Ảo cảm — P3 (Maya 2- Kỹ Thuật Điềm Nhiên)

Nhận Diện và xua tan Ảo lực 

Trang 40, Chân sư DK tổng kết những điểm tổng quát mà Ngài đã nói các khía cạnh của ảo cảm, và liệt kê các điểm chính thành bảng:

Để tóm tắt một số thông tin mà tôi đã đưa ra cho bạn liên quan đến bốn trạng thái của ảo cảm, tôi muốn đưa ra bảng liệt kê sau đây để bạn xem xét cẩn thận. Hãy lưu ý:

1.− Một cảm thức sơ khai về ảo lực phát sinh vào thời Lemuria, nhưng không có ảo cảm và ảo tưởng thực sự.
2.− Ảo cảm phát sinh vào đầu thời Atlantis.
3.− Ảo tưởng phát sinh trong số những người tiến hóa vào cuối thời Atlantis và sẽ là một nhân tố kiểm soát trong giống dân Arya của chúng ta.
4.− Kẻ Chận Ngõ đạt đến uy lực đầy đủ vào cuối giống dân Arya này, và trong các kiếp sống của mọi điểm đạo đồ trước khi được điểm đạo lần thứ ba.
5.− Trong thiên nhiên, các giới dưới nhân loại không bị ảo cảm và ảo tưởng, mà bị chìm đắm trong ảo lực của thế gian.
6.− Đức Phật và chín trăm vị La Hán của Ngài đã giáng đòn đầu tiên vào ảo cảm thế gian khi Ngài truyền bá Tứ Diệu Đế của Ngài. Đức Christ giáng đòn thứ hai với sự giảng dạy của Ngài về bản chất của trách nhiệm cá nhân và về tình huynh đệ. Đòn kế tiếp sẽ do Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian đưa ra dưới sự hướng dẫn của Đức Christ và các đệ tử của Ngài, được mô tả một cách tượng trưng là “Đức Christ và chín ngàn đệ tử được điểm đạo của Ngài”.
7.− Bốn chủ âm để giải quyết vấn đề ảo cảm là:
Trực giác ….  Giác ngộ …  Cảm hứng …. Thiên Thần của Sự Hiện Diện

In summarising some of the information I have given to you concerning the four aspects of glamour, I would offer the following tabulation for your careful consideration.

Note:

1. A dawning sense of maya arose in Lemurian days, but there was no real glamour and illusion.

2. Glamour arose in early Atlantean times.

3. Illusion arose among advanced human beings in later Atlantean days and will be a controlling factor in our Aryan race.

4. The Dweller on the Threshold arrives at full potency at the end of this race, the Aryan, and in the lives of all initiates prior to taking the third initiation.

5. The subhuman kingdoms in nature are free from glamour and illusion, but are immersed in the world maya.

6. The Buddha and His 900 arhats struck the first blow at the world glamour when He promulgated His Four Noble Truths. The Christ struck the second blow with His teaching of the nature of individual responsibility and of brotherhood. The next blow will be struck by the New Group of World Servers, acting under the direction of Christ and His disciples, symbolically described as “Christ and His 9000 initiates.”

7. The Four Keynotes to the solution of the problem of glamour are:

Intuition . . . Illumination . . . Inspiration . . . The Angel of the Presence.

GAW 40
Các Khía cạnh của Ảo cảm (Aspects of Glamour)

Trong bảng trên, Ngài tổng kết những đặc điểm của 4 khía cạnh của ảo cảm, nhưng trong phần nay, chúng ta chỉ chú ý đến dòng được viền đỏ, vì đó là chủ đề hiện tại của chúng ta. Theo đó, Ảo lực (maya) là vấn đề chính trên con đường dự bị, còn được gọi là con đường tinh luyện, vì trên con đường này, người Đệ tử Dự Bị bắt đầu rèn luyện tính cách, loại bỏ các tính xấu, bồi đắp các tính tốt, và mục tiêu là “devitalisation” hay làm mất sinh lực của maya. Đối với mỗi phương diện của Ảo cảm, Ngài thường dùng một từ khác nhau để chỉ phương pháp đối trị, như với ảo tưởng là Dispel, ảo cảm là Dissipate, Maya hay ảo lực là Devitalise hoặc Disperse, tất cả đều bắt đầu bằng ký tự “D”, một cách để giúp người học đạo dễ nhớ. Các từ trên nghĩa khá giống nhau, nhưng suy ngẫm có những khác biệt tinh tế mà chúng ta cần nhận ra để hiểu hết ý của Ngài.

Ảo tưởng khác ảo cảm ở chỗ đó là những hình tư tưởng rõ nét trên cõi trí (hạ trí), và phương pháp để loại trừ ảo tưởng là là Dispel hay xua đuổi nó, và nó có thể biến mất bất thình lình. Ảo cảm giống như làn sương mù buổi sáng, nó có tính chất thấm nhập và không có đường nét rõ ràng, và phương pháp đối trị sẽ là làm tan dần “làn sương mù” ảo cảm đó. Với ảo lực là những mãnh lực của cõi dĩ thái, và phương pháp đối trị sẽ là “Devitalise” hay Disperse các mãnh lực của maya. Tuy nhiên, Ngài cũng không cứng nhắc trong các từ này, nhiều Ngài dùng từ Dispel với Glamour và Dissipate với Illusion.

Như đã nói trước đây, chúng ta được cho biết rằng ảo lực xuất hiện trước tiên trong nhân loại (từ thời Lemurian, trong giống dân thứ 3), khi đó, con người chỉ hơn một con thú một chút, hoàn toàn chưa có trí năng và chỉ có chút tình cảm phôi thai, và như thế, bản chất động vật trong thể xác đậm đặc hoàn toàn chi phối con người, và năng lượng prana phục vụ cho những mãnh lực vật chất đó.

Giai đoạn tìm kiếm sự thỏa mãn trong việc đáp ứng gần như tự động các bản năng của thể xác, với tính dục, thức ăn và sự ấm áp. Những điều này xuất hiện chi phối trong tâm thức con người. Bản chất động vật trong con người được biến thành trung tâm của nỗ lực để tạo ra một ý thức hợp nhất nào đó. GAW 95

a. That wherein satisfaction is sought in the almost automatic response to the physical instincts, to sex, food and warmth. These loom large in man’s consciousness. The animal nature in man is made the centre of the attempt to produce some sense of unity. 

GAW 95

Đây là giai đoạn con người chịu ảo lực dạng thô sơ nhất, năng lượng prana trong thể dĩ thái hoàn toàn phục vụ hay tiếp sinh lực hoạt “những ngọn lửa xưa cũ” của vật chất. Tam giác luân xa hoạt động trong giai đoạn này chắc chắn bao gồm luân xa xương cùng và luân xa đáy cột sống, tương ứng với sự khai mở cánh hoa thứ nhất của Hoa Sen Chân Ngã.

Sau đó là một bước tiến khi thể cảm dục đã phát triển phần nào, ngoài những mãnh lực của bản năng, con người còn tìm kiếm trong sự thoả mãn vật chất bên ngoài:

Giai đoạn tìm kiếm sự thỏa mãn và ý thức về tính duy nhất trong lãnh vực sở hữu vật chất, và trong việc thiết lập một trung tâm của cái đẹp và tiện nghi trong cuộc sống trên cõi trần. Ở đó, con người có thể cảm thấy thoải mái và không biết đến một ý thức nhị nguyên ngày càng tăng, ngày qua ngày trở nên dần mạnh mẽ hơn.

b. The stage wherein satisfaction and sense of oneness is sought in the realm of material possessions, and in the establishing of a centre of beauty and comfort in life on the physical plane. Therein the man can be at home and oblivious of a growing sense of dualism which, day by day, gets steadily stronger. This stage only takes place [Page 96] ages later when the aspirant is about to re-orient himself to truth and to take the first steps towards the Probationary Path. It is a correspondence towards the end of the Path of Evolution to the stage above mentioned, but the man experiencing it is a very different person to the one who now seeks synthesis in the materialisation of beauty upon the outer plane. The subtle man is now becoming dominant.

GAW 96

Nhắc lại, ham muốn vật chất là ảo cảm, nhưng khi nó biến thành hành động trên cõi trần, đó là ảo lực, và được Chân sư DK gọi bằng tên gọi “ảo lực dạng tình cảm”. Tổng quát hơn, bất kỳ mãnh lực nào thuộc các cõi giới cao hơn cõi dĩ thái (cảm dục, thể trí…) tuôn đổ vào thể dĩ thái (qua trung gian các luân xa), khiến y có những xung động không kiểm soát được, thì đó cũng là ảo lực, nhưng ảo lực thuộc dạng cao hơn loại ảo lực mà chúng ta vừa nói đến trong giống dân thứ 3.

Vấn đề của ảo lực, ảo cảm, ảo tưởng là sự đồng hoá sai lạc (misindentification), con người đồng hoá với ba thể của phàm ngã (thể xác, thể cảm dục, thể trí), và phương pháp để diệt trừ các nhận thức sai lạc là thôi đồng hoá với các “Phi Ngã” (Not-Self), vì con người thật sự là Linh hồn, và cao hơn nữa là Tam nguyên tinh thần và trên hết là chân thần.

Linh hồn tạo ra phàm ngã tam phân để biểu lộ, cũng giống như Thượng đế tạo ra thái dương hệ, hoặc Hành Tinh Thượng đế tạo ra hệ hành tinh để biểu lộ Thiên tính và cứu chuộc các sinh linh nhỏ bé trong cấu trúc của Ngài, nhưng sự khác biệt giữa con người và một Thượng đế là con người đồng hoá với tạo vật của mình, còn Đấng Thượng đế thì không, Ngài tách rời khỏi tạo vật của Ngài bằng sự Điềm Nhiên Thiêng liêng.

Linh hồn tạo ra sự biểu lộ tam phân trong ba cõi sinh hoạt của con người. Đây là một chân lý huyền linh. Hình hài bên ngoài, tức thể xác kép (gồm thể xác trọng trược và thể sinh lực hay thể dĩ thái), được chế tạo, được tạo ra, được thúc đẩy, được tiếp năng lượng, và được chi phối bởi một số năng lượng và mãnh lực, phát ra từ các cảnh giới mà trên đó linh hồn đã—đúng hay sai—khởi xướng một phản ứng đồng hóa. Huynh đệ thân mến, hãy lưu ý cụm từ này. Các điều này tạo ra con người của y; chúng cung cấp cho y tính khí, nghề nghiệp và tính chất của y trên cõi trần; chúng làm cho y trở nên tiêu cực hoặc tích cực với các loại năng lượng tác động khác nhau; chúng cung cấp cho y tính cách của y và tạo cho y những gì mà y có vẻ là đối với những người khác. Chúng tạo ra sắc thái của y, các khả năng và tính cách của y. Kẻ thường nhân tự đồng hóa mình với tất cả các điều này; y tin rằng chính y là hình hài, là trung gian mà qua đó y cố gắng biểu lộ các ham muốn và các ý tưởng của y. Sự đồng hóa hoàn toàn này với sự sáng tạo tạm thời và với sắc tướng bên ngoài là ảo lực. Phải nhớ rằng ảo lực của cá nhân là một phần rất nhỏ của thế giới các năng lượng và các lực đang tạo ra sự biểu lộ sự sống của Hành Tinh Thượng Đế, vốn chi phối cuộc sống bên ngoài của hành tinh chúng ta, và tạo cho hành tinh của chúng ta những gì mà nó tỏ ra với các hành tinh khác. GAW 242

The soul creates a threefold expression in the three worlds of human living. This is an occult truism. The outer form, the dual physical body (dense and vital or etheric) is produced, created, motivated, energised and conditioned by certain energies and forces, emanating from those levels whereon the soul has—rightly or wrongly—engineered a reaction of identification. Note this phrase, my brother. These make the man what he is; they give him his temperament, profession and quality upon the physical plane; they make him negative or positive to various types of impacting energy; they give him his character and make him what he appears to be to others; they produce his colouring, his capacities and his personality. With all of these the average man identifies himself; he believes himself to be the form, the medium through which he attempts to express his desires and his ideas. This complete identification with the transient creation and with the outer appearance is maya. It must be remembered that individual maya is a fractional part of the world of energies and forces which constitute the life expression of the planetary Logos, which condition our outer planetary life, and make our planet what it appears to be to the other planets.

GAW 242

Sự khác nhau giữa con người, tiểu vũ trụ, với Hành Tinh Thượng Đế, vị Chúa Tể Thế giới, Đại Vũ Trụ, nằm ở sự kiện là vị Chúa Tể Thế giới không đồng hóa với ảo lực mà Ngài đã tạo ra, vốn có mục đích của nó trong việc cuối cùng mang lại việc giải thoát cho các “tù nhân của hành tinh”. NGÀI tuyệt đối không quan tâm đến Ảo Lực đó… GAW 242

The difference between man, the microcosm, and the planetary Logos, the Lord of the World, the Macrocosm, lies in the fact that the Lord of the World is not identified with the maya which He has created, and which has its purpose in eventually bringing about the release of the “prisoners of the planet.” To that Maya, HE is supremely indifferent and it is this divine indifference which has led to the great theological illusion of an anthropomorphic Deity and to the belief (in the East) that our planet is but the background [Page 243] or the plaything of the Gods.

GAW 242

Do đó, Kỹ Thuật Điềm Nhiên là tách rời khỏi phàm ngã tam phân, đứng lùi lại, quan sát và điều khiển nó, thay vì bị nó điều khiển. Và chúng ta nhớ trong bảng trước đây, Ngài nói đối trị cho Maya là Inspiration—linh hứng, nhưng ý nghĩa của từ Inspiration mà Ngài dùng là “Breathe in” thở vào, và thở vào đây là linh hồn thở sự sống và sinh lực vào phàm ngã để chuyển hoá nó. Nó cũng đòi hỏi kỷ luật của sao Thổ và tiết điệu của Cung 7 để khắc chế sự hổn loạn trên cõi trần.

Cảm hứng là một quá trình phẩm định, tiếp sinh lực và kích thích phản ứng của phàm ngã—thông qua các trung tâm lực—đến điểm trụ nhất tâm (point of tension) nơi mà sự kiểm soát của linh hồn trở nên hiện hữu và rõ ràng. Đó là phương thức nhờ đó năng lượng từ linh hồn có thể tràn ngập sự sống phàm ngã, có thể quét qua các trung tâm lực, trục xuất những gì cản trở, giải thoát người tìm đạo khỏi mọi ảo cảm và ảo lực còn sót lại. GAW259

Inspiration is a process of qualifying, vitalising and stimulating the reaction of the personality—via the centres—to that point of tension where soul control becomes present and apparent. It is the mode whereby energy from the soul can flood the personality life, can sweep through the centres, expelling that which hinders, ridding the aspirant of all remaining glamours and maya. GAW 259

GAW 259

Ngài nêu ra một tiến trình để nhận diện các mãnh lực đang quét qua phàm ngã, và nhờ đó có thể đối trị chúng:

Bạn sẽ thấy rõ ràng rằng bước đầu tiên mà nhà nghiên cứu tinh thần phải thực hiện là xác định—một cách thực sự và dưới ánh sáng của linh hồn y—chính xác đâu là trọng tâm đồng hoá của y. Ý của tôi là: Phải chăng việc sử dụng năng lượng chính yếu của y được tìm thấy trên cõi trí không? Phải chăng y chủ yếu thiên về tình cảm và sử dụng sức mạnh từ cõi cảm dục trong phần lớn thời gian? Liệu y có thể tiếp xúc với linh hồn và mang năng lượng linh hồn vào theo cách mà nó phủ nhận hoặc hoá giải mãnh lực phàm ngã của y không? Như vậy, liệu y có thể sống như một linh hồn trên cõi trần, thông qua thể dĩ thái không? Nếu y nghiêm túc nghiên cứu vấn đề này, thì y sẽ kịp thời khám phá ra mãnh lực nào chiếm ưu thế trong thể dĩ thái, và sẽ nhận biết được một cách hữu thức các thời điểm và trải nghiệm đòi hỏi phải có sự tiêu dùng năng lượng linh hồn. Các huynh đệ thân mến, điều này sẽ cần thời gian và sẽ là kết quả của sự quan sát lâu dài và phân tích kỹ lưỡng các hành vi và phản ứng xúc cảm, của lời nói và suy nghĩ. Ở đây, như bạn có thể thấy, chúng ta quan tâm đến một vấn đề hết sức thực tế, đồng thời cũng là một vấn đề thực chất trong nghiên cứu của chúng ta, và sẽ gợi ra những thay đổi cơ bản trong cuộc sống của người đệ tử. GAW 248

It will be apparent to you that the first step the spiritual investigator has to take is to ascertain—truly and in the light of his soul—where exactly is his focus of identification. [Page 248] By that I mean: Is his major use of energy to be found upon the mental plane? Is he predominantly emotional and utilising force from the astral plane the greater part of the time? Can he contact the soul and bring in soul energy in such a manner that it negates or offsets his personality force? Can he thus live like a soul upon the physical plane, via the etheric body? If he earnestly studies this problem, he will in time discover which forces are dominant in the etheric body and will become aware consciously of the times and experience which call for the expenditure of soul energy. This, my brother, will take time and will be the result of prolonged observation and a close analysis of acts and sentient reactions, of words and thoughts. We are here concerned, as you can see, with an intensely practical problem which is at the same time an intrinsic part of our study and which will be evocative of basic changes in the life of the disciple.

GAW 248

Y sẽ thêm vào sự quan sát và phân tích này về sức mạnh của một hay nhiều mãnh lực tác động, các điều kiện khiến chúng hoạt động, tần suất xuất hiện của chúng, cho y thấy chúng là mới hoặc là thói quen, cùng bản chất biểu hiện của chúng. Bằng cách này, y sẽ đạt được một sự hiểu biết mới về các yếu tố chi phối hoạt động trong thể sinh lực của y và làm cho y thể hiện bản chất của y trên cõi trần. Điều này sẽ chứng minh cho y thấy sự giúp đỡ sâu sắc về mặt tinh thần và có ý nghĩa. GAW 248

He will add to this observation and analysis of the strength of the force or the forces engaged, the conditions which will swing them into action, the frequency of their appearance, indicating to him novelty or habit, and likewise the nature of their expression. In this way, he will arrive at a new understanding of the conditioning factors which work through his vital body and make him—upon the physical plane—what he essentially is. This will prove to him of deep spiritual and significant help.

GAW 248

Như thế, có 8 yếu tố phải xem xét: các cung chi phối linh hồn, phàm ngã, ba thể của phàm ngã; cộng với 3 dấu hiệu mặt trời, dấu hiệu mọc, dấu hiệu mặt trăng, tạo thành nền tảng của sự Tự Tri.

Tám yếu tố chi phối Ảo cảm

Kỹ Thuật Điềm NHiên (Technique of Indifference)

Kỹ thuật này là gì? Huynh đệ thân mến, tôi tự hỏi liệu bạn có hiểu ý nghĩa của từ “điềm nhiên” này không? Thực sự, nó có nghĩa là việc đạt một thái độ trung lập đối với những gì được xem như là Phi Ngã; nó bao hàm một sự từ chối sự tương tự; nó đánh dấu việc nhận thức sự dị biệt cơ bản; nó có nghĩa là không chấp nhận việc đồng nhất hóa với bất cứ điều gì ngoại trừ thực tại thiêng liêng, trong chừng mực mà thực tại đó được cảm nhận và được biết ở bất cứ điểm đã định nào trong thời gian và không gian. Do đó, nó là một điều quan trọng và mạnh mẽ hơn nhiều so với những gì thường được hàm ý khi dùng thuật ngữ đó. Đó là sự từ chối tích cực mà không có bất kỳ sự tập trung nào về những gì bị từ chối. Đó là một phát biểu quan trọng và bảo đảm sự xem xét thận trọng của bạn. GAW 262

What is this technique? What is indifference? I wonder, brother of mine, if you understand the significance of this word “indifference”? It means in reality the achieving of a neutral attitude towards that which is regarded as the Not-self; it involves a repudiation of similarity; it marks the recognition of a basic distinction; it signifies refusal to be identified with anything save the spiritual reality as far as that is sensed and known at any given point in time and space. It is, therefore, a much stronger and vital thing than what is usually meant when the word is used. It is active repudiation without any concentration upon that which is [Page 263] repudiated. That is a statement of moment and warrants your careful consideration.

GAW 262

Chính ở điểm này mà y áp dụng Kỹ Thuật Điềm Nhiên, vì nếu không làm thế, thì những gì mà y đang tìm cách biểu lộ có thể bị làm đình trệ và bị chặn lại bởi mãnh lực dĩ thái hoặc bởi các bức màn của ảo lực. Tất nhiên, y hoạt động từ một điểm tập trung mạnh mẽ; y từ chối bất cứ “sự dính mắc” với bất cứ hình hài nào hoặc cảnh giới nào khi y phóng năng lượng vào và qua ba cõi thấp. Khi y khám phá ra bất cứ sự ngăn chận hoặc sự làm lệch hướng tiến bộ nào qua ảo tưởng linh hoạt hoặc ảo cảm, y, một cách hữu thức, “tự tách khỏi” các tiếp xúc như thế, và gắng sức cho giai đoạn điềm nhiên cuối cùng, hay sự khước từ tất cả các mãnh lực ngoại trừ các mãnh lực mà y—một cách hữu thức và có mục đích —đang tìm cách sử dụng trên cõi trần. GAW 262

It is at this point that he applies the technique of indifference for, if he does not, that which he is seeking to express may be held up and arrested by etheric force or by the veils of maya. He works consequently from a point of intense concentration; he refuses any “attachment” to any form or plane as he projects the energy into and [Page 264] through the three worlds. When he discovers any arresting or sidetracking of progress through active illusion, or glamour, he “detaches” himself consciously from such contacts and braces himself for the final stage of indifference or repudiation of all forces except those which he—consciously and with purpose—is seeking to use upon the physical plane.

GAW 262

Download file pdf ở đây

Leave Comment