Bài sau đây là phần thứ hai trong loạt bài nói về các quyền năng thông linh cao và thấp, trích dịch từ quyển The Externalisation of the Hierarchy. Trong phần thứ hai này, đức DK nói về các trường huyền môn trên thế giới với các phương pháp huấn luyện khác nhau. Một đặc điểm nổi bật của các trường này là sự chia rẻ và bài bác lẫn nhau. Điều này không lạ nếu chúng ta hiểu rằng điểm yếu đặc trưng của những người đã mở trí mạnh là sự kiêu ngạo và chia rẻ. Các trường này đều tôn sùng các Chân sư Morya và Chân sư M. nên Ngài khuyên nếu họ chấp nhận ảnh hưởng của trans-Himalayan Lodge thì họ phải hiểu rằng về phương diện nội môn các trường đều là một, thống nhất nhau, và thay vì chia rẻ họ nên hợp tác và bổ sung lẫn nhau.
Điểm thứ hai Ngài dạy là khi người đạo sinh bước vào một trong các trường này để được huấn luyện thì đương nhiên họ đã chọn cho mình con đường phát triển cưỡng bức với nhiều nguy hiểm rủi ro. Nói như thế không phải để người đạo sinh thụt chí, từ bỏ đường đạo, mà để người đạo sinh ý thức được sự nguy hiểm mà tiến hành học đạo một cách cẩn trọng. Trong những lời khuyên của Ngài, ta thấy:
- Đừng chú trọng quá mức hay quá khích trong việc giữ thể xác tinh khiết mà quan tâm hơn đến việc tránh chủ nghĩa cuồng tín (fanaticism) và sự thiếu lòng khoan dung (intolerance).
- Đừng bao giờ thực hành những bài tập thở (breathing exercises) hay luyện khí công (pranayama training) trừ phi có người hướng dẫn thành thạo và sau nhiều năm chuyên tâm phát triển tinh thần (spiritual application), dâng hiến và phụng sự.
- Tham thiền có nghĩa sống một đời sống nhất tâm tiến tới và luôn luôn như thế mỗi ngày. Khi bạn thực hành tham thiền có trình tự trong nhiều năm, kèm theo đó là một đời sống thiền định và một lòng phụng sự chuyên tâm, các điều đó sẽ đánh thức toàn bộ hệ thống và đặt phàm ngã (lower man) vào dưới ảnh hưởng và sự kiểm soát của chân ngã (spiritual man).
- Pháp môn yoga trong thời kỳ hiện nay là pháp môn yoga có mục tiêu nhất tâm, theo đuổi mục đích có định hướng, thực hành thường xuyên về sự Hiện Diện của Thượng Đế (Presence of God), và với việc tham thiền có trình tự đều đặn, tiến hành một cách hệ thống và đều đặn qua nhiều năm nỗ lực.
- Hãy tránh những giờ nghiên cứu và tham thiền kéo dài. Chúng ta hãy sống một đời sống bận rộn bình thường, và trong áp lực của bổn phận và công việc hằng ngày, luôn nhớ rằng về bản thể mình là ai, và các mục tiêu cứu cánh của mình là gì. Nên tham thiền đều đặn mỗi buổi sáng, bắt đầu bằng mười lăm phút và đừng bao giờ vượt quá bốn mươi phút. Hãy quên mình trong công việc phụng sự và đừng tập trung vào việc phát triển năng lực thông linh (‘thần thông’).
- Hãy thực hành hạnh Bất hại (harmlessness) vốn là đặc trưng nổi bật của mỗi người con của Thượng Đế. Bất hại nghĩa là không nói lời nào có thể làm tổn thương người khác, không nghĩ đến bất cứ ý tưởng nào có thể gây độc hại hay tạo ra hiểu lầm, và không làm một hành động nào có thể gây thương tổn, dù tối thiểu, cho huynh đệ mình – đây là đức tính quan trọng nhất sẽ giúp người đạo sinh huyền môn bước một cách an toàn trên con đường phát triển khó khăn. Khi nào mà người đạo sinh tập trung vào việc phụng sự huynh đệ mình và hướng dòng sinh lực ra thế giới bên ngoài, bấy giờ y sẽ thoát khỏi sự nguy hiểm và có thể hoạt động, ngưỡng vọng và tham thiền một cách an toàn.
II. Các Trường Nội môn và các kỷ luật (Esoteric Schools and Disciplines)
Câu hỏi thứ hai của chúng ta liên quan đến công việc của các trường nội môn (esoteric schools) hoặc, như đôi khi chúng được gọi, “các kỷ luật” (“disciplines”), cùng với việc huấn luyện và bảo vệ an toàn cho người học đạo trong các trường ấy.
Our second question relates to the work of the esoteric schools or “disciplines,” as they are sometimes called, and the training and safeguarding of the aspirants found working in them.
Đầu tiên tôi muốn làm sáng tỏ một điểm. Trở ngại lớn đối với công việc của đa số các trường nội môn vào lúc này chính là ý thức chia rẽ của họ và sự thiếu khoan dung của họ đối với của các trường và các phương pháp khác. Các nhà lãnh đạo của các trường này cần hiểu rõ sự kiện sau đây. Tất cả những trường phái nhìn nhận ảnh hưởng của Tổng Bộ Xuyên Hy Mã Lạp Sơn (Trans–Himalayan Lodge) và những người hoạt động cho các trường đó có quan hệ một cách hữu thức hay vô ý thức với các Chân Sư Minh Triết, như Chân Sư Morya hay Chân Sư K.H., đều tạo thành một trường duy nhất và là một bộ phận của một “môn phái” duy nhất (one “discipline”). Do đó, không có sự xung đột chính yếu nào về các mối quan tâm và ở khía cạnh nội môn – nếu họ hoạt động một cách hiệu quả – các trường và các cách trình bày khác nhau được xem như là duy nhất. Không có sự khác biệt cơ bản về giáo lý, cho dù thuật ngữ được dùng có thể thay đổi, còn phương pháp làm việc về cơ bản thì giống nhau.
I would like first of all to make one point clear. The great hindrance to the work of the majority of the esoteric schools at this time is their sense of separateness and their intolerance of other schools and methods. The leaders of these schools need to absorb the following fact. All schools which recognise the influence of the trans-Himalayan Lodge and whose workers are linked, consciously or unconsciously, with such Masters of the Wisdom as the Master Morya or the Master K.H., form one school and are part of one “discipline.” There is therefore no essential conflict of interests, and on [16] the inner side—if they are in any way functioning effectively—the various schools and presentations are regarded as a unity. There is no basic difference in teaching, even if the terminology used may vary, and the technique of work is fundamentally identical.
Nếu công việc của các Đấng Cao Cả tiến triển như mong đợi trong những tháng ngày căng thẳng mà cả thế giới đang mong cầu, điều cấp bách là các nhóm khác nhau này nên bắt đầu nhận ra sự duy nhất thực sự của họ về mục tiêu, cách hướng dẫn và kỹ thuật, và rằng các nhà lãnh đạo của họ nên hiểu rằng chính sự e ngại các nhà lãnh đạo khác và tham vọng muốn rằng nhóm của họ sẽ chiếm số lượng quan trọng nhất đã đưa đến việc sử dụng thường xuyên các từ ngữ “Đây là một kỷ luật khác hẳn” hoặc “Công việc của họ không giống như công việc của chúng tôi”. Chính thái độ này đang ngăn trở sự phát triển thực sự của đời sống tâm linh và sự hiểu biết của nhiều đạo sinh trong các tổ chức ngoại môn. Chính vào lúc này, “đại tà thuyết chia rẽ” (great heresy of separateness) đang lây nhiễm vào họ. Các nhà lãnh đạo và các thành viên của họ diễn đạt bằng các thuật ngữ “của chúng tôi” và “của quí vị”, “kỷ luật” này và “kỷ luật” kia, phương pháp này là đúng (thường đó là phương pháp của riêng họ), còn phương pháp kia có thể đúng, nhưng có phần đáng ngờ, nếu không phải là hoàn toàn sai. Mỗi nhóm xem nhóm riêng của họ đặc biệt tuyên thệ với họ và cách giảng dạy của họ, đe doạ các thành viên của họ sẽ gặp phải các hậu quả tệ hại nếu họ hợp tác với các thành viên của các nhóm khác.
If the work of the Great Ones is to go forward as desired in these days of stress and of world need, it is imperative that these various groups should begin to recognise their real unity in goal, guidance and technique, and that their leaders should realise that it is fear of other leaders and the desire that their group should be numerically the most important which prompts the frequent use of the words, “This is a different discipline,” or, “Their work is not the same as ours.” It is this attitude which is hindering the true growth of spiritual life and understanding among the many students gathered into the many outer organisations. At this time, the “great heresy of separateness” taints them. The leaders and members talk in terms of “our” and “your,” of this “discipline” and that, and of this method being right (usually their own) and the other method which may be right, but it is probably doubtful, if not positively wrong. Each regards their own group as specifically pledged to them and to their mode of instruction, and threaten their members with dire results if they cooperate with the membership of other groups.
Thay vào đó, họ nên nhận thức rằng tất cả các đạo sinh trong các trường phái tương tự và đang làm việc dưới cùng các động lực tâm linh, đều là các thành viên của trường phái duy nhất và về mặt nội môn đều liên kết với nhau trong sự duy nhất cơ bản. Sẽ đến lúc mà các đoàn thể nội môn khác nhau, và hiện nay đang chia rẻ nhau, sẽ phải công bố sự thống nhất của họ, khi những nhà lãnh đạo, những người giúp việc và các vị thư ký sẽ gặp gỡ nhau và học cách hiểu biết và cảm thông lẫn nhau. Một ngày nào đó sự nhận thức và cảm thông này sẽ đưa họ tới điểm mà họ sẽ cố gắng để bổ sung các nỗ lực của nhau, trao đổi các ý tưởng với nhau, và như thế thực sự tạo thành một trường đại học nội môn lớn trên thế giới, với các lớp và các cấp bậc khác nhau, nhưng tất cả đều bận tâm với việc huấn luyện những người tìm đạo và chuẩn bị cho họ bước vào con đường đệ tử, hoặc là chăm sóc công việc của các đệ tử khi họ tự chuẩn bị để được điểm đạo. Lúc bấy giờ, các cố gắng (như hiện nay) để ngăn trở công việc của nhau bằng cách so sánh các phương pháp và các kỹ thuật, bằng sự chỉ trích, phỉ báng, bằng sự cảnh báo và gây ra sự sợ hãi, bằng việc đòi hỏi đặc quyền… sẽ chấm dứt. Vào lúc này, chính các thái độ và các phương pháp này đang ngăn cản ánh sáng chân lý thuần khiết tuôn tràn vào.
Instead, they should recognise that all students in analogous schools and working under the same spiritual impulses are members of the one school and are linked together in a basic subjective unity. The time must come when these various (and at present) separative esoteric bodies will have to proclaim their identity, when the leaders and workers and secretaries will meet with each other and learn to know and understand each other. Some day this recognition and understanding will bring them to the point where they will endeavour to supplement each other’s efforts, exchange ideas with each other, and so in truth and in deed constitute one great college of esotericism in the world, with varying classes and grades but all occupied with the work of training aspirants and preparing them for discipleship, or superintending the work of disciples as they prepare [17] themselves to take initiation. Then will cease the present attempts to hinder each other’s work by comparison of methods and of techniques, by criticism and defamation, by warning and the cult of fear, and the insistence on exclusiveness. It is these attitudes and methods which at this time are hindering the entrance of the pure light of truth.
Những người đạo sinh trong các trường này gặp phải một vấn đề khác với vấn đề thần thông và tình trạng đồng tử thông thường. Những người nam và nữ này đã tự nguyện cho việc khai mở trí tuệ và khép mình vào một tiến trình cưỡng bức nhằm khai mở sớm đoá hoa toàn vẹn của linh hồn. Điều này nhằm phụng sự nhân loại và hợp tác với kế hoạch của Thánh Đoàn nhanh chóng và hiệu quả hơn. Do đó, các đạo sinh này tự nguyện sẵn sàng hứng lấy các nguy hiểm và các khó khăn vốn có thể tránh được nếu họ chọn đi con đường chậm và cũng chắc chắn hơn. Những ai hoạt động trong các trường nội môn phải hiểu rõ điều này giải thích vấn đề cho người đạo sinh nhập môn một cách cẩn thận, để cho y có thể cảnh giác và tuân thủ một cách thận trọng các qui luật và các huấn thị. Y không được phép e sợ hay từ chối thực hiện tiến trình cưỡng bức này, mà y nên bước vào tiến trình đó với đôi mắt rộng mở, và cũng nên được chỉ dạy cách sử dụng các biện pháp bảo vệ được đưa ra và học hỏi kinh nghiệm từ các đạo sinh già dặn hơn.
Aspirants in these schools present a different problem from that of ordinary psychism and mediumship. These men and women have offered themselves for intellectual training and have subjected themselves to a forcing process which is intended to bring the full flower of the soul into premature blossoming, and this in order more rapidly and effectively to serve the race, and to cooperate with the plan of the Hierarchy. Such students thereby lay themselves open to dangers and difficulties which would have been avoided had they chosen to go the slower and equally sure way. This fact should be realised by all workers in such schools and the problem carefully explained to the entering aspirant, so that he may be on his guard and adhere with care to the rules and instructions. He should not be permitted to be afraid or to refuse to subject himself to this forcing process, but he should enter upon it with his eyes wide open and should be taught to avail himself of the safeguards offered and the experience of the older students.
Tất cả các trường phái nội môn đều chú trọng vào việc tham thiền, và điều này là đúng đắn và hợp lý. Về mặt kỹ thuật, tham thiền là tiến trình mà nhờ đó luân xa đỉnh đầu được khơi hoạt, kiểm soát và sử dụng. Khi điều này xảy ra, linh hồn và phàm ngã phối kết và hòa hợp vào nhau, đưa đến sự hợp nhất, làm cho dòng năng lượng tinh thần mãnh liệt tuôn chảy vào người tầm đạo; kết nối toàn thể con người y lại, làm lộ diện cái thiện cũng như cái ác tiềm ẩn. Chính ở đây ẩn chứa những khó khăn và nguy hiểm. Do đó, các trường nội môn chân chính phải nhấn mạnh vào sự cần thiết của sự trong sạch và lòng chân thực. Người ta nhấn mạnh quá nhiều vào yêu cầu giữ thể xác tinh khiết mà quên không nhấn mạnh đầy đủ đến việc tránh mọi chủ nghĩa cuồng tín (fanaticism), và sự thiếu lòng khoan dung (intolerance). Hai điều này cản trở người đạo sinh còn nhiều hơn là chế độ ăn sai lầm, và chúng nuôi dưỡng ngọn lửa chia rẽ nhiều hơn là bất cứ một yếu tố nào khác.
The emphasis in all esoteric schools is necessarily, and rightly, laid upon meditation. Technically speaking, meditation is the process whereby the head centre is awakened, brought under control and used. When this is the case, the soul and the personality are coordinated and fused, and at-one-ment takes place, producing in the aspirant a tremendous inflow of spiritual energy, galvanising his whole being into activity, and bringing to the surface the latent good and also evil. Herein lies much of the problem and much of the danger. Hence also the stress laid in such true schools upon the need of purity and truth. Over-emphasis has been laid upon the need for physical purity, and not sufficient emphasis laid upon the avoidance of all fanaticism and intolerance. These two qualities hinder the student far more than [18] can wrong diet, and they feed the fires of separativeness more than any other one factor.
Tham thiền bao hàm sống một đời sống nhất tâm tiến tới và luôn luôn như thế mỗi ngày. Điều này đương nhiên tạo ra một căng thẳng quá mức lên các tế bào não bộ, vì nó làm thức tỉnh các tế bào yên nghỉ và thức động tâm thức não bộ để nhận biết ánh sáng của linh hồn. Khi thực hành tham thiền có trình tự trong nhiều năm, kèm theo đó là một đời sống thiền định và một lòng phụng sự nhất tâm, nó sẽ đánh thức toàn bộ hệ thống và đặt phàm ngã (lower man) vào dưới ảnh hưởng và sự kiểm soát của chân ngã (spiritual man); nó cũng sẽ khơi hoạt các luân xa trong thể dĩ thái và kích hoạt luồng năng lượng huyền bí đang ngủ yên ở đáy cột sống [Kundalini].
Meditation involves the living of a one-pointed life always and every day. This perforce puts an undue strain on the brain cells for it brings quiescent cells into activity and awakens the brain consciousness to the light of the soul. This process of ordered meditation, when carried forward over a period of years and supplemented by meditative living and one-pointed service, will successfully arouse the entire system, and bring the lower man under the influence and control of the spiritual man; it will awaken also the centres of force in the etheric body and stimulate into activity that mysterious stream of energy which sleeps at the base of the spinal column.
Khi người đạo sinh thực hiện tiến trình này một cách cẩn thận, dưới sự chỉ dẫn và bảo vệ thích hợp, trong một thời gian dài, thì có ít có nguy cơ xảy đến. Việc khơi hoạt các luân xa sẽ diễn ra một cách bình thường và theo định luật hiện tồn. Tuy nhiên, nếu người đạo sinh thực hiện việc điều chỉnh và khơi hoạt các luân xa một cách cưỡng bức bằng các bài tập khác nhau trước khi y sẵn sàng, và trước khi các thể được phối kết và phát triển, khi ấy người đạo sinh sẽ đối mặt với các tai hoạ. Đừng bao giờ thực hành những bài tập thở (breathing exercises) hay luyện khí công (pranayama training) trừ phi có người hướng dẫn thành thạo và sau nhiều năm chuyên tâm phát triển tinh thần (spiritual application), dâng hiến và phụng sự. Luôn luôn tránh định trí vào các luân xa trong thể dĩ thái nhằm mục đích khơi hoạt chúng, vì việc đó sẽ tạo nên sự kích thích thái quá và mở ra các cánh cửa vào cõi trung giới mà đạo sinh có thể gặp khó khăn để đóng lại. Tôi không thể nhấn mạnh quá mức đến những người đạo sinh trong tất cả các trường huyền linh rằng pháp môn yoga trong thới kỳ chuyển tiếp này là pháp môn yoga có mục tiêu nhất tâm, theo đuổi mục đích có định hướng, thực hành thường xuyên về sự Hiện Diện của Thượng Đế (Presence of God), và với việc tham thiền có trình tự đều đặn, tiến hành một cách hệ thống và đều đặn qua nhiều năm nỗ lực.
When this process is carried forward with care and due safeguards, and under direction, and when the process is spread over a long period of time there is little risk of danger, and the awakening will take place normally and under the law of being itself. If, however, the tuning up and awakening is forced, or is brought about by exercises of various kinds before the student is ready and before the bodies are coordinated and developed, then the aspirant is headed towards disaster. Breathing exercises or pranayama training should never be undertaken without expert guidance and only after years of spiritual application, devotion and service; concentration upon the centres in the force body (with a view to their awakening) is ever to be avoided; it will cause overstimulation and the opening of doors on to the astral plane which the student may have difficulty in closing. I cannot impress too strongly upon aspirants in all occult schools that the yoga for this transition period is the yoga of one-pointed intent, of directed purpose, of a constant practice of the Presence of God, and of ordered regular meditation carried forward systematically and steadily over years of effort.
Khi người đạo sinh thực hiện điều này với lòng dứt bỏ hay xả chấp (detachment), cùng với đó là một đời sống phụng sự bác ái, việc khai mở các luân xa và việc đi lên của luồng xà hoả đang yên ngũ sẽ diễn tiến một cách an toàn và đúng đắn. Khi đó toàn bộ cơ thể của người đạo sinh sẽ trở nên linh hoạt, sống động. Tôi không thể không khuyến cáo các đạo sinh không nên thực hành tham thiền nhiều giờ liền mỗi lần, hay thực hành tham thiền mà mục tiêu là làm khơi hoạt luồng xà hỏa kundalini, hay khai mở một luân xa nào đó. Lúc này đây sự kích thích chung trên toàn thế giới rất lớn, mà người đạo sinh bậc trung thì quá nhạy cảm khiến cho việc tham thiền quá mức, chế độ ăn uống quá khích (fanatical diet), ngủ quá ít hay quá chú trọng và nhấn mạnh vào kinh nghiệm thông linh sẽ làm đảo lộn sự quân bình của thể trí và thường gây ra nhiều tai hại không thể cứu chữa được.
When this is done with detachment and is paralleled by a life of loving service, the awakening of the centres and the raising of the sleeping fire of kundalini will go forward with safety and sanity and the whole system will be brought to [19] the requisite stage of “aliveness.” I cannot too strongly advise students against the following of intensive meditation processes for hours at a time, or against practices which have for their objective the arousing of the fires of the body, the awakening of a particular centre and the moving of the serpent fire. The general world stimulation is so great at this time and the average aspirant is so sensitive and finely organised that excessive meditation, a fanatical diet, the curtailing of the hours of sleep or undue interest in and emphasis upon psychic experience will upset the mental balance and often do irretrievable harm.
Các đạo sinh trong các trường nội môn hãy ổn định vào công việc đều đặn, thầm lặng, không dựa vào cảm xúc (unemotional). Hãy tránh những giờ nghiên cứu và tham thiền kéo dài. Hiện tại các thể của họ không có khả năng chịu sự căng thẳng quá mức cần thiết và họ chỉ tự làm hại mình mà thôi. Hãy để cho họ sống một đời sống bận rộn bình thường, và trong áp lực của bổn phận và công việc hằng ngày, luôn nhớ rằng về bản thể mình là ai, và các mục tiêu cứu cánh của mình là gì. Họ nên tham thiền đều đặn mỗi buổi sáng, bắt đầu bằng mười lăm phút và đừng bao giờ vượt quá bốn mươi phút. Hãy để họ quên mình trong công việc phụng sự và đừng tập trung vào việc phát triển năng lực thông linh (‘thần thông’) riêng của họ. Hãy để cho họ rèn luyện thể trí với một mức độ nghiên cứu bình thường, và học cách suy nghĩ thông minh sáng suốt, sao cho trí của họ có thể quân bình các xúc cảm của họ và cho phép họ giải thích một cách chính xác những gì mà họ tiếp nhận được, khi mà ý thức của họ tăng lên và tâm thức của họ rộng mở thêm.
Let the students in esoteric schools settle down to steady, quiet, unemotional work. Let them refrain from prolonged hours of study and of meditation. Their bodies are as yet incapable of the requisite tension, and they only damage themselves. Let them lead normal busy lives, remembering in the press of daily duties and service who they are essentially and what are their goal and objectives. Let them meditate regularly every morning, beginning with a period of fifteen minutes and never exceeding forty minutes. Let them forget themselves in service, and let them not concentrate their interest upon their own psychic development. Let them train their minds with a normal measure of study and learn to think intelligently, so that their minds can balance their emotions and enable them to interpret correctly that which they contact as their measure of awareness increases and their consciousness expands.
Các đạo sinh cần ghi nhớ rằng lòng sùng tín đối với Thánh Đạo hay đối với Chân Sư là không đủ. Các Đấng Cao Cả đang tìm kiếm những người hợp tác và những người phụng sự sáng suốt hơn là tìm kiếm sự sùng tín cho Phàm Ngã của các Ngài, và một người đạo sinh đang bước đi một cách độc lập dưới ánh sáng linh hồn của mình được các Ngài xem như là khí cụ đáng tin cậy hơn là kẻ sùng đạo cuồng tín. Ánh sáng của linh hồn của người đạo sinh chân thành sẽ tiết lộ cho y biết được sự hợp nhất ẩn tàng đằng sau mọi nhóm, giúp y loại bỏ chất độc của lòng thiếu khoan dung đang tiêm nhiễm và gây chướng ngại cho rất nhiều người. Ánh sáng này sẽ khiến cho y nhận biết được các nền tảng tinh thần đang hướng dẫn các bước tiến của nhân loại, nó sẽ thúc đẩy con người bỏ qua sự cố chấp, cuồng tín và sự chia rẽ vốn đặc trưng cho những người có tâm trí hẹp hòi và những kẻ sơ cơ trên Đường Đạo, và do đó giúp y yêu thương những người này sao cho họ sẽ bắt đầu nhìn thấy trung thực hơn và mở rộng tầm hiểu biết của họ. Ánh sáng này cũng sẽ cho phép y đánh giá đúng đắn giá trị huyền linh của công việc phụng sự và trên hết dạy cho y thực hành hạnh Bất hại (harmlessness) vốn là đặc trưng nổi bật của mỗi người con của Thượng Đế. Bất hại nghĩa là không nói lời nào có thể làm tổn thương người khác, không nghĩ đến bất cứ ý tưởng nào có thể gây độc hại hay tạo ra hiểu lầm, và không làm một hành động nào có thể gây thương tổn, dù tối thiểu, cho huynh đệ mình – đây là đức tính quan trọng nhất sẽ giúp người đạo sinh huyền môn bước một cách an toàn trên con đường phát triển khó khăn. Khi nào mà người đạo sinh tập trung vào việc phụng sự huynh đệ mình và hướng dòng sinh lực ra thế giới bên ngoài, bấy giờ y sẽ thoát khỏi sự nguy hiểm và có thể hoạt động, ngưỡng vọng và tham thiền một cách an toàn. Động cơ của y trở trong sạch, và y đang rời bỏ ngã chấp (decentralise his personality) và chuyển sự tập trung từ chính mình vào tập thể. Nhờ thế, sự sống của linh hồn có thể tuôn tràn qua y và tự biểu hiện thành tình thương đối với vạn vật. Y biết chính mình là một phần của toàn thể và sự sống của cái toàn thể đó có thể chảy qua y một cách có ý thức, khiến y nhận thức được tình huynh đệ đại đồng và sự đồng nhất của y với mọi sự sống biểu lộ.
Students need to remember that devotion to the Path or to the Master is not enough. The Great Ones are looking for intelligent cooperators and workers more than They are looking for devotion to Their Personalities, and a student who is walking independently in the light of his own soul is regarded by Them as a more dependable instrument than a devoted fanatic. The light of his soul will reveal to the earnest aspirant the unity underlying all groups, and enable him to eliminate the poison of intolerance which taints and hinders so many; it will cause him to recognise the spiritual fundamentals which guide the steps of humanity; it will force [20] him to overlook the intolerance and the fanaticism and separativeness which characterise the small mind and the beginner upon the Path, and help him so to love them that they will begin to see more truly and enlarge their horizon; it will enable him to estimate truly the esoteric value of service and teach him above all to practise that harmlessness which is the outstanding quality of every son of God. A harmlessness that speaks no word that can damage another person, that thinks no thought which could poison or produce misunderstanding, and which does no action which could hurt the least of his brethren—this is the main virtue which will enable the esoteric student to tread with safety the difficult path of development. Where the emphasis is laid upon service to one’s fellowmen and the trend of the life force is outward to the world, then there is freedom from danger and the aspirant can safely meditate and aspire and work. His motive is pure, and he is seeking to decentralise his personality and shift the focus of his attention away from himself to the group. Thus the life of the soul can pour through him, and express itself as love to all beings. He knows himself to be a part of a whole and the life of that whole can flow through him consciously, leading him to a realisation of brotherhood and of his oneness in relation to all manifested lives.
jupiter nguyen
jupiter nguyen
Jupiter nguyen
jupiter nguyen
Nam anh
webmaster