Khoa Học Về Antahkarana – 3 – Kiến tạo con đường

Bài thứ ba trong loạt bài bao gồm các trang từ trang 444 đến trang 450 của quyển The Rays and The Initiations.

***********************************

Kiến tạo Antahkarana – Building the Antahkarana

Ở đây chúng ta không bàn đến giáo lý nhập môn về khoa học của Antahkarana, vì các học viên sẽ tìm thấy nó trong quyển sách Giáo dục trong thời đại mới. Phần trình bày sơ bộ này cần được nghiên cứu trước khi bước vào giai đoạn tiên tiến hơn bắt đầu từ đây. Bây giờ chúng ta hãy xem xét từng bước một khoa học này vốn đã được chứng minh là một nguồn hữu ích để thí nghiệm và thử nghiệm.

With the introductory teaching on the science of the Antahkarana we shall not here deal, for the student will find it in the book, Education in the New Age. That preliminary presentation should be studied before taking up the more advanced stage which begins here. Let us now consider, step by step this science which is already proving a useful source of experiment and testing.

1, Trong quyển sách Nền Giáo Dục Trong Kỷ Nguyên Mới, đức DK  viết khá nhiều về đường Antahkarana rải rác trong quyển sách, và trong chương “The Antahkarana”. Các bạn có thể tham khảo bản dịch Nền Giáo Dục Trong Kỷ Nguyên Mới của Trân Châu, và chương Antahkarana đã được chúng tôi dịch và đưa lên trang web này tại đây.

Nhân hồn (tương phản với linh hồn như nó hoạt động trên cõi giới riêng của nó, thoát khỏi những giới hạn của đời sống con người) bị giam giữ và chịu sự kiểm soát của ba năng lượng thấp trong phần chính yếu của kinh nghiệm của mình. Sau đó, trên Con Đường Dự Bị, năng lượng lưỡng phân của linh hồn bắt đầu ngày càng tích cực, và con người tìm cách sử dụng tâm trí của mình có ý thức, và để thể hiện Bác ái-Trí tuệ trên cõi hồng trần. Đây là một phát biểu đơn giản về các mục tiêu của tất cả những người chí nguyện. Khi năm nguồn năng lượng bắt đầu được sử dụng một cách có ý thức và khôn ngoan trong việc phụng sự, một nhịp điệu sau đó được thiết lập giữa phàm ngã và linh hồn.

The human soul (in contradistinction to the soul as it functions in its own kingdom, free from the limitations of human life) is imprisoned and subject to the control of the lower three energies for the major part of its experience. Then, upon the Path of Probation, the dual energy of soul  begins to be increasingly active, and the man seeks to use his mind consciously, and to express love-wisdom on the physical plane. This is a simple statement of the objective of all aspirants. When the five energies are beginning to be used, consciously and wisely in service, a rhythm is then set up between the Personality and the Soul.

2. Nhân hồn (human soul) là linh hồn đang lâm phàm trên cõi trần gian, là “cái mảnh” (fragment) mà linh hồn phóng chiều vào ba cõi thấp để học hỏi. Còn thuật ngữ “linh hồn trên cõi giới riêng của nó” (the soul on its own plane) để chỉ linh hồn trên cõi thượng trí, hoặc đôi khi để chỉ đức Thái dương Thiên Thần.

3. Hai thuật ngữ năng lượng lưỡng phân  và năm nguồn năng lượng của linh hồn cần được giải thích. Các bạn cần nên nhớ, cùng một thuật ngữ Chân sư DK có thể dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, và tuỳ theo ngữ cảnh mà ta hiểu theo một nghĩa nào đó của nó. Ở đây năng lượng lưỡng phân của linh hồn có thể hiểu là hai khía cạnh Bác Ái và Minh triết của linh hồn, nhưng một cách hiểu khác được Ngài nhắc đến trong Esoteric Psychology quyển II trang 68:

We have seen in our studies that the soul is a dual blend of energiesthe energy of life and the energy of mind—as far as its relation to the mechanism is temporarily concerned. The merging of these two energies in the human mechanism produces what we call consciousness—at first self-consciousness and finally group-consciousness. [EPII 68]

Theo đoạn này, năng lượng lưỡng phân của linh hồn là năng lượng của Sự Sống (Life – Phương diện thứ nhất) và Năng lượng của Trí Tuệ (Mind – Phương diện thứ ba). Do đó linh hồn được gọi là nguyên khí trung gian (intermediate principle).

4. Năm năng lượng của linh hồn có thể được hiểu là Hoa sen Chân ngã, Phàm ngã, thể trí, thể cảm dục và thể hồng trần; hoặc cũng có thể hiểu là 4 lớp cánh hoa của Hoa Sen Chân Ngã cộng với Ngọc Báu trong Hoa Sen. Nhưng theo GS Michael thì cách hiểu thứ nhất hợp lý hơn.

Sau đó, dường như thể một từ trường đã được thành lập và hai đơn vị, hay hai nhóm năng lượng, từ tính và rung động đi vào phạm vi ảnh hưởng của nhau. Điều này thỉnh thoảng xảy ra một cách hiếm hoi trong những giai đoạn đầu; sau đó nó xảy ra thường xuyên hơn, và như thế một con đường liên lạc được thiết lập mà cuối cùng sẽ trở thành con đường ít trở lực nhất, “con đường của cách tiếp cận quen thuộc,” như nó đôi khi được gọi như thế. Như vậy là nửa đầu của “cầu nối”—đường Antahkarana—đã được xây dựng. Vào thời điểm mà cuộc điểm đạo lần thứ ba được hoàn tất, Con Đường này được hoàn thành và người điểm đạo đồ có thể bước vào thế giới cao hơn theo ý muốn, để lại các thế giới thấp ở phía sau, hoặc y có thể trở lại và vượt qua trên con đường dẫn từ bóng tối ra ánh sáng, từ ánh sáng đến bóng tối, và từ các thế giới thấp hơn vào các cõi giới của ánh sáng.

It is as if a magnetic field were then established and these two vibrating and magnetic units, or grouped energies, swung into each other’s field of influence. This happens only occasionally and rarely in the early stages; later it occurs more constantly, and thus a path of contact is established which eventually becomes the line of least resistance, “the way of familiar approach,” as it is sometimes called. By the time the third initiation is completed, this Way is completed, and the initiate can “pass to higher worlds at will, leaving the lower worlds far behind; he can come again and pass upon the way that leads from dark to light, from light to dark, and from the under lower worlds into the realms of light.” [445]

5. Đây là đoạn văn quan trọng trong bài này và chúng tôi tô đậm những điểm cần lưu ý. 

6. Trên Con đường Dự Bị, Phàm ngã bắt đầu chú ý đến Linh hồn, hướng về Linh hồn, và bắt đầu chịu sự kiểm soát của linh hồn. Đây chính là giai đoạn lập hạnh–xây dựng tính tốt– mà các sách vở Thông Thiên Học nói đến nhiều. Ngược lại, Linh hồn trên cõi giới riêng của mình cũng thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến phàm ngã trong ba cõi thấp, và câu của đức DK là “dường như thể một từ trường đã được thành lập và hai đơn vị, hay hai nhóm năng lượng, từ tính và rung động đi vào phạm vi ảnh hưởng của nhau.”.  Từ trước đến giờ cả hai dường như là các đơn vị tách biệt, giờ thì vùng rung động của cả hai được nới rộng ra và phủ trùm lên nhau, “một vùng từ trường được thành lập”. Từ trường có tính thu hút, cả hai thu hút lẫn nhau.

Hình ảnh sau đây minh hoạt hoạt động trên đây của linh hồn và phàm ngã:

4. Bằng cách gia tăng ảnh hưởng và sự tương tác giữa linh hồn và phàm ngã mà một tuyến năng lượng được thành lập giữa hai bên. Đây chính là “nửa đầu của Antahkarana”, nối liền phàm ngã và linh hồn, được hoàn tất vào kỳ điểm đạo lần thứ 3. 

5. Chân sư DK dùng một câu bóng bẩy để nói đến ứng dụng của nửa đầu của đường Antahkarana “bước vào thế giới cao hơn theo ý muốn, để lại các thế giới thấp ở phía sau, hoặc y có thể trở lại và vượt qua trên con đường dẫn từ bóng tối ra ánh sáng, từ ánh sáng đến bóng tối, và từ các thế giới thấp hơn vào các cõi giới của ánh sáng.”. Ngài chua câu này trong ngoặc kép, có thể là Ngài trích dẫn từ một văn bản cổ nào đó.

Ý nghĩa của câu nói trên là Người điểm đạo đồ bậc 3 có quyền năng chuyển di tâm thức mình giữa các cõi giới khác nhau một cách tuỳ ý, tự do: từ cao vào thấp, từ thấp vào cao, mà không bị sự trở ngại nào. Bóng tối là các cõi thấp trong tam giới, và ánh sáng là các cõi trên cao. Nhưng đôi khi Tinh thần cũng được nói đến là Bóng Tối (Darkness)–Bóng Tối Tuyệt Đối. Như vậy, các bạn thấy quyền năng của một điểm đạo đồ bậc 3 rất to lớn, và những ai đạt đến điểm đạo  bậc 3 ít nhất phải có được quyền năng này.

6. Song song với vùng từ trường của Linh hồn và phàm ngã mở rộng và hòa nhập vào nhau, trên cõi trần và trong đầu của người đệ tử, vùng từ trường xung quanh tuyến tùng (biểu hiện của Linh hồn) và tuyến yên (biểu hiện của phàm ngã) cũng mở rộng và hòa vào nhau tạo thành một vùng từ trường thống nhất.

7. Trong các đệ tử của Chân sư DK trong thế kỷ 20, có những đoạn trích dẫn cho thấy dường như có ba hoặc bốn đệ tử được chuẩn bị cho cuộc điểm đạo lần 3 và có thể đã trải qua cuộc điểm đạo đó. Đó là Alice A. Bailey, Foster Bailey (JWK-P), Roberto Assagioli (FCD), và William Miller (DHB).

Hoa Sen Chân Ngã và các tuyến liên kết năng lượng giữa các Luân xa và các Cánh Hoa

Và như thế, hai trở thành một, và sự hợp nhất lớn đầu tiên trên con đường Phản Bổn Hoàn Nguyên được hoàn thành. Sau đó người điểm đạo đồ phải bước vào Giai đoạn thứ hai của Con đường, dẫn đến một sự hợp nhất thứ hai còn quan trọng hơn nữa ở chỗ nó dẫn đến việc giải thoát hoàn toàn khỏi ba cõi. Chúng ta phải nhớ rằng linh hồn, đến lượt nó, là một tập hợp của ba nguồn năng lượng mà ba nguồn năng lượng thấp hơn là sự phản ánh. Nó là sự tổng hợp của chính năng lượng của Sự sống (vốn thể hiện như nguyên lý sự sống trong thế giới của hình tướng), năng lượng của trực giác hay Bác Ái-Trí Tuệ hoặc sự hiểu biết tinh thần (vốn thể hiện như là sự nhạy cảm và cảm giác trong thể cảm xúc) , và trí tuệ tinh thần, vốn phản ánh trong bản chất thấp hơn là hạ trí hoặc nguyên lý thông tuệ trong cõi giới hình tướng. Đây là Atma-buddhi-manas được nói đến trong sách vở Thông Thiên Học, là Tam nguyên thượng được phản ánh lại Tam nguyên hạ, và tập trung qua thể linh hồn trên các phân cảnh giới cao của cõi trí trước khi phóng chiếu giáng sinh xuống trần như nó được gọi theo cách bí truyền.

Thus the two are one, and the first great union upon the Path of Return is completed. A second stage of the Way has then to be trodden, leading to a second union of still further importance in that it leads to complete liberation from the three worlds. It must be remembered that the soul, in its turn, is a union of three energies of which the lower three are the reflection. It is a synthesis of the energy of Life itself (which demonstrates as the life-principle within the world of forms), of the energy of the intuition or spiritual love-wisdom or understanding (this demonstrates as sensitivity and feeling in the astral body), and spiritual mind, whose reflection in the lower nature is the mind or the principle of intelligence in the form world. In these three we have the atma-buddhi-manas of the theosophical literature—that higher triplicity which is reflected in the lower three, and which focuses through the soul body on the higher levels of the mental plane before being precipitated into incarnation—as it is esoterically called.

8. Sau khi nửa đầu của đường Antahkarana đã được tạo lập, nửa sau của cầu Antahkarana được xây dựng, nối phàm ngã đến Tam nguyên tinh thần, và sau đó đến Chân thần thông qua Linh hồn. Đoạn văn trên tương đối rõ nghĩa với những ai đã học qua Thông Thiên Học và Giáo lý của Chân sư DK.

Hiện đại hoá các khái niệm, chúng ta có thể nói rằng các nguồn năng lượng làm linh hoạt thể hồng trần và đời sống thông tuệ của các nguyên tử, các trạng thái cảm xúc nhạy cảm, và trí thông tuệ, cuối cùng phải được phối trộn với và chuyển đổi thành năng lượng làm linh hoạt linh hồn. Đó là trí tuệ tinh thần truyền đạt giác ngộ; tính chất trực giác trao nhận thức tinh thần; và sự sinh động Thiêng liêng .

Modernizing the concept, we might say that the energies which animate the physical body and the intelligent life of the atom, the sensitive emotional states, and the intelligent mind, have eventually to be blended with and transmuted into the energies which animate the soul. [Eventually the content of the atomic triangle will be blended with and transmuted into the content of the three higher permanent atoms…at the fourth degree… These are the spiritual mind, conveying illumination; the intuitive nature, conferring spiritual perception; and divine livingness.

Sau kỳ điểm đạo thứ ba “Con đường” được xây dựng với tốc độ nhanh chóng, và “cái cầu” được hoàn thành, kết nối hoàn hảo Tam nguyên tinh thần với phản ánh vật chất thấp hơn. Ba cõi giới của linh hồn và ba cõi giới của phàm ngã trở thành một thế giới mà trong đó người điểm đạo đồ làm việc và hoạt động, không thấy có sự phân biệt, xem một thế giới như thế giới của nguồn cảm hứng và thế giới còn lại là lĩnh vực phụng sự, nhưng xem cả hai cùng nhau hình thành một thế giới hoạt động. Thể dĩ thái nội tại (hoặc cơ thể của nguồn cảm hứng chủ yếu) và cơ thể vật chất trọng trược là những biểu tượng trên cảnh giới ngoại tại của hai thế giới này.

After the third initiation the “Way” is carried forward with great rapidity, and the “bridge” is finished which links perfectly the higher spiritual Triad and the lower material reflection. The three worlds of the Soul and the three worlds of the Personality become one world wherein the initiate works and functions, seeing no distinction, regarding one world as the world of inspiration and the other world as constituting the field of service, yet regarding both together as forming one world of activity. Of these two worlds, the subjective etheric body (or the body of vital inspiration) and the dense physical body are symbols on the external plane.

9. Ta thấy việc kiến tạo đường Antahkarana ngày càng nhanh chóng hơn. Một khi nửa đầu của Antahkarana đã được xây dựng thì nửa sau cũng nhanh chóng được hoàn thành, quyền năng của người điểm đạo đồ ngày càng cao siêu hơn. Y có thể họat động tự do trong ba cõi cao và ba cõi thấp, không thấy có sự phân biệt. Ngài cũng lấy một ví dụ việc này cũng giống như thể dĩ thái và thể xác tạo thành một thể thống nhất: thể hồng trần của con người.

Bằng cách nào cầu Antahkarana được xây dựng? Đâu là [446] các bước mà các đệ tử phải tuân theo? Ở đây Tôi không đề cập đến Con Đường Dự Bị là giai đoạn mà những lỗi lầm lớn nên được loại bỏ và những đức tính quan trọng cần được phát triển. Phần lớn các chỉ dẫn được đưa ra trong quá khứ đã đặt ra các quy tắc cho việc vun trồng các đức hạnh và phẩm tính cho người đệ tử, cũng như sự cần thiết của việc tự kiểm soát, tính khoan dung và lòng vô kỉ. Nhưng đây chỉ là những bước sơ khởi và người học viên phải tuân theo. Nhưng các học viên không nên chỉ quan tâm đến việc lập hạnh của con đường đệ tử, y còn phải để ý đến những yêu cầu cao siêu và khó khăn hơn cho những người có mục tiêu cuối cùng là việc điểm đạo.

How is this bridging antahkarana to be built? Where [446] are the steps which the disciple must follow? I deal not here with the Path of Probation whereon the major faults should be eliminated and whereon the major virtues should be developed. Much of the instruction given in the past has laid down the rules for the cultivation of the virtues and qualifications for discipleship, and also the necessity for self-control, for tolerance and for unselfishness. But these are elementary stages and should be taken for granted by the students. Such students should be occupied not only with the establishment of the character aspect of discipleship, but with the more abstruse and difficult requirements for those whose eventual goal is initiation.

10. Đoạn trên đức DK đề cập đến việc kiến tạo Antahkarana. Đức hạnh là điều đương nhiên không phải bàn đến, nó đã được xây dựng trên Con đường Dự Bị và đó chỉ là bước sơ khởi. Trong đoạn trước đây Ngài có nhắc đến Trí tưởng tượng sáng tạo giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng Antahkarana.  Ngoài ra, việc xây dựng Antahkarana còn đòi hỏi “những yêu cầu cao siêu và khó khăn hơn”. Những yêu cầu cao siêu và khó khăn này là gì, đọc tiếp ta sẽ thấy Ngài giải thích cho ta biết.

Chính là với công việc của “những người kiến tạo cây cầu” mà chúng ta quan tâm tới. Trước tiên, tôi muốn đảm bảo với bạn rằng việc công việc xây dựng thực sự của Antahkarana chỉ diễn ra khi các đệ tử bắt đầu tập trung một cách xác định vào các lãnh vực trí tuệ, và như thế khi tâm trí của y là hoạt động một cách thông minh và có ý thức. Ở giai đoạn này y phải bắt đầu có một số ý tưởng chính xác hơn so với những gì y đã có cho đến hiện tại để phân biệt giữa nhà tư tưởng, bộ máy của tư tưởng và chính tư tưởng, bắt đầu với chức năng bí truyền kép, đó là:

1. Việc nhận ra và tiếp nhận các Ý TƯỞNG.

2. Khả năng sáng tạo của việc tạo hình tư tưởng một cách có ý thức.

It is with the work of the “bridge-builders” that we are concerned. First, let me assure you that the real building of the antahkarana takes place only when the disciple is beginning to be definitely focused upon mental levels, and when therefore his mind is intelligently and consciously functioning.  He must begin at this stage to have some more exact idea than has hitherto been the case as to the distinctions existing between the thinker, the apparatus of thought, and thought itself, beginning with its dual esoteric function which is:

  1. The recognition and receptivity to Ideas.
  2. The creative faculty of conscious thought-form building.

11. Nửa đầu của đường Antahkarana nối Phàm ngã với Linh hồn (ngự trên cõi Thượng Trí), do đó dương nhiên nó phải được xây dựng bằng chất liệu trí tuệ.

12. Ý tưởng (Idea) là hình thể trên cảnh giới Bồ đề và người đệ tử phải “nhận ra và tiếp nhận các Ý TƯỞNG”.

Điều này nhất thiết liên quan đến một thái độ tinh thần mạnh mẽ và định hướng của trí tuệ về thực tại. Khi người đệ tử bắt đầu tự tập trung vào cõi trí (và đây là mục đích chính của việc tham thiền), y bắt đầu làm việc trong vật chất trí tuệ và tự huấn luyện mình về quyền năng và cách sử dụng tư tưởng. Y đã đạt được một mức độ nào đó trong việc kiểm soát tâm trí; y có thể hướng ngọn đèn pha trí tuệ theo hai hướng, một hướng vào thế giới của sự nỗ lực của nhân loại và một hướng vào thế giới của hoạt động linh hồn. Cũng giống như linh hồn tạo ra một con đường cho chính mình bằng cách phóng chiếu chính nó vào trong một sợi dây hay dòng năng lượng vào ba cõi, người đệ tử cũng thế, y bắt đầu phóng chiếu chính y vào những cõi giới cao hơn.

This necessarily involves a strong mental attitude and reorientation of the mind to reality As the disciple begins to focus himself on the mental plane (and this is the prime intent of the meditation work), he starts working in mental matter and trains himself in the powers and uses of thought. He achieves a measure of mind control; he can turn the searchlight of the mind in two directions, into the world of human endeavor and into the world of soul activity Just as the soul makes a way for itself by projecting itself in a thread or stream of energy into the three worlds, so the disciple begins consciously to project himself into the higher worlds.

Năng lượng của y đi ra, thông qua trung gian của trí tuệ được kiểm soát và định hướng, vào cõi giới của trí tuệ tinh thần cao siêu [Trang 447] và vào các lĩnh vực của trực giác. Và như thế hoạt động đối ứng được thiết lập. Phản ứng này giữa thượng trí và hạ trí được nói đến một cách biểu tượng theo thuật ngữ của ánh sáng, và “con đường ánh sáng” được hình thành giữa phàm ngã và Tam nguyên tinh thần, thông qua thể linh hồn, giống như linh hồn tiếp xúc một cách xác định với bộ não thông qua thể trí. “Con Đường được thắp sáng” này là cây cầu được soi sáng. Nó được xây dựng thông qua tham thiền; nó được xây dựng thông qua các nỗ lực kiên trì để khêu gợi trực giác; nó được xây dựng thông qua sự giúp đỡ và tuân phục Thiên Cơ (vốn được bắt đầu nhận ra ngay sau khi trực giác và trí tuệ hòa hợp), và thông qua sự kết hợp có ý thức với nhóm để phụng sự và cho mục đích đồng hóa vào toàn thể. Tất cả những phẩm chất và hoạt động này dựa vào nền tảng của những đức hạnh tốt và những phẩm chất đã được phát triển trên Con Đường Tập Sự.

His energy goes forth, through the medium of the controlled and directed mind, into the world of the higher [447] spiritual mind [this is the abstract mind and into the realm of the intuitionA reciprocal activity is thus set up. This response between the higher and the lower mind is symbolically spoken of in terms of light, and the “lighted way” comes into being between the personality and the spiritual Triad, via the soul body, just as the soul came into definite contact with the brain via the mind. This “lighted way” is the illumined bridge. It is built through meditation; it is constructed through the constant effort to draw forth the intuition, through subservience and obedience to the Plan (which begins to be recognized as soon as the intuition and the mind are en rapport), and through a conscious incorporation into the group in service and for purposes of assimilation into the whole. All these qualities and activities are based upon the foundation of good character and the qualities developed upon the Probationary Path.

13. Nửa đầu của Antahkarana được xây dựng bằng chất liệu trí tuệ, điều đó có nghĩa là người đệ tử “bắt đầu làm việc trong vật chất trí tuệ và tự huấn luyện mình về quyền năng và cách sử dụng tư tưởng”. Do đó, điều kiện để một người xây dựng Antahkarana là khả năng hoạt động trí tuệ, làm việc với chất liệu trí tuệ, và tập trung trí tuệ. Trong một đoạn khác, Chân sư DK nói rằng một người chỉ xây dựng Antahkarana một cách có ý thức khi y đang chuẩn bị điểm đạo lần 2.

14. Tiếp đến, cũng chính thông qua trí tuệ mà nửa sau của cầu Antahkarana được xây dựng: “Năng lượng của y đi ra, thông qua trung gian của trí tuệ được kiểm soát và định hướng, vào cõi giới của trí tuệ tinh thần cao siêu [Trang 447] và vào các lĩnh vực của trực giác.”

15. Câu kế tiếp là quan trọng, trong đó Ngài lặp lại bốn yếu tố trong việc kiến tạo Antahkarana: tham thiền; nỗ lực kiên trì để khêu gợi trực giác; giúp đỡ và tuân phục Thiên Cơ, vàsự kết hợp có ý thức với nhóm để phụng sự và cho mục đích đồng hóa vào toàn thể.

16. Như thế tham thiền huyền linh chỉ là một trong các yếu tố kiến tạo Antahkarana.

Các nỗ lực để khêu gợi trực giác đòi hỏi việc tham thiền huyền môn (không phải tham thiền thần bí). Nó đòi hỏi một trí thộng tuệ được huấn luyện, nhờ thế mà đường phân định ranh giới giữa nhận thức trực quan và các hình thức thông linh bậc cao có thể được nhìn thấy rõ ràng. Nó đòi hỏi một sự kỷ luật liên tục của thể trí, để nó có thể “giữ ổn định trong ánh sáng”, và sự phát triển việc giải thích đúng đắn được vun bồi để sao cho những kiến thức trực quan đạt được sau đó có thể khoác riêng của chúng trong những hình tư tưởng đúng đắn.

The effort to draw forth the intuition requires directed occult (but not aspirational) meditation. It requires a trained intelligence, so that the line of demarcation between intuitive realisation and the forms of the higher psychism may be clearly seen. It requires a constant disciplining of the mind, so that it can “hold itself steady in the light,” and the development of a cultured right Interpretation, so that the intuitive knowledge achieved may then clothe itself in the right thoughtforms.

Ở đây, có thể chỉ ra rằng việc xây dựng cây cầu nhờ đó mà tâm thức có thể hoạt động một cách thuận lợi cả trong cõi giới cao và thấp chủ yếu được thực hiện bởi một khuynh hướng đời sống được định hướng (life-tendency), vốn đều đặn khiến con người hướng về thế giới thực tại tinh thần, cùng với những chuyển động nhất định của việc tái định hướng hay tập trung được lên kế hoạch và định thời gian cẩn thận. Trong tiến trình cuối cùng này những gì đạt được của những tháng hay năm vừa qua được đánh giá chặt chẽ; ảnh hưởng của những gì đạt được lên cuộc sống hàng ngày và lên cơ thể được nghiên cứu kỹ lưỡng; và ý chí tồn tại như một con người tinh thần được đưa vào tâm thức một cách xác định và quyết tâm để thực hiện sự tiến bộ trước mắt.

It might also be stated here that the construction of the bridge whereby the consciousness can function with facility, both in the higher worlds and in the lower, is primarily brought about by a definitely directed life-tendency, which steadily sends the man in the direction of the world of spiritual realities, [where are we focusing our consciousness? [can we discern the spiritual realities behind all normal personality experiences plus certain movements of planned and carefully timed and directed reorientation or focusing. [More to do with the techniques of meditation… [Retrospective assessment…In this last process the gain of the past months or years is closely assessed; the effect of that gain upon the daily life and in the bodily mechanism is as carefully studied [we must know consciously that we have achieved and what we have achieved; and the will-to-live as a spiritual being is brought into the consciousness with a definiteness and a determination that makes for immediate progress. [448]

17. Tham thiền trong việc xây dựng Antahkarana là phương pháp tham thiền huyền môn, chứ không phải phương pháp tham thiền thần bí. Và thông qua tham thiền huyền môn trực giác được khêu gợi.

18. Ngoài ra, Antahkarana được xây dựng bằng khuynh hướng đời sống được định hướng (directed life-tendency) hướng về đời sống tinh thần. Ngài giải thích rõ thêm điều này như sau: những gì đạt được của những tháng hay năm vừa qua được đánh giá chặt chẽ; ảnh hưởng của những gì đạt được lên cuộc sống hàng ngày và lên cơ thể được nghiên cứu kỹ lưỡng; và ý chí tồn tại như một con người tinh thần được đưa vào tâm thức một cách xác định và quyết tâm để thực hiện sự tiến bộ trước mắt. Trong Esoteric Psychology II Ngài cũng dạy đệ tử sau 7 năm quán chiếu lại đoạn đường đã qua để đánh giá những tác động và hiệu quả của nó lên bản thân và xây dựng bước tiến trước mắt. Việc này giống như buổi tham thiền buổi chiều tối mà người học đạo quán xét lại hành động trong ngày:

Disciples in the groups of some of the Masters (not of all) are encouraged, every seven years, to do this and to subject themselves to what is esoterically called a “crisis of polarization”. This process is in the nature of a review, such as one imposes on the consciousness at night, only it is carried over a period of years instead of hours. This thought merits consideration.

Việc xây dựng đường Antahkarana này chắc chắn nhất được tiến hành trong trường hợp của mỗi học viên nhiệt thành. Khi công việc được tiến hành một cách thông minh và với nhận thức đầy đủ về mục đích mong muốn, và khi người chí nguyện không chỉ nhận thức được quá trình mà còn cảnh giác và tích cực trong việc thực hiện của nó, khi đó công việc được thực hiện nhanh chóng và cây cầu được xây dựng.

This building of the antahkarana is most assuredly proceeding in the case of every earnest student. When the work is carried on intelligently and with full awareness of the desired purpose, and when the aspirant is not only aware of the process but alert and active in its fulfilment, then the work proceeds apace and the bridge is built.

19. Đây là lời động viên khích lệ mà người học đạo chúng ta cần ghi nhớ: khi chúng ta thực hành kiến tạo đường Antahkarana với sự hiểu biết đầy đủ, thông minh, nhiệt thành thì Antahkarana chắc chắn được xây dựng.

Sẽ khôn ngoan để chấp nhận thực tế rằng nhân loại hiện đang ở vị trí để bắt đầu quá trình xác định của việc xây dựng được liên kết hay cầu nối giữa các phương diện khác nhau của bản thể con người, nhờ thế thay vì sự khác biệt sẽ là sự hợp nhất, và thay vì sự chú ý thường xao động, thay đổi, hướng vào chỗ này hay chỗ khác trong các lĩnh vực của đời sống vật chất và các mối quan hệ xúc cảm, chúng ta sẽ học cách kiểm soát tâm trí, liên kết các bộ phận, và nhờ đó có thể tùy ý hướng sự chú tâm thấp theo bất kỳ cách thức mong muốn nào. Như thế tất cả các khía cạnh của con người, tinh thần và tự nhiên, có thể được tập trung nơi cần thiết.

It is wise to accept the fact that humanity is now in a position to begin the definite process of constructing the link or bridge between the various aspects of man’s nature, so that instead of differentiation there will be unity, and instead of a fluid, moving attention, directed here and there [Mercury and Gemini into the field of material living and emotional relationships, we shall have learnt to control the mind and to have bridged the divisions, [ending cleavages and thus ending much suffering based on cleavage and separation and so can direct at will the lower attention in any desired manner, [a wider world becomes accessible to us… Thus all aspects of man, spiritual and natural, can be focussed where needed.

Công việc bắc cầu này đã được thực hiện phần nào. Nhân loại như một toàn thể đã lấp đi khoảng trống giữa bản chất tình cảm-astral và con người vật lý. Cần lưu ý ở đây rằng cây cầu nối phải được thực hiện ở khía cạnh tâm thức, và liên quan đến sự liên tục của nhận thức của con người về cuộc sống trong tất cả các khía cạnh khác nhau của nó. Năng lượng được sử dụng trong việc kết nối, trong tâm thức, con người vật lý và thể cảm xúc được tập trung ở luân xa tùng thái dương.

This bridging work has in part already been done. [Much of this through an instinctual upreaching…. Humanity has as a whole already bridged the gap between the emotional-astral nature and the physical man. It should be noted here that the bridging has to be done in the consciousness aspect, and concerns the continuity of man’s awareness of life in all its various aspects. Bridging in consciousness and awareness… The energy which is used in connecting, in consciousness, the physical man and the astral body is focussed in the solar plexus.

Nói một cách biểu tượng, nhiều người ngày nay đang đưa cây cầu tiến về phía trước, kết nối trí tuệ với hai khía cạnh đã được liên kết. Sợi dây năng lượng này xuất phát hay được neo ở đầu. Một số người, tất nhiên ít oi về số lượng, đang dần kết nối linh hồn và trí tuệ, và đến lượt nó được liên kết với hai khía cạnh khác. Năng lượng linh hồn khi liên kết với các sợi dây khác trụ trong tim. Một số rất ít người, các điểm đạo đồ của thế gian, đã thực hiện tất cả các sự tổng hợp thấp hơn, hiện đang bận rộn với việc hợp nhất còn cao hơn, với Hiện Thực tam phân vốn sử dụng linh hồn như là phương tiện biểu hiện của nó, cũng như linh hồn đến lượt mình nỗ lực để sử dụng hình bóng của nó là phàm ngã tam phân.

Many today, speaking in symbolical terms, are carrying that bridge forward and linking the mind with the two aspects already linked. [But this is not yet the great majority… This thread of energy emanates from or is anchored in the head. Some people, fewer of course in number, are steadily linking the soul and the mind, which in its turn is linked with the other two aspects. The soul energy, when linked with the other threads has its anchor in the heart. A very few people, the initiates of the world, having effected all the lower syntheses, are now occupied with bringing about a still higher union, just as the soul in its turn is endeavoring to use its shadow, the threefold lower man.

20. Ngài nói đến những mức độ khác nhau của sự tích hợp (integration) trong tâm thức của con người. Có người chỉ mới tích hợp được giữa thể dĩ thái và thể xác đậm đặc (con người sơ khai). Có người đã tích hợp thêm thể cảm dục vào hai thể trên (thể hồng trần) (người phân cực vào cảm xúc). Có người đã vươn đến cõi trí tuệ và ba thể dần tích hợp thành phàm ngã tích hợp. Các đệ tử thì cố gắng tích hợp phàm ngã đã tích hợp với Tam nguyên tinh thần. Bằng thuật ngữ của Antahkarana, con người đã và đang tạo ra sợi dây sáng tạo (sáng tạo tuyến–creative thread) nối liền ba thể của phàm ngã với linh hồn.

Những sự phân biệt và đồng nhất này là những vấn đề hình thức, [trang 449] biểu tượng trong ngôn từ, được sử dụng để diễn tả những sự kiện và diễn biến trong thế giới của năng lượng và mãnh lực, mà con người chắc chắn có liên quan. Chính những sự đồng nhất này mà chúng ta đề cập tới xem xét chủ đề điểm đạo.

These distinctions and unifications are matters of form, [Page 449] symbols in speech, and are used to express events and happenings in the world of energies and forces, in connection with which man is definitely implicated. It is to these unifications that we refer when the subject of initiation is under consideration.

Phân biệt giữa sutratma và Antahkarana – Distinguishing between the sutratma and the antahkarana

Có thể hữu ích để lặp lại ở đây một số phát biểu trong một quyển sách trước đây:

It will be useful if we repeat here a few statements made in an earlier book:

Học viên cần tự rèn luyện để có thể phân biệt giữa sutratma (sinh mệnh tuyến) và antahkarana (tâm thức tuyến), giữa sợi dây của sự sống và sợi dây của tâm thức. Một tuyến là căn bản của sự bất tử, và tuyến kia là căn bản của sự liên tục. Nhà nghiên cứu cần lưu ý sự phân biệt tế nhị này. Một tuyến (sutratma) liên kết và làm sinh động tất cả các hình hài sắc tướng thành một toàn thể hoạt động, và tự thể hiện ý chí và chủ đích của thực thể đang biểu lộ, dù đó là một con người, Thượng Đế, hay một tinh thể. Tuyến kia (antahkarana) thể hiện sự đáp ứng của tâm thức bên trong hình thể với phạm vi giao tiếp liên tục rộng mở trong toàn cuộc sống chung quanh.

Sutratma là sợi dây sự sống trực tiếp, không gián đoạn và bất biến. Về mặt biểu tượng có thể xem nó là một dòng năng lượng sinh động và trực tiếp lưu chuyển từ trung tâm ra ngoại vi, từ nguồn cội đến sự phát biểu bên ngoài hay là ngoại hình hiện tượng. Đó chính là sự sống. Sự sống này tạo nên tiến trình cá biệt và sự khai mở tiến hóa của mọi hình thể. Vì thế, nó chính là con đường của sự sống, từ Chân thần thấu đến phàm ngã thông qua linh hồn. Đó chính là tuyến linh hồn, có tính duy nhất và bất khả phân. Tuyến này truyền chuyển năng lượng sống và cuối cùng trụ vào luân xa tim mỗi người, cũng như trụ vào một tụ điểm trung tâm trong mọi hình thể biểu hiện thiêng liêng. Không có gì khác hơn là sự sống, và không có gì tồn tại ngoài sự sống.

21. Trong những đoạn trên Ngài giải thích sự khác biệt giữa Sutratma (Sinh Mệnh Tuyến) và Antahkarana (Thức tuyến). Sutrama phát xuất từ Chân thần, xuyên qua linh hồn chảy đến phàm ngã và trụ tại tim. Antahkarana là Thức tuyến, xuất phát từ linh hồn và trụ ở não. Các bạn đọc lại loạt bài về sự chết, đức DK có nói khi Sinh Mệnh tuyến chưa rút lui thì con người chưa chết hẵn. Nhưng khi Linh hồn đã rút sợi dây Sutratma về thì cái chết thực sự xảy ra và con người không thể trở về thể xác được nữa.

Một điểm khác là không chỉ con người có sutratma mà mọi sinh vật đều có sutratma, và sutratma sẽ trụ tại bộ phân hay điểm trung tâm của sinh vật đó. Nơi con người thì điểm đó là quả tim.

Antahkarana được gọi là sợi dây của sư liên tục (Thread of Continuity) bởi vì khi nó hình thành thì con người đạt được sự liên tục tâm thức, có thể trụ tâm thức của mình vào bất kỳ cảnh giới nào– “bước vào thế giới cao hơn theo ý muốn, để lại các thế giới thấp ở phía sau, hoặc y có thể trở lại và vượt qua trên con đường dẫn từ bóng tối ra ánh sáng, từ ánh sáng đến bóng tối, và từ các thế giới thấp hơn vào các cõi giới của ánh sáng”.

Sợi dây tâm thức (antahkarana) là kết quả hợp nhất của sự sống và bản chất, hay là của các năng lượng cơ bản được biệt hóa đầu tiên trong thời gian và không gian. Sự biệt hóa này mang lại một yếu tố khác, chỉ xuất lộ thành yếu tố biểu hiện thiêng liêng thứ ba, khi hai yếu tố cơ bản nói trên đã hợp nhất. Tuyến này được dệt nên do sự xuất hiện của sự sống trong hình thể ở cõi trần. Cũng có thể nói theo lối biểu tượng là sutratma hoạt động từ trên xuống dưởi, và là sự tuôn đổ của sự sống vào cuộc biểu hiện ỏ ngoại giới. Antahkarana được đan dệt, phát triển và tạo nên do kết quả của cuộc sáng tạo đầu tiên này, và tác động từ dưới lên trên, từ ngoài vào trong, từ ngoại giới hiện tượng vào nội giới của thực tại và ý nghĩa.

Students should train themselves to distinguish between the sutratma and the antahkarana, between the life thread and the thread of consciousness.  One thread is the basis of immortality and the other the basis of continuity.  Herein lies a fine distinction for the investigator.  One thread (the sutratma) links and vivifies all forms into one functioning whole and embodies in itself the will and the purpose of the expressing entity, be it man, God or a crystal.  The other thread (the antahkarana) embodies the response of the consciousness within the form to a steadily expanding range of contacts within the environing whole.

It is, therefore, the path of life, which reaches from the Monad to the personality, via the soul.  This is the thread soul and it is one and indivisible. It conveys the energy of life and finds its final anchor in the center of the human heart and at some central focal point in all forms of divine expression. Naught is and naught remains but life. The consciousness thread (antahkarana) is the result of the union of life and substance or of the basic energies which constitute the first differentiation in time and space;  this produces something different, which only emerges as a third divine manifestation after the union of the basic dualities has taken place.

Riêng đối với con người thì tuyến sinh mệnh, sợi dây bạc hay sutratma có tính lưỡng phân. Chính tuyến sinh mệnh thì trụ ở tim, là một trong hai tuyến hình thành sutratma, trong khi tuyến kia thể hiện nguyên khí tâm thức thì trụ ỏ đầu. Bạn đã biết điều này, nhưng tôi thấy cần thiết để thường xuyên lặp lại điều này. Trong chu trình tiến hóa, con người phải lặp lại những gì mà Thượng Đế đã thực hiện. Họ phải tự sáng tạo, cả trong thế giới tâm thức và trong đời sống. Giống như con nhện, họ giăng những sợi chỉ liên kết, nhằm tạo cầu nối và giao tiếp với môi trường chung quanh. Từ đó, họ thu thập kinh nghiệm và phương tiện sinh tồn. Biểu tượng con nhện thường được dùng trong trong các kinh sách huyền môn cổ xưa của Ân Độ liên quan đến hoạt động này của con người. Ba tuyến mà phàm nhân tạo ra cùng với hai tuyến cơ bản mà linh hồn đã tạo, hợp thành năm loại năng lượng giúp cho con người trở nên tỉnh thức. Ba tuyến mà phàm nhân đã tạo, trụ vào các luân xa nhật tùng, đầu và tim.

The life thread, the silver cord or the sutratma is, as far as man is concerned, dual in nature. The life thread [450] proper, which is one of the two threads which constitute the sutratma, is anchored in the heart, whilst the other thread, which embodies the principle of consciousness, is anchored in the head. This you already know, but this I feel the need to constantly reiterate. In the work of the evolutionary cycle, however, man has to repeat what God has already done. He must himself create, both in the world of consciousness and of life. Like a spider, man spins connecting threads, and thus bridges and makes contact with his environment, thereby gaining experience and sustenance. The spider symbol is often used in the ancient occult books and the scriptures of India in connection with this activity of the human being. These threads, which man creates are triple in number, and with the two basic threads which have been created by the soul, constitute the five types of energy which make man a conscious human being

The triple threads created by man are anchored in the solar plexus, the head and the heart.

22. Trong câu trên, trong trường hợp con người Ngài lại gộp Sutratma và Antahkarana lại và gọi đó là Sutratma. Khi đó Sutratma là lưỡng phân, bao gồm Sutratma (trụ ở tim) và Antahkarana (trụ ở đầu). Khi con người tiến hoá, họ tạo ra tuyến sáng tạo tam phân như hình minh hoạ sau đây:

Ba nhánh của Sáng Tạo Tuyến (Creative Thread)

 

Khi thể cảm dục và thể trí hoạt động như một đơn vị và có thêm sự nối kết hữu thức của linh hồn (đừng quên rằng linh hồn vốn luôn liên kết trong vô thức) thì tuyến ngũ phân này – hai tuyến cơ bản và ba tuyến của phàm nhân – được nối dài đến luân xa cổ họng. Khi điều đó xảy ra, hành giả trở nên người sáng tạo hữu thức trên cảnh giới hồng trần. Từ các tuyến năng lượng chính kể trên, chúng ta có thể tùy ý phát ra các tuyến năng lượng phụ. Việc khai mở quan năng thần thông một cách thông minh trong tương lai đều hoàn toàn dựa vào sự hiểu biết này.

When the astral body and the mind nature are beginning to function as a unit, and the soul also is consciously connected (do not forget that it is always unconsciously linked), an extension of this fivefold thread—the basic two and the human three —is carried to the throat center, and when that occurs man can become a conscious creator on the physical plane. From these major lines of energy lesser lines can radiate at will. It is upon this knowledge that all future intelligent psychic unfoldment must be based.

Đoạn trên và hàm nghĩa của nó nhằm trình bày vắn tắt về Khoa học Antahkarana. Tôi đã cố gắng phát biểu vấn đề bằng các thuật ngữ, theo lốì biểu tượng nếu cần, để truyền đạt ý niệm tổng quát về tiến trình này. Chúng ta có thể học hỏi được nhiều khi dùng trí tưởng tượng để hình dung và minh họa. Nhiều người chí nguyện đã thiết lập được các liên kết sau đây của cầu nốì antahkarana.

  1. Từ thể xác đến thể sinh lực hay thể dĩ thái. Đây thực ra là sự nối dài của tuyến sinh mệnh giữa luân xa tim và lá lách.
  2. Từ thể xác và thể sinh lực như một đơn vị duy nhất, đến thể cảm dục hay thể tình cảm. Tuyến này phát ra từ luân xa nhật tùng hoặc là trụ trong đó, và thăng tiến nhờ nguyện vọng tinh thần, cho đến mức trụ vào các cánh hoa bác ái của hoa sen chân ngã.
  3. Từ thể hồng trần và thể cảm dục đến thể trí. Một đầu trụ vào luân xa đầu, và đầu kia trụ vào các cánh hoa hiểu biết của hoa sen chân ngã, tăng tiến nhờ tác động của ý chí.

In the above paragraph and its implications you have a brief and inadequate statement as to the Science of the Antahkarana. I have endeavored to express this in terms, symbolic if you will, which will convey a general idea to your minds. We can learn much through the use of the pictorial and visual imagination. This bridging must take place:

  1. From the physical to the vital or etheric body. This is really an extension of the life thread between the heart and the spleen.
  2. From the physical and the vital, regarding them as a [451] unity, to the astral or emotional vehicle. This thread emanates from, or is anchored in, the solar plexus, and is carried upwards, by means of the aspiration, till it anchors itself in the love petals of the egoic Lotus.
  3. From the physical and astral vehicles to the mental body. One terminus is anchored in the head, and the other in the knowledge petals of the egoic Lotus, being carried forward by an act of the will.

5 Comments

  1. Jupiter Nguyen

    Hy vọng quyển NỀN GIÁO DỤC TRONG KỶ NGUYÊN MỚI của Chân sư DK sẽ sớm được đưa lên minhtrietmoi.org để bất cứ ai, bất cứ đang ở nơi đâu và bất cứ khi nào cũng có thể đọc sách. Sự phát triển của Internet thật sự là một phép lạ đáng kinh ngạc.

  2. HQKhanh

    Kính gửi Webmaster!
    Tại đoạn: “21. Trong những đoạn trên Ngài giải thích sự khác biệt giữa Sutratma (Sinh Mệnh Tuyến) và Antahkarana (Thức tuyến). Antahkarana phát xuất từ Chân thần, xuyên qua linh hồn chảy đến phàm ngã và trụ tại tim. Antahkarana là Thức tuyến, xuất phát từ linh hồn và trụ ở não. ”
    Ở câu “Antahkarana phát xuất từ Chân thần, xuyên qua linh hồn chảy đến phàm ngã và trụ tại tim” nên chăng thay bằng “Sutratma phát xuất từ Chân thần, xuyên qua linh hồn chảy đến phàm ngã và trụ tại tim…”

      • HQKhanh

        Kính gửi Webmaster!
        Ở mục 10, phần đoạn trích : “Phần lớn các chỉ dẫn được đưa ra trong quá khứ đã đặt ra các quy tắc cho việc vun trồng các đức hạnh và phẩm tính cho người đệ tử, cũng như sự cần thiết của việc tự kiểm soát, tính khoan dung và lòng ích kỉ.” nên chăng thay bằng “…tự kiểm soát, tính khoan dung và lòng vô kỉ.”
        Ở Phần 4 – Khoa học về đường Antahkarana : bức ảnh về “Tuyến sáng tạo” : “Từ thể dĩ thái đến thể cảm xúc. Sợi dây này đi từ luân xa tùng thái dương đến luân xa tim, và từ đó đến thể dĩ thái, tiếp nhận năng lượng của sợi chỉ trên..” nên chăng thay bằng “…Sợi dây này đi từ luân xa tùng thái dương đến luân xa tim, và từ đó đến thể cảm xúc, tiếp nhận năng lượng…”
        Bởi vì nhận thức nỗi khó khăn của các vị quản trị, những gì nêu trên không phải là sự chú ý vào các lỗi sai sót, mà là mong muốn bổ sung vào việc hoàn thiện những bài học mà các vị đã đưa ra.
        Nhân đây, xin được gửi lời cảm ơn đến các vị huynh đệ trong sự dày công chuyển tải ánh sáng từ giáo lý của Đức DK đến với mọi người. Và chúng tôi, những người tầm đạo sơ cơ, được hưởng lợi rất nhiều từ những nỗ lực không mệt mỏi của các vị.

        • webmaster

          Chào bạn,

          Cám ơn bạn đã nhặt ra những sai sót trong khi trình bày. Chúng tôi rất vui khi được một độc giả như bạn theo dõi, đọc kỹ và nhặt sạn giúp.

          Thân ái,

Leave Comment