta. Bí quyết là sự tương đồng rung động. Người ta thường bảo rằng khi sự yêu cầu đã đủ mạnh mẽ thì vị Huấn sư sẽ xuất hiện. Khi chúng ta đã tạo được các rung động đúng đắn, và tự hòa hợp được với âm giai đúng đắn, thì không điều gì có thể ngăn cản việc chúng ta tìm được Chân sư.
1. Một số nguyên tắc rất quan trọng và thiết thực được trình bày ở đây. “Thông qua phép đo độ rung động, cấp bậc của các học viên được xác định”. Không điều gì chúng ta nói hoặc làm sẽ che đậy trạng thái tinh thần (rung động) thực sự của chúng ta khỏi những gì, ở cõi giới bên trong, có thể nhìn thấy.
2. Các Chân sư và những vị điểm đạo cao hơn đều nhận thức được ‘giá trị ánh sáng’ của chúng ta và tương tự, về ‘giá trị âm sắc’ của chúng ta. Tần số rung động này có thể hoàn toàn độc lập với các việc tạo hình tư tưởng trong trí cụ thể — trên thực tế, có thể cản trở bức xạ ánh sáng. Việc chỉ tin vào hình tư tưởng này hay kia không liên quan nhiều đến sự rạng rỡ bên trong thực sự của một người, và đó là lỗ hổng trong cách tiếp cận của một số đức tin là nhất định luôn coi niềm tin đó như một chỉ số phát triển tinh thần.
3. Ý tưởng được đưa ra rằng sự thanh lọc mang lại sự tiến bộ không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, tiến bộ có thể dường như là chậm. Đức tin cần phải có để kiên trì trong quá trình thanh luyện.
4. “Sự vinh quang của con người bên trong”, rạng rỡ hay lấp lánh, phụ thuộc vào tiềm năng truyền ánh sáng của vật chất cõi phụ nguyên tử trong các vận cụ khác nhau của hành giả. Việc sử dụng “Linh từ” (OM) thúc đẩy ưu thế cuối cùng của vật chất cõi phụ nguyên tử. Sự phóng xạ của hành tinh Vulcan cũng có liên quan, cùng với xu hướng Vulcan hướng tới sự bền bỉ, nếu không quá trình thanh lọc lâu dài sẽ không được hoàn thành. Chúng ta nhớ rằng Vulcan là chủ tinh nội môn của dấu hiệu Xử Nữ, một dấu hiệu chính của sự tinh luyện và thanh lọc.
5. Bốn biện pháp phân loại cụ thể được đưa ra: cường độ của ánh sáng, tần số rung, độ tinh khiết của âm điệu và độ trong của màu sắc. Rung động, ánh sáng, âm thanh và màu sắc được tham chiếu. Những cách hiểu khác nhau về rung động này có thể liên quan đến bốn cõi phụ cao hơn của bất kỳ cõi giới nào. Rung động là cơ bản. Nó là mẫu số chung của bốn loại hiện tượng này. Ba loại hiện tượng còn lại (ánh sáng, âm thanh và màu sắc) được tạo ra trong tâm thức (như là hiện tượng được nhận thức) theo cách thức cụ thể trong đó ý thức tiếp nhận các dao động có tần số khác nhau rõ ràng. Ánh sáng, âm thanh và màu sắc đều là rung động, nhưng ‘sự thể hiện trong tâm thức’ của những rung động đó khác nhau do cấu trúc của cơ chế nhận thức. Nhà triết học Emmanuel Kant đã thúc đẩy những ý tưởng như vậy, mặc dù nó hơi khác một chút.
6. Một phương pháp mới quan trọng để tiếp cận với Chân sư được đề cập ở đây. Chúng ta tìm thấy Chân sư thông qua sức mạnh, sự thuần khiết và chất lượng của rung động của chúng ta. Chúng ta nhận thấy Chân sư là người cộng hưởng với chất lượng rung động của chúng ta. Hay chúng ta nên nói rằng, khi chúng ta được thanh lọc đầy đủ, các vận cụ của chúng ta sẽ bắt đầu cộng hưởng với cao độ, âm điệu và ‘chùm sáng’ của Ngài, đối với Đấng mà chúng ta ‘thuộc về’ bởi cung (và nghiệp). Như vậy là mở ra quá trình phân biệt tinh thần theo loại cung.
7. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng ‘gặp gỡ’ Chân sư là điều tất yếu của định luật, nếu đạt được sự sàng lọc và thanh lọc cần thiết. Mọi sự tiến bộ thuộc tinh thần đều xảy ra theo định luật; không xô bồ, không mặc cả, không thao túng. Liên hệ với các quyền lực cao hơn chỉ đến khi sự sẵn sàng thực sự được thể hiện.
8. Với sự nhấn mạnh của Chân Sư Tây Tạng về tính tất yếu của sự phát triển tinh thần nếu tuân theo các phương pháp tiếp cận chính xác, phương pháp tiếp cận tinh thần được đưa ra khỏi lĩnh vực “tôn giáo” (như thường được quan niệm) và liên quan nhiều hơn đến khoa học và nghệ thuật. Sự chính xác về kiến thức chắc chắn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận đúng với Chân sư. Chúng ta có biết về bản thân — tốc độ rung động, cường độ ánh sáng, âm điệu và màu sắc của chúng ta —đủ để đến gần Chân Sư một cách có ý thức không? Với sự phát triển sắp xảy ra của các cung năm, bốn và bảy, ngày của phương pháp tiếp cận có ý thức như vậy đang nhanh chóng ló dạng.
Các nhóm Chân nhân được thành lập:−
1. Tùy theo cung của họ.
2. Tùy theo cung phụ của họ.
3. Tùy theo mức độ rung động của họ.
1. Trên và “bên trong” các cõi giới bên trong, tất cả đều được tổ chức thông minh và chặt chẽ. Có những nhóm tự nhiên của các cá nhân, và Chân sư Tây Tạng đã mô tả những phẩm chất mà theo đó các nhóm này xuất hiện.
2. Các Chân ngã có một cung phụ (thực sự là nhiều hơn một), và phàm ngã không phải là cung phụ duy nhất (mặc dù nó là một cung phụ của Chân ngã, hay linh hồn).
3. Các phân loại chung tồn tại theo sự hiện diện của các màu và âm điệu nhất định. Độ tinh khiếtcủa các màu và âm điệu như vậy là một tiêu chí khác để phân loại, cũng như các loại tần số khác nhau liên quan đến các màu và âm điệu đó. Có ‘quãng tám’ cao hơn và thấp hơn của cùng một cao độ (giai điệu) và màu sắc. Sự tương tự rất dễ hiểu trong âm nhạc. Nốt ‘C’, xuất hiện trong một số quãng tám, có thể được nhận dạng là ‘C’ cho dù tần số của nó tương đối cao hay thấp. Trong lĩnh vực màu sắc, có những sắc thái đậm hơn và nhạt hơn, thô hơn và tinh khiết hơn của cùng một màu.
4. Tốc độ rung động, trong trường hợp này, phải liên quan chặt chẽ đến nguyên tắc cộng hưởng. Đồng pha của rung động (giống như đồng pha của ánh sáng) là quan trọng khi xác định độ tinh khiết tương đối của rung động.
5. Thế giới bên trong cao hơn, có trật tự, hình học và được sắp xếp theo vẻ đẹp của màu sắc và âm điệu. Trên các cõi bên trong, cao hơn, không có câu hỏi về việc ai thực sự liên quan đến ai. Sai lầm trong việc kết nối, rất phổ biến ở đây, “bên dưới”, không bị phạm phải (trên cáccõi cao), vì tất cả chất lượng rung động khác biệt đều hiển nhiên rõ ràng.
Họ cũng được xếp thành nhóm để phân loại:
1. Với tư cách là Chân nhân, tùy theo cung của Chân nhân.
2. Với tư cách là phàm nhân, tùy theo cung phụ đang ngự trị phàm nhân.
1. “Cung phụ” ở đây được nói đến là cung phàm ngã được coi như một cung phụ của linh hồn.
2. Một câu hỏi luôn được đặt ra — bản thân phàm ngã có một cung phụ chiếm ưu thế không? Các chỉ dẫn dường như khẳng định tư tưởng này.
3. Trong khi phàm ngã là một cung phụ của linh hồn, nó rõ ràng không phải là cung phụ duy nhất của linh hồn. Hơn nữa, phàm ngã dường như có một màu cung phụ chung không nhất thiết phải giống với một số cung được tìm thấy như các cung phụ trong các vận cụ phàm ngã khác nhau.
4. Nếu phàm ngã (mà cùng với chân thần và linh hồn, là một trong ba vận cụ chu kỳ) không có cung phụ, thì nó sẽ là vận cụ duy nhất trong rất nhiều vận cụ của con người mà không cócung phụ. Chân thần: có; tam nguyên tinh thần: có; linh hồn: có, và thậm chí mỗi vận cụ của phàm ngã cũng có. Do đó, có lý do là chúng ta nên tìm kiếm một cung phụ của vận cụ phàm ngã này. Tính chất cung hoặc tính chất của dấu hiệu mà Mặt trời được tìm thấy khi sinh ra có thể giúp chỉ ra bản chất của cung phụ phàm ngã này hoặc dường như có thể hoạt động như một loại cung phụ ngoài cung phụ phàm ngã trên thực tế.
5. Ví dụ, nếu một người có phàm ngã cung năm, nhưng được sinh ra trong cung Bạch Dương, một phẩm chất phụ của phàm ngã (hoặc, có lẽ, ‘cung phụ’ của phàm ngã) có thể là cung1hoặc cung bảy (vì hai cung này được truyền theo chòm sao qua Bạch Dương), hoặc cung sáu hoặc bốn (vì hai cung đó được phát ra từ những chủ tinh cai quản ngoại môn và nội môn của Bạch Dương — sao Hỏa và sao Thủy tương ứng.
6. Tuy nhiên, nếu người thuộc cung năm này có Ma Kết với tư cách là cung Mặt Trời, thì rất có thể sẽ có một tập hợp các ảnh hưởng phụ hoặc các cung phụ rất khác, và người đó, theo đó, sẽ hành xử rất khác.
Tất cả đều được xếp hạng và ghi vào đồ biểu. Các Chân sư có những Phòng Hồ sơ, với một hệ thống các bảng biểu mà chúng ta không hiểu do quá lớn lao và tất nhiên là phức tạp, trong đó có giữ các đồ biểu nói trên. Tất cả đều ở dưới sự trông nom của [69] một vị Đế quân của một Cung, và mỗi Cung có bộ sưu tập các đồ biểu của riêng họ. Các đồ biểu này, ở trong nhiều phân bộ (liên quan đến Chân nhân đang giáng trần, đã từ trần và đã hoàn thiện), và tất cả lại được những vị phụ tá trông nom gìn giữ. Các Đấng Nghiệp Quả Tinh Quân, với đoàn phù trợ đông đảo của các Ngài, rất thường sử dụng các đồ biểu này. Nhiều Chân nhân đã bỏ xác đang chờ đầu thai hoặc vừa mới từ trần, hy sinh thì giờ của họ ở cõi trên để giúp vào việc này. Những Phòng Hồ sơ này hầu hết ở các cấp thấp nhất của cõi trí và các cấp cao nhất của cõi cảm dục, vì ở đó các hồ sơ này có thể được sử dụng nhiều nhất và dễ tiếp cận nhất.
1. Mặc dù cách đây tám mươi năm trước khi cuốn sách này được viết, chúng ta không thể hiểu được cách phân loại và lập biểu đồ, nhưng sự phát triển của chip silicon và sợi quang đã tiết lộ cho chúng ta thấy lượng thông tin khổng lồ có thể được lưu trữ trong những không gian nhỏ nhất như thế nào. Chúng ta chưa ‘ở đó’, nhưng sự hiểu biết đã gần hơn.
2. Có lẽ mô tả về ‘biểu đồ của mức độ rung động’ này có vẻ quan liêu quá mức (liên quan đến “công việc văn phòng”!). Chúng ta có ấn tượng rằng có một tổ chức hành chính khủng khiếp trên các cõi bên trong đòi hỏi một số lượng người trợ giúp gần như không thể tưởng tượng được. Xét cho cùng, có quá nhiều thứ cần quản lý, và nó phải được quản lý với độ chính xác hoàn hảo và theo luật định. Toàn bộ việc quản lý nằm dưới con mắt của “Lipika Lords” — các Chúa tể Nghiệp quả, các Ngài là những ‘Nhà Toán học Thiêng liêng’ chính xác nhất.
3. Có lẽ điểm chính là không có gì liên quan đến việc quản lý và thực hiện nghiệp quả là ngẫu nhiên. Có một kiến thức tỉ mỉ về bản chất bên trong, cấu trúc chính thức và nghĩa vụ nghiệp của mỗi đơn vị sự sống, và các hóa thân được sắp xếp theo kiến thức chính xác này. Có một số nhận thức về bộ máy hành chính cực kỳ phức tạp này sẽ truyền cảm hứng cho sự tin tưởng ngày càng tăng vào các quá trình bên trong, huyền bí và chấp nhận sự minh triết của số phận.
4. Điều thú vị là nguyên lý hy sinh liên quan đáng kể đến các cõi bên trong. “Thiên đàng” có thể được hy sinh để làm nhiều công việc ‘thực tế’ hơn. Nó giống như từ bỏ ‘kỳ nghỉ’ của một người (ở Devachan!) để thực hiện công việc thực sự cần được thực hiện vì Thiên cơ. Luôn luôn có cơ hội cho sự hy sinh, do đó, luôn luôn là cơ hội để thăng tiến. Chân sư Morya đã từng nói, “Đã bao giờ bạn trở nên kém hơn qua việc hy sinh chưa?”
5. Phòng Hồ sơ phải liên quan đến cái gọi là “Hồ sơ Akashic”. Việc tiếp cận các hồ sơ này phụ thuộc vào độ tinh khiết của rung động, do đó, phụ thuộc vào chế độ ăn chay được tuân thủ chặt chẽ. Có một cái giá phải trả cho nhận thức không bị biến dạng. Sao Kim và cung hai rất hữu ích trong việc thanh lọc cần thiết. Sao Kim là hành tinh ‘cai quản’ giới thực vật và có liên quan đến độ sáng của nhận thức.
Các điểm đạo đồ nhận giáo huấn trực tiếp từ các Chân sư hay từ một số đại thiên thần. Các giáo huấn này thường được truyền đạt ban đêm trong những nhóm nhỏ hoặc cho từng cá nhân (nếu cần) trong phòng làm việc riêng của Chân sư. Điều trên áp dụng cho các điểm đạo đồ đang đầu thai hay ở các nội giới. Nếu ở trên các cấp thượng thiên thì họ nhận giáo huấn vào bất cứ lúc nào Chân sư thấy đáng nên truyền trực tiếp cho Chân nhân ở các cấp này.
1. Tất cả đều nhận được loại hướng dẫn hữu ích cho họ từ cấp độ của giảng viên đủ tiêu chuẩn (nhưng không quá tiêu chuẩn) để đáp ứng nhu cầu của họ. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư Tây Tạng thảo luận nhiều hơn con đường Dự bị (nói một cách chính xác) trong chương này. Chủ đề chính là Con đường Dự bị, nhưng Ngài dường như bao gồm các quá trình phát triển liên quan đến các đệ tử ở trình độ cao hơn nhiều.
2. Khi kiểu thực thể trở nên tiên tiến hơn, các lớp học trở nên nhỏ hơn, cho đến khi cuối cùng, một cuộc “phỏng vấn” trong quá trình học với Chân sư được đảm bảo. Sự tập trung ngày càng tăng của sự chú ý cá nhân vào những người đạt thành tích cao nhất là đối tượng của Định Luật Tiết Kiệm.
3. Chúng ta lưu ý rằng “các thiên thần vĩ đại”, cũng có thể là người hướng dẫn các điểm đạo đồ. Điểm đạo đồ này đang tiến gần đến trạng thái mà, trong đó sự tiến hóa của thiên thần và con người bắt đầu hài hòa và cuối cùng hợp nhất. ‘Ngôn ngữ truyền đạt’ nhất thiết phải khác với ngôn ngữ nhân tạo. Chúng ta có thể hình dung rằng âm thanh, màu sắc và biểu tượng là những vận cụ giao tiếp. Có lẽ Sensar là một ngôn ngữ có thể được sử dụng bởi cả thiên thần và con người.
4. Chỉ dẫn có thể được nhận ngay cả trong trạng thái không nhập thế, và thú vị là, cũng có thể trong thể nguyên nhân. Ý tưởng này chỉ ra rằng tâm thức vẫn “sống và khỏe mạnh” khi nó đã ‘nghỉ hưu’ trong thể nguyên nhân, giữa các hóa thân (hoặc, hàng đêm, trong những giờ ngủ), trước khi quá trình luân hồi được thực hiện một lần nữa. Chúng ta hãy suy ngẫm về tư tưởng nhận được sự chỉ dẫn trong khi tập trung vào thể nguyên nhân của chúng ta. Điều này có nghĩa là tâm thức có khả năng tự phân cực lên cõi thượng trí.
5. Khi chúng ta tập trung vào các cấp độ nguyên nhân, chúng ta có thể được gọi là “Chân ngã”. Chúng ta hiểu biết và nhìn xa hơn nhiều trong trạng thái đó, mặc dù chắc chắn không quá hiểu biết và nhìn xa như Đấng Thái dương Thiên thần có liên quan đến chúng ta, vì thực thể vĩ đại đó đã đi qua tất cả những gì con người hy vọng sẽ trở thành trong tương lai xa .
6. Những gì chúng ta thu thập được từ tất cả những điều này là một quá trình truyền giảng to lớn liên tục có hiệu lực Ánh sáng được truyền đi liên tục, một cách khôn ngoan và thích hợp, và tất cả những ai có thể hưởng lợi từ nó, như vốn có, được ‘nuôi dưỡng’ bởi ánh sáng, hay đúng hơn là bởi những người truyền đạt ánh sáng. Do đó, sự phát triển tinh thần là liên tục mặc dù chúng ta có thể không dễ dàng nhận thức được nó khi bị giới hạn bởi tâm thức não bộ thông thường của chúng ta.
Các vị đệ tử được dạy theo từng nhóm trong đạo viện của Chân sư hoặc trong lớp học vào ban đêm nếu họ đang sống ở cõi trần. Ngoài những cuộc nhóm họp đều đặn này, để nhận được giáo huấn trực tiếp từ Chân sư, vì một lý do cụ thể, một người đệ tử có thể được gọi đến phòng làm việc của Chân sư để tham vấn riêng. Việc này xảy ra khi Chân sư muốn gặp đệ tử để khen ngợi, khuyến cáo hoặc để quyết định xem y đáng được điểm đạo hay không. Phần lớn việc giáo huấn một đệ tử được giao phó cho một điểm đạo đồ hay một đệ tử tiến hoá hơn, vị này trông nom đàn em của mình, chịu trách nhiệm đối với Chân sư về sự tiến bộ của y, và gởi cho Ngài các phúc trình đều đặn. Hầu như nghiệp quả là nhân tố quyết định trong quan hệ này.
1. Cuộc sống và công việc trên các cõi giới bên trong dường như rất giống một trường học. Đây có phải là bởi vì những chỉ dẫn này đang được cung cấp bởi một Chân sư cung hai? Có lẽ chỉ dẫn cho những người ở cung một và Các Chân sư cung 1 hướng nhiều hơn đến hành động và thậm chí là chiến đấu.
2. Linh hồn là tâm thức nhóm và việc hướng dẫn cho các đệ tử là việc của nhóm.
3. Người ta cho rằng các Chân sư có một cái gì đó (trong Ashram của các Ngài) tương đương với một “lớp học”. Các đệ tử phải có đẳng cấp cao để được một điểm đạo đồ cấp bậc Chân sư chú ý liên tục.
4. Nhiều người hy vọng về một cuộc phỏng vấn trực tiếp, cá nhân với Chân sư, và đôi khi, hiếm khi, nó có thể xảy ra, vì những lý do đã nêu ở trên — khen thưởng (hiếm hơn), cảnh báo (thường xuyên hơn, có lẽ), và liên quan đến khả năng sắp xảy ra cuộc điểm đạo. Điểm đạo, mặc dù nói chung luôn được mong muốn, không phải lúc nào cũng nên mong muốn ngay lập tức. Đôi khi, kênh dẫn giữa các trạng thái năng lượng cao hơn và thấp hơn cho thầy không cần mở rộng hơn nữa trong một kiếp sống cụ thể, vì theo Định Luật Tiết Kiệm, tất cả những gì cần đạt được đều có thể đạt được trong trạng thái chưa được điểm đạo hiện tại của đệ tử.
5. Một cuộc phỏng vấn như vậy chắc chắn sẽ không xảy ra để thỏa mãn sự tò mò hay mong mỏi của đệ tử. Lý do phải là một lý do rất hợp lý liên quan đến việc thực hiện phần Kế hoạch mà người đệ tử chịu trách nhiệm.
6. Chú ý đến công việc của người trung gian — điểm đạo đồ đứng giữa Chân sư và đệ tử. Vị điểm đạo đồ này chịu trách nhiệm về hầu hết các hướng dẫn được truyền đạt cho đệ tử. Đôi khi, hiếm khi cần một cuộc phỏng vấn trực tiếp với Chân sư.
7. Sự liên kết cổ xưa qua nhiều kiếp có lẽ là thứ quyết định mối quan hệ giữa đệ tử và điểm đạo đồ trung gian. Điều này cũng có thể đúng với người đệ tử trong mối quan hệ với Chân sư. Nhiều đệ tử trong các nhóm trong sách Đường Đạo trong Kỷ Nguyên Mới (DINA), trong các hóa thân trước đây, đều có liên hệ cá nhân với Chân sư DK.
8. Alice Bailey và Chân Sư Tây Tạng đã có một mối quan hệ như vậy từ lâu, và cách diễn đạt hiện đại của điều này chính là điều khiến 24 cuốn sách triết học bí truyền này trở nên khả thi.
Hiện nay, do nhu cầu lớn lao của thế giới, người ta thực hiện một phương sách hơi khác hơn. Một số đệ tử được huấn luyện cấp [70] tốc bởi một số vị Chân sư từ trước đến nay chưa hề thu đệ tử. Các Chân sư đảm nhận thu đệ tử đang bị áp lực công việc nặng nề đến đỗi các Ngài đã giao phó một số đệ tử triển vọng nhất của các Ngài cho vài Chân sư khác, tạm thời tập hợp họ thành những nhóm nhỏ. Cuộc thí nghiệm đang nhằm thử tăng cường giáo huấn, và đặt các đệ tử, chứ không phải các điểm đạo đồ, dưới sự rung động mạnh mẽ thường xuyên của Chân sư. Điều này có hàm chứa nguy cơ, nhưng nếu thí nghiệm tỏ ra thành công thì sẽ mang lại sự trợ giúp lớn lao hơn cho nhân loại.
1. Chúng ta suy luận rằng Thánh đoàn luôn thích ứng với nhu cầu của thế giới. Thánh Đoàn luôn sẵn sàng thay đổi các kế hoạch của mình cho phù hợp, mặc dù các phác thảo chung của Thiên cơ vẫn được giữ nguyên.
2. Ở đây chỉ ra các phương pháp rèn luyện tinh thần mới. Các điều kiện rất căng thẳng trong các thế giới bên trong, và cần có những cấp dưới có trách nhiệm. Trong nhân loại, động lực để thăng tiến rất mạnh mẽ, và mỗi cấp bậc của công việc phải tự gánh lấy “trọng trách trách nhiệm” lớn hơn thông lệ. Vì vậy, gánh nặng trên vai của tất cả mọi người đều tăng lên.
3. Các đệ tử (không phải điểm đạo đồ) có thể chịu được tác động ngày càng trực tiếp của một Chân sư không? Một trong những thử nghiệm của Chân Sư Tây Tạng là để xem mức độ mà việc tiếp xúc như vậy có thể mang lại hiệu quả. Thí nghiệm vừa thành công vừa thất bại tương đối, có thể sẽ được tiếp tục trong một hóa thân trong tương lai với cơ hội thành công lớn hơn.
4. Chính Chân Sư D.K., đã chăm sóc các học trò của các Chân sư khác, giám sát họ trong khi Chân Sư của họ tham gia vào công việc quan trọng hơn. Nếu đọc các cuốn sách Đường đạo trong kỷ nguyên mới người ta có thể học về một quá trình như vậy, đối với một số đệ tử của các Chân Sư M. và K.H. đã ở trong các nhóm của Chân Sư Tây Tạng để được đào tạo sơ bộ.
5. Có phải chúng ta đang cho rằng Chân sư D.K. là một trong những Chân sư mà cho đến nay vẫn chưa thu nhận đệ tử? Có vẻ như Chân sư D.K. đã từng là một huấn sư tuyệt vời trong một số kiếp sống. Tuy nhiên, vì Ngài đã đạt được quả vị Chân sư Minh triết gần đây nhất vào năm 1875, Ngài có thể phù hợp với kiểu Chân sư mà cho đến nay vẫn chưa nhận môn sinh.
6. Những rủi ro liên quan đến việc đưa các đệ tử (thay vì chỉ những điểm đạo đồ) đến rung động của một Chân sư liên quan đến sự kích thích quá mứcĐiều này có thể dẫn đến thiếu kiểm soát, mất cân bằng, thiệt hại hoặc thậm chí là thảm họa. Một Chân sư phải cực kỳ cảnh giác khi quan sát cách hệ thống năng lượng của Ngài tác động đến hệ thống năng lượng của một đệ tử. Nó sẽ luôn luôn phá huỷ. Sự phá huỷ có thể mang tính xây dựng ở một điểm nào đó, nhưng chỉ ở một điểm đó.
7. Ở mức độ thấp hơn của chúng ta, chúng ta phải thận trọng liên quan đến tác động của chúng ta đối với những người khác, những người có thể kém hơn về tần số và cường độ rung động.
8. Tất cả các đệ tử chân thành đều “gặp rủi ro”; đó là một rủi ro có tính toán, và một rủi ro được thực hiện trên tinh thần hy sinh.
9. Sự thể hiện đầy đủ của Thiên cơ không thể xảy ra nếu không có sự hy sinh có hệ thống. Hy sinh luôn là con đường thăng tiến. Sự hy sinh liên quan đến sự cho đi và chịu đựng các gánh nặng. Đối với nhiều người, chúng ta thấy rằng Thời đại Bảo bình (Thời đại của “Người mang nước”) sẽ là thời đại của sự hy sinh cao cả dẫn đến những thành tựu tinh thần to lớn.