Kỳ Công Thứ 4: Bắt Con Hươu Cái
(Cự Giải, 21 tháng 6—21 Tháng 7)
Thần thoại
Đấng Chủ tể vĩ đại, ngồi trong Phòng Hội đồng của Đấng Chúa tể, nói với vị Thầy đứng cạnh Ngài: “Đâu rồi Người con của nhân loại và cũng là người con của Thượng đế? Y ra sao? Y đã được thử thách như thế nào, và y đang tham gia vào công việc gì?”
Vị Thầy đưa mắt nhìn người con của nhân loại và cũng là người con của Thượng đế, nói: “Thưa đấng Chúa Tể, y không làm gì cả. Thử thách lớn thứ ba đã cho y nhiều điều để học hỏi, y đang nghiền ngẫm và hồi tưởng về nó.”
“Hãy cho y một thử thách đòi hỏi sự lựa chọn khôn ngoan nhất của y. Hãy cho y đến làm việc trên cánh đồng mà y phải quyết định xem giọng nói nào trong tất cả nhiều giọng nói sẽ khiến trái tim y vâng lời. Tương tự như thế, hãy cho y một thử thách lớn đơn giản trên cõi giới ngoại tại, thế nhưng lại sẽ đánh thức trên phương diện nội tâm tất cả sự khôn ngoan và sức mạnh của y để lựa chọn. Hãy để y tiến hành thử thách thứ tư.”
Hercules, người Con của nhân loại và cũng là người Con của Thượng đế, đứng trước Cổng vĩ đại thứ tư. Lúc đầu là sự im lặng sâu sắc. Chàng không thốt ra một lời nào hay tạo ra một tiếng động nào. Bên ngoài Cổng, phong cảnh trải dài với những đường nét đẹp đẽ, và ở phía xa chân trời là đền thờ của Đấng Chúa Tể, đền thờ Thần Mặt trời, những bức tường thành lấp lánh. Trên một ngọn đồi gần đó có một con nai mảnh khảnh. Và Hercules, người con của nhân loại và cũng là người con của Thượng đế, vừa quan sát vừa lắng nghe, nghe thấy một giọng nói. Giọng nói [78] phát ra từ vòng tròn sáng của mặt trăng là quê hương của Artemis. Và Artemis, tiên nữ, đã nói những lời cảnh báo cho người con của nhân loại.
“Con nai là của ta, vì vậy đừng chạm vào nó,” Nàng nói. “Ta đã nuôi dưỡng nó từ rất lâu và chăm sóc nó khi còn nhỏ. Con nai là của ta, và nó phải tiếp tục là của ta.”
Rồi Diana, nữ thợ săn của bầu trời, con gái của mặt trời, xuất hiện trong tầm nhìn. Nhảy trên đôi chân mang dép về phía con nai, Nàng cũng tuyên bố quyền sở hữu nó.
“Không phải vậy,” Nàng nói, “Này Artemis, người hầu gái xinh đẹp nhất; con nai là của ta và nó phải tiếp tục là của ta. Khi đó nó quá nhỏ, cho đến ngày hôm nay, bây giờ nó có thể được sử dụng. Con nai có gạc vàng là của ta, không phải của ngươi, và nó sẽ vẫn là của ta.”
Hercules, đứng giữa những cây cột Cổng, lắng nghe tiếng cãi vã, và lấy làm lạ khi hai cô gái tranh giành quyền sở hữu con nai cái.
Một giọng nói khác vang lên bên tai chàng, kiểu ra lệnh: “Này Hercules, con nai cái không thuộc về cô gái nào, mà là của Chúa, người có đền thờ mà ngươi nhìn thấy trên ngọn núi xa kia. Hãy giải cứu nó và mang nó đến nơi an toàn của ngôi đền, và để nó ở đó. Đó là công việc đơn giản phải làm, hỡi người con của nhân loại người, nhưng (và hãy suy nghĩ kỹ những lời của ta) cũng là người con của Thượng Đế, do đó người có thể tìm kiếm và giữ con nai cái. Hãy tiến lên.”
Xuyên qua Cổng thứ tư, Hercules xuất hiện, bỏ lại đằng sau rất nhiều món quà đã nhận, không vướng bận gì trong cuộc rượt đuổi nhanh chóng ở phía trước. Và từ đàng xa, hai thiếu nữ đang cãi nhau đứng quan sát. Artemis, nàng tiên nữ, xuống từ mặt trăng, và Diana, nữ thợ săn xinh đẹp trong khu rừng của Chúa, theo dõi chuyển động của con nai cái, và khi có nguyên nhân chính đáng, mỗi người đều đánh lừa Hercules, tìm cách phá hỏng nỗ lực của chàng. Chàng đuổi theo con nai cái từ điểm này sang điểm khác, và mỗi cô gái đều lừa được chàng một cách tinh vi. Và họ đã làm điều này, hết lần này đến lần khác.
Như vậy trong suốt một năm, người con của nhân loại và cũng là người con của Thượng đế đã đuổi theo con nai cái từ nơi này sang nơi khác, thoáng thấy hình dạng của nó, rồi chỉ để thấy rằng nó đã có bị mất hút trong rừng sâu. Từ ngọn đồi này sang ngọn đồi khác, từ khu rừng này sang khu rừng khác, chàng săn lùng nó cho đến khi gần đến một cái hồ yên tĩnh, chàng thấy nó đang ngủ, nằm dài trên bãi cỏ không bị giẫm đạp, mệt mỏi với cuộc chạy trốn của mình.
Với bước đi lặng lẽ, bàn tay dang rộng và đôi mắt kiên định, chàng bắn một mũi tên về phía con nai cái và làm nó bị thương ở chân. Kích thích tất cả ý chí mà chàng sở hữu, chàng tiến lại gần hơn, nhưng con nai cái vẫn không di chuyển. Vì vậy, chàng đến gần, và siết chặt con nai cái trong vòng tay, gần trái tim chàng. Cả Artemis và Diana xinh đẹp đều đứng nhìn.
“Cuộc tìm kiếm đã xong”, chàng hô to. “Tôi bị dẫn vào bóng tối phương Bắc, nhưng không tìm thấy con nai nào. Tôi tìm đường vào khu rừng sâu tối tăm, nhưng không tìm thấy con nai; tôi cố gắng tìm kiếm con nai cái trên những cánh đồng buồn tẻ, trên vùng hoang vu khô cằn và sa mạc hoang vắng, nhưng không tìm thấy nó. Tại mỗi nơi đi đến, các thiếu nữ cản bước tôi, nhưng tôi vẫn kiên trì, và bây giờ nai cái là của tôi! Con nai cái là của tôi! ”
“Không phải vậy, hỡi Hercules,” giọng nói của Vị đứng gần Đấng Chủ toạ vĩ đại trong Phòng Hội đồng của Đấng Chúa Tể, đến tai chàng. “Con nai cái không thuộc về người con của nhân loại, mặc dù đó cũng là người con trai của Thượng đế. Hãy mang con nai cái đến ngôi đền xa xôi, nơi các người con của Thượng đế ở, và để nó ở đó với họ.”
“Tại sao thế, hỡi Bậc Thầy thông thái? Con nai là của tôi; nó là của tôi vì tôi đã tìm kiếm và du hành lâu dài, và cũng vì tôi ôm con nai cái gần trái tim mình.
“Thế, ngươi, mặc dù là con của nhân loại, lại không phải là con của Thượng đế hay sao? Và ngôi đền cũng không phải là nơi ở của ngươi sao? Và ngươi không chia sẻ cuộc sống của tất cả những người sống ở đó hay sao? Hãy mang con nai cái linh thiêng đến đền thờ của Chúa, và để nó ở đó, hỡi người con của Thượng đế.”
Sau đó đến thánh điện Mykenae, Hercules mang con nai cái đến trung tâm của Thánh điện và đặt nó xuống. Và khi đặt nó xuống trước mặt Chúa, chàng để ý thấy vết thương ở chân [80] của nó do một mũi tên từ cây cung mà chàng đã sở hữu và sử dụng. Con nai cái thuộc về chàng vì chàng đã tìm kiếm nó. Con nai cái là của chàng nhờ kỹ năng và sức mạnh của cánh tay chàng. “Do đó, con nai cái hai lần là của ta,” chàng nói.
Nhưng Artemis, đang đứng ở sân ngoài của nơi linh thiêng nhất đó, đã nghe thấy tiếng reo mừng chiến thắng của chàng và nói: “Không phải vậy. Con nai cái là của ta và luôn luôn là của ta. Ta nhìn thấy hình dạng của nó, phản chiếu trong nước; Ta nghe tiếng chân của nó trên những con đường của trái đất; Ta biết con nai cái là của ta, vì mọi hình tướng đều là của ta.”
Thần Mặt Trời cất tiếng từ thánh điện. “Con nai cái là của ta, không phải của ngươi, hỡi nữ thần Artemis! Linh hồn của nó ở với ta từ muôn đời, ở đây, ở trung tâm của ngôi đền thánh. Này Artemis, ngươi không thể vào đây, nhưng hãy biết rằng ta nói sự thật. Diana, người thợ săn xinh đẹp của Đấng Chúa Tể, có thể vào trong một lúc và kể cho ngươi nghe những gì nàng nhìn thấy.”
Người thợ săn của Chúa đi ngang qua đền thờ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi và nhìn thấy hình thể của con nai cái nằm trước bàn thờ, dường như đã chết. Và trong cơn đau khổ, nàng nói: “Nhưng nếu linh hồn của nó yên nghỉ với Ngài, hỡi Thần Apollo vĩ đại, Người Con cao quý của Thượng đế, hãy biết rằng con nai cái đã chết. Con nai cái bị giết bởi một người là người con của nhân loại, mặc dù cũng là người con của Thượng đế. Tại sao y có thể đi vào trong đền thờ và chúng tôi lại chờ đợi con nai cái ở ngoài này?
“ Bởi vì y ôm con nai cái trong vòng tay của y, gần trái tim y, và ở nơi linh thánh, con nai cái được nghỉ ngơi, và con người cũng vậy. Tất cả con người là của ta. Con nai cái cũng là của ta, không phải của các ngươi, cũng không phải của con người mà là của ta.”
Và Hercules, trở về sau đợt thử thách, đi qua Cánh Cổng một lần nữa và tìm đường trở về với Vị thầy Của đời mình.
“Con đã hoàn thành nhiệm vụ do Đấng Chủ Toạ vĩ đại đặt ra. Công việc đơn giản, ngoại trừ thời gian dài và sự cảnh giác khi tìm kiếm. Con không lắng nghe những người đưa ra tuyên bố của họ, cũng không chùn bước trên Con Đường. Con nai cái ở trong thánh địa, gần với trái tim của Thượng đế, và tương tự như vậy, trong những thời khắc cần thiết, cũng ở gần với trái tim của con.”
“Này Hercules, con trai ta, Hãy đi và nhìn lần nữa, giữa những cây cột của Cánh Cổng.” Và Hercules vâng lời. Bên ngoài Cổng, phong cảnh trải dài với những đường nét đẹp đẽ, và ở phía xa chân trời là đền thờ của Đấng Chúa, đền thờ của Thần Mặt trời, với những bức tường thành lấp lánh, trong khi trên một ngọn đồi gần đó có một con nai con mảnh khảnh.
“Có phải con đã thực hiện bài kiểm tra rồi không, thưa Thầy minh triết? Con nai đã trở lại ngọn đồi nơi con đã thấy nó đứng trước đó.
Và từ Phòng Hội đồng của Đấng Chúa Tể, nơi Đấng Chủ tọa vĩ đại đang ngồi, một giọng nói vang lên: “Hết lần này đến lần khác, tất cả các người con của nhân loại và cũng là những người con của Thượng Đế, hãy tìm kiếm con nai con có gạc vàng và mang nó đến thánh địa; hết lần này đến lần khác.”
Sau đó, Vị Huấn Sư nói với người con của Thượng đế: “Kỳ Công thứ tư đã kết thúc, và từ bản chất của bài kiểm tra và từ bản chất của con nai cái, phải thường xuyên tìm kiếm. Đừng quên điều này mà hãy suy ngẫm về bài học kinh nghiệm.”
Chân sư Tây Tạng (Djwhal Khul)
Tổng Hợp Các Dấu Hiệu
Cự Giải là dấu hiệu cuối cùng trong bốn dấu hiệu chuẩn bị, cho dù chúng ta đang xem xét sự biến đổi của linh hồn trong vật chất hay sự tiến hóa của người tìm đạo khi y đấu tranh thoát khỏi giới nhân loại để vào giới tinh thần. Được trang bị khả năng trí tuệ ở Bạch Dương, ham muốn ở Kim Ngưu, và đã đạt được nhận thức về tính hai mặt thiết yếu của mình ở Song Tử, con người tái sinh, thông qua việc sinh ra ở Cự Giải, bước vào giới nhân loại.
Cự Giải là một dấu hiệu đám đông, và những ảnh hưởng phát ra từ nó được nhiều nhà huyền bí học cho rằng mang lại sự hình thành gia đình nhân loại, chủng tộc, quốc gia và đơn vị gia đình. Đối với người tìm đạo, câu chuyện hơi khác, vì trong bốn dấu hiệu này, y chuẩn bị thiết bị của mình và học cách sử dụng nó. Ở Bạch Dương, y nắm bắt tâm trí của mình và tìm cách [82] uốn nắn nó theo nhu cầu của mình, học cách kiểm soát trí tuệ. Ở Kim Ngưu, “Mẹ của sự khai ngộ”, y nhận được tia sáng tinh thần đầu tiên của mình, vốn ngày sẽ càng rực rỡ hơn khi y đến gần mục tiêu của mình. Ở Song Tử, y không chỉ đánh giá cao hai khía cạnh trong bản chất của mình, mà khía cạnh bất tử bắt đầu tăng lên với cái giá phải trả là khía cạnh hữu tử.
Giờ đây, ở Cự Giải, lần đầu tiên y có cảm giác phổ quát hơn, khía cạnh cao hơn của tâm thức đám đông. Do đó, được trang bị với một thể trí được kiểm soát, có khả năng ghi nhận sự soi sáng, khả năng tiếp xúc với trạng thái bất tử của mình và nhận ra giới tinh thần bằng trực giác, giờ đây y đã sẵn sàng cho công việc vĩ đại hơn.
Trong bốn dấu hiệu tiếp theo, mà chúng ta có thể coi là các dấu hiệu của cuộc đấu tranh trên cõi trần để đạt được thành tựu, miêu tả cho chúng ta trận chiến vĩ đại thông qua phương tiện của chúng mà Cá nhân Tự ý thức, xuất hiện từ đám đông trong Cự giải, biết mình sẽ hãy là cá nhân trong Sư Tử, Đấng Christ tiềm năng trong Xử Nữ, người chí nguyện nỗ lực cân bằng các cặp đối lập trong Thiên Bình, và là người vượt qua ảo tưởng trong Hổ Cáp. Đây là bốn dấu hiệu của sự khủng hoảng và của nỗ lực phi thường. Trong đó, tất cả sự soi sáng, trực giác và sức mạnh linh hồn mà Hercules, người chí nguyện, có khả năng, đều được sử dụng đến mức tối đa. Những điều này cũng có sự phản ánh của chúng trên cung giáng hạ tiến hóa, và có thể lần ra một trình tự khai mở tương tự. Linh hồn đạt được tính cá nhân ở Sư Tử, trở thành người nuôi dưỡng các ý tưởng và năng lực tiềm tàng ở Xử Nữ, dao động dữ dội từ cực đoan này sang cực đoan khác ở Thiên Bình, và chịu tác động kỷ luật của thế giới ảo tưởng và hình tướng trong Hổ Cáp.
Trong bốn dấu hiệu cuối cùng, chúng ta có những dấu hiệu của thành tựu. Người tìm đạo đã làm việc ra khỏi thế giới của ảo cảm và của hình tướng, và tâm thức của y đã thoát khỏi những giới hạn của chúng. Bây giờ y có thể là cung thủ trong Nhân Mã, đi thẳng tới mục tiêu của mình; bây giờ y có thể là con dê trong Ma Kết, leo lên đỉnh điểm đạo; bây giờ y có thể là người phụng sự thế giới trong Bảo Bình, và [83] vị cứu thế trong Song Ngư. Như vậy, y có thể tự mình tổng hợp tất cả những thành quả đạt được trong thời kỳ chuẩn bị và của những trận chiến ác liệt trong bốn cung của hoạt động tích cực; và trong bốn dấu hiệu cuối cùng này chứng tỏ những lợi ích đã đạt được và những sức mạnh đã phát triển.
Sự tổng hợp ngắn gọn này của các dấu hiệu, như chúng ảnh hưởng đến Hercules, sẽ giúp đưa ra một số ý tưởng về sự tổng hợp tuyệt vời của bức tranh, về sự tiến triển đều đặn và về sự bộc lộ có kiểm soát của các mãnh lực khác nhau đóng vai trò tinh tế của chúng trong việc tạo ra những thay đổi trong cuộc sống của con người.
Ba từ tóm tắt sự tự nhận thức khách quan hay khía cạnh ý thức của con người đang tiến hóa: bản năng, trí tuệ, trực giác. Dấu hiệu mà chúng ta đang nghiên cứu chủ yếu là dấu hiệu của bản năng; nhưng sự thăng hoa của bản năng là trực giác. Cũng vậy, vật chất phải được nâng lên trời cao, thì bản năng cũng phải được nâng lên như vậy, và khi nó đã được siêu việt và chuyển hóa như vậy, nó biểu hiện thành trực giác (tượng trưng là con nai cái). Giai đoạn trung gian là giai đoạn của trí tuệ. Nhu cầu lớn nhất của Hercules bây giờ là phát triển trực giác của mình và làm quen với việc nhận ra ngay lập tức chân lý và thực tại, vốn là yếu tố đặc quyền và mạnh mẽ trong cuộc đời của một người con được giải thoát của Thượng đế.
Ý nghĩa câu chuyện
Do đó, Eurystheus đã cử Hercules đi bắt con hươu cái Keryneian có sừng vàng. Từ “hind” xuất phát từ một từ Gothic cổ, có nghĩa là “cái phải được nắm giữ”, nói cách khác, thứ khó nắm bắt và khó bảo đảm. Con nai cái này rất linh thiêng đối với Artemis, nữ thần mặt trăng; nhưng Diana, nữ thợ săn của bầu trời, con gái của mặt trời, cũng tuyên bố điều đó và xảy ra tranh cãi về quyền sở hữu. Hercules nhận nhiệm vụ của Eurystheus và lên đường đi bắt con nai hiền lành. Chàng đã săn lùng nó cả năm trời, đi từ khu rừng này sang khu rừng khác, chỉ thoáng thấy nó rồi lại mất [84] nó. Tháng này qua tháng khác, chàng không bao giờ có thể nắm bắt và giữ nó. Nỗ lực của chàng cuối cùng đã đạt được thành công và chàng tóm lấy con nai cái, ném nó lên vai, “ôm nó vào lòng”, và mang nó đến ngôi đền linh thiêng ở Mykenae, nơi chàng đặt nó trước bàn thờ, ở nơi linh thiêng. Rồi anh đứng lùi lại, hài lòng với thành công của mình.
Đây là một trong những câu chuyện ngắn nhất nhưng mặc dù chúng ta được kể rất ít, nhưng Kỳ công này, khi được suy ngẫm kỹ lưỡng, là một điều thú vị sâu sắc và nổi bật, và bài học mà nó chứa đựng là vô cùng quan trọng. Không có thành công nào cho người tầm đạo cho đến khi anh ta chuyển hóa bản năng thành trực giác, cũng như không có việc sử dụng trí năng một cách đúng đắn cho đến khi trực giác được phát huy tác dụng, giải thích và mở rộng trí năng và mang lại sự chứng ngộ. Khi đó bản năng phụ thuộc vào cả hai. [85]
Tính chất của dấu hiệu
Cự Giải được gọi là Con cua và người Hy Lạp nói với chúng ta rằng đó là con cua được Hera gửi đến để cắn vào chân Hercules. (Một lần nữa chúng ta gặp biểu tượng này trong “gót chân Achilles” dễ bị tổn thương.) Đây là một cách thú vị để diễn tả những trách nhiệm của tiến trình luân hồi và minh họa những khuyết tật bủa vây linh hồn khi nó di chuyển dọc theo con đường tiến hóa. Nó tượng trưng cho những hạn chế của tất cả các kiếp sống ở cõi trần, vì Cự Giải là một trong hai cánh cổng lớn của cung hoàng đạo. Nó là cánh cổng đi vào thế giới của các hình tướng, đi vào hoá thân vật chất, và là dấu hiệu trong đó tính hai mặt của hình hài và linh hồn được thống nhất trong thể xác.
Dấu hiệu đối lập với Cự Giải là Ma Kết, và hai cung này tạo thành hai cánh cổng, một là cánh cổng dẫn vào đời sống vật chất và cánh cổng còn lại dẫn vào đời sống tinh thần; một cánh cửa mở ra hình thức đám đông của gia đình nhân loại, và cánh cửa kia vào trạng thái tâm thức phổ quát, đó là giới tinh thần. Một đánh dấu sự bắt đầu trải nghiệm của con người trên cõi trần, cái kia đánh dấu đỉnh cao của nó. Một biểu thị tiềm năng, và cái kia biểu thị sự viên mãn.
Chúng ta được biết rằng Đức Christ đã trao cho Thánh Peter chìa khóa của trời và đất; Do đó, Ngài đã trao cho ông chìa khóa của hai cánh cổng này. Chúng ta đọc như sau:
“Chúa Giê-su trao cho Phi-e-rơ … chìa khóa của hai cánh cổng chính của vòng hoàng đạo, đó là hai điểm chí, các cung hoàng đạo Cự Giải và Ma Kết, được gọi là cổng mặt trời. Thông qua Cancer, hay ‘cánh cổng của con người’, linh hồn xuống trái đất (để hợp nhất với thể xác), đó là cái chết tâm linh của nó. Thông qua Ma Kết, ‘cánh cổng [86] của các vị thần’, nó bay lên thiên đàng.” (E. Valentia Straiton, The Con tàu thiên thể của phương Bắc Vol. II, tr. 206).
Trong vòng hoàng đạo Denderah, dấu hiệu Cự Giải được đại diện bởi một con bọ cánh cứng, được gọi ở Ai Cập là con bọ hung (scarab). Từ “con bọ hung” có nghĩa là “chỉ được sinh ra”; do đó, nó đại diện cho sự tái sinh vào trần gian, hoặc, liên quan đến người tìm đạo, tượng trưng cho sự sinh mới. Ở Ai Cập cổ đại, tháng Sáu, được gọi là “meore”, một lần nữa có nghĩa là tái sinh, và do đó, cả dấu hiệu và tên gọi đều giữ vững trước mắt chúng ta ý nghĩ về sự hình thành và tái sinh trong thể xác. Trong vòng hoàng đạo cổ đại ở Ấn Độ, có niên đại khoảng 400 năm trước Công nguyên, dấu hiệu này lại được đại diện bởi một con bọ cánh cứng (beetle).
Người Trung Quốc gọi dấu hiệu này là “con chim đỏ”, vì màu đỏ là biểu tượng của dục vọng, và con chim là biểu tượng của sự hóa thân và xuất hiện trong thời gian và không gian. Là loài chim xuất hiện khá thường xuyên trong các câu chuyện thần thoại và vòng hoàng đạo, Hamsa, loài chim trong truyền thống Ấn Độ giáo, “con chim vượt thời gian và không gian”, tượng trưng cho sự biểu hiện của Thượng đế và con người. Từ trong bóng tối, con chim vụt bay lên và bay qua đường chân trời trong ánh sáng ban ngày, rồi lại biến mất vào bóng tối. Từ “ngỗng” (goose) của chúng ta bắt nguồn từ cùng một gốc tiếng Phạn, thông qua tiếng Iceland, và khi chúng ta nói, “Bạn thật như một con ngỗng”, chúng ta thực sự đang đưa ra một lời khẳng định bí truyền nhất; chúng ta đang nói với một con người khác: “Bạn là con chim vượt thời gian và không gian, bạn là linh hồn đang hình thành; bạn là Thượng đế đang lâm phàm!
Con cua sống một nửa trên mặt đất và một nửa trong nước. Do đó, nó là dấu hiệu của linh hồn trú ngụ trong cơ thể vật chất nhưng chủ yếu sống trong nước, là biểu tượng của bản chất tình cảm, cảm xúc.
Về mặt phổ truyền, Cự Giải được cai quản bởi mặt trăng, vốn luôn là mẹ của hình tướng, điều khiển nước và thủy triều. Do đó, trong dấu hiệu này, hình tướng chiếm ưu thế và tạo thành một trở ngại. Con cua xây dựng ngôi nhà hoặc cái vỏ của nó, và mang nó trên lưng, và những người sinh ra trong dấu hiệu này luôn ý thức về những gì họ đã xây dựng; họ thường quá nhạy cảm, [87] quá xúc động, luôn tìm cách trốn tránh. Người thuộc dấu hiệu Cự Giải nhạy cảm đến mức khó đối phó, khó nắm bắt và đôi khi vô định đến mức khó có thể hiểu hay giữ được anh ta.
Thập Giá Chủ Yếu
Cự Giải là một trong những nhánh của Thập Giá Chủ Yếu. Một nhánh là Aries, dấu hiệu của sự bắt đầu, của sự khởi đầu, của đời sống chủ thể, của giai đoạn trước khi sinh, hay sự giáng hạ tiến hóa, và của bước đầu tiên hướng tới việc kháoc lấy hình tướng hoặc hướng tới sự giải thoát tâm linh. Nhánh thứ ba của thập giá là Libra, sự cân bằng, sự lựa chọn ở giữa, sự khởi đầu của việc bước đi trên “con đường hẹp như lưỡi dao cạo”, mà Đức Phật thường đề cập đến. Ma Kết, nhánh thứ tư, một lần nữa là sự ra đời, sự ra đời của vị cứu thế, sự ra đời trong giới tinh thần, sự sinh ra từ thế giới vật chất để bước vào thế giới của bản thể. Giáng hạ tiến hoá, hóa thân, biểu đạt, linh ứng, chính là bốn từ diễn tả câu chuyện của Thập Giá Chủ Yếu trên bầu trời. (Thập giá của điểm đạo đồ.)
Hợp nhất với Ma Kết
Thật thú vị khi so sánh hai cung Cự Giải và Ma Kết, bởi vì những gì biểu hiện ở Cự Giải lại được hoàn thành ở Ma Kết. Cự Giải đại diện cho nhà, cho người mẹ. Nó mang tính cá nhân và tình cảm, trong khi Ma Kết đại diện cho nhóm [89] mà đơn vị gia nhập một cách có ý thức, và cũng là “cha đẻ của tất cả những gì đang tồn tại”. Cổng Cự Giải đi vào thông qua quá trình chuyển đổi từ trạng thái tâm thức động vật sang con người, trong khi cổng Ma Kết được đi vào thông qua điểm đạo. Một là tất yếu, tiềm thức và tiềm năng; cái còn lại là tự khởi xướng, tự ý thức và mạnh mẽ. Cự Giải đại diện cho hình thức đám đông, linh hồn động vật tập thể; Ma kết đại diện cho nhóm, linh hồn phổ quát.
Cự Giải ban đầu được gọi là tháng sinh của Đức Giêsu. Ma Kết, như chúng ta biết, là tháng sinh của Đức Christ, và vào ngày 25 tháng 12 trong nhiều thế kỷ, ngày sinh của Đấng Cứu Thế đã được tổ chức; nhưng trong những ngày rất xa xưa, ngày sinh nhật của các vị thần mặt trời sơ sinh là ở Cự Giải. Chúng ta được cho biết:
“Ngày sinh của Đức Giêsu Hài Đồng, do các linh mục tùy tiện đặt ra, tạo ra sự khác biệt nghiêm trọng, vì chúng ta được biết rằng Người được sinh ra trong máng cỏ. Máng cỏ được tìm thấy trong dấu hiệu của ngày hạ chí, chòm sao Cự Giải, được gọi là cổng mặt trời, qua đó các linh hồn được cho là đi xuống từ ngôi nhà trên trời của họ xuống trái đất, giống như vào ngày đông chí vào tháng 12, họ được cho là để trở về ngôi nhà thiên đường hay thiên thể của họ, chòm sao Ma Kết, cánh cổng khác của mặt trời. Ma Kết là dấu hiệu mà từ đó thần sung được cho là sinh ra vào ngày đông chí và được coi là thiêng liêng đối với những đứa con của ánh sáng.”
(E. Valentia Straiton, The Celestial Ship of the North, Tập II, tr. 205).
Bài học của Kỳ Công
Chúng ta đã thấy rằng hươu cái hay con nai cái mà Hercules tìm kiếm là linh thiêng đối với Artemis, Mặt trăng, nhưng cũng được Diana, nữ thợ săn của các Tầng Trời và thần mặt trời Apollo tuyên bố sở hữu. Một trong những điều thường bị các sinh viên tâm lý học và những người thăm dò tâm thức đang khai mở [93] của con người lãng quên, đó là thực tế là không có sự phân biệt rõ ràng giữa các khía cạnh khác nhau của bản chất con người, mà tất cả đều là các giai đoạn của một thực tại. Các từ bản năng, trí tuệ và trực giác chỉ là những khía cạnh khác nhau của tâm thức, và là các phản ứng với môi trường và thế giới mà con người tìm thấy chính mình trong đó. Con người là một con vật, và cùng với con vật, y sở hữu phẩm chất của bản năng và phản ứng bản năng đối với môi trường của mình. Bản năng là tâm thức của hình tướng và của sự sống tế bào, phương thức nhận thức của hình tướng, và do đó, Artemis, mặt trăng, người cai quản hình tướng, tuyên bố quyền sở hữu con nai thiêng liêng. Ở vị trí của nó, bản năng động vật cũng thiêng liêng như những phẩm chất khác mà chúng ta coi là tinh thần một cách nghiêm ngặt hơn.
Nhưng con người cũng là một con người; y lý trí; y có thể phân tích, chỉ trích, và y sở hữu thứ mà chúng ta gọi là trí tuệ, khả năng nhận thức và phản ứng trí tuệ, thứ phân biệt y với một con thú, mở ra cho y một lĩnh vực nhận thức mới, tuy nhiên, đó chỉ đơn giản là một phần mở rộng của bộ máy phản ứng của y và sự phát triển bản năng thành trí tuệ. Qua một cái, y nhận thức được thế giới của những tiếp xúc vật lý và những tình trạng cảm xúc; thông qua cái khác, y nhận thức được thế giới của suy nghĩ và ý tưởng, và do đó là một con người. Khi y đã đạt đến giai đoạn nhận thức thông minh và bản năng đó, thì “Eurystheus” chỉ ra cho y rằng có một thế giới khác mà y có thể nhận thức được giống vậy, nhưng có phương thức tiếp xúc và bộ máy đáp ứng riêng.
Diana, người nữ thợ săn, đã tuyên bố sở hữu con nai cái, bởi vì đối với nàng, con nai cái là trí tuệ và con người là người tìm kiếm vĩ đại, người thợ săn vĩ đại trước Đấng Chúa Tể. Nhưng con nai cái có một hình dạng khác và khó nắm bắt hơn, và Hercules, người chí nguyện, đã tìm kiếm điều này. Trong một chu kỳ đời sống, chúng tôi được cho biết, chàng đã săn tìm. Đó không phải con nai cái bản năng mà chàng tìm kiếm; đó không phải con nai cái trí tuệ là đối tượng mà chàng tìm kiếm. Đó là một thứ khác, và vì điều này, chàng đã dành cả cuộc đời để săn lùng. Cuối cùng, chúng tôi đọc được, chàng đã bắt được nó và mang nó vào đền thờ, nơi nó được thần mặt trời tuyên bố sở hữu bởi [94] Ngài đã nhận ra, trong con nai cái, trực giác tinh thần, sự mở rộng của tâm thức, cảm giác nhận thức phát triển cao, mang lại cho người đệ tử một tầm nhìn về những lĩnh vực tiếp xúc mới và mở ra cho y một thế giới hiện hữu mới. Chúng ta được biết rằng trận chiến vẫn đang diễn ra giữa thần mặt trời Apollo, người biết rằng con nai cái là trực giác, và Diana, nữ thợ săn của bầu trời, người biết đó là trí tuệ, và Artemis, mặt trăng, người cho rằng đó là bản năng mà thôi. Cả hai tuyên bố của các nữ thần người đều có lý, và vấn đề của tất cả các đệ tử là sử dụng bản năng một cách chính xác, đúng chỗ và đúng cách của nó. Y phải học cách sử dụng trí tuệ dưới ảnh hưởng của Diana, nữ thợ săn, con gái của mặt trời, và thông qua đó trở nên hòa hợp với thế giới của những ý tưởng và nghiên cứu của con người. Y phải học cách mang khả năng đó của mình vào đền thờ của Chúa và ở đó để thấy nó chuyển hóa thành trực giác, và nhờ trực giác mà y nhận thức được những điều thuộc về tinh thần và những thực tại tinh thần mà cả bản năng lẫn trí tuệ đều không thể tiết lộ cho y. (Và hết lần này đến lần khác người con của nhân loại và cũng là người con của Thượng Đế, phải chiếm lại những thực tại tinh thần này trên Con đường vô tận.) [95]