Trang web www.minhtrietmoi.org vừa nhận được bản thảo bản dịch Điểm đạo trong Nhân loại và Thái dương hệ do dịch giả Trân Châu gởi đến. Đây là món quà vô cùng quí giá cho những người học đạo Việt Nam, vì quyển Initiation: Human and Solar của đức DK là quyển sách Ngài viết đầu tiên phổ biến cho công chúng.Quyển sách chứa đựng nhiều chi tiết huyền nhiệm về Thánh đoàn, các cuộc điểm đạo, các con đường tiến hóa sau nhân loại, và chót hết là 14 qui luật dành cho các ứng viên điểm đạo. Đây là quyển sách Đức DK viết dành cho công chúng nên tương đối dễ đọc. Nói dễ đọc nhưng để hiểu hết toàn bộ những gì Ngài viết trong đó đòi hỏi người đọc phải có một kiến thức nhất định về huyền linh học, hoặc được giảng giải kỹ lưỡng. Nhà huyền bí học Michael D. Robbins đã cất công giảng giải toàn bộ quyển sách Initiation: Human and Solar mà nếu tính số trang của phần giảng giải đã nhiều gấp 4-5 lần nguyên tác. Đây cũng là tài liệu tham khảo cần thiết cho người bắt đầu học đạo, nhất là nó đính chính những sai lầm của những quyển sách khác. Được sự đồng ý của dịch giả, chúng tôi sẽ lần lượt trích các chương chủ yếu của quyển sách để giới thiệu với bạn đọc, kèm theo phần chú thích để giảng rõ thêm. Mong rằng loạt bài này sẽ mang lại lợi ích cho tất cả người chí nguyện Việt Nam
Sau đây là chương 9: Con đường Điểm đạo (Path of Initiation). Bài tiếp theo, chúng tôi sẽ có phần giảng giải tóm tắt chương này. Con số giữa hai ngoặc vuông dành cho phần giải thích của chúng tôi sau này.
Chương 9 – CON ĐƯỜNG ĐIỂM ĐẠO
(THE PATH OF INITIATION)
Sau một thời gian ngắn hoặc dài, người đệ tử sẽ đứng trước Cửa Điểm Đạo. Chúng ta phải nhớ rằng khi hành giả tiến đến Cửa này và đến gần Chân sư hơn, thì đó là lúc bàn chân của y thấm máu của trái tim, như lời diễn đạt trong “Ánh Sáng trên Đường Đạo”. Mỗi bước đi lên bao giờ cũng thông qua sự hy sinh tất cả những gì mà lòng ta quyến luyến trên cảnh giới này hay cảnh giới khác, và sự hy sinh này phải luôn luôn là tự nguyện. Kẻ tiến bước trên Đường Dự Bị và Thánh Đạo là người đã tính được cái giá phải trả, có ý thức về giá trị đã được điều chỉnh, và do đó không xét đoán sự việc như cách xét đoán của thế nhân. Y là người đang cố dùng “cường lực để chiếm thiên giới”, và trong cố gắng này y chuẩn bị cho hậu quả đau khổ. Y là người thà mất tất cả để đạt mục tiêu, và trong khi chiến đấu cho chân ngã chủ trị phàm ngã thì sẵn sàng hy sinh dù phải vào cõi chết.
After a longer or shorter period of time the disciple stands at the Portal of Initiation. We must remember that as one approaches this portal and draws nearer to the Master it is as says “Light on the Path,” with the feet bathed in the blood of the heart. Each step up is ever through the sacrifice of all that the heart holds dear on one plane or another, and always must this sacrifice be voluntary. He who treads the Probationary Path and the Path of Holiness is he who has counted the cost, whose sense of values has been readjusted, and who therefore judges not as judges the man of the world. He is the man who is attempting to take the “kingdom by violence,” and in the attempt is prepared for the consequent suffering. He is the man who counts all things but loss if he may but win the goal, and who, in the struggle for the mastery of the lower self by the higher, is willing to sacrifice even unto death.
Hai cuộc điểm đạo đầu tiên.
Vào cuộc điểm đạo thứ nhất, việc Chân nhân chế ngự thể xác phải đạt đến mức cao. “Các tội lỗi của xác thịt”, theo cách nói của Thiên Chúa giáo, phải được thống trị; tính tham ăn tục uống và lối sống buông thả không được còn ảnh hưởng. Hành giả không còn chìu theo các đòi hỏi của tinh linh hồng trần; sự chế ngự phải hoàn toàn và sự cám dỗ phải chấm dứt. Phải đạt được một thái độ tuân hành chung đối với Chân nhân và sự tự nguyện tuân hành phải rất mạnh mẽ. Vận hà giữa Chân ngã và phàm ngã được mở rộng và sự tuân phục của thân xác phải thực sự là tự động. [1]
At the first initiation, the control of the Ego over the physical body must have reached a high degree of attainment. “The sins of the flesh,” as the Christian phraseology has it, must be dominated; gluttony, drink, and licentiousness must no longer hold sway. The physical elemental will no longer find its demand obeyed; the control must be complete and the lure departed. A general attitude of obedience to the Ego must have been achieved, and the willingness to obey must be very strong. The channel between the higher and the lower is widened, and the obedience of the flesh practically automatic.
Sự kiện rằng không phải tất cả các điểm đạo đồ đều đạt tiêu chuẩn này có thể được giải thích bằng nhiều lý do, tuy nhiên cái âm điệu họ phát ra cần phải ở trên phương diện ngay chánh; họ sẽ tỏ ra thành thật và công khai nhìn nhận các khuyết điểm của chính mình, và người ta sẽ biết rằng họ đang phấn đấu để tuân thủ tiêu chuẩn đến mức cao nhất, dù có thể là chưa đạt được sự hoàn thiện. Các điểm đạo đồ có thể, và đã sa ngã, và do thế phải gánh lấy tác động trừng phạt của định luật. [2] Do sự sa ngã này, họ có thể, và đã thực sự làm tổn thương cả nhóm và vì thế phải gánh chịu nghiệp quả điều chỉnh, phải đền bù sự tổn hại bằng việc phụng sự kéo dài về sau, trong đó chính các thành viên của nhóm áp dụng định luật, dù rằng một cách vô thức; sự tiến bộ của họ bị trở ngại nghiêm trọng, và họ phải mất nhiều thì giờ để giải quyết nghiệp quả với các phần tử bị tổn thương. Việc một người trở thành một điểm đạo đồ khiến y trở thành vận hà cho mãnh lực mạnh mẽ hơn. Do đó mỗi sự sa ngã, chệch hướng đều có những hậu quả tai hại hơn so với những người kém tiến hoá hơn y, và như thế sự trừng phạt và nghiệp quả cũng tương ứng như thế. Tất nhiên là y phải trả giá cho các lỗi lầm, trước khi được phép tiến xa hơn trên Đường Đạo. Về phần tập thể y bị làm tổn thương, thái độ của họ sẽ như thế nào? Nhận thức mức nghiêm trọng của lỗi lầm, khôn ngoan chấp nhận các sự kiện thực của trường hợp này, kiềm chế việc chỉ trích thiếu huynh đệ, và ban rải tình thương cho người anh em lầm lỗi—tất cả những điều trên, cùng với hành động thế nào để làm tỏ rõ trước mắt công chúng rằng các tội lỗi và những vi phạm định luật như thế không thể tha thứ được. Thêm vào đó, nhóm phải giúp cho huynh đệ sai phạm nhận biết được lỗi đã phạm, trả đi phần nghiệp quả báo ứng, và sau đó, khi tất cả đã hoàn tất, khôi phục lại vị trí của y trong sự quan tâm và trân trọng của tập thể. [3]
That all initiates measure not up to this standard may be ascribed to several things, but the note they sound should be on the side of righteousness; the recognition of their own shortcomings which they will evidence will be sincere and public, and their struggle to conform to the highest standard will be known, even though perfection may not be achieved. Initiates may, and do, fall, and thereby incur the working of the law in punishment. They may, and do, by this fall injure the group, and thereby incur the karma of readjustment, having to expiate the injury through later prolonged service, wherein the group members themselves, even though unconsciously, apply the law; their progress will be seriously hindered, much time being lost in which they must work out the karma with the injured units. The very fact that a man is an initiate, and therefore the medium for force of a greatly increased kind, makes his lapses from the straight path to have more powerful effects than is the case with a less advanced man; his retribution and punishment will be equally greater. Inevitably he must pay the price before he is allowed to proceed further upon the Way. As for the group he injures, what should their attitude be? A recognition of the gravity of the error, a wise acceptance of the facts in the case, a refraining from unbrotherly criticism, and a pouring out of love upon the sinning brother: all this, coupled with such action as will make clear to the onlooking general public that such sins and infringements of the law are not condoned. To this must be added an attitude of mind within the group concerned which will lead them (whilst taking firm action) to help the mistaken brother to see his error, to work out the retributive karma, and then to reinstate him in their regard and respect when due amends have been made.
Không phải tất cả mọi người đều phát triển theo cùng đường lối, hay theo các đường lối song hành, và do thế không thể ấn định các qui luật cứng nhắc về tiến trình chính xác cho mỗi cuộc điểm đạo, ấn định đúng các luân xa nào cần được khơi hoạt, hoặc linh thị nào cần ban cho họ. Có quá nhiều điều tùy thuộc vào cung của người đệ tử, hoặc sự phát triển của y theo một chiều hướng nào đó (vì mọi người thường không phát triển đồng đều), tùy theo nghiệp quả riêng của y và cũng tùy các nhu cầu cấp thiết của từng thời kỳ. Tuy nhiên, có thể đề nghị như thế này: Vào cuộc điểm đạo thứ nhất, ứng với cuộc giáng sinh của Đức Christ, luân xa tim là luân xa thường được khơi hoạt, để nhằm chế ngự thể cảm dục hữu hiệu hơn, và phụng sự nhân loại lớn lao hơn. [4] Sau cuộc điểm đạo này, điểm đạo đồ được dạy dỗ chính yếu về các sự kiện của cảnh giới cảm dục; y phải ổn định thể tình cảm của mình và học cách làm việc trên cảnh giới cảm dục cũng dễ dàng như trên cảnh giới hồng trần; y được phép tiếp xúc với các thiên thần cõi cảm dục; y học cách chế ngự các tinh linh của cõi cảm dục; y phải hoạt động dễ dàng trên các phân cảnh thấp, và giá trị và phẩm chất của công việc y làm trên cảnh giới hồng trần càng tăng. Vào cuộc điểm đạo này, y chuyển từ Phòng Học Tập sang Phòng Minh Triết. Vào thời gian này, sự phát triển thể cảm dục được liên tục chú trọng, dù rằng thể trí của y vẫn tăng trưởng đều đặn.
All people do not develop exactly along the same or parallel lines, and therefore no hard or fast rules can be laid down as to the exact procedure at each initiation, or as to just what centers are to be vivified, or what vision is to be accorded. So much depends upon the ray of the disciple, or his development in any particular direction (people do not usually develop evenly), upon his individual karma, and also upon the exigencies of any special period. This much can be suggested, however: At the first initiation, that of the birth of the Christ, the heart center is the one usually vivified, with the aim in view of the more effective controlling of the astral vehicle, and the rendering of greater service to humanity. After this initiation the initiate is taught principally the facts of the astral plane; he has to stabilize his emotional vehicle and learn to work on the astral plane with the same facility and ease as he does on the physical plane; he is brought in contact with the astral devas; he learns to control the astral elementals; he must function with facility on the lower sub-planes, and the value and quality of his work on the physical plane becomes of increased worth. He passes, at this initiation, out of the Hall of Learning into the Hall of Wisdom. At this time, emphasis is consistently laid on his astral development, although his mental equipment grows steadily.
Giữa các cuộc điểm đạo thứ nhất và thứ nhì có thể hành giả phải trải qua nhiều kiếp sống. [5] Có thể phải cần nhiều kiếp tái sinh trước khi hoàn toàn chế ngự thể cảm dục, và điểm đạo đồ sẵn sàng cho bước kế tiếp. Có sự tương đồng thú vị trong cuộc đời của vị điểm đạo đồ Jesus trong Kinh Tân Ước. Nhiều năm trôi qua giữa lúc Giáng sinh và lễ Rửa tội, nhưng ba bước còn lại đã được thực hiện trong ba năm. Một khi đã được điểm đạo lần thứ hai, sự tiến bộ của điểm đạo đồ sẽ mau lẹ, cuộc điểm đạo thứ ba và thứ tư có thể theo sau trong cùng kiếp sống, hay kiếp kế tiếp. [6]
Many lives may intervene between the first initiation and the second. A long period of many incarnations may elapse before the control of the astral body is perfected, and the initiate is ready for the next step. The analogy is kept in an interesting way in the New Testament in the life of the initiate Jesus. Many years elapsed between the Birth and the Baptism, but the remaining three steps were taken in three years. Once the second initiation is taken the progress will be rapid, the third and fourth following probably in the same life, or the succeeding.
Cuộc điểm đạo thứ nhì tạo nên sự khủng hoảng trong việc chế ngự thể cảm dục. [7] Giống như vào cuộc điểm đạo thứ nhất việc chủ trị thể xác đã được chứng tỏ, thì trong cuộc điểm đạo này, việc chủ trị thể cảm dục cũng được chứng tỏ tương tự. Sự hy sinh và chấm dứt dục vọng là mục tiêu của nỗ lực. Chính dục vọng đã được Chân nhân chế ngự, và hành giả chỉ còn mong muốn những gì tốt đẹp cho toàn thể, phù hợp với ý chí của Chân nhân và của Chân sư. Tinh linh cảm dục được chế ngự, thể tình cảm trở nên tinh khiết và trong sáng, phàm tính tàn lụi nhanh chóng. Bấy giờ, Chân nhân lại chế ngự hai hạ thể và uốn nắn chúng theo ý chí của mình. Chí nguyện và mong muốn phụng sự, yêu thương, tiến bộ trở nên mạnh mẽ đến đỗi thường thấy có phát triển nhanh chóng. Đó là lý do tại sao lần điểm đạo này và lần điểm đạo thứ ba, thường (nhưng không phải luôn luôn) nối tiếp nhau trong chỉ một kiếp sống. Vào thời kỳ hiện nay của lịch sử thế giới, cuộc tiến hoá đã được kích thích mạnh mẽ đến đỗi các linh hồn chí nguyện—cảm biết được nhu cầu lớn lao và khẩn thiết của nhân loại—đang hy sinh tất cả để đáp ứng nhu cầu đó. [8]
The second initiation forms the crisis in the control of the astral body. Just as, at the first initiation, the control of the dense physical has been demonstrated, so here the control of the astral is similarly demonstrated. The sacrifice and death of desire has been the goal of endeavor. Desire itself has been dominated by the Ego, and only that is longed for which is for the good of the whole, and in the line of the will of the Ego, and of the Master. The astral elemental is controlled, the emotional body becomes pure and limpid, and the lower nature is rapidly dying. At this time the Ego grips afresh the two lower vehicles and bends them to his will. The aspiration and longing to serve, love, and progress become, so strong that rapid development is usually to be seen. This accounts for the fact that this initiation and the third, frequently (though not invariably) follow each other in one single life. At this period of the world’s history such stimulus has been given to evolution that aspiring souls —sensing the dire and crying need of humanity —are sacrificing all in order to meet that need.
Một lần nữa, chúng ta không nên hiểu lầm rằng toàn cả tiến trình này đi theo cùng những bước vào những giai đoạn bất biến, kế tiếp nhau. Nhiều điều được thực hiện kết hợp, đồng thời, bởi vì công tác chế ngự rất chậm chạp và khó khăn; nhưng trong khoảng thời gian giữa ba cuộc điểm đạo đầu tiên phải đạt được và giữ được một mức độ tiến hoá nhất định của mỗi thể trong ba hạ thể, trước khi vận hà có thể được phép mở rộng thêm một cách an toàn [9]. Nhiều người trong chúng ta hiện đang làm việc trên tất cả ba hạ thể, khi dấn bước trên Đường Dự bị.
Vào cuộc điểm đạo này, nếu theo đường lối thông thường, (là điều cũng không có gì chắc chắn) thì luân xa cổ họng sẽ được khơi hoạt. Nó tạo khả năng sử dụng các thành đạt của hạ trí vào công việc phụng sự Chân sư và trợ giúp nhân loại. Nó cũng tạo khả năng cho ra và phát ra những gì hữu ích, có thể bằng lời nói, nhưng chắc chắn là bằng một lối phụng sự nào đó. Hành giả cũng được cho thấy nhu cầu của thế giới, và thấy thêm một phần của Thiên Cơ. Bấy giờ, việc phải làm trước khi được điểm đạo lần thứ ba là hoàn toàn hoà nhập quan điểm của cá nhân vào trong nhu cầu của toàn thể. Nó bao gồm việc Chân nhân hoàn toàn chế ngự thể trí cụ thể. [10]
Again, we must not make the mistake of thinking that all this follows in the same invariable consecutive steps and stages. Much is done in simultaneous unison, for the labor to control is slow and hard, but in the interim between the first three initiations some definite point in the evolution of each of the three lower vehicles has to be attained and held, before the further expansion of the channel can be safely permitted. Many of us are working on all the three bodies now, as we tread the Probationary Path.
At this initiation, should the ordinary course be followed, (which again is not at all certain) the throat center is vivified. This causes a capacity to turn to account in the Master’s service, and for the helping of man, the attainments of the lower mind. It imparts the ability to give forth and utter that which is helpful, possibly in the spoken word, but surely in service of some kind. A vision is accorded of the world’s need, and a further portion of the plan shown. The work, then, to be done prior to the taking of the third initiation, is the complete submerging of the personal point of view in the need of the whole. It entails the complete domination of the concrete mind by the Ego.
Hai cuộc điểm đạo tiếp theo.
Sau cuộc điểm đạo thứ hai, giáo huấn được nâng cao thêm một cảnh giới. Điểm đạo đồ học cách chế ngự thể trí của mình; y phát triển khả năng vận dụng chất liệu tư tưởng, và học các luật xây dựng tư tưởng sáng tạo. Y hoạt động tự do trên bốn phân cảnh thấp của cõi trí, và trước cuộc điểm đạo thứ ba—dù hữu thức hay không—y phải hoàn toàn làm chủ bốn phân cảnh thấp của mỗi cõi trong tam giới. Kiến thức của y về tiểu vũ trụ trở nên sâu xa, và về mặt lý thuyết cũng như thực hành, y đã thành thạo, đến mức cao, các luật của bản tính nơi chính mình; do đó, về mặt thực nghiệm, y có khả năng chế ngự được bốn phân cảnh thấp của cõi trần, cõi cảm dục và cõi trí. Điều sau cùng này rất đáng quan tâm. Việc chế ngự ba phân cảnh cao hơn vẫn chưa hoàn tất, và đây là một trong những lý do tại sao có các thất bại và những lầm lẫn của các điểm đạo đồ. Họ vẫn chưa hoàn toàn chủ trị được vật chất của ba phân cảnh cao, và các loại vật chất này còn cần được chế ngự. [11]
The succeeding two Initiations
After the second initiation the teaching shifts up a plane. The initiate learns to control his mental vehicle; he develops the capacity to manipulate thought matter, and learns the laws of creative thought building. He functions freely on the four lower sub-planes of the mental plane, and before the third initiation he must, —consciously or unconsciously, —be complete master of the four lower sub-planes in the three planes of the three worlds. His knowledge of the microcosm becomes profound, and he has mastered theoretically and practically, in great measure, the laws of his own nature, hence his ability experimentally to be master on the four lower sub-planes of the physical, astral, and mental planes. The last fact is of interest. The control of the three higher sub-planes is not yet complete, and here is one of the explanations as to the failures and mistakes of initiates. Their mastery of matter in the three higher sub-planes is not yet perfect; these yet remain to be dominated.
Vào cuộc điểm đạo thứ ba, đôi khi được gọi là sự Biến dung, toàn thể phàm nhân chìm ngập trong ánh sáng từ trên xuống. Chỉ sau cuộc điểm đạo này, Chân thần mới dứt khoát hướng dẫn Chân nhân và ngày càng tuôn đổ sự sống thiêng liêng của Ngài vào trong vận hà đã được chuẩn bị và thanh luyện; [12] cũng như trong dãy hành tinh thứ ba là Dãy Nguyệt Cầu, Chân nhân đã giúp phàm nhân biệt lập ngã tính qua tiếp xúc trực tiếp, một phương pháp khác với phương pháp biệt lập ngã tính được thấy trong dãy thứ tư này. Nếu được áp dụng ở đây, luật tương ứng có thể tỏ ra có khả năng hiển lộ nhiều điều, và có thể cho thấy một sự tương đồng thú vị giữa các phương pháp cá nhân hoá trong các dãy hành tinh khác nhau và những triển khai tâm thức xảy ra vào các cuộc điểm đạo khác nhau.
At the third initiation, termed sometimes the Transfiguration, the entire personality is flooded with light from above. It is only after this initiation that the Monad is definitely guiding the Ego, pouring his divine life ever more into the prepared and cleansed channel, just as in the third, or Moon Chain, the Ego individualized the personality through direct contact, a method different to the individualization as shown in this fourth chain. The law of correspondences, if applied here, might prove very revealing, and might demonstrate an interesting analogy between the methods of individualizing in the various chains, and the expansions of consciousness that occur at the different initiations.
Một lần nữa, điểm đạo đồ được cho thấy trước những gì sẽ xảy ra, luôn luôn ở vị thế nhận biết các thành viên khác của Thánh đoàn, và các quan năng thần thông của y được kích thích bằng cách làm sinh động các luân xa trên đầu. [13] Không cần thiết và không nên phát triển các quan năng tổng hợp, hoặc thần nhĩ và thần nhãn, cho đến khi sau cuộc điểm đạo này. Mục đích của toàn cuộc phát triển là khơi dậy trực giác tinh thần; khi điều đó đã được thực hiện, khi thể xác thanh khiết, thể cảm dục ổn định vững vàng và thể trí được chế ngự, thì bấy giờ điểm đạo đồ có thể an toàn vận dụng và khôn ngoan sử dụng được các quan năng thần thông để trợ giúp nhân loại. Không những y có thể sử dụng các quan năng này và giờ đây y còn có khả năng sáng tạo và làm sinh động các hình tư tưởng rõ rệt và chính xác, rung động với tinh thần phụng sự và không bị chế ngự bởi hạ trí hay dục vọng. Các hình tư tưởng này sẽ không (như các hình tư tưởng tạo bởi đại chúng) có tính rời rạc, không liên kết, không liên quan với nhau, mà sẽ đạt một mức độ tổng hợp khá cao. Hành giả phải làm việc khó nhọc, không ngừng trước khi có thể thực hiện được điều này, nhưng khi bản tính dục vọng đã được ổn định và thanh lọc, thì việc chế ngự thể trí sẽ trở nên dễ dàng hơn. Vì thế, con đường của người sùng tín, trong vài phương diện, thì dễ dàng hơn con đường của nhà trí thức, bởi vì y đã học được các biện pháp thanh lọc dục vọng và tiến lên theo các giai đoạn cần thiết.
Again, a vision is accorded of what lies ahead; the initiate is in a position at all times to recognize the other members of the Great White Lodge, and his psychic faculties are stimulated by the vivification of the head centers. It is not necessary nor advisable to develop the synthetic faculties, or clairaudience and clairvoyance, until after this initiation. The aim of all development is the awakening of the spiritual intuition; when this has been done, when the physical body is pure, the astral stable and steady, and the mental body controlled, then the initiate can safely wield and wisely use the psychic faculties for the helping of the race. Not only can he use these faculties, but he is able now to create and vivify thoughtforms that are clear and well-defined, pulsating with the spirit of service and not controlled by lower mind or desire. These thoughtforms will not be (as is the case with those created by the mass of men) disjointed, unconnected, and uncorrected, but will attain a fair measure of synthesis. Hard and ceaseless must the work be before this can be done, but when the desire nature has been stabilized and purified, then the control of the mind-body comes more easily. Hence the path of the devotee is easier in some ways than that of the intellectual man, for he has learnt the measures of purified desire, and progresses by the requisite stages.
Nay phàm nhân đã đạt đến một mức rung động rất cao, vật chất trong cả ba hạ thể tương đối thanh khiết, và mức thấu hiểu của phàm nhân về công việc phải làm trong tiểu vũ trụ, cũng như về phần chia sớt công tác của đại vũ trụ đều rất tiến bộ. Vì thế, chúng ta mới hiểu rõ tại sao chỉ đến cuộc điểm đạo thứ ba thì vị Đại Giáo Trưởng, Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, mới đích thân làm chủ lễ. Đó là lần đầu tiên Ngài tiếp xúc với điểm đạo đồ và điều này không thể sớm hơn. Trong hai cuộc điểm đạo đầu tiên, vị Chủ lễ là Đức Christ, Đức Chưởng Giáo, Người Anh Cả trong nhiều vị huynh trưởng, là một trong những người được điểm đạo sớm nhất của nhân loại. Browning đã diễn tả tư tưởng này thật đẹp đẽ bằng những lời lẽ trong bài thơ “Saul” của ông:—
. . . . . . . Đó sẽ là
Một khuôn mặt giống khuôn mặt tôi đón tiếp bạn;
Một người giống như tôi mà bạn sẽ yêu mến
Và một người sẽ yêu mến bạn mãi mãi;
Một bàn tay giống như bàn tay này
Sẽ mở ra những cánh cửa của cuộc sống mới cho bạn!
Trông kìa Đức Christ đang chờ!
The personality has now reached a point where its vibrations are of a very high order, the matter in all three bodies relatively pure, and its apprehension of the work to be done in the microcosm, and the share to be taken in the work of the macrocosm is very advanced. It is apparent, therefore, why it is only at the third initiation that the great Hierophant, the Lord of the World, himself officiates. It is the first at which he contacts the initiate. Earlier it would not be possible. For the first two initiations the Hierophant is the Christ, the World Teacher, the Firstborn among many brethren, one of the earliest of our humanity to take initiation. Browning brings out this thought most beautifully in the words found in his poem “Saul”:
…It shall be
A face like my face that receives thee;
a Man like to me,
Thou shalt love and be loved by, forever;
A Hand like this hand
Shall throw open the gates of new life to thee!
See the Christ stand!
Nhưng khi điểm đạo đồ đạt được sự tiến bộ còn xa hơn nữa và đã được hai lần điểm đạo, thì có sự thay đổi. Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, Đấng Thái Cổ, Đấng Thánh Đế siêu việt, đích thân Ngài điều hành cuộc điểm đạo thứ ba. Tại sao điều này có thể xảy ra? Bởi vì nay thể xác được hoàn toàn hiến dâng có thể an toàn chịu đựng các rung động của hai thể kia khi chúng trở lại chỗ trú sau khi diện kiến Đấng THÁNH ĐẾ; bởi vì nay thể cảm dục được thanh lọc và thể trí được chế ngự có thể an toàn đứng trước NGÀI. Khi được thanh lọc và chế ngự, chúng chịu đựng được và lần đầu tiên hữu thức rung động theo Cung của Chân thần; bấy giờ, với các thể được chuẩn bị sẵn sàng y được phép đạt khả năng thấy và nghe trên mọi cảnh giới, và sử dụng an toàn năng lực đọc hiểu các ký ảnh, bởi vì có kiến thức đầy đủ hơn tức là có thêm quyền năng. Tâm hồn y nay đã đủ thanh khiết và yêu thương, và trí tuệ đã đủ vững vàng để chịu được sức căng thẳng của hiểu biết.
But when the initiate has made still further progress, and has taken two initiations, a change comes. The Lord of the World, the Ancient of Days, the ineffable Ruler himself administers the third initiation. Why has this become possible? Because now the fully consecrated physical body can safely bear the vibrations of the two other bodies when they return to its shelter from the Presence of the KING; because now the purified astral and controlled mental can safely stand before that KING. When purified and controlled they stand and for the first time consciously vibrate to the Ray of the Monad, then with prepared bodies can the ability to see and hear on all the planes be granted and achieved, and the faculty of reading and comprehending the records be safely employed, for with fuller knowledge comes added power. The heart is now sufficiently pure and loving, and the intellect sufficiently stable to stand the strain of knowing.
[14] Trước cuộc điểm đạo thứ tư, việc huấn luyện được tăng cường, và sự xúc tiến tích lũy kiến thức phải mau lẹ không thể tưởng. Điểm đạo đồ thường đến thư viện có chứa sách huyền bí, và sau cuộc điểm đạo này, không những y có thể giao tiếp với vị Chân sư mà từ lâu y đã hữu thức liên kết và làm việc với Ngài, mà y còn có thể tiếp xúc và phần nào trợ giúp các vị Đế quân, Đức Bồ-tát và Đức Bàn Cổ.
Y cũng phải dùng trí hiểu thấu các luật của ba cõi thấp, đồng thời vận dụng chúng để trợ giúp cơ tiến hoá. Y nghiên cứu các đồ án vũ trụ và phải thấu đáo các sơ đồ; y trở nên thành thạo các thuật ngữ huyền bí và phát triển thị giác bề đo thứ tư nếu chưa làm điều này. Y học cách điều khiển những hoạt động của các thiên thần xây dựng, và đồng thời làm việc liên tục để phát triển bản tính tinh thần của mình. Y bắt đầu mau chóng điều hợp thể bồ-đề, và trong sự phối hợp này y phát triển năng lực tổng hợp, lúc đầu ở mức độ nhỏ, và dần dần đầy đủ hơn.
Before the fourth initiation can be taken, the work of training is intensified, and the hastening and accumulation of knowledge has to be unbelievably rapid. The initiate has frequent access to the library of occult books, and after this initiation he can contact not only the Master with whom he is linked and with whom he has worked consciously for a long time, but he can contact and assist (in measure) the Chohans, the Bodhisattva, and the Manu. He has also to grasp the laws of the three lower planes intellectually, and likewise wield them for the aiding of the scheme of evolution. He studies the cosmic plans and has to master the charts; he becomes versed in occult technicalities and develops fourth dimensional vision, if he has not already done so. He learns to direct the activities of the building devas, and at the same time, he works continually at the development of his spiritual nature. He begins rapidly to co-ordinate the buddhic vehicle, and in its co-ordination he develops the power of synthesis, at first in small measure, and gradually in fuller detail.
Vào thời gian được điểm đạo lần thứ tư, điểm đạo đồ đã phải hoàn toàn làm chủ được phân cảnh thứ năm, và do đó trở nên toàn thông—xin dùng nhóm thuật ngữ này,—trên năm phân cảnh thấp của cõi trần, cõi cảm dục và cõi trí, và đang trên đà làm chủ phân cảnh thứ sáu. Thể bồ-đề của y có thể hoạt động trên hai phân cảnh thấp của cảnh giới bồ-đề. [15]
Cuộc đời của người được điểm đạo lần thứ tư, hay lá cuộc điểm đạo Thập giá hình, là một cuộc đời hy sinh lớn lao và đầy đau khổ. Đó là cuộc sống của người thực hiện hạnh Đại Từ Bỏ, và ngay cả ở phương diện ngoại môn cũng có vẻ gian lao, khó khăn và đầy đau khổ. Y đã đặt tất cả, ngay đến phàm nhân đã hoàn hảo của mình, trên bàn thờ hy sinh, và không còn gì nữa. Tất cả đều bị từ bỏ, bạn bè, tiền bạc, danh vọng, tiếng tăm, địa vị trong đời, gia đình, và ngay cả chính sự sống.[16]
By the time the fourth initiation is taken the initiate has mastered perfectly the fifth sub-plane, and is therefore adept,—to use a technical phrase,—on the five lower subplanes of the physical, astral, and mental planes, and is well on the way to master the sixth. His buddhic vehicle can function on the two lower sub-planes of the buddhic plane.
The life of the man who takes the fourth initiation, or the Crucifixion, is usually one of great sacrifice and suffering. It is the life of the man who makes the Great Renunciation, and even exoterically it is seen to be strenuous, hard, and painful. He has laid all, even his perfected personality, upon the altar of sacrifice, and stands bereft of all. All is renounced, friends, money, reputation, character, standing in the world, family, and even life itself.
Các cuộc Điểm đạo cuối cùng.
Sau cuộc điểm đạo thứ tư, không còn nhiều điều phải làm. Việc ngự trị phân cảnh thứ sáu tiến hành nhanh chóng, và vật chất của các phân cảnh cao của cõi bồ-đề được phối kết. Điểm đạo đồ được nhận vào vòng liên giao mật thiết hơn trong Huyền giai và tiếp xúc hoàn hảo hơn với các thiên thần. Y đang mau chóng học hết các nguồn giáo huấn của Phòng Minh Triết và thấu đáo được các đồ án và đồ biểu phức tạp nhất. Y trở nên thành thạo ý nghĩa của màu sắc và âm thanh, có thể vận dụng định luật trong tam giới, và có thể tiếp xúc với Chân thần của mình dễ dàng hơn là phần đông nhân loại có thể tiếp xúc với Chân nhân của họ. Y cũng được giao phó công tác lớn lao là giáo huấn nhiều môn sinh, trợ giúp nhiều kế hoạch, và qui tụ quanh y những người sẽ trợ giúp y trong tương lai. Đây là chỉ đề cập đến những vị ở lại để giúp đỡ nhân loại trên hành tinh này; về sau chúng ta sẽ bàn đến một số đường lối công tác mở ra trước vị Chân sư khi Ngài không còn phục vụ trên địa cầu.
After the fourth initiation not much remains to be done. The domination of the sixth sub-plane goes forward with rapidity, and the matter of the higher sub-planes of the buddhic is co-ordinated. The initiate is admitted into closer fellowship in the Lodge, and his contact with the devas is more complete. He is rapidly exhausting the resources of the Hall of Wisdom, and is mastering the most intricate plans and charts. He becomes adept in the significance of color and sound, can wield the law in the three worlds, and can contact his Monad with more freedom than the majority of the human race can contact their Egos. He is in charge, also, of large work, teaching many pupils, aiding in many schemes, and is gathering under him those who are to assist him in future times. This refers only to those who stay to help humanity on this globe; we will deal later with some of the lines of work that stretch before the Adept if he passes away from earth service.
Sau cuộc điểm đạo thứ năm, hành giả đạt mức hoàn thiện cao nhất của hệ thống hành tinh này, dù rằng nếu muốn thì Vị này có thể nhận hai cuộc điểm đạo cao hơn.
After the fifth initiation the man is perfected as far as this scheme goes, though he may, if he will, take two further initiations.
Để đạt được cuộc điểm đạo thứ sáu, vị Chân sư phải dự một khoá đặc biệt về huyền bí học hành tinh. Một vị Chân sư vận dụng định luật trong tam giới, trong khi một vị Đế quân được điểm đạo lần thứ sáu vận dụng định luật trên mọi cấp độ của dãy hành tinh; một vị Đế quân được điểm đạo lần thứ bảy vận dụng định luật trong thái dương hệ. [17]
Hiển nhiên là nếu khảo xét kỹ các vấn đề này để áp dụng, người môn sinh sẽ tìm thấy nhiều điều liên quan đến cá nhân y, dù rằng y còn cách xa chính cuộc lễ điểm đạo. Nhờ nghiên cứu tiến trình và mục đích, y có thể biết được sự kiện chính đại cơ bản rằng phương pháp điểm đạo là phương pháp của sự:—
- Nhận thức mãnh lực.
- Áp dụng mãnh lực.
- Sử dụng mãnh lực.
To achieve the sixth initiation the Adept has to take a very intensive course in planetary occultism. A Master wields the law in the three worlds, whilst a Chohan of the sixth initiation wields the law in the chain on all levels; a Chohan of the seventh initiation wields the law in the solar system.
It will be apparent that, should he search these subjects with application, the student will find much that concerns him personally, even though the ceremony itself may be far ahead. By the study of the process and the purpose he may become aware of the great fundamental fact that the method of initiation is the method of:
- Force realization.
- Force application.
- Force utilization.
Điểm đạo đồ ở mọi cấp, từ vị khiêm tốn ở cấp thứ nhất, lần đầu tiên tiếp xúc với một loại mãnh lực chuyên biệt, lên đến vị Phật được giải thoát ở cấp thứ bảy, [18] đều đang vận dụng một loại năng lượng nào đó. Có thể trình bày các giai đoạn phát triển của người chí nguyện tìm đạo như sau:—
- Qua phân biện, y phải ý thức được năng lượng hay mãnh lực của chính phàm ngã y.
- Y phải áp đặt lên nhịp điệu mạnh mẽ đó một nhịp điệu cao hơn, cho đến khi nhịp điệu thấp được thay thế bởi nhịp điệu cao, và phương pháp phát triển năng lượng theo lối cũ hoàn toàn tan biến.
- Sau đó, nhờ các nhận thức dần dần phát triển, y được phép tiếp xúc và được hướng dẫn sử dụng một số năng lượng tập thể, cho đến khi đạt vị thế vận dụng được mãnh lực hành tinh một cách khoa học. Khoảng thời gian cần cho giai đoạn cuối cùng này hoàn toàn tùy thuộc sự tiến bộ của y trong việc phụng sự nhân loại và phát triển các quyền năng của linh hồn, là trình tự đương nhiên của sự khai mở tinh thần.
The initiate of every degree, from the humble initiate of the first degree, making for the first time his contact with a certain type of specialized force, up to the emancipated Buddha of the seventh degree, is dealing with energy of some kind or other. The stages of development of the aspirant might be expressed as follows:
- He has to become aware, through discrimination, of the energy or force of his own lower self.
- He has to impose upon that energetic rhythm one that is higher, until that lower rhythm is superseded by the higher, and the old method of expressing energy dies out entirely.
- He then is permitted, by gradually expanding realizations, to contact and —under guidance —to employ certain forms of group energy, until the time comes when he is in a position scientifically to wield planetary force. The length of time taken over his final stage is entirely dependent upon the progress he makes in the service of his race and in the development of those powers of the soul which are the natural sequence of spiritual unfoldment.
Việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng bởi Đức Bồ-tát trong hai cuộc điểm đạo đầu tiên giúp điểm đạo đồ có thể kiểm soát và sử dụng mãnh lực của phàm ngã, năng lượng được thánh hoá thực sự của phàm nhân trong phụng sự; vào cuộc điểm đạo thứ ba, việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng bởi Đấng Điểm Đạo Duy Nhất giúp y có thể sử dụng mãnh lực của Chân ngã hay Chân nhân một cách rộng rãi hơn rất nhiều, và đem vận dụng ở cõi trần toàn bộ năng lượng tích lũy qua nhiều kiếp sống trong thể nguyên nhân. Vào cuộc điểm đạo thứ tư, năng lượng của nhóm Chân nhân được giao cho y sử dụng để trợ giúp cuộc tiến hoá hành tinh, và vào cuộc điểm đạo thứ năm, y được tùy nghi sử dụng mãnh lực và năng lượng hành tinh (hiểu theo nghĩa nội môn, chứ không chỉ là mãnh lực hay năng lượng của bầu vật chất). Trong suốt năm cuộc điểm đạo, hai Đấng Cao Cả—trước hết là Đức Bồ-tát và sau đó là Đấng Điểm Đạo Duy Nhất, Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, hay Đức Sanat Kumara—là Đấng điều hành hay Chủ lễ. Sau các cuộc lễ này, nếu điểm đạo đồ quyết định nhận hai cuộc điểm đạo cuối cùng khả dĩ nhận được trong thái dương hệ này, thì một loại năng lượng còn cao hơn nữa biểu lộ Đại ngã Duy nhất bắt đầu tác động, và chỉ có thể được gián tiếp đề cập đến. Vào cuộc điểm đạo thứ bảy, Đấng mà Đức Sanat Kumara biểu hiện, Đức Thượng Đế của hành tinh chúng ta trên cảnh giới của Ngài, trở thành Đấng Điểm Đạo. Vào cuộc điểm đạo thứ sáu, biểu hiện của Đấng này trên một cảnh giới trung gian—một Đấng mà hiện còn được giữ kín danh hiệu—vận dụng Thần trượng, nhận lời thệ nguyện và truyền bí nhiệm. Ba biểu lộ này của chính phủ huyền giai—Đức Sanat Kumara ở phạm vi của tam giới, Đấng Vô Danh ở lĩnh vực các cõi cao của cuộc tiến hoá nhân loại, và chính Đức Thượng Đế của địa cầu ở giai đoạn cuối —là ba sự biểu hiện vĩ đại của chính Đức Hành Tinh Thượng Đế. Vào cuộc điểm đạo cuối cùng năng lượng của Đức Thái Dương Thượng Đế lưu chuyển thông qua Hành Tinh Thượng Đế, và chính Ngài khải thị cho điểm đạo đồ biết rằng Đấng Tuyệt Đối là tâm thức phát biểu ở mức viên mãn nhất, dù rằng vào giai đoạn hiện hữu của nhân loại, Đấng Duy Nhất phải được xem như là vô thức. [19]
The application of the Rod of Initiation at the first two initiations by the Bodhisattva enables the initiate to control and utilize the force of the lower self, the true sanctified energy of the personality in service; at the third initiation the application of the Rod by the One Initiator makes available in a vastly more extensive manner the force of the higher self or Ego, and brings into play on the physical plane the entire energy stored up during numerous incarnations in the causal vehicle. At the fourth initiation the energy of his egoic group becomes his to use for the good of planetary evolution, and at the fifth initiation the force or energy of the planet (esoterically understood, and not merely the force or energy of the material globe) is at his disposal. During these five initiations those two great beings, the Bodhisattva first, and then the One Initiator, the Lord of the World, Sanat Kumara, are the administrators or hierophants. After these ceremonies, should the initiate choose to take the two final initiations which it is possible to take in this solar system, a still higher type of energy in expression of the one Self comes into play, and can only be hinted at. At the seventh initiation that one of whom Sanat Kumara is the manifestation, the Logos of our scheme on his own plane, becomes the Hierophant. At the sixth initiation the expression of this Existence on an intermediate plane, a Being who must at present remain nameless, wields the Rod and administers the oath and secret. In these three expressions of hierarchical government —Sanat Kumara on the periphery of the three worlds, the nameless One on the confines of the high planes of human evolution, and the planetary Spirit himself at the final stage —we have the three great manifestations of the Planetary Logos himself. Through the Planetary Logos at the final great initiation flows the power of the Solar Logos, and he it is who reveals to the initiate that the Absolute is consciousness in its fullest expression, though at the stage of human existence the Absolute must be regarded as unconsciousness.
Mỗi cuộc điểm đạo lớn thực ra chỉ là tổng hợp của các cuộc điểm đạo nhỏ hơn, và chỉ khi nào hành giả liên tục tìm cách triển khai tâm thức trong các vấn đề của cuộc sống hằng ngày thì y mới mong đạt được các giai đoạn sau mà chẳng gì khác hơn là các thành quả của nhiều giai đoạn trước. Các môn sinh phải loại bỏ cái ý tưởng rằng nếu họ “thật tốt và vị tha” thì vào một ngày bất ngờ nào đó họ sẽ đến trước Đức Chúa Vĩ Đại. Suy nghĩ như thế là đặt cái quả trước cái nhân. Đức tốt và lòng vị tha là kết quả của nhận thức và phụng sự, và đức hạnh thánh thiện là thành quả của các triển khai tâm thức mà hành giả tự thực hiện, thông qua cố gắng và nỗ lực lớn lao. Bởi vậy chính ở đây và ngay bây giờ, chúng ta có thể tự chuẩn bị cho điểm đạo, và làm điều này, không phải dựa trên khía cạnh nghi lễ, như nhiều người thiết tha mong mõi, mà bằng cách làm việc có hệ thống, kiên trì liên tục phát triển thể trí, và bằng quá trình gian lao khó nhọc là chế ngự thể cảm dục để nó ứng đáp được với ba loại rung động:—
Each of the great initiations is but the synthesis of the smaller ones, and only as man seeks ever to expand his consciousness in the affairs of daily life can he expect to achieve those later stages which are but culmination’s of the many earlier. Students must get rid of the idea that if they are “very good and altruistic” suddenly some day they will stand before the Great Lord. They are putting effect before cause. Goodness and altruism grow out of realization and service, and holiness of character is the outcome of those expansions of consciousness which a man brings about within himself through strenuous effort and endeavor. Therefore it is here and now that man can prepare himself for initiation, and this he does, not by dwelling upon the ceremonial aspect, as so many do in excited anticipation, but by working systematically and enduringly at the steady development of the mental body, by the strenuous and arduous process of controlling the astral body so that it becomes responsive to three vibrations:
- Rung động đến từ Chân nhân.
- Rung động đến từ Chân sư.
- Rung động đến từ các huynh đệ của y ở khắp chung quanh. Y trở nên nhạy cảm đối với tiếng nói của Chân ngã, và do thế thanh toán nghiệp quả dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của Chân nhân chính y. Qua Chân nhân, y trở nên ý thức được sự rung động phát ra từ Chân sư y; y học cách ngày càng cảm nhận được rung động đó và đáp ứng lại ngày càng đầy đủ hơn; cuối cùng, y trở nên ngày càng nhạy cảm với những sự hân hoan, đau thương và buồn khổ của những người y tiếp xúc hằng ngày; y cảm thấy đó là những hân hoan, đau thương và buồn khổ của y, nhưng không vì đó mà giảm suy năng lực.
- That from the Ego.
- That from the Master.
- Those from his brothers everywhere around him. He becomes sensitive to the voice of his higher self, thus working off karma under the intelligent guidance of his own Ego. He becomes conscious, via the Ego, of the vibration emanating from his Master; he learns to feel it ever more and more, and to respond to it ever more fully; finally, he becomes increasingly sensitive to the joys and pains and sorrows of those he daily contacts; he feels them to be his joys and pains and sorrows, and yet he is not incapacitated thereby.
jupiter nguyen
jupiter nguyen
jupiter nguyen
jupiter nguyen