Thuật Trắc tâm—Psychometry

THUẬT TRẮC TÂM

Giới Thiệu: Trong bài này, Geoffrey Hodson viết về khả năng Psychometry, được dịch là thuật trắc tâm, và có nhiều chi tiết thú vị để chúng ta suy nghĩ.

Đây là phần “thay đổi không khí” trong việc học tập giáo lý của Chân sư DK 😊. Bài viết trích từ The Science of Seership

————–

Trong chương này, tác giả rời khỏi lĩnh vực nghiên cứu khoa học nghiêm ngặt và mời độc giả cùng tham gia với ông trong một số suy đoán liên quan đến điểm chung ­của mọi hình thức nhận thức khác thường.

Một trong những nhà văn viết nhiều nhất về các chủ đề huyền bí trong thời đại của chúng ta đã từng tuyên bố rằng bà chưa từng gặp ai dưới cấp bậc Chân sư mà có thể giải thích một cách thỏa đáng về Thuật Trắc Tâm. Theo quan điểm của tuyên bố này, ở đây có thể thực hiện một nỗ lực hữu ích để khám phá một số nguyên tắc nằm bên dưới loại nhãn thông này.

Như có lẽ ai cũng biết, nhà trắc tâm có thể, bằng cách cầm một vật, đọc được lịch sử quá khứ của vật đó và môi trường xung quanh nó; nếu khéo léo, y cũng sẽ có thể đưa ra thông tin chính xác ­liên quan đến tình trạng hiện tại của nó, trong khi thậm chí có thể thấy trước tương lai của nó.

Có lẽ nhà nghiên cứu huyền bí học sẽ giải thích rằng mọi đối tượng đều được bao quanh và tồn tại trong biển Akash [2], trên đó được ghi dấu ấn không thể tẩy xóa về toàn bộ lịch sử của nó, và phép trắc tâm là nghệ thuật tiếp xúc và đọc những bản ghi này. Nếu tiếp tục bị thúc ép giải thích kiến thức của nhà tiên tri về tương lai của đối tượng và những điều xung quanh nó­, sinh viên phải cố gắng giải thích tính tương đối của thời gian và quan niệm khó nắm bắt về BÂY GIỜ vĩnh cửu.

Thoạt nhìn, những lời giải thích này có vẻ đủ thỏa đáng và chắc chắn cung cấp nền tảng cho sự hiểu biết về hiện tượng đang được xem xét. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ hơn cho thấy vấn đề không dễ giải quyết như vậy.

Temple of St. Columb on Iona là một ngôi đền cổ được xây dựng bởi St. Columba, một tu sĩ và truyền giáo viên Ireland, vào khoảng năm 563 AD. Ngôi đền này là một phần của tu viện Iona, một trung tâm truyền giáo và học thuật quan trọng trong lịch sử Kitô giáo ở Scotland và châu Âu. Ngôi đền này có thể đã được xây dựng gần nơi tu viện hiện tại, hoặc trên một ngọn đồi gần đó. Ngôi đền này là một nơi linh thiêng, nơi có nhiều vua của Scotland, Ireland và Na Uy được chôn cất.

Rõ ràng là cả thời gian và không gian đều không có bất kỳ sức mạnh nào để hạn chế phạm vi quyền năng của nhà trắc tâm. Đưa cho y một vật từ đống đổ nát của ngôi đền St. Columb trên Iona, và y không nhìn thấy Iona khi nhìn từ vị trí hiện tại của y trong thời gian và không gian; y nhìn thấy nó như nó thực sự ở bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử của nó mà y có thể mong muốn, như thể bản thân y có mặt trong thời kỳ đó. Y không xem nó như qua kính viễn vọng từ phòng làm việc của mình, mà đứng trên hòn đảo và bên trong ngôi đền nếu y muốn. Y nghe tiếng sóng vỗ bờ đảo; Y cảm nhận được các điều kiện khí hậu, và thực sự có thể chịu sự cực kỳ lạnh hoặc nóng trong cơ thể vật lý hiện tại của mình. Cho dù đối tượng là mười nghìn năm tuổi hay chỉ một năm tuổi, lịch sử của nó có thể nhìn thấy bằng con mắt bên trong của nhà trắc tâm.

Lời giải thích khả dĩ duy nhất cho hiện tượng này dường như là sự tồn tại của cái gọi là Akashic Records (Ký ảnh Akasha), được cho là tạo thành phần ký ức của Tâm thức thiêng liêng, và tồn tại ở các cõi thấp, bao quanh mọi vật thể với toàn bộ ghi chép về cuộc đời của nó. Vì vậy, khi một thuỷ thủ đập chiếc cuốc của mình vào tảng đá nguyên sơ; gửi những mảnh vỡ run rẩy bay xung quanh nó, cảm giác hồi hộp hoặc rung động trong đá được tạo ra do tác động của cái cuốc sẽ in sâu vào từng mảnh vỡ, cũng như trên tảng đá mẹ. Nhà trắc tâm, người xử lý bất kỳ phần nào của tảng đá, sẽ tiếp xúc với rung động đó và biến ­nó thành ý thức, và cuối cùng, thành một bức tranh hoàn chỉnh về khung cảnh thực tế.

Từ thực tế này, câu hỏi được đặt ra: “Bằng cơ chế nào mà rung động được lưu trữ được chuyển thành những bức tranh sống động trong con mắt của tâm trí hoặc tâm thức bên trong ­của nhà thấu thị?” Nói cách khác, làm thế nào để một sức mạnh rung động bao quanh và xuyên qua một vật thể lại trở thành một bức tranh? Hơn nữa, bằng cơ chế nào mà nhà thấu thị có thể không chỉ quan sát bức tranh với tư cách là khán giả, mà còn thâm nhập vào nó, đặt tâm thức của mình vào nơi thực tế xảy ra? Thay đổi thứ hai, nếu có thể, đáng chú ý hơn thay đổi thứ nhất, vì nhà thấu thị thay đổi từ người quan sát một bức tranh tương đối nhỏ thành người tham gia ­vào cảnh thực sự; nhờ đó, bức tranh không còn là sự tập trung bên ngoài của một sự kiện trước mắt y nữa, mà trở thành một môi trường hoàn chỉnh.

Trong trường hợp của mảnh đá, y sẽ thấy mình đang quan sát toàn cảnh, như thể y thực sự có mặt tại một điểm xác định nào đó trong hoặc gần mỏ đá; y có thể, nếu đã được phát triển đầy đủ trong nghệ thuật của mình, tiếp tục quan sát ngược hoặc xuôi thời gian, và quan sát quá trình hình thành thực tế của chính tảng đá; hoặc y có thể đi cùng người thuỷ thủ về nhà và đồng hóa với các điều kiện ở nhà, trạng thái tâm thức và hoàn toàn bước vào một sự hiểu biết đầy đủ ­về cuộc sống của người thuỷ thủ.

Trong khi tất cả các thông tin chi tiết này có thể được thu thập bằng cách tiếp xúc với một mảnh vỡ của hòn đá bị đập, và có lẽ, được đọc từ nó, chúng ta phải nhớ rằng người thuỷ thủ không nhất thiết phải chạm vào mảnh vỡ, do đó khó có thể cho rằng nó thấm nhuần những rung động về lịch sử cá nhân, ngoại hình và môi trường xung quanh ngôi nhà của anh ấy. Khi đó, làm thế nào thông tin liên quan đến anh ta thu được?.

Một nhà thông nhãn quen biết với tác giả luôn yêu cầu ông được cho biết hướng điều tra mà ông sẽ theo để có được thông tin cần thiết; ông tuyên bố rằng sau khi thiết lập được tiếp xúc với một người hoặc một địa điểm, sau đó ông có thể phân nhánh theo nhiều hướng khác nhau, ví dụ: đến người thân, nhà cửa, sức khỏe, nghề nghiệp, trạng thái tâm thức hoặc trạng thái tiến hóa của bất kỳ người nào được liên ­lạc.

Một lần, khi được trao một chiếc khuyên tai bằng pha lê, ông bắt đầu mô tả quả địa cầu của chúng ta trong trạng thái náo động nguyên thủy, rõ ràng liên hệ với lịch sử hình thành phần pha lê của vật trang trí. Khi được thông báo rằng chính chủ nhân hiện tại của chiếc khuyên tai là đối tượng nghiên cứu, ông ngay lập tức có thể mô tả chính xác về cô ấy, những mánh khóe trong cách cư xử, thói quen suy nghĩ và thậm chí cả tên của cô ấy.

Một khía cạnh khác của phép trắc tâm đáng được nghiên cứu là nhà thấu thị có thể thực sự tái tạo trong chính con người của mình tình trạng của con người và địa điểm trong một giai đoạn nhất định của lịch sử đối tượng.

Cũng chính người bạn đó đã từng được yêu cầu điều tra một mảnh đá được mang đến từ cái gọi là Vòng tròn Druids gần quận Peak của Derbyshire. Ông bắt đầu bằng việc mô tả khung cảnh của nơi này từ góc nhìn ­của một người đang đứng trên đỉnh đồi nơi hòn đá được tìm thấy; sau đó ông nhìn thấy một đám rước và một buổi lễ, tại đó một nạn nhân còn sống đã bị hiến tế. Ông cho biết nạn nhân này là một cô gái trẻ, đang bị trói bên cạnh một bệ thờ thô bằng đá.

Sau một số nghi lễ tà ác, khi thời điểm hiến tế đã đến, ông trở nên rất kích động và bắt đầu run rẩy dữ dội. Sự miêu tả ngừng lại, và rõ ràng ông đang rất cố gắng để tự kiềm chế. Sau một lúc, ông nói, với cảm giác mạnh mẽ: “Có một tinh linh xấu xa liên quan đến toàn bộ sự việc, và tôi đã tiếp xúc với nó. Nó đã cố ám tôi. Tôi ghét nó. Tôi ghét nó!” và, ông lấy viên đá đặt nó vào lửa, và dùng que đánh mạnh vào ngọn lửa, và ông vẫn tỏ ra vô cùng kích động cho đến khi nó khuất khỏi tầm nhìn trong đống than đỏ rực. Sau đó, ông cảnh báo tác giả về sự nguy hiểm của việc lưu giữ loại đồ cổ này, và các thí nghiệm đã dừng lại trong đêm đó.

Bây giờ viên đá đó đã được mang về từ đống đá trên đỉnh đồi, và nó được đặt trên bệ lò sưởi bên cạnh một mảnh đá khác được mang về từ Cader Idris. Đây là một mảnh thạch anh trắng có vẻ đẹp khác thường, và một thời gian sau sự kiện được mô tả ở trên, một nhà thông nhãn khác đã quan tâm đến nó một cách thích thú.

“Ông nhận được gì với cái đó?” anh ta được hỏi, và sau một lúc, anh ta tiến hành mô tả chính xác ­cùng những cảnh tượng tương tự như được người bạn đầu tiên mô tả từ viên đá Druid bị phá hủy trong lửa vài tháng trước. Anh ta cũng cảm nhận được những điều kiện khó chịu và khuyên nên phá hủy viên đá Cader Idris.

Đây rõ ràng là một trường hợp thấm nhập. Viên đá trắng có lẽ còn nguyên sơ, chưa chịu bất kỳ ảnh hưởng mạnh mẽ nào của con người, và đã bị nhiễm bức xạ từ viên kia, thứ đã bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với nghi lễ ma thuật.

Trong trường hợp này, nhà thông nhãn đang trắc tâm không phải viên đá Cader Idris trắng, mà là từ tính mà nó được nạp. Về mặt kỹ thuật, đó là tầm nhìn sai, và nhà thấu thị đã bị lừa. Có lẽ một nhà thông nhãn được đào tạo bài bản hơn sẽ nhận thức được các điều kiện và đã tránh được sai lầm.

Bây giờ chúng ta đối mặt với hai câu hỏi.

Đồ vật có đóng vai trò là phương tiện để truyền các rung động được dẫn từ nó dọc theo bàn tay và cánh tay của nhà đo lường tâm lý và đến tâm thức của anh ta hay không­; hay đồ vật chỉ phục vụ như một liên kết để đặt nhà thấu thị hoà nhập vào các Ký ảnh akasha, khi sau đó, y đọc mà không cần tham chiếu thêm đến chính đồ vật?

Nếu câu hỏi đầu tiên được trả lời là khẳng định­, thì chúng ta phải thừa nhận một quá trình tuôn chảy, trong thời gian đọc, của các dòng rung động của các ký ảnh Akasha. Tuy nhiên, nếu là trường hợp thứ hai, hào quang hoặc phát xạ thực tế của chính đồ vật đóng vai trò rất ít hoặc không đóng vai trò gì khi đã có được sự tiếp xúc.

Sự cố của viên đá bị nhiễm có thể được coi là làm lung lay kết luận sau, bởi vì chính hào quang của viên đá, chứ không phải bản thân viên đá, được đọc.

Sự cố này cũng sẽ dẫn chúng ta đến kết luận rằng đồ vật vật lý không phải là phương tiện tạo ra kết quả trong thuật trắc tâm, mà đúng hơn là các điều kiện từ tính mà nó được bao quanh và thấm nhuần, thiết lập một tốc độ rung tương ứng ­trong hào quang của nhà thấu thị, qua đó tâm thức nhận thức được chúng, giải mã chúng và gửi chúng xuống não.

Kết luận này có thể làm chúng ta hài lòng nếu người ta chấp nhận rằng việc tiếp xúc thực tế với một đồ vật là một điều kiện thiết yếu trong thuật trắc tâm; do đó, với kết luận này, ta suy ra rằng trong khả năng thông nhãn, không có sự tiếp xúc, một hình thức thấu thị khác đang được sử dụng.

Ví dụ, việc phát hiện ra một món đồ bị thất lạc có thể được cho là nhờ phép trắc tâm, trong khi trên thực tế, nó có thể là do một hình thức thông linh khác, ví dụ, một nhà ngoại cảm có thể phát hiện ra vị trí của một chiếc găng tay bên phải bằng cách tiếp xúc với chiếc găng bên tay trái của nó, trong trường hợp đó, chiếc găng tay bên trái dùng để đưa nhà thấu thị vào mối quan hệ với chủ sở hữu, trong khi bất kỳ kiến thức siêu vật lý nào khác về chiếc găng tay bên phải sẽ thu được bằng cách thực hiện một loại khả năng thông nhãn khác.

Thông tin của chúng ta về những chủ đề này vẫn còn ít đến mức khó đưa ra kết luận; nhưng có thể là bây giờ chúng ta có thể đánh giá cao hơn nhận xét được đề cập trong đoạn đầu tiên.

Trong cái mà chúng ta gọi là tâm thức vật chất, sự tiếp xúc rung động là điều cần thiết. Ví dụ, chúng ta nhìn thấy một vật thể, bởi vì các rung động phát ra từ vật thể đó đi vào mắt và ảnh hưởng đến võng mạc tùy theo màu sắc, kích thước và hình thức. Những rung động này truyền qua dây thần kinh thị giác đến não, nơi chúng đến chỉ đơn thuần là những rung động. Từ bộ óc vật chất, chúng được truyền đạt đến tâm thức. Tại đây, chúng được ghi lại và chuyển ­dịch, do kết quả của kinh nghiệm trước đó, thành các vật thể, sắc thái của màu sắc, v.v., và được đưa vào ý thức não bộ dưới hình thức mà chúng được cho là tồn tại.

Về mặt vật lý, chúng ta chỉ nhận được rung động. Do đó, chúng ta có thể suy đoán về câu hỏi đối tượng thực sự là gì. Nếu sự hiểu biết này không được tiết lộ cho chúng ta, thì chúng ta không biết cõi vật chất bề ngoài quen thuộc thực sự bao gồm những gì; kiến thức của chúng ta về nó bị giới hạn bởi những rung động mà chúng ta có thể đáp ứng thông qua các giác quan, đây là những con đường tiếp xúc duy nhất của chúng ta với thế giới xung quanh. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của chủ đề hiện tại của chúng ta, nhưng có thể tìm thấy một vị trí trong những suy đoán về chủ đề khó nắm bắt của Maya [3].

Đôi khi, người ta đã nỗ lực theo dõi chi tiết các quá trình thực tế của tâm thức trong trắc tâm, để có được sự hiểu biết đầy đủ hơn về sự hợp lý của nó.

Theo lời kể của một nhà thông nhãn, nỗ lực đầu tiên khi lấy đồ vật vào tay trái là làm cho thân và âm hoàn toàn tĩnh lặng; khi đạt được sự ­tĩnh lặng tương đối, một nỗ lực được thực hiện để hợp nhất tâm trí với đồ vật. Bị thúc ép về điểm này, anh ta không thể giải thích gì hơn ngoài việc anh ta cố gắng có ý thức để trở thành một với đồ vật, hay đúng hơn là với linh hồn và bản chất của độ vật; trong quá trình này, anh trở nên thụ động trên các cõi thấp; cơ thể vật lý của anh ta vẫn còn và trong tư thế yên tĩnh, với các chi không bắt chéo và cột sống thẳng đứng.

Nếu anh ta thành công, đôi ­khi một hình ảnh duy nhất sẽ xuất hiện trước mắt anh ta, như thể đang lơ lửng trong không trung ngang với trán anh ta, khoảng 6inch trước mặt anh ta. Nếu không có gì xuất hiện, anh ta sẽ đặt vật thể vào trung tâm giữa trán và nỗ lực hơn nữa để đọc được bản chất của nó.

Anh ấy không ngần ngại mô tả bức tranh đầu tiên xuất hiện, mà không đề cập đến sự liên quan rõ ràng của nó và thậm chí cả ý nghĩa vật lý thông thường; anh từ bỏ mọi ý tưởng định sẵn về bất ­kỳ chủ đề nào, cố gắng loại bỏ mọi cách giải thích cá nhân. Anh ta không muốn biết bất cứ điều gì về đối tượng, chủ sở hữu của nó hoặc mục đích của thí nghiệm; yêu cầu duy nhất của anh là được nói cho biết những gì được yêu cầu khi anh đang theo dõi khía cạnh đó của việc đọc.

Nhìn chung, có thể dễ dàng nhận thấy từ mô tả của bức tranh đầu tiên liệu anh ta có hoà nhập với chủ thể của cuộc điều tra hay không. Nếu đúng như vậy, như thường lệ, anh ta sẽ yêu cầu được hướng dẫn về phương hướng nghiên cứu, và khi được trả lời, anh ta sẽ lao vào chủ đề, hoàn toàn không biết gì về môi trường xung quanh cõi trần trong thời gian đó, nhưng vẫn đủ ý thức để thuật lại tầm nhìn của anh ấy rõ ràng khi anh ấy tiếp tục.

Mô tả trạng thái tâm thức của mình, anh nói rằng khi đã chắc chắn rằng bức tranh đầu tiên của anh là hình ảnh thật, và biết hướng mà những khảo sát của anh ấy sẽ đi, anh rút tâm trí ra khỏi đối tượng và tập trung vào bức tranh, cố gắng đi vào và trở thành một với nó, trong khi đồng thời duy trì sự bình tĩnh và tĩnh lặng bên trong.

Khi thành công trong việc này, anh ta thấy mình—hay nói đúng hơn là một phần của chính anh ta, vì anh ta luôn ­ý thức được rằng anh ta đang ngồi trong phòng và có sự hiện diện của những người khác—thực sự có mặt trong hoặc tại cảnh được mô tả, và việc điều tra sâu hơn trở thành câu hỏi về việc tập trung tâm thức của anh ta vào phần bức tranh chứa thông tin cần thiết.

Một ví dụ điển hình về các trạng thái tâm ­thức khác nhau này đã được đưa ra khi anh ta được yêu cầu trắc tâm bức thư của một phụ nữ ở Nam Phi, với mục đích xác định, nếu có thể, tình trạng sức khỏe và hạnh phúc của cô ấy.

Hình ảnh đầu tiên là một vùng biển rộng lớn, và anh ấy có cảm giác là chính mình trên đại dương. Anh ta hỏi liệu bức thư có phải từ nước ngoài không, và khi nhận được câu trả lời khẳng định, anh ta mô tả một thị trấn lớn với nhiều tòa nhà màu trắng và nhiều tán lá; tiếp theo, anh ấy đưa ra hướng chính xác của thị trấn từ vị trí hiện tại của anh ấy, đưa ra phương hướng của la bàn — đây là một giai đoạn khả năng thông nhãn của anh ấy chính xác một cách kỳ lạ — và sau đó anh ấy được cho biết rằng anh ấy đã mô tả chính xác thị trấn và đưa ra hướng thực.

Tiếp theo, anh ta nhìn thấy một phụ nữ trong vườn, và mô tả chi tiết cả hai [người phụ nữ và khu vườn]; người phụ nữ đã được nhận ra, mặc dù khu vườn thì không—sau đó có vẻ như người phụ nữ đã thay đổi nơi ở của mình. Sau đó, anh ấy mô tả khí hậu và tình trạng sức khỏe của cô ấy. Anh ấy nói rằng anh cảm thấy sức nóng của một đất nước nóng. Sau khi tạm dừng, anh cảm thấy cơ thể mình bị sốt, nhận xét rằng người phụ nữ sẽ bị sốt nhẹ, điều này sẽ làm thay đổi sự sắp xếp của người điều tra hiện tại khi anh ta đến đó.

Tất cả điều này đã được chứng minh là hoàn toàn đúng, ngay cả với căn bệnh sau này. Thí nghiệm kết thúc, tình trạng sốt lắng xuống, đối tượng hoàn toàn bị loại bỏ, và tâm thức bình thường trở lại.

Từ một nghiên cứu cẩn thận về thuật trắc tâm bằng hàng trăm thí nghiệm như vậy, tác giả cho rằng nhà trắc tâm có thể:

  1. Điều chỉnh tâm thức của anh ta với phần Thiên Trí mà đối tượng được trắc tâm là biểu hiện vật lý. Vì sự tiếp xúc vật lý, tức là một cảm giác, dường như là một yếu tố cần thiết trong hình thức thông nhãn này, nên sự tiếp xúc đầu tiên có thể đạt được trên cõi cảm dục.
  2. Tái tạo trong các vận cụ của mình các rung động Akasha bao quanh và thấm vào vật thể. Điều này là tự động và luôn xảy ra trong các trường hợp tiếp xúc giác quan, do đó các phương pháp nhận thức thông thường ­là đủ để giải thích các biểu hiện của nó ở một cá nhân.
  3. Truyền những rung động này đến não của anh ta, và từ đó đến tâm thức. Một lần nữa, điều này là bình thường và tự động, mặc dù một ­bộ não quá nhạy cảm có lẽ là một trong những yếu tố thiết yếu trong thuật trắc tâm.
  4. Nhận lại vào não câu trả lời của tâm thức dưới dạng hình ảnh và ý tưởng. Điều này là tự động; “Chân ngã kịch tính hóa”. Hình ảnh thu nhỏ được nhìn thấy, như thể hiện trước mặt, là một hình tư tưởng được tạo ra do tác động của phản ứng từ tâm thức lên thể trí hay thể tình cảm.
  5. Diễn đạt kết quả bằng lời, trong khi vẫn còn nhìn các hiệu ứng rung động được giải mã. Điều này đưa chúng ta đến điểm mà bức tranh đầu tiên đã được nhìn thấy và mô tả, đồng thời trả lời câu hỏi: “Làm thế nào những rung động xung quanh một vật thể được chuyển thành hình ảnh và ý tưởng?” Câu trả lời là: “Bằng ­những phương pháp thông thường của tâm thức.”
  6. Thay đổi tiêu điểm của tâm thức từ đồ vật sang hình ảnh mà nó đã tạo ra
  7. Trong tâm thức, bước vào bức tranh, bức tranh này ngay lập tức biến thành sự xuất hiện của môi trường vật chất thực tế. Mặc dù khả năng bước vào bức tranh trong tâm thức dường như có những khó khăn lớn, nhưng có lẽ đó chỉ là vấn đề ­về kỹ năng tập trung. Kết luận đó được đưa ra bởi những tuyên bố của một nhà trắc tâm, người nói rằng không cần nỗ lực để làm điều này, và thậm chí nó có thể xảy ra trước khi anh ta nhận thức được nó, đặc biệt nếu đồ vật bị ấn tượng mạnh mẽ hoặc “bị nạp” bởi những rung động của nơi chốn. Có lẽ điều này có thể thực hiện được nhờ sự hiện diện của đồ vật vật chất vốn liên tục tương tác với mọi hoàn cảnh vật chất trong lịch sử của nó.
  8. Đồng thời duy trì quyền kiểm soát và sử dụng các giác quan vật lý hoàn toàn, để mô tả các trải nghiệm khi chúng xảy ra, nghe và trả lời các câu hỏi.

Điều này đòi hỏi một sự thay đổi nhanh chóng sự tập trung thể trí, hoặc một hình thức tâm thức kép, nhờ đó khả năng mô tả các trải nghiệm tâm linh khi chúng xảy ra, nghe và trả lời các câu hỏi, có thể là kết quả của một trong hai quá trình.

  1. Quá trình thay đổi trọng tâm của tâm ­thức từ cõi vật lý sang nơi mà trải nghiệm đang diễn ra và ngược lại. Các quá trình của tâm thức nhanh đến mức sẽ không có sự xuất hiện của thời gian vật lý.
  2. Tiến trình phản ánh nơi con người, tiểu vũ trụ, thuộc tính của Đại vũ trụ, Thượng Đế, Đấng có ý thức tại mọi điểm trong vũ trụ của Ngài, đồng thời có ý thức bên ngoài biểu hiện đó, nơi mà Ngài có thể được cho là, với tất cả sự tôn kính, “cư trú” với các đồng nghiệp của Ngài. Xem câu kinh trong Bhagavad Gita. “Sau khi đã thấm nhập ­vũ trụ này với một mảnh của ta, tôi vẫn nguyên vẹn.”

Các sinh viên cao cấp của khoa học huyền bí đã gợi ý cho người viết rằng trong trường hợp khẩn cấp, một người có thể được yêu cầu trợ giúp siêu vật lý ở một khoảng cách xa, mà không cần phải ngủ hay xuất thần. Nếu điều này là đúng, thì con người cũng có thể có một phần của chính mình “ở lại” bên ngoài và vượt ngoài cuộc sống và các hoạt động vật lý của mình, và có khả năng duy trì hoạt động ­ở khoảng cách xa cơ thể.

Điều đáng lưu ý trong mối liên hệ này là sự kiện rằng một truy vấn quá khăng khăng hoặc một sự xáo trộn vật lý quá mức ­sẽ khiến nhà trắc tâm đánh mất chuỗi quan sát của mình, khi đó toàn bộ nhận thức của anh ta sẽ tập trung vào cõi trần và tâm thức bên trong biến mất. Từ điều này, có vẻ là trong quá trình trắc tâm, tâm thức không hoàn toàn ở cõi trần, cũng không hoàn toàn là tâm linh, mà “nghỉ ngơi” ở trạng thái ở giữa, và tiếp xúc làm việc với cả hai. Bất kỳ sự xáo trộn nào đối với sự “nghỉ ngơi” này đều có tác dụng phá vỡ mối liên hệ giữa trạng thái tâm linh và thể chất.

(9) Nhận thức về mặt vật lý các điều kiện vật lý của quang cảnh được quan sát, đồng thời cảm nhận và tái tạo trong chính con người của mình các điều kiện khí hậu của một thời kỳ hoặc địa điểm cũng như sức khỏe của một cá nhân. Sự tái tạo vật lý và tâm thức của các điều kiện được quan sát có thể là do trí tưởng tượng, do một hình thức tác động trở lại, hoặc do sự phối hợp gần gũi—trong khi ở tình trạng nhạy cảm—của các hoạt động của thể trí và thể xác.

(10) Vượt qua trong tâm thức những giới hạn vật lý của thời gian và không gian. Chúng ta có thể cho rằng nhà trắc tâm đặt mình vào trung tâm của đời sống rung động của đồ vật, từ vị trí đó anh ta có thể đọc được bất kỳ phần nào của đời sống đó. Tiếp xúc với đồ vật đặt anh ta hào nhập với toàn bộ lịch sử của nó, khiến anh ta có thể tập trung sự chú ý của mình vào bất kỳ giai đoạn nào mà anh ta muốn nghiên cứu.

Rất có thể là, nếu chúng ta có thể khám phá ra vùng nào trong tâm thức [4] cái thấy thực sự diễn ra, thì chúng ta sẽ tiến gần hơn đến giải pháp của vấn đề một cách hợp lý. Những nhà thấu thị khác nhau về khả năng; khả năng nhìn thấy quá khứ, tương lai và những khoảng cách xa của họ có thể phụ thuộc, trong số những thứ khác, vào cấu tạo vật lý đặc biệt, khả năng tiếp nhận của bộ não đối với các rung động siêu vật lý và tình trạng của một hoặc tất cả các hiện thể tinh tế hơn của tâm thức.

Do đó, chúng ta có thể giả định một cách an toàn rằng các hình ảnh trắc tâm xảy ra hoặc ở một cõi nào đó, nơi quá khứ, hiện tại và tương lai được trộn lẫn trong một “Bây Giờ” Vĩnh Cửu, hoặc ở một cõi thấp hơn, trong đó trạng thái tâm thức đó được phản ánh ở một mức độ nào đó. Nếu điều đầu tiên là đúng, thì nghi ngờ nảy sinh là liệu nhiều nhà thông nhãn chuyên nghiệp và những người khác chưa được đặc biệt đào tạo, có thể đáp ứng ở một mức độ nào đó những điều kiện cao như vậy, vốn được đòi hỏi để vượt lên trên những giới hạn của thời gian hay ­không; Điều thứ hai dễ được chấp nhận hơn, vì việc sở hữu năng lực trắc tâm không phụ thuộc—trong phạm vi kiếp sống trần gian duy nhất mà khả năng được thể hiện, được quan tâm—tâm linh, giáo dục, lòng vị tha, đạo đức, vệ sinh, chế độ ăn uống ­, hoặc vị trí tiến hoá rõ ràng. Nó đôi khi, dù không phải luôn luôn, có tính di truyền; nó có lẽ phổ biến hơn ở người Celtic so với người Teutonic, mặc dù người Teutonic sở hữu nó với số lượng lớn, vì các thử nghiệm với bạn bè sẽ chứng minh sự hài lòng của người đọc. Theo quan điểm huyền bí, nó phải là nghiệp quả, và có lẽ là kết quả của sự phát triển theo đường lối thông linh trong các kiếp quá khứ. Dù lời giải thích cuối cùng có thể là gì—và tác giả không tự cho mình đã đưa ra—có lẽ tác giả đã viết đủ để cho thấy rằng trong thuật trắc tâm, chúng ta có một chủ đề đáng để nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm.

  1. Reprinted from “The Herald of the Star
  2. Theo một số nghiên cứu, Akash là một chất siêu vật lý được khuếch tán rộng rãi mà mọi ghi chép về mọi sự kiện đều có ấn tượng không thể xóa nhòa.
  3. “Ảo ảnh”. Tất cả sự tồn tại hiện tượng được một số hệ thống triết học coi là ảo ảnh.
  4. Xem Chương V.

Leave Comment